Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 3 tháng 4, 2015

CÁI GIÁ CỦA NIỀM TIN



Truyện ngắn
Mùa đông năm ngoái tôi có việc lên Cao Bằng công tác. Khi ô tô đến thị xã thì trời đã tối, không còn xe đi Bảo Lộc, là huyện tôi phải đến. Ðành thức chờ đến sáng vậy. Bến xe lúc này vắng người. Tôi chọn một góc vắng, rồi trải tấm ni-lông xuống đất, thầm lo không biết làm gì cho hết cái đêm lạnh lẽo, dài và buồn chán này.
Bên cạnh, ngồi quay lưng về phía tôi là một đồng chí bộ đội mặc quần áo sĩ quan, mũ kéo tùm hụp xuống tận mắt. Tôi tìm cách bắt chuyện. Một lát sau, vì không có việc gì làm, chúng tôi đã thoải mái trò chuyện với nhau. Hóa ra anh đi cùng xe với tôi từ Hà Nội lên, và như tôi, cũng phải ngồi chờ sáng để đi tiếp, có điều không phải đi Bảo Lộc, mà về Hạ Lang, quê anh. Tuy không nhìn rõ mặt, không phân biệt được quân hàm, quân hiệu, nhưng qua giọng nói tôi đoán anh là một sĩ quan từng trải và có lẽ không dưới bốn mươi lăm tuổi. Tôi yêu cầu anh có chuyện gì hay kể cho nghe, và anh đã kể. Trái với điều tôi mong đợi, chuyện anh kể không về những kỉ niệm chiến đấu ở chiến trường, mà về những con chim hải âu hiền lành sống trên những hòn đảo nhỏ xa tít ngoài đại dương mênh mông mà trong đợt tổng tấn công mùa xuân năm 1975, anh và đồng đội được lệnh ra giải phóng.
*
"Mấy ngày sau khi ta chiếm Dinh Ðộc Lập, chúng tôi được lệnh hỏa tốc ra đảo X. Trên danh nghĩa, chúng tôi là một tiểu đoàn, nhưng quân số thực tế chỉ hơn trăm người, lại toàn lính mới chưa dày dặn sóng nước, nên khi tới nơi, phần lớn phải nằm bất động vì say sóng. Cũng may chẳng phải đánh đấm gì mấy, vì bọn địch chốt trên đảo nghe tin đất liền thất thủ, tinh thần đã sa sút tột độ và chỉ chờ có người để đầu hàng. Việc tiếp quản, ổn định cuộc sống trên đảo được tiến hành nhanh chóng và thuận lợi..
Thật khó nói hết sự ngỡ ngàng của chúng tôi những ngày đầu đặt chân lên đảo. Anh thử tưởng tượng xem - những doi cát nhỏ nhoi giữa biển cả mênh mông sóng dữ, suốt đêm ngày gió thổi như bão. Chúng tôi đã hốt hoảng thực sự khi đêm đầu tiên ngủ dậy - như trong câu chuyện thần thoại - chợt thấy trước mặt mình nhú dần lên những hòn đảo thoạt nhìn tưởng tàu địch. Thì ra ở đây có những hòn đảo quá thấp, đến mức thủy triều lên bị ngập hẳn dưới nước và chỉ khi nước rút mới xuất hiện trở lại.
Tuy nhiên, điều làm chúng tôi ngạc nhiên và thú vị hơn cả là chim hải âu. Xưa nay chúng ta chỉ thấy hải âu trong phim, trong các bài hát trữ tình, thế mà bây giờ, kia, chúng kia, hàng nghìn, có thể hàng chục nghìn con đang bay nhao nhác trước mặt. Chúng kêu những tiếng đơn điệu, nghe có cái gì buồn buồn trong đó. Tôi có cảm giác như đây là điểm hội tụ của tất cả loài hải âu trên biển. Từ đây, chúng tỏa đi kiếm ăn khắp nơi, chao lượn không mỏi trên những ngọn sóng, khi trở lại, chúng đậu kín bề mặt hòn đảo chúng tôi đang ở và cả những hòn nhỏ lân cận. Vì đảo trần trụi không cây cối, không hang đá, nên chúng ngủ, làm tổ và đẻ trứng ngay trên mặt cát, lẫn với những vón phân khô, những mẩu cá chúng ăn sót lại, phảng phất mùi tanh nồng.
Như anh biết, ở đất liền bao đời nay quan hệ giữa con người và con chim là thù địch. Thấy chim, con người luôn tìm cách bắt, bẫy hoặc xua đuổi. Phần mình, như phản xạ tự vệ hình thành qua hàng nghìn năm, thấy người là chim liền xa lánh. Còn ở đây, trong tiềm thức những con chim hải âu này, cái phản xạ tự vệ ấy không có, vì lí do đơn giản là không cần thiết, hay chính xác hơn là chúng chưa bao giờ cảm thấy bất kỳ mối đe dọa nào từ phía những con người chúng gặp. Vâng, đúng như thế. Chúng đậu ngay trước mặt chúng tôi, xung quanh chúng tôi, thậm chí cả trên vai và đầu chúng tôi. Mà chúng tôi là ai thì anh đã biết. Sau những phút ngỡ ngàng đầy thi vị ban đầu trước sự cả tin thơ ngây của bầy chim kì lạ, chúng tôi nhanh chóng trở lại với thói quen bản năng thực dụng mang theo từ đất liền.
Việc đầu tiên là chúng tôi nhặt trứng luộc ăn. Không ngon lắm, nhưng cũng tàm tạm, ít nhất đối với những người luôn phải sống trong cảnh kham khổ. Tiếp đến là ăn thịt chim. Rất đơn giản: một người đứng thẳng chìa tay về phía trước. Sẽ có một con đến đậu với đôi mắt mở to háo hức nhìn xung quanh. Nó sẽ được bàn tay còn lại của anh ta vỗ vỗ vào lưng, rồi vặn cổ, vứt sang cạnh cho người khác vặt lông, đưa lên lửa nướng. Tiếp theo là con khác, rồi một con khác nữa, cũng với những đôi mắt mở to ươn ướt như thế. Và cũng như thế, chúng được vỗ vỗ vào lưng, bị vặn cổ vứt xuống đất. Chứng kiến cái cảnh độc đáo ấy là chúng tôi, những chàng trai vô tư ngồi quanh đống lửa, vừa nhồm nhoàm nhai thịt chim, vừa nói cười vui vẻ, quá ư vui vẻ.
Chẳng bao lâu sau, cái trò ấy cũng chán, phần vì thịt chim hải âu tanh, khác hẳn thịt các loài chim đất liền. Nhàn rỗi, chúng tôi lang thang đi trên đảo, dẫm nát dưới gót giày những quả trứng màu xanh lơ xinh đẹp, hay tiện chân đá bay những con chim khờ khạo nằm ngáng đường đi. Một cậu nổi tiếng tinh nghịch còn lấy gậy đánh vào chúng. Ôi, những con chim ngu ngốc tội nghiệp. Anh biết không, cứ con này bị đánh chết là con khác lại sa vào, không chút ý thức về mối nguy hiểm đang đe dọa. Cũng rất vô tư, chúng tôi thi nhau trổ tài thiện xạ. Tất nhiên mục tiêu vẫn lại là những con chim đang đậu phía trước, xa hay gần tùy khả năng từng người.
Tiếng súng quả có làm bầy chim hoảng sợ, nhưng là cái sợ mơ hồ không cắt nghĩa nổi. Chúng giật mình bay lên cao, nghiêng ngó nhìn quanh rồi lại ngỡ ngàng đậu xuống. Chúng chưa hiểu chuyện gì đang xảy ra. Có thể lúc ấy trong chúng đã hình thành mầm mống đầu tiên của sự ngờ vực đối với con người như cách đây hàng vạn, hàng triệu năm tổ tiên loài chim trên đất liền xa xôi đã ngờ vực con người khi con người bắt đầu đối xử thô bạo với chúng.
Hai ngày tiếp theo, vẫn những cảnh ấy xảy ra.
Sang ngày thứ tư thì một điều kỳ lạ đã đến. Anh có thể tin hoặc không, nhưng mờ sáng hôm ấy, ngủ dậy, chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi thấy trên hòn đảo chúng tôi đóng quân không hề thấy bóng con chim nào. Xin nhắc lại: không một con nào! Dấu vết duy nhất còn lại của chúng là những vỏ trứng vỡ ngổn ngang và những túm lông chim gió thổi bay vật vờ trên cát. Ðang ngơ ngác không hiểu chuyện gì xảy ra thì bỗng có lệnh báo động. Sau đó là lệnh tập hợp toàn đơn vị. Chúng tôi nhanh chóng đứng thành ba hàng, thấp thỏm chờ đợi.
Ðại úy tiểu đoàn trưởng Lâm của chúng tôi là người nhỏ bé, khắc khổ, đã trên năm mươi tuổi. Ông ít nói, hiền từ (lúc vui chúng tôi quen gọi "Bố Lâm"), nhưng dễ nổi nóng. Bản chất nông dân, hàng ngày ông thích mặc xuềnh xoàng, dễ dãi, nên hôm nay thấy ông bước ra trước hàng quân trong bộ đồ sĩ quan mới, đủ giày mũ và quân hàm, chúng tôi biết có chuyện khác thường. Sau khi hô "nghiêm" toàn đơn vị, ông bắt đầu nói, giọng trang nghiêm, run run vì xúc động và giận dữ:
