Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 2 tháng 3, 2015

Việt Nam – Hoa Kỳ: Nền tảng nào cho cuộc chơi?


Cũng như mọi mối quan hệ khác trên chính trường quốc tế, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ bị chi phối bởi lợi ích các bên.
LTS: Vừa qua, Đại sứ Việt Nam tại Hoa Kỳ đã trình quốc thư lên Tổng thống Obama đề nghị hai bên tích cực chuẩn bị cho chuyến thăm Hoa Kỳ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhân dịp này, Tuần Việt Nam đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Đình Lương, nguyên trưởng đoàn đàm phán Hiệp định Thương mại song phương Việt – Mỹ về những dấu mốc trong quan hệ hai nước suốt 20 năm bình thường hoá quan hệ.
Vì lợi ích chung
Hai  mươi năm qua quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ đã phát triển nhanh chóng cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, và nay đã thành quan hệ đối tác toàn diện. Riêng ông, ông nhìn nhận thế nào về mối quan hệ đó?
Cũng như mọi mối quan hệ khác trên chính trường quốc tế, quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ bị chi phối bởi lợi ích các bên.  Chúng ta hãy điểm qua lịch sử.
TPP, quan hệ Việt-Mỹ, Nguyễn Đình Lương
Ông Nguyễn Đình Lương
Năm 1873, ông Bùi Viện vượt qua sóng gió đại dương Thái Bình Dương sang tận Washington, chờ cả năm trời, gặp cho được Tổng thống Mỹ để  cầu viện chống Pháp. Khi gặp, Tổng thống Mỹ đã hoan nghênh ngay, bởi khi đó Mỹ và Pháp đang đánh nhau ở Mexico. Ngặt nỗi Bùi Viện không mang theo Quốc thư, nên ông đành trở về tay không. Nhưng khi ông Bùi Viện trở lại cùng Quốc thư, Mỹ lại không quan tâm nữa, do chiến tranh Mỹ - Pháp tại Mexico đã kết thúc. Hai nước không còn lợi ích chung. .
Những năm 1945-1946 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 11 lần gửi thư, gửi điện cho Tổng thống và Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, đề nghị ủng hộ độc lập của Việt Nam và thiết lập quan hệ toàn diện giữa hai nước, nhưng không một hồi âm. Bởi vì VN không hiện hình trên màn ảnh lợi ích nước Mỹ, hoặc bị hình ảnh lợi ích với các nước lớn khác che khuất, nên Mỹ không quan tâm.
Mãi tới năm 1995 hai nước bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Chỉ một năm sau bình thường hoá quan hệ, Hoa Kỳ đã chủ động bắt đầu đàm phán hiệp định thương mại song phương (BTA) và Việt Nam hưởng ứng ngay, vì hai bên đều cần, đều muốn, đều nhìn thấy lợi ích.
Khi đàm phán BTA, Đại sứ Mỹ đầu tiên Peterson đã nói ông hy vọng có BTA, xuất khẩu Việt Nam vào Hoa Kỳ sẽ tăng lên 5-6 tỷ đô la, con số quá lớn đối với Việt Nam lúc đó và chưa ai hình dung được. Ông Đại sứ không dự đoán về mốc thời gian cụ thể.
Nhưng chỉ cần 2 năm thực thi BTA, xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ đã đạt con số đó, và hôm nay, 2014 đã đạt được hơn 18 tỷ USD, gấp hơn 3 lần kỳ vọng của Peterson.
Hoa Kỳ luôn là thị trường xuất khẩu lớn nhất và cũng là thị trường xuất siêu lớn của Việt Nam.
