Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 11 tháng 4, 2015

Bò trắng răng, chả nên lo nhà báo ị!


Bộ phim tài liệu "30.4 - Ngày thống nhất" của Điện ảnh QĐ vừa hoàn thành và đã chiếu cho lãnh đạo Tổng Cục Chính trị (BQP) và các nhà báo xem hôm qua. 
Phim có nhiều điểm mới. Tên phim dùng cụm từ "ngày thống nhất", thay cho cụm từ "giải phóng miền Nam" vẫn "mặc định" suốt 4 thập kỷ qua. Cũng với tinh thần hòa hợp dân tộc xuyên suốt, phim phỏng vấn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, nguyên Đô trưởng Sài Gòn với lời phát biểu: "Dân tộc VN là một, không có người thắng, kẻ thua." Nói về các nhân vật lịch sử của cả 2 phía đều khá khách quan. Kết phần nói về TT Ngô Đình Diệm là hình ảnh ngôi mộ 2 ông Diệm -Nhu với lời bình khá điềm tĩnh, đại ý là ông Diệm đi mang theo nền Cộng hòa đệ nhất và đất mẹ vẫn dành chỗ cho ông. Để cho các nhân vật gắn liền với hội nghị Geneve và Paris như ông Hà Văn Lâu, Võ Văn Sung "huỵch toẹt" ra các anh Liên Xô, Trung Quốc bắt tay với Mỹ vì quyền lợi của nước họ, để gây sức ép cho VN, như thông báo Thượng Hải 1972. 
Theo NSND Lê Thi, đạo diễn của phim, để tìm được ngôi mộ của ông Diệm là một hành trìnhkhó khăn vì gặp rất nhiều rào cản. Hơn nữa, ngôi mộ (nằm trong một khu nghĩa trang và vẫn được chăm sóc chu đáo) đứng tên thánh chứ không phải tên thật. Đạo diễn cũng mất nhiều thời gian mới thuyết phục được nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (là một trong phái đoàn 4 người do TT Dương Văn Minh cử vào trại Đa-vit để thương lượng với quân cách mạng sáng 29-4-1975) đồng ý trả lời phỏng vấn, vì ông cũng bị o bế.
(Họp báo sau khi ra mắt phim, một em được gọi là PV hỏi: TBT Nguyễn Phú Trọng đang thăm TQ, mà phim thì lại nói đến vấn đề Hoàng Sa liệu có nhạy cảm không? khiến mấy con gà già tụi mình vừa bất bình vừa ngượng vì có một đồng nghiệp hỏi như vậy, khi chả phân biệt được cái gì với cái gì! )

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trầm Hương - chân dung người đàn bà viết


nguoi dep tay do

Trầm Hương là một phụ nữ đa tài, đa cảm và đa đoan Chị tốt nghiệp bằng kỹ sư nông nghiệp nhưng lại nặng nợ với nghề cầm bút. Chị vừa viết văn, viết thơ, viết báo, viết kịch bản phim. Là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết nổi tiếng trong đó có tác phẩm "Người đẹp Tây đô" đã được chuyển thể thành phim. 

Cuộc đời chị lắm trắc trở nhưng chị vẫn cố gắng từng ngày vượt qua để được sống với niềm đam mê cầm bút. Hiện tại chị công tác tại Bảo tàng phụ nữ Nam Bộ. Chị đã dùng công việc của mình để đi tìm hiểu và viết về những nhân vật từng một thời lừng lẫy trong lịch sử. Chị cũng dùng chính ngòi bút của mình giúp đỡ cho bao gia đình thương binh, liệt sĩ, giúp cho những người đồng đội xưa được gặp nhau.
Từ một người tốt nghiệp với bằng kỹ sư nông nghiệp, giờ đây, mọi người biết đến Trầm Hương với tư cách một nhà văn, nhà báo, nhà biên kịch, một người đã hơn nửa đời sống với niềm đam mê cầm bút.
“Em kiêu hãnh vì được làm đàn bà”
Trầm Hương tên thật là Bùi Thị Thủy, sinh ra trong một gia đình nghèo ở vùng quê Lộc Thuận, Bình Đại, Bến Tre. Miền quê nghèo vùng sông nước miền Tây ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn cô gái nhỏ Trầm Hương, thổi hồn vào cả từ câu văn nét chữ của chị. Chị gọi tuổi thơ ấy là tuổi thơ trắng đen. Nó nghèo, nó cơ cực nhưng lại là một thiên đường với một cô bé ngỗ nghịch như Trầm Hương. Có cỏ cây, có sông nước, có đất đai thấm đẫm giọt mồ hôi của mẹ, tất cả những gì tinh túy, tinh khiết nhất của vùng quê ấy đã hòa vào tâm khảm chị, để giờ đây khi hồi tưởng lại nó là những đoạn phim trắng đen mà chị luôn trân quý.
Từ nhỏ Trầm Hương đã say mê với thơ văn viết lách. Nhưng số phận long đong lận đận cũng vướng vào chị kể từ đây. Sau khi đọc những vần thơ Trầm Hương viết, mẹ chị đã phải thốt lên rằng: “Đọc văn chương của con mẹ linh cảm cuộc đời con sẽ không suôn sẻ”. Quả đúng như vậy. Chị đã trải qua không biết bao nhiêu là đau khổ cùng cực của cuộc đời. Gặp chị, ai cũng ngỡ là chị mạnh mẽ, ngang tàng. Dáng người đậm, nước da hơi ngăm, kể về nỗi đau mà luôn nở nụ cười – một hình mẫu của người tuổi Dần. Nhưng nhìn sâu vào mắt chị mới hiểu đằng sau vẻ ngoài cứng cỏi là một đôi mắt luôn nhìn xa xăm, đằng sau một con hổ kiên cường là những góc khuất trong tâm hồn nhạy cảm mà chị luôn che dấu. Đâu phải người tuổi Dần lúc nào cũng ngang tàng, bất chấp tất cả, cũng có lúc Trầm Hương âm thầm khóc một mình, để không ai phải lo lắng, để mình luôn là người mẹ kiên cường trong mắt các con. Mấy ai hiểu được những nỗi đau mà chị phải trải qua. Chị chấp nhận làm người thứ ba để sống với tình yêu của mình để rồi từ bỏ nhiều cơ hội tiến thân khi trở thành một bà mẹ đơn thân. Người đời có lúc nhìn chị mà dè bỉu, không đồng tình, nhưng có người lại đầy cảm thông cho số phận người đàn bà yếu đuối, đa cảm, ngây thơ và cả tin ấy. Chị không mạnh mẽ nhưng đầy dũng cảm. Chính cái lúc chị biết rằng người đàn ông mà chị yêu say đắm đòi giết chết đứa con trong bụng chị để rủ bỏ trách nhiệm chị nhận ra rằng, mình chỉ có thể dựa vào mình mà thôi. Chị kìm nén nỗi đau như bị dao đâm vào tận tim ấy để sinh 2 đứa con, để nuôi dạy 2 đứa trẻ thành người. Chị lao vào viết, viết và viết. Viết không những để nuôi con mà còn viết để trải lòng, viết để có thể chữa lành vết thương cứ âm ỉ đau trong tim. Những mất mát, đau thương của đời chị đã hằn lên từng con chữ.
Em kiêu hãnh vì được làm đàn bà
Thế giới của khôn cùng đớn đau và êm dịu
Thế giới của loài mẫu đơn tự huỷ mình khi sinh nở
Thế giới của tận cùng thấp hèn xấu xa
Đó là những dòng đầu tiên của bài thơ chị viết sau khi sinh con được 20 ngày. Ngay cả những lúc tột cùng của nỗi đau thể xác và tâm hồn, cuộc đời Trầm Hương cũng nở ra được những vần thơ đẹp dù nó đầy những day dứt, xót xa.
Vốn liếng lớn nhất là tuổi trẻ
Chẳng những là người đàn bà mang nỗi đau tình ái, sự nghiệp cầm bút của Trầm Hương cũng đầy những gian truân. Cầm trong tay bằng kỹ sư nông nghiệp nhưng không an phận làm một cô kỹ sư ngày ngày bứt rứt vì không được sống với đam mê, chị từ bỏ công việc yên ổn đang còn dang dở để đi theo tiếng gọi của giấc mơ. Nhưng thời bao cấp, để một kỹ sư được đào tạo để phục vụ quê hương rời bỏ quê hương ra đi không phải là chuyện dễ dàng, chị đã vấp phải rất nhiều sự phản đối. Ngày chị chân ướt chân ráo lên Sài Gòn, của cải hành lý chị mang theo chỉ là một cái giỏ rách, bung cả dây kéo, bên trong chỉ có vài bộ áo quần, tiền thì không có. Những ngày đầu chị phải ngủ lê lết ở bến xe, may lắm là xin vào nhà ai đó ngủ nhờ. Kể về những ngày cơ cực ấy chị không khỏi xót xa nhưng cũng không giấu được vẻ tự hào: “Lúc đó tôi chẳng có gì, vốn liếng lớn nhất của tôi lúc đó là tuổi trẻ”
Sau khi có được một nơi ở tạm bợ, chị lao vào viết, viết để trang trải cuộc sống, viết để thỏa ước mơ. Cuốn tiểu thuyết mà sau này được dựng thành kịch bản phim truyện, tác phẩm đánh dấu sự nghiệp của Trầm Hương Người đẹp Tây Đô ra đời trong điều kiện khó khăn, thiếu thốn như thế. Chị cần mẫn viết hàng ngàn trang sách trong căn phòng nóng bức đến quạt máy cũng trở thành một thứ đồ xa xỉ. Nhưng đã có cái vốn liếng tuổi trẻ, chị không ngại khó khăn, chị sống bằng ước mơ của mình nên chẳng mảy may hối hận. Chị luôn tâm niệm, con đường nào cũng đáng để đi qua, dù nó có đầy gian truân biết mấy. Không phải bao giờ con đường bằng phẳng cũng là con đường tốt nhất. Có đi qua những khúc quanh, ngã rẻ, có dẫm lên bao đá sỏi gập ghềnh mới trân trọng những thành quả mà mình đạt được. Đã đi qua những con đường như thế chị mới thấm thía hết bao cảnh đời cảnh người, không chỉ nỗi đau của mình, nỗi đau của người cũng đã thấm đẫm những trang viết của chị.
Sự nghiệp của Trầm Hương không chỉ dừng lại ở việc viết văn, viết thơ, chị còn là một nhà báo viết chân dung cực kỳ sắc sảo. Nhiều người thắc mắc công việc hiện tại của chị chẳng liên quan gì tới viết lách tại sao chị lại có thể họa lên nhân vật từ con chữ hay đến như thế. Chị chỉ cười và ôn tồn chia sẻ về công việc của mình. Hiện tại, chị đang công tác tại Bảo tàng Phụ nữ Nam Bộ. Công việc giúp chị ngày ngày tiếp xúc với các hiện vật từ thời kháng chiến, được đọc và tìm hiểu về các nhân vật anh hùng. Đó chính là nguồn tư liệu quý giá để chị đưa vào các tác phẩm của mình. 
Giờ đây, khi đã bước qua khỏi cái tuổi ngũ tuần chị vẫn miệt mài viết. Chị lúc nào cũng làm việc không biết mệt mỏi, vừa viết văn, viết báo rồi viết kịch bản phim. Chị đã tự đốt cháy mình bằng ngọn lửa đam mê, trả giá bằng cả cuộc đời mình để những trang viết được tỏa hương. Chị là một mùi hương mang đủ vị mặn đắng của cuộc đời.
Hằng Lê