- Các đồng chí... các đồng chí đã làm một việc cực kì nghiêm trọng... một việc xấu xa. Các đồng chí đã làm cả đàn chim hoảng sợ bỏ đảo bay đi... Bao năm nay chúng yên ổn sống hòa thuận với con người, với giặc, những tên lính ngụy, kẻ thù của chúng ta, các đồng chí hiểu chưa, với kẻ thù của chúng ta, thế mà nay, các đồng chí, những chiến sĩ cách mạng... chỉ trong ba ngày, các đồng chí đã... đã... Thật tôi không còn biết nói thế nào nữa. Tự các đồng chí phải hiểu lấy...Thật xấu hổ! Xấu hổ! - Ðôi mắt ông chớp chớp. Rồi im lặng một lúc, ông nhìn thẳng vào chúng tôi, nói tiếp với vẻ cương quyết hiếm thấy: - Từ bây giờ, tôi ra lệnh các đồng chí phải bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo. Thời hạn một tuần! Giải tán!
Ðấy, anh xem, câu chuyện hóa ra thế đấy. Ðến bây giờ chúng tôi mới ý thức hết việc mình làm. Mọi người lặng lẽ ai về vị trí người ấy, xấu hổ không dám nhìn vào mắt nhau. Liền sau đó, chi bộ họp. Tôi là đảng viên, tôi có dự. Tiểu đoàn trưởng hồi lâu nhắc lại những điều đã nói trước toàn đơn vị, và theo đề nghị của ông, chi bộ đã thông qua những điểm sau (nguyên văn):
1 - Bằng mọi cách đưa đàn chim trở lại đảo trong thời gian ngắn nhất.
2 - Các trung đội họp tự kiểm điểm một cách nghiêm túc.
3 - Từ nay cấm không được ăn thịt chim, trứng chim, cấm không được làm phương hại đến chim và trứng chim dưới bất kì hình thức nào.
4 - Cấm không được nổ súng, trừ trường hợp chiến đấu.
5 - Báo cáo về đất liền.
Tiếp đến là những ngày nặng nề, căng thẳng của chúng tôi. Toàn bộ sự chú ý của đơn vị chỉ nhằm vào một việc là đưa đàn chim trở lại đảo. Nhưng bằng cách nào? Chúng tôi đã thử mọi cách có thể nghĩ ra được. Trước hết là dọn sạch lông chim và vỏ trứng vỡ. Tuyệt đối không gây một tiếng động nào có thể làm chim sợ, và hạn chế đến mức tối thiểu sự xuất hiện của người trên mặt đảo.
Anh thử tưởng tượng xem, hơn trăm con người lặng lẽ, rón rén đi lại như những thằng ăn trộm. Một trăm con người ấy, một trăm chiến sĩ từng vào sống ra chết trên những chiến trường ác liệt nhất, một trăm chàng trai khỏe mạnh, đáng yêu và vô tư - thậm chí quá vô tư đến mức đã có một hành động lầm lỡ, nay thực tình hối hận muốn chuộc lỗi. Nếu cùng là người với nhau thì đơn giản hơn nhiều! Tôi cư xử không tốt với anh ư? Thế thì xin lỗi, và chúng ta sẽ lại chung sống với nhau như những người bạn. Còn nếu anh vì lí do nào đấy không thể tha thứ, ít ra cũng cho được nói rằng tôi làm việc ấy hoàn toàn không vì xấu bụng, mà chỉ do lầm lỡ! Ðấy, với con người có thể nói với nhau như thế. Nhưng với con chim thì không được. Chim chỉ hiểu chúng ta qua ngôn ngữ của hành động, mà hành động bao giờ cũng chỉ bộc lộ ở bề nổi của nó, phần quan trọng hơn, phần nguyên nhân thì không dễ nhận thấy nếu thiếu bộ óc suy diễn lô-gích. Chúng tôi đã làm một hành động xấu, con chim hiểu điều đó và đã xa lánh chúng tôi, nhưng nay chúng tôi đang có một hành động khác ngược lại, là sự hối hận và xấu hổ. Ðiều đó nằm sâu trong suy nghĩ của con người. Làm sao chim thấy được?
Một ngày, hai ngày, rồi một tuần trôi qua mà vẫn không một con nào trở lại. Chúng chen chúc nhau chật chội trên những hòn đảo bé nhỏ khác, hoặc cam chịu cảnh ướt át bất tiện trên các doi cát khi ẩn khi hiện theo con nước. Kể ra câu chuyện sẽ không trở nên quan trọng mức ấy, nếu tiểu đoàn trưởng không cho phát lệnh báo động cả đơn vị. Chính việc đó làm thay đổi hẳn tính chất của vấn đề. Lúc này, trong việc lấy lại niềm tin của bầy chim, chúng tôi hiểu còn có cái gì đấy trừu tượng nhưng to lớn và quan trọng hơn.
Vẫn không thấy bóng con chim nào xuất hiện. Mọi phương pháp, mọi mưu kế đều được đem ra thử. Tôi, với tư cách người dân tộc có kinh nghiệm săn bẫy muông thú cũng được hỏi ý kiến. Một anh chàng theo đạo Cơ Ðốc được yêu cầu cầu Chúa cho loài chim trở lại. Anh ta đã thành tâm cầu Chúa, nhưng tạm thời lời cầu chưa màu nhiệm. Một cậu còn đem cả bát cơm đang ăn tung lên nhử, quên rằng hải âu chỉ ăn cá...
Bầy chim vẫn lạnh lùng bay cao trên đầu chúng tôi, nghiêng ngó nhìn một cách cảnh giác rồi xuống đậu các đảo lân cận, dù đảo chúng tôi là nơi khô ráo, thuận tiện nhất, dù trên đó đang chờ đợi chúng là những con người đã hối cải, những người bạn thật sự.
Thêm một tuần, rồi một tuần nữa trôi qua...
Bỗng một sáng nọ, có cậu vừa bước ra khỏi hầm đã kêu to sung sướng:
- Kìa, chúng trở lại rồi kìa!
Cả bọn chúng tôi ùa ra xem. Trên một mô đất cao cách chúng tôi ba trăm mét, quả có mấy con đang đứng với nhiều tư thế khác nhau. Nhưng nhìn mãi vẫn thấy chúng đứng yên, mọi người sinh nghi, bèn rón rén đến xem. Hóa ra đó là những con chim nhồi! Mọi người nhìn nhau thở dài thất vọng. Nhưng ai đã làm những con chim nhồi đó? Vì sao? Cả đơn vị căn vặn nhau mãi vẫn không tìm ra thủ phạm. Vâng, thủ phạm, vì dù với mục đích gì chăng nữa, làm thế cũng là vi phạm lệnh giết chim đã được công bố.
Tuy thế, phải nói rằng chính nhờ những con chim nhồi kia chúng tôi mới thoát khỏi cái thế bất lực khổ sở của mình. Bay trên cao, thấy có bạn đậu yên ổn trên đảo, đàn chim hải âu bắt đầu thay đổi thái độ. Một vài con rụt rè bay xuống nhập bọn. Núp trong hầm, chúng tôi nín thở theo dõi. Hôm sau số chim xuống đậu đã nhiều. Hôm tiếp theo nhiều hơn nữa. Chúng tôi đã có thể đi lại trên đảo, có điều phải rất cẩn thận và nhất là phải thật tự nhiên như không hề quan tâm tới chúng. Cuối cùng, sau hai tháng, tất cả trở lại như cũ, nghĩa là đàn chim lại có thể đậu lên vai, lên tay chúng tôi mà không hề lo sợ. Chúng tôi thở phào nhẹ nhõm. Anh biết không, ngoài ra chúng tôi còn có thêm cái cảm giác ấm áp của tình bạn, vì suy cho cùng, sống chơ vơ một mình giữa biển trời, có được con chim làm bạn mà nó bỏ đi, kể cũng buồn lắm chứ!...
Toàn bộ câu chuyện là thế. Nghĩ thật chua xót - chỉ trong vài ngày, mấy anh lính trẻ vô tư đã dễ dàng đánh mất niềm tin của những con chim bé nhỏ vào con người, và để lấy lại niềm tin ấy, cả một tiểu đoàn phải vất vả, khổ sở trong hai tháng liền. Biết làm sao được... Cái cần trả giá phải được trả giá, không còn cách nào khác!"
***
Anh bộ đội ngừng kể. Chúng tôi cùng ngồi im hút thuốc. Cuối cùng tôi lên tiếng:
- Tôi hỏi thật nhé, có phải anh nghĩ ra mấy con chim nhồi kia không?
- Không, - anh đáp sau một phút trầm ngâm. - Ðó là sáng kiến của bố Lâm. "Bố" quê ở một vùng chiêm trũng Thanh Hóa. Ở đấy người ta hay bẫy cò, nên "bố" mới biết cái kinh nghiệm ấy. Vả lại, hôm "bố" lén lút chèo thuyền sang đảo khác bắt hải âu là hôm tôi trực gác, nên tôi nhìn thấy hết. "Bố" bắt tôi thề không nói lộ với ai. Tôi không nghĩ "bố" sợ bị xem là vi phạm lệnh cấm, mà chỉ sợ mang tiếng lừa dối những con chim ngây thơ. Thế mà sau này, do tính bép xép, tôi đem kể hết với mọi người. Tuy nhiên, vì sợ "bố" buồn, toàn tiểu đoàn ai cũng vờ như chẳng hay gì. Có lẽ đến bây giờ "bố" vẫn nghĩ chỉ mình bố" và tôi biết điều đó. Tội nghiệp ông già.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nước Việt Nam, sau 200 năm mới có một cơ hội lớn..