Như vậy trong chuyện xuật khẩu này Việt Nam có lợi, chứ Mỹ nhập siêu từ Việt Nam đâu hẳn đã có lợi được bao nhiêu?
Lợi ích của Việt Nam thì đã rõ, ai cũng thấy.
Nhưng Mỹ cũng có lợi chứ. Người tiêu dùng Mỹ có sự lựa chọn phong phú hơn. Trên thị trường nước Mỹ cũng có thêm một đối thủ cạnh tranh ngày một chắc tay, góp phần tăng sức cạnh tranh chung của nền kinh tế Mỹ. 
Thứ nữa, một chiếc áo sơ mi gia công ở Việt Nam giá thành khoảng 10 USD đến 15 USD, Việt Nam chỉ được 4-5 USD tiền công, bán trên thị trường Mỹ  80 - 100USD. Hay một đôi giày thể thao giá thành sản xuất ở VN trị giá khoảng 10 - 20% giá bán trên thị trường Mỹ.
Tức là hai bên đều có lợi, chưa ai tính được ai lợi nhiều, ai lợi ít, nhưng trong một cuộc chơi, anh nào giỏi hơn, khôn hơn anh đó thắng nhiều hơn.
Lợi ích này càng nhiều, càng tăng, quan hệ kinh tế thương mại càng phát triển.
Ngoài kinh tế - thương mại, Hoa kỳ và Việt Nam còn có nhiều lĩnh vực hợp tác. Lợi ích ở đây được hiểu như thế nào, ví dụ như trong chiến lược địa chính trị?
Có lợi thì mới có cuộc chơi.
Trên chính trường thế giới, các cuộc tập hợp lực lượng hiện đang diễn ra sôi động. Những ai có nhu cầu tập hợp lực lượng ở châu Á (và cả trên thế giới) thì không thể bỏ qua Việt Nam vì vị trí địa chính trị của nó. Và Hoa kỳ cũng vậy, chắc chắn Hoa Kỳ không muốn để Việt Nam đứng ngoài cuộc tập hợp của mình, lại càng không muốn để Việt Nam là người cản phá chiến lược đó. Chính vị trí địa chính trị của Việt Nam đang buộc người Mỹ phải từng bước có những cam kết hợp tác ngày càng sâu, trong nhiều lĩnh vực.
Tôi không hình dung ra chiến lược chuyển trục châu Á của Mỹ sẽ như thế nào, nếu không tính tới yếu tố Việt Nam, trong lúc Việt Nam đang chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ, và cũng có nhu cầu tập hợp lực lượng, tìm cho mình sự yên ổn để phát triển, trong một thế giới không yên ổn.  
Lợi ích càng tăng, càng nhiều đòi hỏi sự hợp tác càng rộng, càng sâu. Đó cũng là tính tất yếu của các bước phát triển quan hệ Việt Nam – Hoa kỳ trong tương lai.
TPP, quan hệ Việt-Mỹ, Nguyễn Đình Lương
Hoa Kỳ luôn là thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam. Ảnh minh họa: Báo Long An
Khi lợi ích đã nhiều, đã lớn, mỗi bên đều biết kiềm chế, là nhẹ bớt đi sự khác biệt để khai thông cho sự hợp tác. Hoa Kỳ muốn lôi kéo Việt Nam thì phải làm nhẹ đi những đòi hỏi về nhân quyền. Việt Nam muốn chơi với Mỹ thì phải gạt bỏ đi những khác biệt, ví dụ như đang xảy ra trong đàm phán TPP.
Cũng có lúc, những biến động chính trị xã hội trên thế giới hoặc khu vực tác động đến quan hệ các nước. Ví dụ các diễn biến ở biển Đông, dường như đã làm cho Mỹ xích lại gần Việt Nam hơn và đẩy nhanh việc Hoa Kỳ nới lỏng cấm vận vũ khí sát thương.