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 10 tháng 4, 2015

Tượng Phật Quan Âm của người Việt bị đốt cháy ở Campuchia

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngai vàng thoáng chốc, tâm hồn trường sinh


Mai Quỳnh Nga
VNCA - "Vua Hàm Nghi là một trong những họa sĩ đầu tiên của Việt Nam bắt đầu vẽ theo truyền thống châu Âu - với thể loại tranh sơn dầu, bằng sự tính toán theo phép phối cảnh. Hàm Nghi cần phải được coi là người mở đầu cho nền hội họa hiện đại của Việt Nam. Và điều rõ ràng là ông đã trở thành một họa sĩ chuyên nghiệp". Cố giáo sư, tiến sĩ N.L.Nikulin, nhà Việt Nam học người Nga từng nhận định như thế trong một bài viết.

"Tử Xuân, ơi hỡi, hoa vừa chớm nở/ Đã rơi cánh tả tơi trong bão tố phũ phàng/ Cùng một lúc đã đập vỡ bao hy vọng, bao bông hồng/ Và phá hủy cả những cung điện lộng lẫy sơn son và ngào ngạt hương trầm".

Khi đọc bài thơ "Tử Xuân" của nữ sĩ Judith Gautier tặng vua Hàm Nghi, Amandine Dabat đã băn khoăn suy nghĩ về một vị vua thuở nước mất nhà tan. Hậu duệ đời thứ 5 ở Pháp của cụ tổ Hàm Nghi (theo nhánh công chúa Như Lý - thứ nữ của vua Hàm Nghi) như cô làm sao hiểu hết nỗi đau đớn ấy. Nhưng trong sâu thẳm, cô vẫn ghi nhớ lời cha mình: gia đình ta tự hào có tổ tiên là người Việt Nam. Cô băn khoăn mường tượng về mảnh đất hình chữ S, nơi cô chưa từng được đặt chân tới, cố đô Huế giờ đã lắm đổi thay.

Bà nội, người tặng cô bài thơ, bảo rằng: Tử Xuân chính là bút danh của vua Hàm Nghi khi ông cầm cọ trong những năm tháng bị lưu đày ở Alger (thủ đô Algerie). "Tôi không ngờ gia đình mình lại có một di sản tuyệt vời như vậy mà chưa ai nghiên cứu, tìm hiểu. Tôi liền hỏi giáo sư hướng dẫn luận án tiến sĩ của mình về đề tài này, rồi lục tìm tư liệu về cuộc đời nghệ sĩ đặc biệt của ông". Cơ duyên đó đưa đẩy bước chân cô về Việt Nam, theo dấu vua Hàm Nghi ở Algerie, Pháp... để tìm điều ẩn tàng khiến nữ sĩ vĩ đại người Nga Sepkina Kupernhic thán phục: "Trên những chiếc bàn khắp nơi là phác thảo của hoàng tử, tranh của cha âng, chúng cho tôi biết rằng trong thân hình nhỏ bé như chiếc ngà voi kia ẩn giấu tâm hồn của một nghệ sĩ lớn".

Vua Hàm Nghi đến Alger vào tháng 1/1889. Ông không được gọi là nhà vua An Nam nữa mà là hoàng tử An Nam. Điều kiện ăn ở trong biệt thự Cây Thông rất tốt nhưng nhà vua luôn bị chính phủ Pháp giám sát gắt gao. Một sĩ quan người Pháp được cử theo dõi vua Hàm Nghi nhận thấy lúc rảnh rỗi, nhà vua thường vẽ. Biết ông có tài, viên sĩ quan giới thiệu ông học lớp họa của Marius Reynaud - một họa sĩ Pháp theo khuynh hướng phương Đông. Những khi bậc thầy hội họa này truyền thụ mỹ thuật cho ông hoàng mất ngôi bị lưu đày, người ta có cảm giác đang ngồi trong giờ họa ở Trường mỹ thuật Paris.

Vua Hàm Nghi bắt đầu vẽ từ năm 1889 nhưng không có bức vẽ nào thuộc giai đoạn 1889 đến đầu 1899  được lưu lại đến bây giờ. Người ta chỉ biết thông tin tác phẩm thông qua thư từ mà ông gửi bạn bè. Ông kể mình vẽ bãi biển, vẽ tĩnh vật như cái bình, quả cam, cái trống nhỏ… hoặc vẽ chân dung phụ nữ. Sở dĩ số lượng tác phẩm bị mất khá lớn vì năm 1962, khi xảy ra cuộc chiến tranh ở Algerie, nhà của vua Hàm Nghi bị cháy và cướp sạch. Gần 100 tác phẩm may mắn còn lưu lại đến bây giờ là những bức ông tặng người thân, bạn bè, được họ lưu giữ và đưa về Pháp. Bức tranh được coi là cổ nhất còn giữ được đến bây giờ là bức sơn dầu mô tả con đường nông thôn vẽ năm 1899.

Cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20 là giai đoạn mà nền hội họa hiện đại Việt Nam chỉ mới manh nha và bức "Bình văn" hoặc bức "Chân dung cụ Lê Hy" (1895) được lấy làm mốc khởi đầu. Rõ ràng, thời điểm vua Hàm Nghi vẽ tranh theo kỹ thuật phương Tây bắt đầu sớm hơn Lê Văn Miến - người được coi là họa sĩ mở đầu cho nền hội họa hiện đại Việt Nam. Do đó, nhận định của GS Nikulin về vị trí tiên phong của vua Hàm Nghi trong nền hội họa hiện đại Việt Nam không phải là thiếu cơ sở.

Theo nhận xét của Amandine Dabat, tác phẩm của vua Hàm Nghi khá hàn lâm. Các bức tranh phong cảnh của ông thường chịu ảnh hưởng của trường phái ấn tượng, hậu ấn tượng và trường phái Nabi. Một số bức có ảnh hưởng của phong cách Paul Gauguin (một trong những họa sĩ tiêu biểu nhất của trường phái ấn tượng).

Trong các bức tranh của nhà vua, hình ảnh con người rất hiếm hoi. Nếu có, họ cũng chỉ là một hình bóng chấm phá, chìm khuất giữa đất trời, thiên nhiên rộng lớn. Hình bóng ấy bao giờ cũng cô lẻ, hun hút trên con đường về. Triết lý hội họa phương Đông (vẽ cảnh và người để gợi tâm trạng, nghĩ suy) thấm nhuần vào hồn tranh của cựu hoàng xa Tổ quốc.

Những bức tranh thực hiện từ năm 1904, màu sắc tươi tắn hơn, sử dụng nguyên tắc đậm nhạt, sáng tối, khác hẳn vẻ trầm buồn, u uẩn của những bức vẽ trước đây. Điều đó cũng dễ hiểu, bởi nụ hoa hạnh phúc đang bừng nở trong lòng cựu vương. Ông kết hôn. Hai con gái và một con trai lần lượt ra đời trong niềm vui vỡ òa. Ông mua đất trên một ngọn đồi và xây biệt thự Gia Long giữa khung cảnh thiên nhiên thơ mộng để hằng ngày thỏa sức tung cọ.

Thế nhưng hạnh phúc riêng tư vẫn không thể nào xoa dịu hoàn toàn nỗi đau mất nước và nỗi khắc khoải hoài thương cố quốc. Trong bức "Cây ô liu già" (1905) và "Chiều tà" (sáng tác năm 1915, được đấu giá tại Paris ngày 24/11/2010), bố cục rất giống tranh Việt Nam. Đó là thân cây to, cận cảnh, nằm đơn độc giữa đồng cỏ hay núi đồi mênh mông, xa hút gợi về cây đa, lũy tre giữa đồng lúa. Hình ảnh thân cây đơn độc là ẩn dụ cho một con người cô đơn, bơ vơ mà đường về cố quốc thì xa ngái. Thời gian này, ông áp dụng kỹ thuật mới là sử dụng phấn màu để vẽ. Cùng một khung cảnh, nhưng ông vẽ vào những thời điểm khác nhau để nghiên cứu sự thay đổi của ánh sáng. Đứng ở vị trí ngược sáng và vẽ hoàng hôn là một chủ đề lặp lại nhiều trong các sáng tác của ông.

"Trong tư liệu của vua Hàm Nghi còn có bài nghiên cứu về kỹ thuật vẽ theo trí nhớ. Giả thuyết của tôi là nhà vua đã vẽ lại hình ảnh phong cảnh Việt Nam mà ông đã lưu trong ký ức tuổi thơ" - Amandine Dabat nói.

Nếu đọc theo trật tự đúng của tiếng Hán thì bút danh của ông phải là Xuân Tử, nghĩa là người con trai của mùa xuân. Nhưng khi ký bằng chữ Hán hoặc chữ quốc ngữ lên tranh, ông cố ý ký là "Tử Xuân" để đúng theo trật tự ngữ pháp Việt Nam. 