Con đường của Rồng

Gần đây có ba event liên tiếp ở Sài Gòn. Có một điểm thú vị là các event này (do IPL, Trung nguyên và Trung ương Đoàn tổ chức) đều có các chủ đề khá lớn lao: Đánh thức con rồng ngủ quên, Châu chấu đá voi, Nhân hiệu Việt… Diễn giả ở các event này là những người Việt khá nổi tiếng, từ nước ngoài về như Vũ Minh Khương, Giáp Văn Dương, giới nghệ sỹ như Dương Thụ, Quốc Trung, giới kinh doanh như Võ Quốc Thắng, Đặng Lê Nguyên Vũ, giới kinh tế như Trần Đình Thiên, Võ Đại Lược, các học giả như Bùi Văn, Hồ Ngọc Đại, Tôn Thất Khiêm …
Thực sự, có vẻ như nhiều người, ở nhiều thế hệ khác nhau, ở các nhóm xã hội khác nhau, đang xoay xở tìm tòi sự đột phá, hay một lối thoát ra để vươn lên, không chỉ cho cá nhân mình, mà còn cho cả một thế hệ, cả đất nước.
Trong các sự kiện này họ tổ chức rất nhiều các cuộc trao đổi, đối thoại, chia sẻ kinh nghiệm, nhưng suốt mấy buổi kiên nhẫn ngồi theo dõi, vẫn chưa thấy ai đặt ra được các câu hỏi cốt lõi.
Khó mà biết câu hỏi nào là câu hỏi cốt lõi, tuy nhiên nếu nhìn sâu vào thực trạng xã hội hiện nay, nhìn vào thực trạng của các xã hội tương tự trong quá khứ, cũng sẽ nảy ra những câu hỏi mà câu trả lời cần rất nhiều suy nghĩ. Sau đây có thể là một số câu.
Đầu tiên câu hỏi về niềm tin, về tương lai phía trước của đất nước: Liệu Việt Nam có thực sự trở thành Rồng?  Hay không thể nào thành Rồng? Nếu niềm tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, thì cách nghĩ và cách làm sẽ khác, nếu niềm tin là không thể hóa rồng, sẽ phải nghĩ hướng khác, làm cách khác.
Để biết Việt Nam có trở thành Rồng hay không, việc đầu tiên là phải quay lại để nhìn về lịch sử, xem chúng ta có thực sự mang trong mình dòng máu của Rồng hay không? Và quan trọng hơn, để nhìn vào quá khứ, đã có giai đoạn lịch sử nào chúng ta mang hình bóng của một chú Rồng con?
Câu hỏi tiếp theo, là hàng triệu người Việt Nam hiện có lý tưởng, chí hướng gì chung không? Lý tưởng ở đây không phải là lý tưởng có nguồn gốc từ một chủ nghĩa hay triết thuyết nào đó, là những thứ trong suốt lịch sử của mình, cho đến đến tận ngày nay chúng ta vẫn phải đi vay mượn. Phần nhiều những người cùng chí hướng (đồng chí) đi theo những lý tưởng ấy, cho đến nay cũng không còn tin vào lý tưởng mà họ đã từng tin, không còn tin vào đồng chí của mình, tức là gọi là “đồng chí” mà lại không cùng chí hướng.
Dù Niềm Tin là Việt Nam sẽ hóa rồng, hay Niềm Tin là Việt Nam sẽ chỉ có số phận làng nhàng giun dế, thì để cứu vớt cái xã hội đang phân rã cao độ này rồi đưa đất nước đi đúng con đường mà nó cần phải đi, để thoát khỏi vũng lầy tăm tối, thì vẫn cần một hoặc nhiều lý tưởng, một hoặc vài chí hướng. Những lý tưởng và chí hướng ấy phải có cùng: gốc rễ từ chính dân tộc mình và hướng về phía trước là phát triển đất nước. Có cái chung như vậy thì nỗ lực của mỗi người, dù theo đuổi lý tưởng nào, chí hướng nào, sẽ đều góp phần phụng sự đất nước.
Một câu hỏi nữa, về sự chuyển giao liên tục giữa các thế hệ, đặc biệt là giữa các thế hệ lãnh đạo. Bất cứ một sự gián đoạn nào, dù là gián đoạn giữa các thế hệ doanh nhân, tri thức, hay gián đoạn giữa các thế hệ lãnh đạo, đều gây ra sự phân rã xã hội. Đặc biệt là sự gián đoạn lãnh đạo đất nước, sẽ tàn phá di sản quá khứ, làm thất truyền kinh nghiệm dựng nước, làm vỡ nát nền tảng văn hóa và luân lý của xã hội, dẫn đến xã hội không chỉ phân rã mà có thể sụp đổ từ vật chất đến đạo đức, lối sống.
Một câu hỏi cũng nên đặt ra, không phải là làm thế nào để trở thành Rồng, mà phải định nghĩa Rồng là gì rồi từ đó mới biết cách để trở thành Rồng.
Cuối cùng là câu hỏi về cơ hội. Liệu có cơ hội nào để Việt Nam trở thành rồng hay không. Cơ hội ấy không tự ta tạo ra, mà phụ thuộc vào hoàn cảnh thế giới. Nhưng nắm lấy cơ hội, lại là một việc chúng ta phải chủ động.
Bắt đầu từ câu hỏi: Quốc gia Rồng là một quốc gia như thế nào?
Làm Rồng phải chăng là khè lửa dọa dẫm bắt nạt các nước láng giềng, hay là đánh nhau tay bo thắng vài cường quốc? Làm Rồng phải chăng là có thể đánh đu ngang hàng với các quốc gia phát triển? Hay là làm rồng tức là có những doanh nghiệp lớn vươn  ra thế giới? Làm rồng có lẽ nào chỉ cần có những tầng lớp ăn trên ngồi chốc giàu có ngang ngửa với giới elite tư bản hàng đầu khu vực hoặc thế giới?
Làm Rồng, thực ra hiền lành hơn nhiều. Một quốc gia hóa rồng là một quốc gia hội nhập và có đóng góp cho văn minh nhân loại. Một quốc gia có đóng góp cho văn minh nhân loại, thì tự khắc sẽ có vị thế và được thế giới chia cho phần lợi lớn. Như Anh-Mỹ mấy trăm năm nay, như Nhật cả trăm năm nay. Và như Hàn Quốc rất gần đây. Một quốc gia chỉ thụ hưởng hay vay mượn của văn minh nhân loại, thì phần của cải mà nó được thế giới chia cho, sẽ chỉ là canh thừa cơm cặn, quá lắm là chỉ đủ thoát chết đói, thoát nghèo hay giàu xổi. Còn lâu mới đạt đến đẳng cấp thịnh vượng bền vững. Ở những quốc gia vay mượn, có rất nhiều trên thế giới này, chỉ có một lớp người giàu có nhờ lèo lái đặc quyền để kiếm ăn trên lưng đồng bào hoặc tài nguyên của đất nước.
Đấy mới là điều kiện đủ để được coi là Rồng.
Điều kiện cần chính là Độc Lập, Thống Nhất bờ cõi và có chung Một Ngôn Ngữ.
Một con rồng chỉ là con Rồng khi nó thực sự làm chủ được vận mệnh của mình và có giang sơn của riêng nó. Một đất nước muốn hóa rồng, đầu tiên cần phải là một quốc gia, có chủ quyền, và nhân dân của quốc gia ấy có những người lãnh đạo của chính mình.
Với những điều kiện như vậy thì mầm mống của nước Việt Nam hiện nay mới thực sự hiện hữu, hay nói cách khác là con rồng sơ sinh xuất hiện trên mảnh đất chữ S này, chỉ hơn 10 thế kỷ. Đó là khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đưa nước ta thoát khỏi 1000 năm bắc thuộc. Một ngàn năm là quãng thời gian rất dài. Dài đến mức khi nước ta thoát khỏi sự kiểm soát của người Hán phương Bắc thì kể từ đấy lãnh đạo đất nước Tàu luôn coi nước chúng ta là mảnh đất ly khai. Kể từ bấy đến nay, họ đã mang quân toan cướp nước ta khoảng 9 lần. Trong đó đáng kể nhất có thời kỳ bắc thuộc lần IV và người giải phóng đất nước lần đấy là Lê Lợi, đã mở ra một kỷ nguyên lớn cho dân tộc, đất nước. Những lần cướp nước khác, không tính Nguyên Mông, thì trận thua tơi bời của nhà Thanh trước quân Tây Sơn, cũng gây ra biến động lớn cho xã hội  và chỉ hơn 10 năm sau chiến thắng Đống Đa, Việt Nam hiện hình thực sự là một con rồng nhỏ trong khu vực.
Ở thời điểm sơ sinh của nước Việt, sau khi Khúc Thừa Dụ khéo léo đỡ đầu cho rồng ra đời, thì Ngô Quyền chính là vị vua phục quốc đầu tiên. Sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Ngô Quyền không chỉ chính thức tái thành lập nước Âu Lạc mà còn dựng nên hoàng gia đầu tiên, tức là những người lãnh đạo thực sự của đất nước, tức là Nhà Ngô.
Đây cũng là thời kỳ nước Việt thoát khỏi Trung Hoa mạnh mẽ nhất. Nếu như  sự phát triển thần kỳ của Nhật Bảnsuốt 100 năm qua vẫn được coi là do họ Thoát Á Nhập Âu (Thoát Á Luận, rời bỏ văn minh Châu Á, ảnh hưởng mạnh của Trung Hoa, để thu nhập văn minh Châu Âu), thì trong lịch sử Việt Nam chỉ có một lần duy nhất là Ngô Quyền thoát khỏi cái bóng Trung Hoa. Điều kỳ quặc là sau rất nhiều lần biến động lịch sử, mỗi lần đất nước sang trang mới, thì chính quyền Đại Việt/Đại Nam có xu hướng ngả về mô hình Trung Hoa và thần phục (ít nhất là trên mặt ngoại giao) cái nước này. Chỉ có hai lần hiếm hoi có dự định bật lại thiên triều mà bất thành, một là Lý Thường Kiệt, hai là Quang Trung. Cũng có thể tính thêm thời TBT Lê Duẩn.
Con rồng Việt sơ sinh bắt đầu lớn, rất chậm nhưng chắc chắn. Khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, con rồng ấy bắt đầu chuyển mình. Từ thế kỷ 11 (nhà Lý) đến thế kỷ 15 (nhà Lê), nước Việt non trẻ ấy đã trở thành Đại Việt, liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh trong 400 năm để mở rộng bờ cõi gần gấp đôi (từ Thanh Hóa, xuốngphía Nam). Thời nhà Lý bắt đầu mở cõi vào Quảng Trị. Đến thời của ông vua tài năng nhất lịch sử Việt Nam, Lê Thánh Tông, nước Việt đã mở rộng đất đến tận Phú Yên. Lê Thánh Tông không chỉ xây dựng một đất nước có kỷ cương, luật pháp, văn hóa phát triển mà còn cải cách quân đội cực giỏi, đích thân cầm quân đi chinh phạt các vương quốc xung quanh, chiếm đất, mở mang bờ cõi.
Sự liền mạch của các gia tộc lãnh đạo, hay còn gọi là Hoàng Gia, kéo dài liên tục trong quãng thời gian gần 8 thế kỷ , có lúc thịnh lúc suy, nhưng về cơ bản là đất nước phát triển cả về văn hóa, kinh tế và đặc biệt là mở rộng diện tích đất nước.