Trong bài tổng hợp những kết quả cuộc hội thảo “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 20 năm thành công hơn nữa” diễn ra vừa qua tại Hà Nội, ông Viện trưởng Học viện Ngoại giao Đặng Đình Quý, người tổ chức và chủ trì hội thảo, đã đưa ra nhiều nhận định sâu sắc và thú vị. Trong số đó tôi muốn nhắc lại một nhận xét: Lợi ích của Việt Nam và Hoa Kỳ không chỉ trong quan hệ song phương mà cả trong hợp tác giữa hai nước trong những khuôn khổ lớn hơn như ASEAN, AFTA và nhiều tổ chức quốc tế khác…
Ví dụ chiến lược chuyển trục châu Á của Mỹ không thể không tính tới ASEAN. Trong lúc có nước luôn chọc gậy bánh xe thì Hoa Kỳ coi sự đoàn kết thống nhất và sự vững mạnh của ASEAN là nằm trong lợi ích của Hoa Kỳ, và Việt Nam đang là một thành viên tích cực, chân thành mong muốn đóng góp cho sự lớn mạnh, đoàn kết thống nhất trong ASEAN. Vậy sự phối hợp hợp tác của Hoa Kỳ và Việt Nam ở đây là rất cần thiết, rất có ích.
Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) được đánh giá là một bước phát triển mới của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Theo ông, Việt Nam và Hoa kỳ đang theo đuổi những lợi ích gì ở đây?
Cuộc đàm phán TPP hay ở chỗ, nó là một là đàm phán cả gói (không tách riêng vấn đề) và đàm phán đa phương, cả một tập thể 12 nước, mà Hoa Kỳ coi như người chủ trì. Cách làm đó sẽ giúp xử lý được một loạt vấn đề không thế giải quyết trong đàm phán song phương.
Những vấn đề nhạy cảm với Việt Nam như quyền lập hội, minh bạch công khai hoạt động của DNNN, công khai và bình đẳng trong mua sắm công, trong tiếp cận các nguồn lực vốn, tài nguyên, thị trường… trước đây khi đàm phán BTA Hoa kỳ đã nêu ra, nhưng Việt Nam kiên quyết không chấp nhận, kỳ này đàm phán tập thể, hầu hết các nước tham gia đàm phán đã chấp nhận rồi. Muốn kết thúc đàm phán thì Việt Nam phải có các phương án lùi và sau đó về phải sửa luật cho khớp với cam kết.
Khó khăn phức tạp như vậy, tại sao Việt Nam vẫn hăng hái tham gia, và dù biết Việt Nam sẽ rất khó nhưng Hoa Kỳ vẫn muốn Việt Nam tham gia?
Trong các nước Đông Nam Á, ngoài Brunei, Singapore và Malaysia tự nguyện tham gia từ đầu, Hoa Kỳ không rủ ai mà chỉ rủ Việt Nam. Có lẽ vì người Mỹ nghĩ rằng Việt Nam chơi với Mỹ còn hơn là không, và ít nhất đừng để Việt Nam bị người khác chi phối hoàn toàn.
Thứ nữa, rủ Việt Nam vào TPP tức là kéo Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào nền kinh tế thị trường sôi động và vô hình trung buộc Việt Nam cắt đi cái đuôi, cắt đi di sản của của nền kinh tế quan liêu bao cấp. Các di sản đó vừa là cho nền kinh tế Việt Nam kém hiệu quả, vừa duy trì một môi trường pháp lý vẩn đục, dung túng tham nhũng, khiến cho nhà đầu tư nước ngoài, trong đó có các nhà đầu tư Mỹ ngại không dám bỏ vốn kinh doanh trên thị trường Việt Nam.
Và tại sao Việt Nam hăng hái ư? Sức ép kinh tế đang buộc Việt Nam phải hăng hái, nếu không bứt phá lên được thì nền kinh tế Việt Nam cứ bùng nhùng, thua kém và chắc chắn rơi vào bẫy thu nhập trung bình.
Tham gia TPP là một quyết định sáng suốt, là một hành động dũng cảm để tạo bứt phá, để đẩy áp lực đẩy tiếp tiến trình cải cách bên trong.
  • Hoàng Ngọc
Phần nhận xét hiển thị trên trang