Năm 1899, nhà vua học thêm điêu khắc. Cứ hai năm một lần, ông lại đến Paris thọ giáo nhà điêu khắc lừng danh Auguste Rodin. Hàm Nghi làm nhiều tượng bằng thạch cao, đồng, đất sét... và chủ yếu là tượng phụ nữ toàn thân hoặc bán thân, nhưng đến nay không còn lại bức nào ngoài hình chụp lưu lại. Một bức tượng tiêu biểu của ông là "Nàng Eva" thực hiện năm 1925. Ngay cả trong từng thớ đồng, nỗi u hoài của Hoàng tử An Nam vẫn phảng phất. Tay trái  Eva cầm quả táo cắn dở, đầu nàng gục lên cánh tay phải như khóc than cho thiên đường đã mất.

Sinh thời, vua Hàm Nghi không muốn công chúng biết đến mình là một họa sĩ. Ông coi nghệ thuật là chốn để trải lòng và nuôi dưỡng tâm hồn trong những năm tháng lưu biệt xứ người. Thế nên, triển lãm tranh vua Hàm Nghi tại một phòng tranh ở Paris năm 1926 được xem là đặc biệt. Catalogue của triển lãm này hiện được gìn giữ tại Viện Lịch sử Nghệ thuật Quốc gia Pháp. Cuốn catalogue có danh mục 50 tranh trưng bày. Thế nhưng, không phải tranh nào cũng được đặt tên và ghi chú thời gian, địa điểm thực hiện. Vậy nên, trong thư gửi cho con gái trước ngày triển lãm, ông viết: "Cha rất tiếc là con không có mặt ở đây. Bởi vì nếu con có mặt ở đây thì con đã giúp cha tìm được năm thực hiện bức tranh này. Và con sẽ có ý tưởng thật hay để đặt tên cho bức tranh". 

Công chúng biết đến vua Hàm Nghi như một vị vua yêu nước, thương dân, sẵn sàng từ bỏ ngai vàng để lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp. Ông bị bắt, bị lưu đày. Và dường như trong tận cùng đau khổ, đày ải, con người nghệ sĩ phát tiết. Vua Hàm Nghi cũng có lẽ như thế chăng? Ông đã phát triển năng khiếu mỹ thuật trong không gian riêng tư, đầy tự nhiên và thổi nỗi buồn cố quốc vào cây lá xứ lạ, tạo nên những tác phẩm mang đậm tâm thức Việt ẩn trong lớp vỏ Tây phương.
***

Amandine Dabat sinh năm 1987. Cô là nghiên cứu sinh Tiến sĩ lịch sử mỹ thuật Việt Nam của Trường Đại học Sorbonne - Paris IV.  Luận án tiến sĩ "Vua Hàm Nghi - một cuộc đời nghệ sĩ" được cô thực hiện trong 5 năm (2009-2014) và sẽ bảo vệ trong năm nay. Nguồn tư liệu Amandine Dabat nghiên cứu chủ yếu được cung cấp từ kho tư liệu gia đình và hậu duệ những người bạn thân thiết của vua Hàm Nghi tại Pháp. Tư liệu này gồm khoảng 2.500 giấy tờ và thư từ mà vua đã để lại cho các con.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nghệ sỹ "vua khỉ" TQ tặng quà Tổng bí thư VN nhân chuyến thăm cao cấp đến xứ Tàu


Hồng Phong

Dự đoán từ thông tin trên báo chí, dự kiến trong ngày hôm nay 10-4-2015, Tổng bí thư đảng cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng sẽ đáp chuyên cơ xuống sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội), kết thúc tốt đẹp chuyến thăm và làm việc cấp cao, diễn ra từ ngày 7-10/4/2015, tại Trung Quốc. Báo chí trong nước đã trang trọng đưa tin ông Trọng đã được phía TQ tiếp đón theo "nghi thức nhà nước cấp cao nhất".

Ảnh trên báo giấy Thanh Niên ngày 10-4-2015

Một bản Thông cáo chung Việt Nam - Trung Quốc cũng đã được công bố bởi báo chí hai bên hôm 8-4-2015, ngay khi ông Trọng vẫn còn đang tiếp tục chuyến đi trên lãnh thổ Trung Quốc (xem toàn văn Thông cáo chung bên dưới, do phía Việt Nam đưa).

Và lần này cũng như rất nhiều lần trước, phía Trung Quốc lại có những hành động có thể nói là "bố láo", thâm sâu - lại đẩy mạnh và công khai về những hành động xâm lược lãnh thổ Việt Nam ngay khi vừa tiếp đón khách cao cấp của VN. Qua đó, phần nào cho thấy lãnh đạo họ chưa thật lòng tôn trọng lãnh đạo cấp cao nhất của Việt Nam, và cũng không được thật lòng trong những thỏa thuận - như nêu trong Thông cáo chung.

Đó là hôm ngày 9-4-2015, ngay khi ông Nguyễn Phú Trọng còn đang làm việc ở TQ, chưa kết thúc tốt đẹp chuyến thăm, người phát ngôn Trung Quốc đã ngang nhiên tuyên bố "Trung Quốc công khai mục đích quân sự ở đảo nhân tạo trên Biển Đông ". Xin hỏi: Mời khách đến, mà khách chưa ra khỏi cửa đã cư xử như thế hỏi có được lịch sự tế nhị không? Có đúng nguyên tắc xã giao trong quan hệ đối ngoại chưa? Nhắc cho các vị TQ biết dân tộc VN là dân tộc anh hùng nhé. Đã bao ngàn năm qua, cha ông chúng tôi chưa bao giờ chịu khuất phục, chịu làm tôi tớ cho các ông nhé!

Báo chí trong nước đã đưa tin về việc này. Trên mạng xã hội VN rất nhiều người đã phẫn nộ chửi bọn "bạn vàng" Trung Quốc xâm lược biển Đông (xem bài bên dưới).

Cũng liên quan đến chuyến thăm của ông Nguyễn Phú Trọng, nhưng là chuyện bên lề, không quan trọng, báo giấy Thanh Niên, cơ quan ngôn luận của Hội liên hiệp thanh niên VN, hôm nay 10-4-2015 đã đưa một tin có phần khá "vui vẻ" nhẹ nhàng.

Đó là chuyện nghệ sỹ Lục Tiểu Linh Đồng, người thủ vai vua khỉ Tôn Ngộ Không trong bộ phim Tây Du Ký vốn rất quen thuộc với người Việt mình, đã tặng quà cho Tổng bí thư Việt Nam - là một cuốn sách do ông này viết tựa là "Lục Tiểu Linh Đồng bình Tây du". "Vua khỉ" cũng chia sẻ mong rằng cuốn sách này sẽ sớm được phát hành tại Việt Nam (Nhân đây, không thấy báo chí đưa tin là Tổng bí thư TQ có tặng quà cho ông Trọng hay không. Thông thường, việc tặng quà giữa các nhà lãnh đạo đều được báo chí săn, đưa tin).
Bài, ảnh đăng trên báo Thanh Niên ngày 10-4-2015, mục "Văn hóa - Nghệ thuật" trang 15

Nhân đây, cũng bàn thêm một chút về nhân vật Vua khỉ Tôn Ngộ Không. Đây là nhân vật chính trong tác phẩm văn học Tây Du Ký của tác giả Ngô Thừa Ân, TQ. Tôn Ngộ Không là một còn khỉ già thành tinh, có cây gậy Như ý và 72 phép thần thông. Tôn Ngộ Không làm vua một bầy khỉ trên Hoa quả đảo. Đặc điểm của con khỉ này là rất phá phách, ngang tàng nghịch ngợm. Kể cả Thượng hoàng trên trời cũng bị khỉ Tôn Ngộ Không vặt râu, chơi cho nhiều vố chới với. Nói chung là Vua khỉ chả coi ai ra gì!

Có một điểm đáng nói là cách đưa tin về sự kiện này của báo Thanh Niên chưa được "chuẩn" theo nguyên tắc nghi lễ chính trị. Thay vì phải đưa tên của người có chức vị cao lên trước, trang trọng, thì ở đây báo lại đưa tên tuổi của nghệ sỹ đóng vai vua khỉ lên trước. Như rứa là cũng chưa trang trọng đối với lãnh đạo Việt Nam. Có lẽ đây là sự sơ ý.

Ngoài ra, về bức ảnh "vua khỉ" tặng quà trên báo Thanh Niên, trên mạng xã hội facebook, có người tò mò không biết tác giả bức ảnh tên là NVCC là ai? tên gì mà dài thòn toàn chữ viết tắt kỳ quái vậy. Theo một số người khác thì 4 chữ NVCC tức là "nhân vật cung cấp", tức là ảnh do nhân vật trong ảnh cung cấp. Thôi, tui chẳng dám đoán mò đoán ẩu.

Dù sao chuyến thăm và làm việc cũng đã thành công tốt đẹp, báo chí đều đã ca ngợi, đưa tin.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tình cảnh nhà văn Việt Nam những năm năm mươi và sáu mươi( thế kỷ XX)


 Nguyên Sa
  QTXM-Nhà văn miền Nam trước năm 1975 được tự do sáng tác, không bị bất cứ một phương pháp sáng tác nào chi phối. Nên những điều họ viết  ra là sự thật, tình thật . Nhưng họ cũng có những nỗi khổ của họ.Đó là nỗi "Cô đơn, hoàn cảnh của nhà văn những năm năm mươi, sáu mươi đó. Nỗi cô đơn siêu hình của người viết trước từ giấy trắng chẳng bao giờ nhà văn rũ bỏ được". Sao mà giống bây giờ vậy. Mời bạn đọc đọc lại một phần trong  cuốn sách Một bông hồng cho văn nghệ của Nguyên Sa, nhà thơ của Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát/ Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông,  để hiểu thêm "tình cảnh" của họ. NM