Sự bội phản của họ Mạc với nhà Lê là biến cố đầu tiên gây ra các biến loạn xã hội lớn lao sau này, có ảnh hưởng sâu đậm đến tận ngày nay. Nhưng cũng qua cơn biến loạn ấy mà con rồng thiếu nhi Đại Việt chuyển mình trở thành con rồng thiếu niên Đại Nam dưới thời vuaMinh Mạng. Sự chuyển mình qua biến loạn ấy, có lẽ cũng sẽ lặp lại trong tương lai gần.
Gia đình họ Trịnh, hiểu rõ giá trị của việc liền mạch của lãnh đạo đất nước, sau khi dẹp nhà Mạc tuy đủ sức lật nhà Lê, họ Trịnh vẫn nép mình đứng sau một bước. Nhờ thế mà Nhà Lê tồn tại thêm cả hai trăm năm mà nhà Trịnh thực chất nắm kinh tế và quân sự điều hành cả nước. Cũng nhờ nấp sau bóng của Nhà Lê mà gia đình Trịnh phần nào đó thoát khỏi thể chế nhà nước phong kiếnTrung Hoa mà các triều đình phong kiến Việt kiên trì nhắm mắt sao chép suốt hàng trăm năm trước đó.
Khi Tây Sơn tiến quân vào Thăng Long, không chỉ dinh thự nguy nga của Trịnh Sâm bị đốt tan hoang, gia tài văn hóa bỗng dưng bị xóa sổ, gia đình Trịnh bị tận diệt mà cả kho kiến thức và kinh nghiệm trị quốc của nhà Trịnh tan thành mây khói. Để lại một xã hội miền bắc thời Mạt Lê thật điêu tàn, một xã hội là bản sao mờ nhạt của Trung Hoa, một bản sao với người dân kém cỏi hơn, xấu xí hơn, cay nghiệt hơn.
Kinh nghiệm trị nước, dựng nước, xây dựng quân đội, kinh thương của nhà Trịnh là sự kế thừa của nhiều trăm năm trước, kể từ thời Ngô Quyền, cộng với trải nghiệm hai trăm năm phò Lê của họ. Kho kinh nghiệm ấy bỗng dưng một ngày biến mất trong tao loạn. Trong những kinh nghiệm trị nước bị mất đi, đáng tiếc nhất là những bài học “thoát khỏi hệ tư tưởng Trung Hoa, tức là Thoát Á”.
Tài năng trị nước, nấp đằng sau bóng hoàng gia Lê, của họ Trịnh cũng không được ai nhìn nhận. Ngay cả ông chúa Trịnh Sâm, người làm tan nát dòng họ của mình, ở những lúc xuất thần vẫn cử tướng cầm quân vào Nam, vô tình gây ra biến cố lớn lao ảnh hưởng sâu sắc đến nước Việt Nam hiện đại sau này.
Một bài học lớn về sự thủ tiêu thế hệ lãnh đạo và di sản của họ, khiến cho kiến thức và kinh nghiệm trị nước và dựng nước bị thất truyền, vậy mà không ai chịu nhìn nhận để sau này lặp lại đến mấy lần. Mới  chỉ  vài chục năm trước đây, vẫn còn lặp lại.
Giai đoạn gia đình họ Trịnh bị tiêu diệt cũng là thời kỳ mà người Việt giết chóc nhau thảm khốc. Quân Tây Sơn tiến vào Thăng Long, kiêu binh Thanh Nghệ của chúa Trịnh bỏ trốn về quê, trên đường về phải giả câm, mở miệng ra nói giọng Thanh Nghệ là bị dân địa phương giết. Sau này đến lượt vua quan nhà Tây Sơn bị quân Nguyễn Ánh quây, rút chạy đến Nông Cống Thanh Hóa, lại bị dân ở đây bắt trói đem nộp. Dấu ấn kỳ thị vùng miền và chà đạp lẫn nhau, dù cùng là người Việt, đã bắt đầu xuất hiện và đi sâu vào gene của người Việt như một thứ gene cừu hận (feud), không ai chịu chữa mà còn làm cho nó nặng thêm.
Di sản trị quốc, dựng nước, di sản văn hóa đỉnh cao … của những người Việt đồng bằng bắc bộ, tích lũy hàng mấy trăm năm, kể từ thời Ngô Quyền đánh trận Bạch Đằng (938) đến thời Trịnh Sâm (1787)  bị xóa sạch trơn bởi cơn cuồng phong nội chiến kéo dài 30 năm mà Tây Sơn là kẻ chiến thắng.
Thế nhưng cái may mắn là nhà Trịnh (Trịnh Kiểm) nổi lên mà nhà Nguyễn (Nguyễn Hoàng con trai của Nguyễn Kim) phải đối kháng đến mức phải bỏ xứ mà đi. Cái phần đất mà suốt mấy trăm năm người Việt chiến đấu để mở rộng, lúc đó mới chỉ đến Phú Yên, là bàn đạp để chúa Nguyễn mở mang bờ cõi vào đến đất Đồng Nai rồi mở qua miền tây đến tận Cà Mau, mở rộng bờ cõi lên gấp ba, so với những năm nước Việt sơ sinh đầu nhà Lý.
Cái may mắn thứ hai  là trước khi suy tàn, Trịnh Sâm cầm quân đánh vào đất Thuận Hóa của Chúa Nguyễn. Làm sụp đổ dòng họ này và làm quân Tây Sơn mạnh lên, hùa với quân Trịnh mà truy sát quân Nguyễn. Nhờ đấy mà đẩy chúa Nguyễn đi qua đất Tiền Giang, Bassac rồi xuống tận Cà Mau.
Nhờ quá trình Nam tiến ấy mà kinh nghiệm mở cõi, trị nước, kinh thương và xây dựng quân đội của người Việt  không bị mất đi. Và còn hơn thế, kiến thức và kinh nghiệm trị nước của các chúa Nguyễn lại được áp dụng trên những vùng đất xưa kia thuộc về các vương quốc chịu ảnh hưởng của Ấn Độ, thay vì Trung Hoa. Đó là Chàm, Khmer. Hay những vùng đất mới chịu ảnh hưởng khai phá của những người Hoa ưu tú, ly khai kháng chiến, phản Thanh phục Minh ở phía cực nam của vùng đất hình chữ S.
Tây Sơn diệt được Trịnh mà không diệt được Nguyễn. Quang Trung đánh thắng mọi kẻ thù cả nội lẫn ngoại xâm. Về cơ bản có công lớn thống nhất bờ cõi. Nhưng lại để xổng một kẻ duy nhất dòng dõi hoàng gia là Nguyễn Ánh. Sau này Nguyễn Ánh quay lại không chỉ diệt nhà Tây Sơn, củng cố lại giang sơn bờ cõi mà còn đem di sản kinh nghiệm lãnh đạo mấy trăm năm để lãnh đạo một nước Việt mới mà ông đặt tên là Việt Nam, lên ngôi lấy tên Gia Long (Gia Định + Thăng Long).
Nguyễn Ánh lên ngôi rồi sau này là Minh Mạng nối ngôi, hai vị vua lừng danh này mang kinh nghiệm dựng nước của cha ông mình vào việc thống nhất hệ thống chính trị và quân đội, kinh tế cho cả ba miền. Đây là một bước tiến lớn so với thời Quang Trung, ba miền cát cứ ba vương, quân đội riêng, ngân sách riêng. Việc quyền lực và nguồn lực, đặc biệt là kinh tế và quân sự thu về một mối khiến cho Việt Nam trở nên hùng mạnh hơn các nước xung quanh (vốn yếu kém hơn hẳn về thể chế/nhà nước, quân sự,  nông nghiệp và ngoại thương). Các khu vực chư hầu phía nam bị bắt sát nhập vào nước Việt Nam (đến thời Minh Mạng đổi thành Đại Nam), các vùng đất tự chủ của người Hoa cũng bị sát nhập. Bờ cõi phía nam mở rộng tối đa về tây nam bộ và kéo dài đến tận biển cực nam của tổ quốc.
Đó là lúc rồng non trở thành thiếu niên.
Đó cũng là thời kỳ Việt Nam có bờ cõi rộng nhất (rộng hơn cả bây giờ)
Đó cũng là thời kỳ Việt Nam được các nước xung quanh kinh sợ nhất. Nhà Thanh, quân Xiêm sợ chết khiếp từ thời Tây Sơn. Miến Điện chỉ chứng kiến vài lần xuất quân của Tây Sơn ở Lào mà còn phát hãi. Vua Khmer (Chân Lạp) và Lào thần phục Việt Nam mà chịu làm chư hầu.
Đại Nam cũng là quốc gia Đông Nam Á đầu tiên mà Mỹ để ý đến và Tổng thống Mỹ cử người mang thư đến đặt quan hệ giao thương.
Có độc lập tự chủ rồi, điều kiện cần để thành con Rồng đã có. Nhưng điều kiện đủ, là phải hòa mình vào thế giới, thì tiếc thay lãnh đạo của Đế quốc Đại Nam ấy đã tự mình để mất.
Các nhà lãnh đạo của con Rồng thiếu niên ấy, đã quá tự tin vào sức mạnh của đất nước mình, quá tự tin vào tài năng và kiến thức lãnh đạo của mình, quá sùng bái mô hình nhà nước phong kiến và thể chế cai trị của nó, đã đóng cánh cửa không cho con rồng thiếu niên tiếp cận với thế giới phương tây. Cơ hội rất lớn để con rồng thiếu niên Việt Nam quẫy mình thành con rồng trưởng thành, đã bị bỏ lỡ một cách cực kỳ đáng tiếc.
Những nhà lãnh đạo ấy là Vua Minh Mạng và các hậu duệ của ông ta.
Minh Mạng là vị vua tài giỏi có nhiều cải cách mạnh mẽ. Ông cải cách hành chính để cai trị, cải cách quân đội, cải cách chế độ làm quan (chấm dứt cha truyền con nối, luân chuyển quan chức). Cải cách giáo dục, thi cử, bổ nhiệm quan chức.
Minh Mạng cũng là người bỏ tên nước Việt Nam và thay bằng Đại Nam (1820). Cái tên Việt Nam biến mất hơn một thế kỷ cho đến năm 1927 mới xuất hiện trở lại nhờ Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông sử dụng tên Việt Nam để đặt tên cho  đảng của mình là Việt Nam Quốc Dân Đảng. Sau khởi nghĩa Yên Bái, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của mình bị Pháp chặt đầu (tháng 6, 1930). Ở pháp trường Nguyễn Thái Học đã hô: Việt Nam Muôn Năm (Việt Nam Vạn Tuế). Kể từ hôm đấy, cái tên Việt Nam tái sinh và trỗi dậy trong lòng dân Việt.
Dưới thời Minh Mạng, tiếng Việt là tiếng bắt buộc, thay thế cho tiếng Hoa và Khmer ở Gia Định (bao gồm cả miền tây). Đây là sự kiện cực kỳ quan trọng bởi kể từ đây, nước Việt Nam rộng lớn, có bờ cõi, có hệ thống lãnh đạo riêng của mình, và sử dụng chỉ một tiếng nói, và là tiếng riêng của mình trên toàn lãnh thổ.
Gần một trăm năm sau khi Minh Mạng cưỡng bức sử dụng tiếng Việt (ngôn ngữ nói) ở Nam Kỳ, tới tận những năm 191x-192x, các nhà hoạt động chính trị phản đế hàng đầu của Việt Nam ở hải ngoại như NAQ, PBC, PCT vẫn còn viết thư (ngôn ngữ viết) cho nhau bằng chữ Hán. Để thấy rằng, để lãnh đạo cao nhất của đất nước có thể nói chuyện với mọi tầng lớp nhân dân, cần một tiếng nói chung, một chữ quốc ngữ đến như thế nào.
Người Việt vốn có nhiều gốc gác từ Mường, Thái, Khmer, Chăm, và Hoa, người Kinh thậm chí còn có nhiều họ gốc Tàu, cho đến thời điểm này ít nhất có hai cái chung: một là tiếng Việt, hai là thần dân nước Việt, một sự bắt đầu của một quốc gia hiện đại với các công dân và lãnh thổ của nó.
Nhân đây, mỗi lần cả nước ồn ào và lãng phí tổ chức Giỗ Tổ, không biết những người Việt gốc Chăm, gốc Khmer nghĩ gì. Họ cũng là công dân của đất nước này, học cũng là người Việt, mà sao lại phải nhớ ngày giỗ ông tổ chưa bao giờ liên quan đến họ. Liệu họ có sẵn sàng phục vụ một quốc gia mà họ là công dân, nhưng lại không đoái hoài gì đến tổ tiên của họ hay không? Nhất là những người Chăm, Khmer rồi Bahnar, Giarai … ấy đang sống trên mảnh đất của của tổ tiên họ hàng ngàn năm trước. Trẻ con người Việt gốc Chăm, hoặc Khmer mà học sách giáo khoa, dạy rằng chúng là con rồng cháu tiên, thì cũng lố bịch chả kém gì người Việt nam thời Pháp thuộc phải học sách giáo khoa viết tổ tiên của họ là người Gauloises.
Trước thời Minh Mạng, việc cấm đạo lúc có lúc không nhưng chưa lúc nào cực đoan. Chúa Trịnh, Chúa Tây Sơn, Chúa Nguyễn đều có lúc ngăn ngừa, lúc ủng hộ, lúc sử dụng các linh mục và thương nhân liên quan đến truyền giáo. Đến thời Minh Mạng là cấm ngặt nhất. Và đó là lúc người đi đạo, bên lương, bên giáo, lao vào chém giết nhau, người với người, làng với làng, để rồi cùng với mối cừu hận vùng miền, người Việt bắt đầu cừu hận nhau cả về khác biệt tư tưởng. Khoảng cách từ giết nhau vì khác tín ngưỡng đến giết nhau vì khác đảng phái, khác lý tưởng chính trị chỉ là một sợi tóc. Và lịch sử đã cho thấy người Việt hãm hại nhau tàn khốc hàng chục năm chỉ vì khác nhau ý thức hệ vay mượn. Những người nói cùng một thứ tiếng, nhiều đời lớn lên cùng một mảnh đất, mà giết nhau vì cừu hận có nguyên nhân sâu xa từ tín ngưỡng hoặc hệ phái chính trị (đều là vay mượn du nhập) thì cách đó một sợi tóc là sự thù hận giữa người Việt ở lại và người Việt ra đi, là người Việt chiến thắng và người Việt thua cuộc.
Thế nên, từ đây thấy rất rõ, là rất cần những lý tưởng, chí hướng không chỉ hấp dẫn để cuốn hút hàng triệu người Việt đi theo, mà lý tưởng ấy phải có gốc rễ và tương lai trên chính mảnh đất này, gắn với dân tộc này. Giống như người Do Thái, có thể có nhiều nhóm người chống hoặc ghét nhau, nhưng cùng phụng sự cho lý tưởng Phục quốc, xây dựng một quốc gia Do Thái cho chính họ là Israel hiện nay.
Thế rồi lịch sử sau này vẫn lặp lại. Khi nhà nước cách mạng nổi lên, Nhà Nguyễn bị xóa bỏ hoàn toàn, không chỉ công lao, mà kiến thức và kinh nghiệm dựng nước của họ, nhất là các bài học thất bại đau xót, cũng bị xóa mất. Văn hóa, kiến trúc của họ cũng bị đập bỏ. Ngay cả di sản văn hóa và kinh nghiệm lãnh đạo của một giai đoạn VNCH ngắn ngủi, vốn có một chút kế thừa của Nhà Nguyễn cũng bị xóa đi y như thế.
Và như đã nói từ đầu, đấy chính là một trong những căn nguyên của tan rã xã hội như ta đang phải chứng kiến.
Quay lại với sự hội nhập với Phương Tây của Minh Mạng. Sự giàu có và mua sắm được vũ khí hiện đại của Trịnh Sâm, là nhờ giao thương ở Phố Hiến. Nhà Nguyễn chậm chân hơn nên yếu hơn. Quân đội Tây Sơn mạnh mẽ, thiện chiến, hiệu quả, là nhờ giao du và nhập khẩu công nghệ từ cảng Quy Nhơn với thương lái Hoa và cướp biển, cũng như vay mượn kinh nghiệm chiến đấu của người Chăm, người Hoa lưu vong. Trịnh và Tây Sơn chập lại, đánh Nguyễn chạy ra biển, chạy cả qua Xiêm. Vị tướng trẻ qua Xiêm rước chúa Nguyễn Ánh trở về, cũng lại là một tay giao thương giỏi, là Châu Văn Tiếp, bạn buôn của Nguyễn Nhạc.
Nguyễn Nhạc, cũng giống như Nguyễn Ánh, đều học toán và thiên văn từ những người truyền giáo Châu Âu mà nhờ đó một người từ lái buôn trầu kiêm quan thuế của chúa Nguyễn mà nổi dậy đánh quân Nguyễn tơi bời. Nguyễn Ánh, kẻ nhiều lần thoát hiểm trong gang tấc, nhờ học hỏi kiến thức Châu Âu, mà lần hồi quay lại giết hết kẻ thù, làm vua cả một nước.
Còn với chúa Nguyễn Ánh, ông không chỉ du nhập công nghệ phương tây mà còn sử dụng người của họ để có kiến thức. Sự hội nhập ấy mang sức mạnh quân sự và kinh tế (không thông qua cướp bóc như Tây Sơn) của Chúa Trịnh rồi đến nhà Nguyễn. Quán tính của nó mạnh đến nỗi khi Minh Mạng quay lưng lại với phương tây, đóng cửa với thế giới bên ngoài, cấm đạo, thì khoa học kỹ thuật của người Việt thời Đế quốc Đại Nam đã đủ sức chế ra rất nhiều kiểu máy móc dùng trong sản xuất và quân sự.
Với vị thế của quốc gia lớn, uy tín quân sự lẫy lừng như vậy, lẽ ra Minh Mạng nên nhìn ra bên ngoài thế giới mà thay đổi cách ngoại giao. Khi quân đội có uy tín, thì ngoại giao dễ chủ động, cái khôn ngoan là nhìn vào mâu thuẫn và đồng thuận giữa các nước, để thu cái lợi về cho quốc gia. Nhưng Minh Mạng vẫn duy trì ngoại giao hình thức là triều cống (với Trung Hoa) và bảo hộ (với láng giềng chư hầu), đồng thời đóng cửa và nghi kỵ phương tây. Chính sách này ngay lập tức gây chiến tranh với Xiêm trên đất Lào và với người Khmer trên đất Chân Lạp, tức là chiến tranh trên vùng đất thuộc quyền bảo hộ của mình. Kết quả là thua và mất đất, mất ảnh hưởng (184x). Bài học lớn về ngoại giao này (quân đội hùng mạnh và khai thác mâu thuẫn hoặc đồng thuận giữa các quốc gia khác) rất tiếc sau này lại bị thất truyền, kinh nghiệm đau thương không được truyền lại cho đời sau, để rồi hơn 100 năm sau (197x, 198x) lịch sử đau thương lặp lại dẫn đến sự suy yếu cả kinh tế, quân sự và vị thế ngoại yếu kém so với kẻ thù trực diện là những gì hiện tại chúng ta bắt đầu phải chịu đựng.
Sau khi Minh Mạng qua đời, con rồng thiếu niên Việt Nam ngay lập tức suy yếu. Quân Chân Lạp đánh quân Nguyễn chạy về An Giang, và biên giới lãnh thổ có lại về đúng chỗ đấy  đến ngày nay. Tương tự như vậy, quân Xiêm đánh quân Việt ở Lào, cũng phải bỏ đất mà chạy về.(Sau này một phần đất của Đại Nam, là Hoàng Sa, cũng bị chiếm mất).
Khúc quanh lịch sử này là một bài học cực lớn về để lỡ cơ hội. Nước Việt đã ngấp nghé ở ngưỡng để con Rồng chuyển từ thiếu niên qua rồng trưởng thành, thì chính sách đóng cửa đã làm lụn bại con rồng ấy. Điều kiện cần là độc lập, thống nhất bờ cõi, có tiếng nói chung, cơ chế hành chính giáo dục chung, tất cả những cái ấy Đại Nam/Việt Nam thời đầu nhà Nguyễn đều có. Nhưng họ thiếu hẳn đi điều kiện đủ, đó là mở cửa hội nhập, tiếp cận những nền văn minh có giá trị luân lý sâu sắc hơn, đạo đức và lối sống nhân văn hơn, tư tưởng sáng suốt hơn; tiếp cận các đất nước có thể chế chính trị tốt hơn, vận hành kinh tế xã hội hiệu quả hơn, giàu sáng tạo hơn.
Và thế là con Rồng thiếu niên bị đập cụt móng vẫn tiếp tục ở yên trong vũng nước.
Rất may là các nước lân bang, từ Trung Hoa, đến Miến Điện, Thailand, cũng rơi vào hoàn cảnh giống Việt Nam, tức là đóng cửa hoàn toàn, hoặc mở cửa lừng chừng, độc lập nửa vời, … và do đó cũng không hóa rồng được như Nhật Bản. Còn rất không may là chính các nước ấy, giật mình tỉnh ngộ trước Việt, và đã bỏ xa Việt Nam rất xa. Họ có thể đã tiệm cận với thế giới của Rồng, trong khi Việt Nam vẫn còn nghi hoặc với câu hỏi lên Rồng hay chịu đời giun dế.
Nhật bản xuất Á nhập Âu sau một thời gian dài đã trở thành cường quốc quân sự, tham gia vào phe phát xít để đánh nhau với cả thế giới. Thế nhưng chỉ ngay sau khi gây chiến, phương tây đóng cửa với Nhật, lập tức Nhật bị tụt hậu về công nghệ quân sự và thua cuộc chiến. Sau chiến tranh, Mỹ lại mở cửa cho Nhật, và họ lại phải triển lên trình độ cao như chúng ta đã thấy.
Quan trọng hơn, sự hội nhập về phía phương tây của người Nhật không làm mất đi bản sắc của họ, thậm chí còn ngược lại, bản sắc của người Nhật còn quá đặc sắc so với phần còn lại của thế giới. Thể chế kỳ quặc của họ vẫn có cái văn minh đón nhận từ nền tảng chính trị và thể chế Châu Âu, lại vẫn có một ông vua làm lãnh đạo tinh thần cho cả nước.
Trong khi đó Việt Nam, trải qua bao nhiêu thời kỳ, từ Minh Mạng, đến VNDCHH ở Miền Bắc và VNCH ở Miền Nam, và đến tận ngày nay, đều e dè với sự mở cửa hội nhập. Một trong những lý do e sợ hội nhập là một lý do rất đần độn là để bảo vệ và giữ gìn bản sắc dân tộc. Nhưng ngay cả khi hỏi một người hăng hái bảo vệ bản sắc dân tộc nhất, rằng bản sắc của Việt Nam là gì, thì câu trả lời nếu có cũng sẽ hết sức ngớ ngẩn. Vì chắc chắn không ai biết bản sắc Việt nam là gì hết.
Chỉ khi nào hội nhập toàn diện và sâu sắc với thế giới bên ngoài, va chạm cọ sát với các xã hội có các nền văn minh khác hẳn chúng ta, thì lúc đấy chúng ta mới nhìn thấy được bản sắc của chính mình. Không hội nhập đủ rộng và đủ sâu với thế giới, thì không thể nào tự nhìn thấy bản sắc thật nhất, rõ nhất của mình được. Và chỉ khi hội nhập đầy đủ, chúng ta mới thấy được bản sắc của mình để mà bảo tồn và phát triển, nếu như thực sự chúng ta có cái gọi là bản sắc.