Mỗi nhà văn sống, nghĩ, viết trong một hoàn cảnh riêng biệt, đúng rồi. Làm thế nào giống nhau được? Điều kiện sinh lý này chẳng hạn đã biến đổi theo mỗi cá nhân: nhà văn đó cao như con sào, nhà thơ kia lùn như cây nấm, tôi mập và bụng to, Nguyễn Văn Trung cận thị, Chu Tử què chân, Trần Dạ Từ mặt rỗ. Tình trạng hộ tịch khác nhau rõ quá: tiểu thuyết gia Bình Nguyên Lộc và thi sĩ Hoàng Anh Tuấn là những chủ gia đình có con trai, người trên con trai, gái lớn đã dựng vợ gả chồng đã có cháu bế. Nhà văn kia đã hai lần đưa đám vợ. Thanh Nam, Thái Thuỷ [1] là những ông già độc thân nuôi dưỡng sự độc thân thường trực bằng những giọng hát Hồng Hảo, Lệ Thanh, Bích Sơn hay Bạch Tuyết. Khác nhau xa chứ. Giống nhau làm sau được. Những điểm dị biệt, những điều kiện, yếu tố cụ thể khác nhau của mỗi người cầm bút, muốn kể thêm không khó. Nhiều lắm. Cây bút đã vững kia là một tay khoa bảng xuất thân, tài năng đang lên nọ bỏ học năm đệ tam trung học, khuôn mặt này đã hơn một lần thiếu quê hương, đôi chân thèm đi kia chưa bao giờ ra khỏi đất nước. Các anh đều biết có tay đến với văn nghệ nhờ sự tình cờ, không biết may mắn hay bi đát lắm kẻ, trước khi làm quen với phương trình bậc hai, gia tốc của vật rơi, đã chọn thi ca làm nghiệp dĩ. Các nhà văn đều biết, để sống, mỗi nhà văn thường có những nghề tay trái khác nhau. Một số đáng kể: dạy học hay viết báo hàng ngày. Vũ Hoàng Chương, Thế Viên, Đỗ Long Vân dạy học đấy. Duyên Anh, Tú Kếu, Nguyễn Thuỵ Long kí giả đấy. Phục vụ trong quân ngũ cũng nhiều: Văn Quang, Thế Nguyên, Thảo Trường… Bác sĩ y khoa, công chức, biên tập viên đài phát thanh, có đủ cả. Chẳng phải kể, các anh cũng biết là ai. Chẳng cần nói thêm các anh đều biết là sự khác nhau còn nhiều lắm. Lý do cũng dễ hiểu quá: cuộc đời nó như thế. Chẳng có cuộc đời nào giống cuộc đời khác như hai giọt nước, như hai sản phẩm của cùng một máy tự động sản xuất dây chuyền. Nhưng đó có phải là những hoang đảo cô lập? Hoàn toàn không có liên lạc gì với nhau, đúng không? Tuyệt đối khác biệt à? Điều kiện sinh hoạt, tâm lí và sinh lý, giáo dục cũng như nghề nghiệp, gia đình biến đổi tuỳ theo mỗi nhà văn, sự thực này chẳng ai dại dột phủ nhận trừ khi muốn mở ra một cuộc thảo luận chơi. Nhưng cũng chẳng ai dại dột mà xác nhận rằng con người nói chung, nhà văn nói riêng chẳng có điều tương đồng nào cả. Dị biệt có. Tương đồng cũng có chứ. Cái tương đồng này làm cho người chẳng phải là chó, mèo, khỉ. Cái tương đồng kia làm cho người Việt Nam khác với con cháu nữ thần Thái Dương, với dân tộc xây tượng thần tự do trên một vùng đất mới. Cái tương đồng làm cho nhà văn là nhà văn. Chúng ta vẫn khác nhau đúng rồi. Giống nhau thế nào được? Giống làm gì? Không thể đồng nhất hoá được, đồng ý, đồng ý. Khác nhau có. Và có. Nhưng cũng có một hoàn cảnh chung. Một cái tương đồng. Một dấu chàm nào đó trên trán, một dấu án lên vai người nô lệ nào đó, nhờ đó phân biệt được nhà văn Việt Nam những năm năm mươi, sáu mươi với nhà văn chỗ khác, thời khác. Với nhà văn tiền chiến. Với Nam Phong và Tự Lực. Với “Thế hệ lạc lõng” và nhóm “Tiểu thuyết Mới”. Với Hemingway, Camus và với tác giả bài “Situations de l’ecrivain en 1947″) [2] .
Những cái tương đồng chung không kể làm gì. Có lý trí, phải chết. Có xương sống, đẻ con. Hoặc: da vàng, mũi tẹt, tóc đen, con cháu Lạc Hồng, kinh tế nông nghiệp… Hoặc sát hơn nữa: đất nước chia đôi, nước chậm tiến, chiến tranh tàn phá, nội bộ rối loạn… Những cái tương đồng đó không kể làm gì. Lô yếu tố thứ nhất mới là cái “dấu chàm” của con người. Lô yếu tố thứ nhì: người Việt Nam nói chung. Người Việt Nam ở đây, bây giờ được phác hoạ bởi lô yếu tố thứ ba. Chưa phải là nhà văn Việt Nam những năm năm mươi, sáu mươi. Nó còn có những nét ấy. Có chứ. Nhưng những nét ấy chưa đủ. Tổng quát tính của chúng làm cho chúng mơ hồ.
Cũng không kể đến một lô yếu tố khác chỉ liên hệ đến nhà văn Việt Nam ở đây, bây giờ vì phụ thuộc. Chẳng hạn như điều kiện giải trí và nơi sinh hoạt.Không có những salons littéraires như nhà văn Pháp thế kỉ 19. Không ngồi viết ở quán cà phê như các nhà văn Ba Lê. Không có những cuộc du lịch kì thú, những cuộc phiêu lưu nảy lửa như các nhà văn Mỹ khi tham gia cuộc nội chiến hoặc cuộc đấu bò rừng ở Tây Ban Nha, khi săn thú ở Phi châu, khi kết hôn với minh tinh màn bạc. Cũng không hát ả đào như thế hệ Nguyễn Công Trứ, thế hệ Tản Đà. Á phiện cũng chẳng có bao nhiêu. Vài người hút nhưng lại bỏ. Bởi thế, những tay thích làm văn học sử biết nghề, quan tâm đến mối tương quan đúng mức giữa cái sống và cái chết, sẽ nhận thấy một cách dễ dàng, trong tác phẩm cũng như trong cuộc đời của những người cầm bút những năm năm mươi, sáu mươi sự đổi thay của môi trường sinh hoạt. Đôi cánh của nàng tiên nâu đã bay mất. Hay đúng hơn: chưa bao giờ xuất hiện trong thơ của Từ, Nhã Ca, Uyển, Tuấn hay Thuỷ. Những cuộc phiêu lưu không diễn ra trên núi thuyết Kilimanjaro mà vẫn giới hạn trong thành phố. Vũ trường và vũ nữ đến thay thế những ngôi nhà có tiếng phách tiếng sênh trong cái sống và cái viết. Mưỡu và hát nói nhường chỗ cho “giọng hát Bích Chiêu“. Rõ lắm. Rõ lắm. Nơi sinh hoạt, điều kiện giải trí của nhà văn thế hệ 54 – 66 không giống thế kỉ 19, tiền chiến, Âu châu hay Mỹ châu. Nhưng chúng ta không kể đến những điểm tương đồng đó. Không dừng lại ở đó. Thị trấn nhỏ bé của cuộc đời văn nghệ này có những nét quyến rũ, kỳ thú mà một cây viết tài hoa có thể sẽ tạo ra những bức tranh tuyệt diệu, ta phải nhắm mắt nhảy qua để đi thắng tới trọng tâm của vấn đề. Điều kiện chung này và những hoàn cảnh chung khác vất sang một bên. Không chối cãi về tầm quan trọng và vẻ đẹp nhưng không thể dừng lại lâu hơn được vì phải nói đến ngay cánh hoàn cảnh căn bản.
Tôi nói về sự cô đơn. Thế đấy, hoàn cảnh chung của nhà văn thế hệ năm mươi sáu mươi này là sự cô đơn ấy. Nó làm ta khác tiền chiến, khác Tự Lực,Nam Phong. Khác các nhà văn hiện sinh, khác những người lãnh giải Nobel, Goncourt hay Pulitzer dù họ sống trên “sông Don trầm lặng” thắc mắc về “những bàn tay bẩn”, sống trong tâm trạng “người lạ mặt” hay chán chường “giã từ vũ khí”. Sự cô đơn đứng trước mặt, sau lưng, dưới chân, trên đầu, trong chiếu nằm, trên bàn viết. Đe doạ và tàn phá, làm tê liệt và tan nát. Cào xé rách da, rách thịt. Đừng tưởng nhầm đến triết lý. Tôi không bàn đến niềm cô đơn trừu tượng của các chuyên gia chuyên nghiệp. Cái này không phải là một sản phẩm thuần lý, tiên nhiệm. Cái này chạy trong máu, nhảy múa trong mắt, trên tay, đi lại trong phế nang, sinh sản trong tế bào. Nhìn thấy không?
Trước hết, đó là sự cô đơn của thế hệ không có đàn anh. Cái anh kia sẽ cười khoái trá: đúng rồi, tâm hồn này là một tâm hồn yếu đuối. Còn gì nữa, khẳng định của nó phản ảnh rõ rệt sự than tiếc, không có nơi nương tưạ, không có người hướng dẫn, không có người ra lệnh, cầm chịch. Đừng nghĩ thế. Đừng cho rằng sự xác định “nỗi cô đơn của một thế hệ không có đàn anh” nói lên niềm khát khao thần tượng để phục tòng. Thay bằng những ngôn ngữ phân tâm, sự xác định đó phản ánh một mặc cảm, một khuynh hướng thích bị đô hộ, một masochisme văn nghệ. Tôi đã đùa với triết học khá lâu để biết nhận diện những cái đó. Tôi vẫn nói là, trong văn nghệ không ai thực sự giúp đỡ được cả. Chỉ có tác giả một mình trước tờ giấy trắng như lão ngư ông và biển cả, tay đấu bò và con bò rừng. Tiền bạc và uy quyền, bằng hữu và gia đình, đàn anh và đàn em chẳng thể nào võ trang cánh tay nhà văn để biến tập giấy trắng thành tác phẩm lớn. Chỉ có nó và nó. Tôi vẫn nghĩ là người viết xứng danh có thể gia nhập hay không gia nhập vào một nhóm, một phái nào đó. Vào hay không chẳng quan hệ gì. Điều quan hệ là vào hay không vào bao giờ trong ý thức của nó cũng phải có thường trực tiếng nói dõng dạc, tiếng nói rất hách: Trường phái bè nhóm đều vô nghĩa. Mưu cơ, đòn phép, vô nghĩa. Những khen tặng đề cao có kế hoạch là những hào quang giả và sự xưng tụng lẫn nhau chỉ loè được những tâm hồn ấu trĩ. Bao vây và xuyên tạc, đe doạ và chụp mũ dù tinh vi đến đâu, dù huỷ diệt được thân thể, hãm hại được chính ta, chẳng làm sứt mẻ được tác phẩm ta. Hãy nghe lời đề cao bằng một tai thôi. Hãy nhìn sự lãng mạn bằng cặp mắt khoan dung. Tất cả đều ở phía dưới. Cái trên chẳng dựng đứng được tác phẩm, cái dưới không vật ngã nó dược. Tinh thần độc lập, nỗi cô đơn khi sáng tác, tôi nghĩ rằng đã có, đang có và có mãi trong tâm hồn người làm văn nghệ thuật.
Và tôi nói: Chúng ta là một thế hệ không có đàn anh không phải để kêu gọi nơi nương tựa mà để bầy rõ một thực tại chi phối cuộc đời văn nghệ từ mấy năm nay, vạch rõ một yếu tính của thế hệ năm mươi, sáu mươi.