Bản sắc nếu có ấy, chắc chắn sẽ rất đa màu. Nó sẽ có văn hóa của người Việt châu thổ sông hồng, bị ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Hoa nhưng chỉ là bản sao xấu xí. Nó sẽ có thể có tinh thần kiên cường của người Việt miền trung, vốn là dân biên cương khốc liệt có giao thoa với văn hóa chiến tranh của các vương quốc bị ảnh hưởng của Ấn Độ ở phía Nam trung bộ ngày nay. Nó cũng sẽ có văn hóa rụt rè, bi ai mất nước nhưng cứng cáp và sâu sắc ở bên trong của người Việt nam tiến và người Việt gốc Chăm sinh ra và lớn lên trên vùng đất của vương quốc văn minh và hưng thịnh Chăm Pa. Nó cũng sẽ có văn hóa hồn nhiên và bao dung của người Việt gốc Khmer Chân Lạp, và cả người Hoa bỏ xứ.
Chính vì thế, rất cần có những lý tưởng có gốc rễ từ dân tộc Việt đa màu, những chí hướng xây dựng đất nước mà thực chất mới chỉ hoàn thiện bờ cõi hơn 200 năm (kể từ 1802 khi Gia Long lên ngôi) và ngôn ngữ chung là tiếng Việt được sử dụng chính thức và bắt buộc trên cả nước còn có thời gian ngắn hơn nữa, chỉ khoảng 180 năm. Để dễ so sánh về thời gian, hãng bia Heineken có tuổi đời đến năm nay là 140 năm. Tức là phải có những lý tưởng và chí hướng xây dựng một quốc gia Việt Nam phồn thịnh, không phân biệt gốc gác về chủng tộc, tôn giáo và văn hóa của công dân, miễn là nói cùng thứ tiếng và sống trong cùng lãnh thổ quốc gia.
Quay lại với hội nhập. Trong quá khứ, các bậc tiền bối  cũng đã cố gắng hội nhập với thế giới, không chỉ Trung Hoa, mà còn với văn minh Phương Tây nữa. Thế nhưng việc hội nhập và phương tây hóa thẳng với nước Pháp, lúc đó đang là mẫu quốc của thuộc địa An Nam, đã thất bại. Người dân của một dân tộc nô lệ thì việc hội nhập và phương tây hóa đến đâu, cũng vẫn là hội nhập và văn minh hóa nô dịch. Nó là sự văn minh hóa cưỡng bức, để làm lợi cho giới chủ thực dân, là những người làm chủ và khai thác bóc lột, chứ không phải là sự hội nhập, phương tây hóa chủ động của một dân tộc được lãnh đạo bởi những cá nhân ưu tú của chính dân tộc mình. Ngay cả một con rồng thực sự mà bị huấn luyện và dẫn dắt, cũng sẽ không còn là con rồng nữa. Nó là con thú nuôi.
Cũng có những bậc tiền bối khác đã chủ động thoát khỏi sự dẫn dắt của người Pháp thực dân, tự mày mò qua Nhật để hội nhập và tiến hành phương tây hóa qua cánh cửa Nhật Bản. Thực dân Pháp ngay lập tức nhìn ra sự nguy hiểm trong phong trào Đông Du. Họ thấy người Việt đang tạo ra điều kiện đủ (hội nhập với văn minh thế giới) khi chưa có điều kiện cần (độc lập). Nên phong trào bị dập tắt. Mặc dù bị dập tắt như vậy, nó vẫn đưa ra được một thể chế có thể nói là cực kỳ lý tưởng vào lúc đó, thể chế quân chủ lập hiến của ông hoàng Cường Để và các chí sỹ như Phan Bội Châu. Thể chế này là sao chép thể chế của nước Nhật.
Mặc dù phong trào của ông hoàng Cường Để toi từ trong trứng, nhưng một người tham gia hoạt động bí mật của phong trào này là Ngô Đình Diệm đã thấu hiểu tinh thần phương tây hóa. Mặc dù là một ông quan đại thần của nhà Nguyễn, gia đình nho hóa cao độ và sâu sắc, nhưng khi lên cầm quyền chính Ngô Đình Diệm là người xây dựng thể chế cộng hòa y như phương tây ở Việt Nam. Đây là một ví dụ vừa hay vừa rõ ràng về cái lợi ích lớn lao mà phương tây hóa sâu sắc sẽ mang đến cho quốc gia. Thể chế do Ngô Đình Diệm xây dựng  tồn tại rất ngắn, chỉ cỡ 20 năm, lại bị bao vây bởi chiến tranh khốc liệt, nhưng những giá trị mà nó tạo ra, còn tồn tại, thậm chí tỏa sáng đến tận bây giờ.
Một người khác, không hoạt động trong phong trào Cường Để, nhưng có giao lưu với các phái viên của ông hoàng này ở London, những năm 191x, khi nhóm của Cường Để bị đánh bật khỏi Nhật. Đó chính người sau này rời London qua Pháp cuối những năm 191x, sống chung với Phan Chu Trinh và Phan Văn Trường. Những năm tháng ở Pháp rèn luyện cho người thanh niên này kỹ năng ngoại giao, kỹ năng dựng phong trào, kỹ năng đấu tranh. Nhưng bản hiến pháp 1946 do ông dựng nên sau khi cách mạng thành công, phải bắt nguồn sâu sắc từ thời gian ông ở London cùng những phái viên gốc Nam Kỳ của Cường Để.
Ở thời Pháp thuộc, mặc dù bị hội nhập và phương tây hóa cưỡng bức, nhưng thời kỳ Pháp thuộc vẫn có những đúc kết kiến thức và kinh nghiệm trị nước, là do thực dân Pháp học hỏi từ nhà Nguyễn, biến kiến thức của nhà Nguyễn thành của mình, và cai trị thành công nước Việt Nam thuộc địa suốt một trăm năm.
Kinh nghiệm quản lý đất nước Việt của người Pháp, lẽ ra cũng không được để gián đoạn và mai một, mà phải chủ động nhận lấy để dùng, thì cả chính phủ của cụ Hồ miền bắc và ông Diệm miền nam đều cổ vũ “đả thực phản phong”, khiến cho kiến thức và kinh nghiệm trị nước của nhà Nguyễn và thực dân Pháp gián đoạn và mất hẳn ở miền Bắc, và chỉ còn xôi đỗ ở miền Nam nhờ ông Diệm, Nhu và các tướng lĩnh và công chức cao cấp do Pháp đào tạo.
Tầng lớp duy nhất tồn tại không hề gián đoạn giữa các thế hệ trong suốt thời kỳ này chính là doanh nhân. Khi Minh Mạng lên ngôi, do lại học hỏi mô hình phong kiến Trung Hoa, thương nhân lại bị đẩy xuống tầng lớp dưới (chính sách ức thương). Bị đẩy xuống nhưng không bị tiêu diệt. Tầng lớp này tồn tại qua thời pháp thuộc, qua cả thời kháng chiến, để rồi bị triệt tiêu ở miền bắc từ 196x đến 198x và bị triệt tiêu ở miền nam từ nửa sau 197x đến cuối 198x.
Sự gián đoạn của các thế hệ doanh nhân, mặc dù rất ngắn ngủi, gần 40 năm ở miền bắc và gần 20 năm ở miền Nam, đã làm đứt đoạn chuyển giao kiến thức, vốn liếng, kinh nghiệm và kỹ năng quản trị nặng nề đến mức doanh nhân Việt Nam tụt hậu với khu vực láng giềng, chứ chưa nói đến so với thế giới, cả thế kỷ.
Kinh doanh và quản trị doanh nghiệp, một lĩnh vực không quá khó học và không quá thiếu kiến thức quốc tế để học, thế mà chỉ gián đoạn vài thập kỷ thôi, là doanh nhân đã tụt hậu và nghèo đi bao nhiêu. Lãnh đạo đất nước khó hơn nhiều, mà bị gián đoạn, thì hậu quả còn tệ đến ra sao, tự ta có thể ước chừng được.
Lại quay lại với chuyện hội nhập. Nước Trung Hoa cũng bỏ lỡ các cơ hội mở cửa để hội nhập và phương tây hóa. Đấy là lí do phương tây, sau này là Nhật xâm chiếm Trung Hoa. Khi nước này được giải phóng, độc lập, chính quyền cách mạng của Mao tiếp tục đóng cửa. Cho đến năm 1978 thì họ mở cửa ra, trước Việt Nam chúng ta. Ngay lập tức, các vùng duyên hải của Trung Quốc được tiếp cận rộng và cởi mở hết sức với Phương Tây (bao gồm cả du nhập các thể chế tự do) đồng thời cũng được phương tây ưu ái hỗ trợ để nhanh hội nhập. Chỉ trong vòng hơn ba mươi năm, khu vực duyên hải của Trung Quốc đã biến Trung Quốc thành một nước mới, phát triển, phồn thịnh, bất chấp sự nghèo nàn lạc hậu vẫn còn lan tràn trong lục địa.
Nhưng khác với Nhật Bản, Trung Quốc hội nhập chỉ rộng chứ chưa đủ sâu, cho nên Trung Quốc vẫn chưa đến đẳng cấp thật sự của rồng, là đóng góp được cho văn minh nhân loại. Tức là chưa ở đẳng cấp được chia của cải, mới chỉ húp canh thừa, mà đã giàu như thế.
Trong gian đoạn toàn cầu hóa mạnh mẽ vừa qua, và cả trong đối đầu với Trung Quốc trước mắt, Việt Nam vừa đi chậm hơn Trung Quốc và các nước trong khu vực vài bước, lại không chuẩn bị cho mình một sự giai đoạn chuyển tiếp, có tính chất cải cách mạnh, từ thể chế đến giáo dục, để gia tăng sản lượng của đất nước, tích lũy của cải quốc gia, củng cố quân đội, tăng cường hoạt động ngoại giao khai thác mâu thuẫn/đồng thuận của các nước trên thế giới nhằm kiếm thêm lợi về cho đất nước.
Rất may, biết đâu, là Trung Quốc giàu xổi rất nhanh và tinh thần hắc ám phát xít Đại Hán còn phát triển nhanh hơn. Cho nên các nước phương tây sớm hay muộn cũng đóng cửa lại với Trung Quốc. Khi bị đóng cửa, hạn chế hội nhập, chỉ trong thời gian ngắn, chắc chưa đến 10 năm, Trung Quốc sẽ tụt hậu.
Nước Việt Nam, sau 200 năm mới có một cơ hội lớn.
Hai trăm năm ấy thật dữ dội và đau thương.  Hai trăm năm vận mệnh của con rồng ấy nằm trong tay những chiến binh. Quãng thời gian hai thế kỷ:  ở giữa là trăm năm vận mệnh trong tay những sĩ quan Pháp, ở hai đầu là hai cuộc nội chiến khốc liệt kéo dài hàng chục năm. Cả hai cuộc chiến đều kết thúc bằng người thắng thống nhất đất nước và chi chít các cuộc báo thù.
Nguy cơ tụt hậu của nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc có thể là cơ hội rất lớn để thúc đẩy con rồng thiếu niên Việt Nam ngủ quên vì mất vận mệnh suốt 200 năm.
Nhưng trước hết, vẫn phải đặt các câu hỏi cốt lõi, và trả lời các câu hỏi ấy.
***
Đ/c 5xu
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Long Nhượng Tướng Quân


Nguyễn Đức Thành có lần trả lời câu hỏi ‘Ai là nhà vua lập quốc, Nguyễn Ánh hay Nguyễn Huệ” như sau: Nguyễn Huệ có công san lấp mặt bằng, Nguyễn Ánh lập quốc.
Quả thực, đế quốc Đại Nam của Minh Mạng, mọc lên từ nước Việt Nam của Gia Long Nguyễn Ánh. Nước Việt Nam của Nguyễn Ánh được xây trên hoang tàn của ba mươi năm nội chiến. Một hoang tàn đổ nát tận gốc rễ xã hội mà di sản tồi tệ của nó còn tồn tại đến tận ngày nay. Bù lại, 30 năm nội chiến ấy đã thống nhất đất nước cả về địa lý: cao nguyên, đàng trong, đàng ngoài; cả về thể chế chính trị: cho vua Lê – chúa Trịnh ở Đàng Ngoài  và chúa Nguyễn ở Đàng Trong vào sọt rác. Xóa bài làm lại từ đầu.
Công cuộc san lấp mặt bằng cấp quốc gia của Nguyễn Huệ bắt đầu khi ông 24 tuổi (1777), cùng Nguyễn Lữ cầm quân chinh phạt Gia Định, giết chúa Nguyễn lúc đó là Nguyễn Phúc Thuần; và rồi kết thúc năm khi ông 36 tuổi (1789) bằng chiến dịch nay được gọi là chiến dịch Việt – Thanh, đánh trong vòng 5 ngày sạch bách liên quân nhà Lê (Chiêu Thống) và nhà Thanh (Càn Long – Tôn Sĩ Nghị). Danh tướng Hứa Thế Hanh của Càn Long bị đập phát vỡ tan ở chuỗi phòng ngự Hạ Hồi – Ngọc Hồi. Hậu duệ của ông tướng này là Hứa Thế Hữu sau cũng vâng lời Đặng Tiểu Bình qua Việt Nam đánh nhau thua nhưng về nước vẫn được báo công (cách đây mấy năm báo Hà Nội Mới có bài ca ngợi Hứa Thế Hữu hết lời).
Là thiên tài quân sự, Nguyễn Huệ có nhiều cái để đời sau ngưỡng mộ. Cá nhân tôi thích nhất Nguyễn Huệ ở tài luyện binh và đốc binh. Nguyễn Huệ luyện binh giỏi đến nỗi pháo binh (hạng nhẹ) của Tây Sơn bắn chính xác hơn bộ binh dùng súng trường (lúc đó Tây Sơn đã mua súng trường châu Âu). Quân chủ lực của Tây Sơn (thân binh) không chỉ bắn pháo, bắn súng trường, bắn hỏa hổ (một loại hỏa tiễn cầm tay rất hiện đại hồi đó dùng để bắn tàu trên sông nước, đặc sản của Tây Sơn, sau được chế lại để đánh trên bộ ở cự ly gần), mà còn cực kỳ kỷ luật. Kỷ luật thép. Đã vào trận chỉ có tiến, quay đầu lại là bị xử chém. Bản thân Nguyễn Huệ cũng bắn pháo rất giỏi và luôn cưỡi voi đi ở tuyến đầu. Trong trận Ngọc Hồi, lính Tây Sơn thấy vua cưỡi voi an toàn, nên tấn công nhụt chí (quân Thanh hồi đó rất giỏi địa lôi trong phòng ngự), Nguyễn Huệ bỏ voi xuống dùng ngựa, cổ quấn khăn vàng, bỏ pháo mà dùng song kiếm chém giết quân địch. Giải phóng thủ đô áo bào khét thuốc súng. Tướng lĩnh sau này may ra có Lê Trọng Tấn được một chút như vậy.
Chiến dịch Việt – Thanh còn thể hiện một tài năng tầm cỡ Hannibal của Nguyễn Huệ, vốn đã thể hiện một lần thoáng qua trong chiến dịch Rạch Gầm Xoài Mút đánh liên quân Xiêm, Lào, Khmer và Nguyễn (Ánh): đánh vận động chiến. Ngoài mũi chủ lực đánh thẳng vào tuyến phòng ngự của Hứa Thế Hanh từ Phú Xuyên về đến Thăng Long, thì các mũi vu hồi, đặc biệt là thủy quân, đã làm tan nát trận địa phòng ngự ở đồng bằng sông Hồng của Tôn Sĩ Nghị (bao gồm cả quân đội của Lê Chiêu Thống) chỉ trong mấy ngày Tết.
Chiến dịch Định Tường aka Rạch Gầm Xoài Mút còn thể hiện tài năng của Nguyễn Huệ ở ba lĩnh vực: quân báo, lính thông tin và chiến tranh tâm lý. Nhờ quân báo mà Nguyễn Huệ nắm được hết thông tin quân sự của liên quân Xiêm Nguyễn Khmer và Hạ Lào. Các ngả tiến quân của liên quân này  qua đường sông (vào Gia Định) và đường bộ (nhằm đánh thẳng vào An Khê thủ phủ Tây Sơn rồi kéo xuống Nam Trung Bộ) với âm mưu chiếm toàn bộ Đàng Trong đã bị Nguyễn Huệ bắt bài.
Ở đây cần nhắc đến tư duy kiến quốc của một nhân vật bị lịch sử coi nhẹ là Nguyễn Nhạc. An Khê hồi đó, và cả bây giờ, có vị chí địa lý rất chiến lược, kết nối Hạ Lào, Tây Nguyên, và duyên hải Nam Trung Bộ. Khống chế được An Khê là khống chế được một nửa Đông Dương bằng quân đội. Nguyễn Nhạc luôn có tư duy lập một quốc gia gồm Đàng Trong, Hạ Lào, và vùng đất Cambodia ngày nay (lúc đó đang chịu ảnh hưởng của Xiêm). Sau trận Rạch Gầm, quân Xiêm hãi đến mức bỏ lơi cả vùng Cambodia, nêntự nhiên dân Khmer độc lập được mấy năm sau đó. Nhưng tham vọng của Nguyễn Huệ lớn hơn Nguyễn Nhạc, sinh lục đục, nên Nguyễn Huệ bắc tiến, để lại miền trong cho ông anh, kết cuộc Nguyễn Nhạc lỡ cơ hội lập quốc của mình.
Với tư duy như vậy, nên con rể của Nguyễn Nhạc là Trương Văn Đa nắm toàn bộ quân do thám của Tây Sơn thả đi khắp các miền từ Xiêm đến Hạ Lào, từ Gia Định đến Hà Tiên. Mọi thông tin từ liên quân Xiêm và Nguyễn Ánh đều được báo về cho Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ. Khi lâm trận, chính quân của Trương Văn Đa bắn chết Châu Văn Tiếp là siêu nhân (gốc thương lái Hoa Kiều) của Nguyễn Ánh. Tiếp là người lặn lội qua Vọng Các đón Nguyễn Ánh trở về.
Trận Rạch Gầm Xoài Mút và Trận Ngọc Hồi Đống Đa đều đánh ban đêm. Trận Rạch Gầm rất phức tạp vì Tây Sơn dùng cả bộ binh và thủy binh để đánh thủy quân Xiêm Nguyễn. Không những thế còn đánh xen kẽ (đánh vào giữa hai đoàn thuyền của Nguyễn và của Xiêm). Thế mà bắn hỏa hổ (hỏa tiễn cầm tay) như điên trong đêm mà địch chết ta không làm sao. Ấy là nhờ lính thông tin của Tây Sơn dùng trống hiệu để liên lạc với nhau, chỉ huy đánh chỗ nọ phối hợp chỗ kia. Chính vì lý do trống hiệu của Tây Sơn quan trọng như vậy khi quân Tây Sơn chiếm đóng Thăng Long, đã cấm dân không được đánh trống, từ lễ hội đến ma chay đều bị cấm đánh trống.
Trống trận Tây Sơn đã thất truyền. Công thức chế đạn hỏa hổ cũng thất truyền. Nghệ thuật chiến tranh đỉnh cao của Nguyễn Huệ chắc cũng thất truyền. Kể từ đó ta toàn đánh du kích hehehehehe.
Cứ mỗi độ xuân về, người ta lại kỷ niệm chiến thắng Đống Đa, rồi …hết Tết.
Cũng không ai chịu nhớ là đô đốc Đặng Tiến Đông chưa chắc đã tên là Đông mà tên là Giản. Và quan trọng hơn, ông này chưa bao giờ đánh trận Đống Đa. Người đánh Đống Đa tên là Long. Nhưng chưa biết là Long nào (Đặng Văn Long, Lê Văn Long, Nguyễn Tăng Long). Nhưng dù là Long nào, cũng chỉ là một tiểu tướng của thiên tài Nguyễn Huệ.
Bgl 5xu
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chớ vội mừng