“Không có đàn anh” không phải là nihilisme văn nghệ, không phải là đạp đổ hết. Những đao to búa lớn “trước ta không có ai” những nihilisme văn nghệ chỉ là những bộ mặt cũ như trái đất mà tâm lý học gọi là trạng thái tự kỷ trung tâm, tôi gọi sự hoảng hốt của đam mê khởi đầu. Vấn đề không phải thế. Nó khác. Vấn đề là, trong trạng thái bình thường, người bắt đầu bước vào thế giới văn nghệ, cuộc phiêu lưu dài, mệt và đáng bao giờ cũng gặp ngay một dẫy núi lớn cản đường. Đàn anh ấy. Nó đi trước ta một giáp, một chiến tranh, một cuộc nội loạn, một cuộc khủng hoảng kinh tế. Làm thế nào vượt qua? Bằng cách tiếp tục đào sâu hay làm khác đi, đi ngược lại. Tiếp tục và chống đối đều nói lên sự có mặt của dẫy núi. Những Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, ngẩng đầu lên thấy những Tản Đà. Tản Đà đang sáng chói trong cơn say đứng đấy, trước mặt. Dẫy núi của những Sartre, Camus tên là Gide, Proust và những Michel Butor, Nathalie Sarraute không thể quên sự có mặt của Sartre, S. de Beauvoir. Sự có mặt của thế hệ đàn anh, bình thường là một nghiệp dĩ, căn phần hay hoàn cảnh văn nghệ, khó chịu lắm. Nó làm cho người bắt đầu làm văn nghệ có cái ý thức bị nhìn ngắmSartre triết lý không quên được những Alain, Bergson, Heidegger; Sartre kịch, Sartre tiểu thuyết không quên được Gide, Giraudoux. Bước chân vào thế giới văn học nghệ thuật khi còn những tạp chí Đông Dương và Nam Phong, tay biên khảo này chẳng thể quên được rằng nó sẽ được đọc bởi những Phan Kế Bính, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim. Đăng thơ khi cuộc đệ nhị thế chiến đang khai diễn, tay làm thơ biết rằng nó sẽ được đọc bởi “con chim đến từ núi lạ”, bởi những linh hồn mà “sầu đã chín”. Và tay cầm bút sẽ bị nhìn bởi nụ cười khinh bạc của họ Nguyễn, tay phóng sự gặp ngay tác giả Số đỏ. Đi vào thế giới văn nghệ bình thường bao giờ cũng có các tay đàn anh đang sống, sinh hoạt, còn sinh hoạt, tiếp tục sáng tác, ta chẳng thể quên được sự hiện diện của họ. Họ nhìn ta đi vào thế-giới–còn–đang-của-họ khởi đầu một cuộc thay thế. Và ta biết rằng bị nhìn. Bị nhìn và ý thức được là bị nhìn ngắm, bước đi của ta sẽ đổi khác, diện mạo của ta sẽ đổi khác. Trông người đàn bà thì biết. Biết là bị nhìn ngắm, nó điệu hơn nhiều. Để cho cái dâng hiến quý giá hơn hay để cho sự chinh phục tinh vi hơn, không biết. Nhưng chắc chắn sẽ đổi khác. Một người kịch cỡm sẽ nói: sao kém thế. Nhìn mặc kệ. Không cần biết đến sự có mặt của bọn đàn anh. Thái độ cố ý không quan tâm đến cặp mắt theo dõi của tha nhân, càng nói lên sự có mặt nặng nề của tha nhân. Càng phủ nhận, họ càng có mặt. Càng quên đi, họ càng hiện ra rõ rệt. Sự gia nhập vào thế giới văn nghệ bình thường nó như thế đấy. Và chúng ta không ở trong tình trạng bình thường đó.
Chúng ta bước vào một ngôi nhà trống rỗng, một khu vườn nhỏ bỏ hoang, một vũ trụ không người, chẳng có ai trước mặt thật. Chúng ta rút ra mỗi đứa một cây gậy và múa loạn lên. Chúng ta khen tặng và sỉ vả lẫn nhau. Đến một lúc ta sỉ vả cả những người đi trước, lớp đàn anh sát nút. Không thấy ai trả lời, khoái quá. Nhưng niềm khoái trá tan đi làm tấm màn chủ quan rơi xuống để lộ rõ ngôi nhà trống rỗng, khu vườn hoang vắng. Bọn họ đâu cả rồi? Câu trả lời tìm thấy không khó. Chiến tranh hai mươi năm, đất nước chia đôi là thực tại đứng đó, sờ mó thấy. Cũng như đồng bào ta, nhà văn lớp trước đã gánh trên vai những trái đen cuả thần Mars. Chiến tranh đã trổ ra trăm cánh tau móng nhọn, trăm đầu miệng rộng răng to để cướp mất người này bằng cánh tay vũ khí, xoá mất người kia bằng hàm răng chính trị. Người bị thủ tiêu, Khái Hưng đấy. Người phiêu bạt rừng núi, ở quê người chẳng về, đứng lại tê liệt bên kia vĩ tuyến, lặng lẽ rút khỏi thế giới văn nghệ hoặc khoác lên vai chiếc áo chính uỷ như những tác giả Lửa thiêng, Vang bóng một thời, Gửi hương cho gió. Mất cả, mất cả. Ở quanh ta còn một vài ngôi sao. Có chứ. Đông Hồ, Vi Huyền Đắc, Trần Tuấn Khải. Gần ta hơn: Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng. Nhưng dòng Ngân Hà đã bị phân hoá, trái núi đã vỡ tung vì chất nổ ghê gớm. Những ngôi sao ấy trở thành lẻ loi. Những đàn anh còn đây không đủ để kết hợp thành một thế hệ, một lớp người có một sinh hoạt văn nghệ thuần nhất để những kẻ đến sau đặt thành đối tượng tranh thủ, chống đối hoặc gia nhập. Đúng thế, có những đàn anh còn đấy; nhưng dường như đã rút khỏi cuộc sinh hoạt văn nghệ thường trực. Thỉnh thoảng khuôn mặt đáng yêu của Đông Hồ, Trần Tuấn Khải… xuất hiện trong một số báo Xuân, trong một cuộc phỏng vấn, để nhắc lại dĩ vãng nghĩa là để nói lên sự rút khỏi cuộc sống văn nghệ cháy nóng. Họ đã thật sự rút khỏi văn nghệ. Tác phẩm lớn của họ đã làm xong và họ đã trở thành khách lạ. Những đàn anh gần ta hơn có người còn viết khoẻ. Nhưng không có một lớp người để ta phải ngẩng đầu nhìn lên phản kháng hay giơ tay xin nhập hội. Trái lại, có sự gia nhập miễn cưỡng ngược chiều. Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng đăng thơ ở các tạp chí của bọn nhi đồng đại loại như Hiện Đại, Văn Học. Dòng sông không mệt mỏi Nhất Linh làm báo làm chí với những nhi đồng khác. Những kẻ ghét tôi và yêu tôi đừng bận tâm về hai tiếng nhi đồng. Các anh hãy tưởng tượng tác giả Đoạn tuyệt đứng giữa bìa báo đang bọc bởi những Khái Hưng, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Xuân Diệu, Huy Cận, Hố Dzếnh, Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Tuân thì khuôn mặt văn nghệ những năm năm mươi, sáu mươi sẽ khác đi không biết thế nào. Các anh thử nghĩ đi.
Nghĩ về chính mình, tôi còn nhớ một buổi sáng đẹp trời nhìn Đông nhìn Tây không thấy các tay biên khảo họ Đặng, họ Đào, họ Trần đâu cả. Khoái quá, tôi ném vào thế giới văn học nghệ thuật mấy bài khảo cứu. Sau đó, nhìn Nam nhìn Bắc, không thấy các tác giả Gửi hương cho gióLửa thiêng, khoái hơn tôi chìa ra vài bài thơ. Văn xuôi và văn vần được đăng ngay vào chỗ tốt của những tờ báo văn nghệ được coi là tốt. Thế là hào quang bay lượn trên đầu. Bây giờ, nghĩ lại thấy không được. Anh này đừng nói với tôi rằng làm gì mà mất tự tin đến thế. Anh kia đừng hoài nghi nó đang chơi cái cú tự sỉ nhục để ra cái điều khiêm tốn. Tôi chỉ muốn các anh cùng nhìn vào khoảng đất trống vắng, nhìn vào niềm cô đơn đã bao vây chúng ta bao nhiêu năm. Chúng ta bước vào ngôi nhà trống rỗng, mảnh đất hoang vu và cắm lên đó ngọn cờ nguyên suý, vẽ lên đó phù hiệu đế vương. Vài bóng người còn lại lẻ loi chẳng nói năng gì. Họ im lặng niềm đau của chết chóc, tan hoang. Bốn phía toàn những tay cùng lứa tuổi với ta. Hợp thành một bọn xâm chiếm đất đai. Chúng ta công nhận lẫn nhau, phân chia với nhau. Rồi thời gian và tập quán, sức mạnh của số đông, hợp lực với thời cơ kỳ lạ làm thành luật pháp. Các người trẻ tuổi hơn chúng ta chỉ còn nhìn thấy chúng ta. Khoái lắm, khoái lắm. Nhưng cơn khoái này, mà thời gian dựng lên, cũng do thời gian xoá bỏ. Bối cảnh sụp đổ, trong nội tâm mỗi đứa, như những thành phố bằng bìa dựng trong phim trường. Hòn đá ném đi không có hòn ném lại. Cũng chẳng có tiếng vang động nào. Phát súng bắn không có mục tiêu. Sự chiếm đóng không có sức kháng cự vì thành phố bỏ ngỏ. Tôi đã nhìn thấy được sự trống rỗng rất sớm. Nhà văn đến sau chống lại kẻ đến trước. Thường lắm, chỉ có một trong những con đường ấy: tiếp tục làm khác, hay chống lại. Tượng trưng chống lãng mạn cũng như lãng mạn chống cổ điển. Victor Hugo không chấp nhận luật vàng gọi là ba đơn vị đã làm nghiêng ngửa Corneille. Verlaine, Rimbaud, Gautier, đắp đập ngăn dòng nước mắt Lamartine, Hugo, hay Musset. Dễ hiểu lắm. Nhóm “Tiểu thuyết Mới” bây giờ nói không với nền văn nghệ-triết học của những Sartre, Camus. Dấu hiệu của sự sinh hoạt văn nghệ sống thật bắt đầu bằng tiếng không đó. Tất nhiên tiếng không phải kèm theo “tác phẩm đây này”, “đổi mới đây này” chứ không phải là niềm khao khát bất lực, sự huênh hoang vô lối của các tay nhẩy vào văn nghệ vì sành rượu, vì biết tạo ra một cái vẻ kịch nửa lầm lì, nửa kinh ngạc, vì biết “sinh hoạt” với anh em, biết kín kín hở hở ra cái điều có một hậu thuẫn anh em đông, ra cái điều có một lý tưởng ghê gớm còn bí mật chưa nói ra được.