Duy Phương 

ĐĐK - Thị trường bất động sản đã tan băng và đang dần hồi phục, điều này là thực tế và sự hồi phục ấy được thể hiện rõ rệt qua những con số được nhà quản lý lẫn một số chuyên gia lĩnh vực đưa ra. Tuy nhiên, kinh nghiệm và những bài học chưa cũ cho thấy, rất cần sự bình tĩnh hay nói cách khác là chớ vội mừng!

Chỉ tính riêng trong tháng 2 năm nay, thị trường bất động sản (BĐS) có tới hơn 1.100 giao dịch thành công, con số này tăng gấp hơn 3 lần so với cùng kỳ năm 2014. Riêng tại thị trường Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, giao dịch BĐS các tháng đầu năm 2015 đều tăng ở mức bứt phá, khi lượng giao dịch đều lớn hơn gấp đôi, thậm chí gấp 3 lần so với các tháng đầu năm 2014. 

Thứ trưởng Bộ Xây dựng Nguyễn Trần Nam đã nhận định: Năm 2014 và những tháng đầu năm 2015, thị trường BĐS đã có sự hồi phục rõ ràng chứ không còn là tín hiệu nữa. Sự hồi phục thể hiện ở nhiều mặt: Giá bán đã ổn định, lượng giao dịch tăng mạnh, dòng tiền chảy vào lĩnh vực này cũng đã nóng trở lại, nhiều ngân hàng đã mạnh dạn đổ vốn vào đầu tư BĐS…

Nhìn lại quá khứ, ít ai có thể nghĩ thị trường BĐS lại có sự hồi phục ấn tượng như ngày hôm nay. Trong suốt một thời gian dài, từ năm 2009 đến hết năm 2013, thị trường bị coi là "đông cứng” với khối lượng tồn kho nhà ở khổng lồ. Hàng loạt chủ đầu tư rơi vào cảnh trắng tay, phá sản… vì giao dịch đóng băng. Vậy nhưng, diễn biến trên thị trường những tháng gần đây có thể nói là giai đoạn rất đáng nhớ đối với thị trường này. Nó đặt đấu chấm hết cho một giai đoạn và mở ra một thời kỳ mới cho thị trường bất động sản Việt Nam- thời kỳ phục hồi và tăng trưởng tốt hơn.

Không chỉ phục hồi một cách khá ngoạn mục, thị trường BĐS còn đang đón nhận hàng loạt các yếu tố liên quan đến chính sách, mà theo như nhận định của giới chuyên gia, sẽ là tiền đề giúp cho thị trường có thể phát triển một cách bền vững. Một trong số đó phải kể đến Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi với những điểm mới trong quy định về kinh doanh bất động sản, về mở rộng đối tượng kinh doanh bất động sản hay đổi mới hình thức mua bán nhà ở hình thành trong tương lai… Nói như GS.TS Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên - Môi trường, những điểm đổi mới này trong Luật Kinh doanh BĐS sửa đổi sẽ khiến cho thị trường trong thời gian tới trở nên chuyên nghiệp hơn, thông tin về thị trường, về dự án và thông tin về nhà đầu tư sẽ minh bạch hơn… Đó là những cơ sở tạo điều kiện rất tốt cho việc tái cấu trúc thị trường BĐS.

Bên cạnh đó, theo ông Võ, Luật Đất đai cũng sẽ tạo điều kiện cho việc rà soát lại các dự án đầu tư nhà ở để giải quyết những bất cập giữa cung và cầu trong thời gian vừa qua, thuận lợi hơn trong việc phân loại, giải quyết cho kho bất động sản tồn đọng. Ngoài ra, Luật mới cũng khuyến khích đầu tư FDI vào thị trường bất động sản, một mặt giải quyết một phần kho bất động sản tồn đọng, mặt khác phát triển thị trường BĐS đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường, khắc phục tình trạng cầu ảo.

Không ít chuyên gia còn bày tỏ sự lạc quan khi cho rằng, 2015 sẽ là một năm phát triển đầy hứng khởi của BĐS với nhiều chính sách mới được kỳ vọng. Bên cạnh đó, khi nguồn cung trên thị trường đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng thì chắc chắn sẽ không còn xảy ra tình trạng ứ đọng hàng hóa như đã từng diễn ra trước đây. Minh chứng rõ ràng nhất thể hiện ở việc, hàng loạt các dự án nhà ở phân khúc giá trung bình, giá thấp ra đến đâu, hết đến đó, các nhà đầu tư gần như "không kịp trở tay”. 

Không thể phủ nhận những diễn biến tích cực trên thị trường BĐS, tuy nhiên, tất cả mọi thứ đều có tính hai mặt của nó. Mặc dù đưa ra khẳng định, thị trường này sẽ khó có thể rơi vào tình trạng sốt giá ảo như thời kỳ năm 2007 - 2008, song các chuyên gia trong ngành đều không chắc chắn một cách tuyệt đối. Bởi vậy, lời khuyên của giới chuyên gia là: Dù thị trường đã hồi phục và có nhiều điều kiện để tăng trưởng, song chưa thể vội mừng (!). Bởi, trong bất kỳ môi trường kinh doanh nào cũng vậy, vẫn luôn ẩn chứa những yếu tố rủi ro, đối với lĩnh vực bất động sản lại càng không phải là ngoại lệ. 

Chính bởi vậy, lời khuyên cần thiết nhất cho các nhà đầu tư và cả người mua nhà hiện nay có lẽ vẫn là hai chữ: Thận trọng! 

Tuy nhiên, việc lựa chọn kênh đầu tư BĐS dường như vẫn là kênh được ưu tiên trong năm 2015 này, bởi theo nhận định của TS Nguyễn Trí Hiếu, một chuyên gia có thâm niên hoạt động trong ngành tài chính ở Mỹ, sự phục hồi của thị trường này đang đem đến nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư. Song, một điều mà những nhà đầu tư khi tham gia thị trường này cần phải lưu ý, đó là thị trường BĐS Việt Nam luôn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi yếu tố tâm lý. Vì vậy, không nên quá kỳ vọng vào mức lợi nhuận cao hay một kế hoạch dài hạn lạc quan mà nên ưu tiên nhất cho sự an toàn. Đã qua rồi thời kỳ sốt giá! Lợi nhuận kếch xù thu được từ BĐS là điều khó có thể tái diễn. Bong bóng đã nổ! Do đó, các nhà đầu cơ có thể tham gia vào thị trường nhưng nên sử dụng vốn tự có, vốn dài hạn là cơ bản, hạn chế thấp nhất việc vay vốn ngân hàng để dồn vào đầu tư cho lĩnh vực này. Bài học đắng cay của hàng loạt các nhà đầu cơ phá sản vì "ôm nợ ngân hàng” đầu tư BĐS vẫn còn chưa hết nóng…


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Kiểu người nào thường gặp may mắn và có tài vận tốt?

 

nhan biet nguoi thuong gap may man va co tai van tot
Ảnh mang tính minh họa - Nguồn: Internet

Tại sao cửa hàng giống nhau, việc buôn bán của người này vì sao lại tốt hơn người khác? Công việc giống nhau, sao lương người đó lại nhiều hơn người khác nhỉ? Thị trường chứng khoán sa sút, người khác thì thua lỗ, anh ta vẫn luôn có lời? Xổ số xác suất trúng thưởng thấp như vậy, cô ấy lại trúng nhiều lần? Thực tế, để nhận biết người thường gặp may mắn và có tài vận tốt do vài đặc điểm dễ nhận diện. 

Dù những thắc mắc này xuất phát từ sự hâm mộ, ghen tị, oán hận, hay một loại cảm xúc nào khác, thì cũng nói ra một sự thật không thể chối cãi: Có một số người tài vận thật là tốt! 
Có lẽ có người sẽ nói, đó là do người ta có mệnh tốt, gặp may mắn. Thực tế thì sao? Mệnh tốt tất nhiên là một nguyên nhân chủ yếu, nhưng nếu bạn dụng tâm lưu ý, thì những đặc điểm sau giúp bạn nhận biết người thường gặp may mắn và có tài vận tốt:
1. Khuôn mặt luôn tươi cười tiếp đón người khác
Tục ngữ nói “Không ra tay đánh người đang cười”, nụ cười chân thành ấp ám, có thể nói là vô địch thiên hạ. Người luôn tươi cười tiếp đón người khác, chỉ cần yêu cầu của người đó không quá đáng, dường như đều không bị từ chối. Người như vậy, việc buôn bán kinh doanh, tự nhiên so với người luôn có vẻ mặt lạnh lùng, thì tiền lời nhiều hơn rất nhiều.
2. Người hay nói lời nhẹ nhàng
“Hòa khí sinh tài”, những lời này không chỉ áp dụng ở những người làm ăn, mà dường như áp dụng tại những lĩnh vực khác. Suy bụng ta ra bụng người, đặt mình vào hoàn cảnh người khác để suy nghĩ một chút:
Với tư cách là một thành viên nơi công tác, bạn thích cùng làm với cấp trên hòa ái, vui vẻ, hay sẽ thích người nói nhanh, vẻ mặt nghiêm nghị, ngôn từ thô lỗ đây?
Với vị trí là cấp trên, bạn sẵn lòng thưởng tiền cho loại người nào?
Lúc thần tài đến gõ cửa, nếu nghe thấy lời thô lỗ quát lớn, còn có thể cố chấp xông vào hay sao?
3. Người “Đại đỗ năng dung” (Người có tấm lòng khoan dung độ lượng)
“Đại đỗ năng dung” có hai tầng hàm nghĩa: Một là người có ngoại hình mập mạp, bụng bự; hai là chỉ người có tấm lòng quảng đại, có thể bao dung người khác, dễ dàng tha thứ rất nhiều việc khó chịu, bất bình.
Trong đời thực cũng không thiếu người như vậy, lúc nghèo khó thì không làm sao, khi có tiền thì ngược lại trở nên mất hết phúc, bệnh tật, tai nạn, không chắc còn có những chuyện xấu nào đang chờ nữa ….
Có thể khoan dung đại lượng, tâm tính bình thản, sẵn lòng giúp người, thì càng có thể tiếp nhận, dung nạp phúc khí từ thần tài.
4. Người có lòng mong tiền tài
Bởi cái gọi là “Cầu nhân đắc nhân”, thần tài chiếu cố ai, cũng phải là người sẵn lòng tiếp nhận chiếu cố mới được; người mà dẫu cho trên bầu trời có nhiều bao tiền, cũng lười xoay người nhặt lấy, thì thần tài cũng sẽ mặc kệ.
5. Người tính toán tỉ mỉ
Thường có người phàn nàn ông chủ thật keo kiệt, thật không biết đó cũng là một trong những tính cách khiến ông ta trở thành ông chủ. Đúng là kiên trì tính toán tỉ mỉ trước sau như một, mới có thể khiến người này càng tích lũy tiền tài nhiều hơn so với người khác.
Gây dựng sự nghiệp khó, giữ gìn nó càng khó. Rất nhiều người giàu thành công, bởi vì bản thân họ đã trải qua quá trình tích lũy tiền tài, biết rõ đạo lý có được tiền là không dễ dàng. Nghĩa là dù đã có được rất nhiều tiền, cũng vẫn sẽ tính toán tỉ mỉ, sẽ không lãng phí xa hoa, tiền lại càng nhiều hơn, được người khác xưng là “thần tài”.
Vận mệnh vốn đã được định trước, chúng ta không thể nào sửa đổi; sao chúng ta không thử cải biến hành vi cử chỉ, để nhận được sự chiếu cố của thần tài nhiều hơn nữa?
Minh Quân/ Tuệ Minh/ ĐKNTV



Phần nhận xét hiển thị trên trang