Chống lại, tốt lắm. Và chúng ta chống lại, anh em chống lại, tôi chống lại. Còn nhớ trong một tuần báo do Thái Thuỷ chủ trương, tôi nói về địa vị của Tự Lực Văn Đoàn. Tôi đã viết đại khái là nhóm này đang chiếm một địa vị lớn hơn cái chỗ ngồi mà nó đáng có trong văn học cũng như trong tâm hồn thanh niên vì chương trình giáo dục trung học đã đặt nó vào chỗ chính thức. Cái bài ấy viết xong, đăng lên, thích thú lắm. Lần khác. Trên tờ báo khác, tôi viết về thơ tự do. Cũng khoái lắm. Nhưng niềm thích thú cơn khoái tan đi, nỗi đau khổ mà động lực là sự cô đơn, kế tiếp càng to lớn gấp bội. Tôi chợt nhận thấy những ném lại. Trống vắng và lặng im. Sa mạc và chết chóc. Chỉ có tiếng gậy cọ xát với không khí, không có sự va chạm với vật cứng khác gọi là binh khí. Không thấy Nhất Linh nói gì cả. Không thấy Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng nói gì cả. Đinh Hùng, tôi có nghe một lần. Anh nói. Nói nhưng không viết nên cái nói. Lần ấy, cách đây khoảng tám năm, hình như ở nhà Thanh Nam khi còn ở Bàn Cờ, vần và không vần của thơ được tác giảĐường vào tình sử đặt vào giữa hai hớp rượu. Nhưng không có viết lên. Không có thảo luận, không có bút chiến. Sự lặng im đồng nhất của tác giảBướm trắng và Đường vào tình sử này thoạt đầu, với tôi, mở ra nghi vấn: có phải đây là các tay văn phiệt, thi phiệt. Tôi không biết lời kết án của họ Phan với họ Phạm có đúng không nhưng ngay sau khi nêu câu hỏi, tôi biết là tôi lầm. Dẫy núi lớn tan tác sau cơn địa chấn kinh hoàng và bây giờ những trái núi lẻ loi còn lại chẳng còn muốn nói gì. Nghĩa là, như đã viết, những đàn anh lớp trước còn lại đây một người, kia một người nhưng không hợp thành một lớp người để đòi hỏi chúng tôi phải tận lực chống, vượt qua hay xin gia nhập. Những phản ứng chống đối để nói lên ý muốn làm mới nghệ thuật rơi vào khoảng không. Thỉnh thoảng có một người xưng là bạn Nguyễn Tuân, nhận là đã được Thế Lữ đề tựa cất tiếng lên, sỉ vả chúng tôi nhưng chúng tôi nhìn thấy ngay đó chỉ là những vệ tinh chầu rìa của những dòng ngân hà tiền chiến. Uỷ nhiệm thư của họ là uỷ nhiệm thư giả. Và lời sỉ vả chẳng làm kích động mà chỉ làm tôi thêm chán chường, làm tôi càng nhận thấy sự im lặng to lớn, sự vắng mặt chết chóc của lớp đàn anh. Đạn bắn đi nhắm những mục tiêu vu vơ, gậy múa trong khoảng không. Thế hệ chúng tôi đấy. Nỗi cô độc ấy tiền chiến không gặp, “nhóm “Tiểu thuyết Mới” không gặp, “Thế hệ Lạc lõng” không gặp. Những năm đầu tiên thấy lợi quá. Bước vào một thế giới trống rỗng, đàn anh tan tác cả, chiếm được thắng lợi dễ dàng cho nên tự tin, lạc quan ghê lắm. Thơ văn viết ra nổi ngay, khoái lắm. Thắng lợi thâu đoạt được có thể trở thành bàn đạp đẩy mạnh trăm nghìn khai phá mới.
Rồi vốn liếng ấy nhân lên, nghĩ mà ham. Nhưng thời gian cho thấy rằng phải cố gắng lắm mới giữ được ngọn lửa lạc quan không tắt ngấm trong cơn gió chán nản thổi đến từ xứ xở cô đơn. Chạy đua toàn với những người thấp bé hơn ta, ta dễ thấy mình chạy mau quá. Vừa leo lên ngọn đồi đã thấy mình cao nhất. Do đó, hãnh tiến và ngủ quên. Móng vuốt của cô độc như thế đấy. Không có ai để đối thoại, để phản kháng, để chống lại, để vượt lên. Chúng tôi chạy một mình, leo một mình, chẳng có ai đằng trước mặt để tranh thủ. Móng vuốt của cô độc các anh đã nhìn thấy chưa? Cuộc sinh hoạt văn nghệ của chúng tôi là phải đối thoại với chính mình, phản kháng chính mình, tranh đua với bản thân. Chúng tôi phải nhìn cây cỏ, bốn phía để trả lời câu hỏi: đã chạy đủ mau chưa? Phải nhìn mây trên đầu, núi trước mặt để xét xem leo đủ cao chưa? Không có ai chạy trước mặt để tôi căn đo tốc độ, liệu đường nước rút. Không có nhà thám hiểm nào đang cắm ngọn cờ ở núi non chung quanh để tôi nhìn thấy rằng ngọn núi của tôi chỉ là một đụn cát, một ngọn đồi thấp bé. Chúng tôi đã tìm ra được những miếng võ ghê gớm hay chỉ múa may hỗn loạn? Chúng tôi đã có những đường gậy của một môn phái xứng danh hay chỉ đủ sức hạ được những con giun, con kiến? Chúng tôi là một thế hệ hiển hách hay chỉ là dấu đen nghèo nàn trong lịch sử văn nghệ. Chúng tôi ra làm sao? Vấn đề không phải là thành bại, được thua, nhưng là sự cấu xé, giằn vặt của những móng vuốt cô đơn ấy. Chúng tôi muốn nói to lên: các người đi trước kia hãy khen hay chê chúng tôi. Khen cũng được, chê cũng được. Nhưng không có khen, không có chê, chỉ có sự im lặng cô đơn. Còn sự xung tụng và lăng mạ? Có chứ. Trong thế giới khép kín của thế hệ chúng tôi, chúng tôi cũng ca tụng lẫn nhau, sỉ vả lẫn nhau. Chửi bới những thằng không hạp nhãn, ca ngợi anh em. Hơn nữa, thế kỉ này đã luyện cho chúng tôi ca ngợi có kế hoạch, chửi bới chụp mũ. Nhưng mỗi đứa dần dần thấy khen cũng chẳng thú, chửi cũng chẳng cần bởi vì đã nhìn thấy mặt kia của quân bài. Không bằng thì chửi, không bạn thì hạ nhục chơi, anh em thì nay gài một câu khen, mai một câu đưa lên. Lãng mạn và xưng tụng chỉ là hình thức khác của im lặng. Chẳng phải là văn nghệ. Đến nỗi người bạn này bảo tôi: Một năm nay chẳng thấy chúng nó chửi mình phát nào cả. Xuống rồi chăng? Tiền giả nó như thế đấy. Không bị chửi lại nhìn thấy dấu hiệu của sự sa sút. Còn anh em khen tơi bời, đưa lên bằng thích lại chính là dấu hiệu của yếu kém của sự cần thiết được chứng minh, biện bạch. Địa ngục cô đơn như thế càng ngột ngạt hơn nữa vì giam cầm trong ấy mà chúng tôi cũng chẳng gạt bỏ được những cái nhỏ nhen, thấp bé.
Và bây giờ, những sự chưởi bới hay xung tụng của những kẻ đồng thời, dưới mắt mỗi đứa, nhạt lắm rồi; chẳng còn làm thắc mắc gì nữa, có khi còn gây ra hậu quả ngược chiều, chúng tôi càng nhìn rõ hoang vắng, càng nghe rõ lời nói ghê gớm: trước mặt ta không có ai. Phải căn lấy tốc độ mà chạy, đo lấy độ cao mà leo. Mày hoàn toàn cô độc, vĩnh viễn cô độc. Đó là điều kiện, là hoàn cảnh của văn nghệ của mày. Phải đánh cờ một mình. Phải xông xáo trong đấu trường rỗng. Mà vẫn phải chiến đấu với khoảng không để chứng tỏ mình rằng mình thật sự là một tay đấu bò tài ba, một el major.
*
Cô đơn trong tập thể văn nghệ vì sự liên tục lịch sử, bởi sự tan tác của thế hệ đàn anh, bị gián đoạn, nhà văn những năm năm mươi, sáu mươi càng cô đơn hơn nữa trong tập thể rộng lớn là Xã Hội. Chúng tôi ăn ngủ ở trong đó, chọn lọc từ đó chất liệu cần thiết để viết và, khi cái viết đã hoàn thành, gửi đến đó. Không có vấn đề tách rời nhà văn và Xã Hội. Nhưng cũng còn lâu lắm mới có sự hoà đồng, sự cảm thông đồng điệu. Bức trường thành cao lắm và chúng tôi đứng riêng một phía. Biển lớn lắm và chúng tôi ở trên hòn đảo nhìn vào thành phố đất liền.
Anh này gọi sự bao vây ngăn cách là sự nghèo đói. Đúng quá. Có lần nói về sự thực chói mắt này không? Cái chết của Quách Thoại và Lê Văn Trương đã nói cạn ý, đã đầy đủ như một bản thống kê về bản quyền tác, tình trạng tài chính, đời sống vật chất. Chẳng cần nhắc lại sự kiện đa số người viết không sống nổi bằng ngòi bút nên phải có một nghề tay trái như viết báo, dạy học, thầy cãi, thầy thuốc, chính trị. Chẳng cần nói thêm rằng sự nghèo khổ ấy cùng cực đến nỗi kẻ nào có một tí tiền, lập tức khó tránh được sự hành hạ của một mặc cảm phạm tội, khó tránh được cái nhìn khám xét của bạn hữu thiếu bao dung. Anh kia nói đến niềm cô đơn của lớp người không giai cấp. Cũng được lắm, nghĩ thử mà xem. Nhà văn đáng liệt vào thành phần xã hội nào? Nghèo mạt dệp, những tên bóc lột rất kĩ đó vẫn là những nhà tư bản, hay hơn nữa những tay quý tộc của thời đại dân chủ. Tôi muốn nói: vô sản trong bình diện tài chính, nhà văn thế hệ này có phong thái của những nhà tư bản, những tay quý tộc. Ở những nơi đèn tắt muộn nhất, anh em có mặt ở đấy. Ở những chốn có những trận cười điên loạn nhất, có họ. Vua của vũ trường, hoàng tử của phòng trà, quán rượu, trường đua không phải là những công tử con nhà giàu, chủ ngân hàng, chinh khách giầu mau, mà vẫn là nhà thơ có dáng dấp của Frank Sinatra, nhà văn mười một năm thượng sĩ hiền như đất đai quê hương. Chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chi rất hách, phát tích-kê như điên. Cho đến đồng xu cuối cùng. Cho đến đồng bạc đáy túi. Cho nên họ biết đứng vào đâu lúc đợi xe về hơi rượu whisky tan trong gió đêm. Tư bản không nhận họ vì họ nghèo quá. Vô sản làm gì có những tay quý tộc đó? Không có mẩu rễ trong một thành phần xã hội nào cả, niềm cô đơn dễ nhìn thấy lắm. Tôi đã nghĩ đến những nỗi cô đơn, đến từ nghèo đói, đến từ những mẩu rễ bị chặt đứt mà các anh đã nói tới. Những lối vây hãm đó có thực. Nhưng niềm ám ảnh có một khuôn mặt khác. Nói luôn là hệ thống giá trị của xã hội này và vị trí của nhà văn trong đó. Trong một cuộc nói chuyện về thơ với Tuần báo Nghệ thuật Truyền thanh đài Sài Gòn, tôi đã nói sơ lược. Bây giờ đào sâu chút nữa. Nhà văn, nhà thơ thời đại này, xã hội này: quê hương của Nguyễn Du, bị xếp ở bậc thang cuối cùng của cái thang giá trị. Chứng cớ?
Dễ lắm. Đi hỏi vợ, thi sĩ có nhiều hy vọng thua tiến sĩ, bác sĩ, kỹ sư. Đến yết kiến một Bộ trưởng, tay khoa bảng chắc chắn được tiếp, nhà thơ khó lắm. Dễ hiểu quá: dưới mắt vị nhạc phụ tương lai, thi sĩ chẳng là cái nghề ngỗng gì cả, dưới mắt tay cầm quyền nhà thơ là một thằng vô dụng. Nó chẳng thể làm công việc nghiêm chỉnh của một ông giám đốc, chẳng có vẻ đạo mạo của một nhân sĩ. Hơn nữa nó còn không đứng đắn, ăn mặc lôi thôi, thỉnh thoảng cao hứng nói láo, nói lếu như đòi “chép thơ lên đá”. Tiếp nó làm gì? Kẻ thứ dân, tên cùng đinh của xã hội này sẽ không nhìn thấy mâu thuẫn nào cả, không thắc mắc gì nếu không có mấy sự kiện làm nó quan tâm. Dĩ vãng ở đây và hiện tại ở chỗ khác, đã và đang đặt những kẻ hao hao giống nó ở những bậc thang cao hơn. Người làm văn làm thơ cùng thời với Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát hay Nguyễn Du chắc chắn cũng không giầu có hơn các người viết bây giờ nhưng thường xuyên họ nhận được sự kính trọng mà dân gian, vua quan dành cho kẻ sĩ. Đứng trong một tao đàn bảo trợ bởi triều đình hay dạy học ở một ngôi làng nhỏ, người biết đùa với âm thanh của lục bát, Đường thi, người viết được một bài hịch, thảo được một văn tế, không bao giờ bị coi là một tên nhố nhăng, không nghề ngỗng đứng đắn hay đáng nghi.
Còn bây giờ ở bốn phía, Ba Lê này và Nữu Ước kia, Anh Cát Lợi và Thuỵ Điển, những xã hội cơ giới ấy, lạ thay, vẫn đặt các tay làm văn thơ ở những bậc thang xã hội trang trọng. Không nói đến tiền bản quyền lớn lao do số ấn loát phẩm lượng lớn mang lại, cho phép một Sagan thay xe đua hàng tháng hàng năm, cười điên trong hộp đêm, cho phép một Hemingway khi thì săn sư tử ở chân núi Kilimanjaro, khi thì hò hét trên khán đài những đấu trường Tây Ban Nha. Nhưng gạt ra ngoài những ưu đãi vật chất đó. Hay chỉ nói đến sự tôn kính tinh thần đã biểu lộ qua sự đãi ngộ người làm văn học nghệ thuật như những hoàng tử. Tiếng nói của họ cất lên vê Algerie, Budapest liền được lắng nghe, với người này, như lời truyền giảng, với người khác, như sự đe doạ mà vũ khí trở thành bất lực. Cái ăn cái ngủ, cái yêu, cái di chuyển, cái sinh sống của họ được viết lên bởi báo chí vẽ ra bởi các đài truyền thanh, truyền hình, được đọc được nghe được nhìn bởi những cặp mắt yêu mến, bao dung và hãnh diện. Paris hãnh diện không phải chỉ vì có Moulin Rouge, Quartier Latin hay Champs-Elysées mà vì có những Gide, những Cocteau, Valery… Con cháu chú Sam không phải chỉ hãnh diện vì tài tháo vát, óc khai phá về dầu hoả và hoả tiễn mà còn vì những người đoạt giải Pulitzer và sau đó, Nobel. Chúng ta, có lúc tôi nghĩ rằng, thôi thì ta ngồi ở bậc thang cuối cùng ấy sống trong xã hội mà văn nghệ không phải là hoàng tử mà chỉ là những tên láo lếu cũng chẳng sao. Những xã hội cơ giới kia nó biết hãnh diện về những kẻ sáng tạo của nó, biết dành cho kẻ này quốc táng, biết mời kẻ khác đến làm danh dự buổi khoản đãi của vị nguyên thủ, danh dự còn lớn lao hơn cái hiện diện của ngoại giao hay các nhà tư bản, xét kỹ ra cũng chẳng có gì đáng kêu ca. Nước ta còn lo cơm lo áo cho dân, lo cho dân khỏi chết dập chết vùi, làm sao còn lo kết những vòng hoa đẹp cho thi sĩ. Còn cái thang giá trị kia nhất thời lắm.
Kẻ ngồi trên rồi sẽ xuống dưới, lũ ở dưới sẽ lên trên. Lịch sử cũng như tôn giáo, thế đấy. Chúng ta hãnh diện vì đã có Nguyễn Du, đã có Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến hay Tản Đà chớ có nhớ gì về ông Nghè, ông Bảng đâu? Những người của tương lai, cũng vậy, sẽ kiêu hãnh về những người làm thơ văn bây giờ, sẽ gọi họ là những tinh hoa, là ý thức của thời đại, sẽ dành những vòng hoa tưởng nhớ cho những kẻ đóng góp vào cái gia tài văn hoá của dân tộc.
Có nghĩ như thế chứ. Nhưng cái vỗ về này chẳng xoa dịu được cô đơn. Chúng tôi càng thấy mâu thuẫn, càng thấy cô đơn trong hiện tại. Tại sao cái chỗ ngồi sau này của ta sáng thế, đẹp thế mà cái chỗ ngồi hiện tại khốn nạn? Vả lại còn nghĩ rằng lịch sử đứng ở xa lắm, còn lâu lắm mới tới.
Có nhìn thấy nó bao giờ đâu? Khi nó đến, ta tiêu ma thành đất thành bùn rồi còn gì? “Kỷ nguyên hoài nghi” này tai hại như thế đấy.
Bao nhiêu trụ cột chống đỡ cái mái yên tĩnh của tâm hồn sụp đổ mất cả rồi. Thần thánh và lịch sử. Giá trị này và giá trị kia. Có thể có lắm chứ. Sự hiện hữu của thế giới bên kia, sự phán xét của lịch sử. Có thể lắm chứ. Nhưng chúng tôi chỉ có một đời sống. Chúng tôi chỉ có một niềm cô đơn này. Thần thánh và lịch sử còn làm được gì khi tất cả, vui sướng và tủi nhục, thống khổ và hân hoan, đã cùng với thân thể nặng nề này nằm xuống?
Cô đơn trong tập thể văn nghệ vì sự gián đoạn bất bình thường giữa các thế hệ, cô đơn trong tập thể rộng lớn hơn là xã hội này vì sự đãi ngộ, vì vị trí xã hội, vì hệ thống thang xã hội, các nhà văn, nhà thơ những năm năm mươi, sáu mươi cũng cô đơn trong chiến tranh. Những người đang đổ mồ hôi ở thao trường và những người đang đổ máu ở chiến trường sẽ nói lên lời phẫn nộ. Chỗ đứng của các anh đây. Ở thao trường này và chiến trường này. Vào đây đổ mồ hôi. Ra đây trả cái phần xương máu. Mặc bộ kaki này vào các anh sẽ biết rõ chỗ đứng. Cơn phẫn nộ này đúng. Lời sỉ vả này không thể cãi được. Tôi nói rõ: Lời phẫn nộ của những người đang đổ mồ hôi ở thao trường và đổ máu ở chiến trường. Chớ không phải những lời nói tương tự đến từ các nhà cầm quyền mười mấy năm nay. Trí thức phòng trà, trí thức thành phố, trí thức salon, những thành ngữ nói lên sự nguyền rủa một lớp người, trong đó có thể xếp các người làm văn học nghệ thuật lên hàng đầu, thật ra chẳng có giá trị gì cả nếu phát xuất từ nhà cầm quyền, vì đó chỉ là những “cái mũ” được ném ra nhằm mục đích bóp chết mọi tiếng nói đối kháng. Chúng tôi quá quen thuộc với các chất ma tuý như thuốc lá, cà phê cho nên các ma tuý mới gọi là khẩu hiệu, diễn văn, tố cáo, lăng mạ chẳng còn làm xúc động gì. Bị chửi bới hay bị dụ khị, thằng này cười hề hề, thằng kia kêu lên tốt lắm.
Đó cũng là điểm khắc biệt giữa văn nghệ và trí thức khoa bảng vốn quan tâm đến sĩ diện, được coi như một phương diện để sinh sống. Văn nghệ chẳng cần các cái đó. Nhưng lời phẫn nộ, sự sỉ vả đó, khi đến từ những người thực sự chiến đấu mà không có ghế cao nhà lớn nào cả, đã và đang làm chúng tôi lắng nghe. Và tôi nghĩ: đúng lắm. Chỗ của ta đấy. Ở Trung tâm Huấn luyện Quan Trung và Trường Thủ Đức. Ở quân đoàn này và vùng chiến thuật kia. Và có những nhà thơ đã đứng ở đấy. Những hào sảng Trần Như Liên Phượng đấy.
Nhưng vượt lên trên cơn giận dữ như các anh đã vượt những hào sâu rừng thẳm mìn chông, chúng ta hãy nhìn vào câu hỏi này: các anh muốn nhà văn, nhà thơ chiến đấu với tư cách người hay tư cách văn nghệ. Nếu quan niệm rằng chỉ cần cầm được súng, văn nghệ không cần, thì mọi cuộc thảo luận đều chấm dứt, chúng tôi không còn gì để nói và chào thua.
Nếu nói rằng thơ văn chẳng được cái tích sự gì cả, chẳng chặn được cuộc tấn công này, chẳng mở được chiến dịch kia, đó chỉ là những xa hoa, những đồ trang sức thời bình để ve vuốt tâm hồn đàn bà thì hết, không còn gì để nói. Chỉ còn đồng ý và đồng ý. Nhưng ngược lại, nếu quan niệm rằng cuộc chiến đấu mà mọi người thường gọi là toàn diện thì văn nghệ là một mặt trận. Người làm thơ viết văn trở thành chiến hữu. Quan niệm đứng đắn này những năm năm mươi sáu mươi chưa hề có. Cho nên chúng tôi không biết đứng ở đâu. Nhà cầm quyền của vùng dĩ vãng xa và gần đó đã coi văn nghệ là phương tiện, là cái cần nắm lấy. Nắm mãi chẳng được, người ta chỉ còn than trách: Văn nghệ của mình chẳng có lập trường gì cả.
Chúng ta đều nhớ kỹ rằng các chánh quyền dĩ vãng đã nhiều lần đến với văn nghệ. Tiền đây, báo đây làm gì. Nhiều người trong chúng ta, có tôi, đã nhận tiền trực tiếp hay gián tiếp, tiền bao thầu hay tiền bài. Rồi để cho cái tình cảm tội lỗi nằm im, chúng tôi làm láo làm lếu cho tiền bạc không sáng sủa kia được tiêu đi mau lệ, ngõ hầu có thể phân vua với anh em: cho thì lấy mà đốt, trả tiền thì viết nhưng ta cứ viết cái lời mời chẳng dính dấp gì đến cuộc đời này, cuộc chiến tranh này, chẳng lợi lộc gì cho người chi tiền. Cái lối chơi sỏ của nhà nho các anh còn lạ gì. Cho nên các cuộc hôn phối gượng ép này đã hơn một lần đưa đến đổ vỡ. Sự phân hoá trầm trọng hơn: chính quyền và văn nghệ vẫn đứng ở hai phía mặt trời và hơn nữa, người cầm tiền và kẻ không có cơ hội, thằng cầm nhiều và tay cầm ít sỉ vả và lườm nguýt lẫn nhau như quân thù quân hằn.
Và niềm cô đơn dầy đặc thêm lên như sương mù như cỏ lan vào thành phố bỏ hoang. Người làm văn thơ muốn đóng vai trò của cái có thể gọi là ý thức của một cuộc sống này và cái chết kia. Nó muốn nói lên cái nó mong nó đợi, cái nó yêu, cái nó ghét. Tham gia vào cuộc chiến đấu với tư cách văn nghệ, vũ khí của nó là cái ý thức sáng chói đó. Có nói lên được cái yêu và cái ghét đến nơi đến chốn dưới mắt người cầm bút, mới làm cho ta khoẻ địch yếu. Nhưng dưới mắt nhà cầm quyền thì lại không được. Những người đã đến với văn nghệ có thể có thiện chí lắm, khéo léo lắm. Họ đều nói đại loại: chúng tôi không làm áp lực nào cả, chỉ giúp đỡ anh em về tinh thần và vật chất. Tiền đây, báo đây, cầm lấy cho vui vẻ cả. Phải chân thành mà nhận rằng với các chính quyền như thế còn hơn là những cái tát đe doạ của sự độc tài. Không theo đường lối thì phong toả kinh tế, thì đi nông trường. Những cuộc thảo luận bắt đầu như thế lễ phép lắm, đẹp lắm, cần lắm nhưng chưa đủ. Đám băng hoài nghi cần được làm cho tan rã. Sự lễ phép làm cho nhà văn nghĩ rằng nó nằm từ từ đây. Thuốc độc bọc đường đây. Và cuộc chơi ú tim cứ thế tiếp diễn: cầm tiền và viết lờ mờ thôi. Ngoài tiền, ngoài giao tế lịch sự cần phải nói rõ vào mặt nhau: Chúng ta đừng vuốt ve nhau. Chúng tôi điều hành guồng máy nặng nề tê liệt và chiến tranh này, các anh là ý thức. Hãy nói lên thống khổ và hân hoan của đồng bào ta mà các anh là những tâm gương nhạy cảm. Hãy nói lên tất cả, mặt phải và mặt trái. Chúng ta, văn nghệ và chính quyền, hãy sỉ vả nhau, đấm đá nhau. Đấm đá và sỉ vả như những chiến hữu.Hào khí văn nghệ bốc lên khi đám băng tan rã. L
 Bài Trên QTXM

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hoa Vi hay Họa Vi ?

ngominh | 11 Apr, 2015, 09:03 | BÀI BÁO | (0 Reads)

Hoa Vi

Nguyễn Văn Tuấn
Đọc bản tin theo đường link dưới đây (1) nếu không làm bạn quan tâm thì có lẽ bạn có… vấn đề. Bản tin cho biết ngài tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng được các quan chức trong tập đoàn Hoa Vi (Huawei) tiếp đón, và ông “mong rằng Tập đoàn Hoa Vi sẽ tiếp tục triển khai nhiều dự án hợp tác làm ăn hiệu quả tại Việt Nam, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế cho doanh nghiệp, mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam”. Tôi chỉ sợ là ước mong thành thật này cũng là một lời mời đón gián điệp Tàu vào Việt Nam và lũng đoạn Việt Nam.

Tại sao tôi sợ thế? Tại vì tập đoàn Hoa Vi được cho là một cơ sở kinh doanh của Nhà nước Tàu (nhưng Hoa Vi thì nói họ không có dính dáng gì đến chính quyền Tàu). Người thành lập Hoa Vi từng là một cựu quân nhân Tàu. Tập đoàn này có những thương vụ mờ ám, và thiết bị của họ được phát hiện có chức năng thu thập thông tin từ khách hàng để gửi về Tàu. Năm ngoái, Chính phủ Úc tẩy chay Hoa Vi không cho công ti này tham gia vào việc xây dựng hệ thống broadband network của Úc vì lí do an ninh (2). Trước Úc thì Canada cũng đã tẩy chay Hoa Vi, không cho công ti này dính dáng vào các dự án về xây dựng mạng ở Canada. Mĩ đã phát hiện Hoa Vi làm gián điệp cho Chính phủ Tàu cộng (3), nên việc kinh doanh của Hoa Vi đặt dưới sự giám sát của các cơ quan công quyền Mĩ. Thật ra, Chính phủ Mĩ một cách thẳng thừng khuyên các công ti Mĩ không nên làm ăn với Hoa Vi và một tập đoàn khác của Tàu là ZTE.
  Chẳng phải gì bên Tây, trước đây, báo chí Việt Nam cũng có cảnh báo về Hoa Vi là một mối đe doạ đến an ninh mạng của Việt Nam.
Ấy thế mà nay Việt Nam thì hân hoan chào đón Hoa Vi! Thật ra, có lẽ Hoa Vi đã có mặt ở Việt Nam từ lâu lắm rồi. Có lần tôi mua một thiết bị 3G của hãng Viettel, nhưng khi mở ra thì thấy nó là sản phẩm của Hoa Vi (và Viettel chỉ gắn nhãn bề ngoài thôi)! Xem qua nhiều điện thoại di động ở Việt Nam thì thấy phần lớn là của Hoa Vi. Rất có thể Hoa Vi dính dáng vào việc xây dựng hệ thống mạng cho Việt Nam (?) Nếu kinh nghiệm của Úc, Canada, Anh, Mĩ và Âu châu là những bài học về an ninh quốc gia, thì rất khó giải thích tại sao Việt Nam lại hân hoan chào đón Hoa Vi. Dù là lì do gì, sự có mặt của Hoa Vi ở Việt Nam là rất đáng quan ngại.
N. V. T.
==== 
(1) http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx… 
(2) http://www.afr.com/…/nsa-spy-praises-huawei-ban-20140508-it… 
(3) http://www.reuters.com/…/us-huawei-security-idUSBRE96I06I20…

Phần nhận xét hiển thị trên trang