TOP US ANALYST: WE MADE 5 DANGEROUSLY WRONG ASSUMPTIONS ABOUT CHINA 5 Sai Lầm Ngu Xuẩn Của Chiến Lược Gia Mỹ Về Trung Quốc




TOP US ANALYST: WE MADE 5 DANGEROUSLY WRONG ASSUMPTIONS ABOUT CHINA

5 Sai Lầm Ngu Xuẩn Của Chiến Lược Gia Mỹ Về Trung Quốc

David Gray
David Gray
Reuters, Business Insider FEB. 9, 2015
Reuters, Business Insider – 9 Feb 2015
This story comes from "The Hundred-Year Marathon" by Michael Pillsbury.

Trích từ "The Hundred-Year Marathon" của Michael Pillsbury.

Michael Pillsbury is director of the Hudson Institute’s Center for Chinese Strategy and a top defense policy advisor. He worked on China policy and intelligence issues for the White House during several US administrations. The following post is an excerpt from his book, "The Hundred-Year Marathon."

Michael Pillsbury là giám đốc của Trung tâm nghiên cứu Chiến lược của Trung Quốc của Viện Hudson và là một cố vấn hàng đầu về chính sách quốc phòng. Ông đã làm việc về chính sách Trung Quốc và các vấn đề tình báo cho Nhà Trắng cho nhiều chính phủ Mỹ. Bài sau đây là một đoạn trích từ cuốn sách của ông, “The Hundred-Year Marathon”.

I was among the first people to provide intelligence to the White House favoring an overture to China, in 1969.
For decades, I played a sometimes prominent role in urging administrations of both parties to provide China with technological and military assistance.

Tôi là một trong những người đầu tiên cung cấp thông tin tình báo cho Nhà Trắng về Trung Quốc, từ năm 1969.

Trong nhiều chục năm qua, đôi khi tôi đóng một vai trò nổi bật thúc giục chính quyền của cả hai đảng, viện trợ kỹ thuật và quân sự cho Trung Quốc.

I largely accepted the assumptions shared by America’s top diplomats and scholars, which were inculcated repeatedly in American strategic discussions, commentary, and media analysis.

Phần lớn, tôi chấp nhận các giả định của giới ngoại giao hàng đầu và các học giả của Mỹ, hiển hiện ở những cuộc thảo luận chiến lược, bình luận, phân tích và phương tiện truyền thông của Mỹ.

We believed that American aid to a fragile China whose leaders thought like us would help China become a democratic and peaceful power without ambitions of regional or even global dominance.

Chúng tôi đã tin rằng viện trợ của Mỹ cho một Trung Quốc yếu kém mà giới lãnh đạo của TQ nghĩ như chúng tôi sẽ giúp Trung Quốc trở thành một cường quốc dân chủ và hòa bình mà không có tham vọng thống trị khu vực hoặc thậm chí toàn cầu.

Every one of the assumptions behind that belief was wrong—dangerously so.
The error of those assumptions is becoming clearer by the day, by what China does and, equally important, by what China does not do.

Tất cả các giả thiết đằng sau niềm tin đó đã sai một cách nguy hiểm.
Sự sai lầm của những giả thiết ngày càng hiện rõ ràng hơn vì những gì Trung Quốc đang làm và, quan trọng không kém là những gì Trung Quốc không làm.


False assumption #1: Engagement brings complete cooperation

Giả thiết sai thứ nhất: Ràng buộc sẽ mang lại hợp tác toàn diện

For four decades now, my colleagues and I believed that “engagement” with the Chinese would induce China to cooperate with the West on a wide range of policy problems. It hasn’t. Trade and technology were supposed to lead to a convergence of Chinese and Western views on questions of regional and global order. They haven’t. In short, China has failed to meet nearly all of our rosy expectations.

Bốn mươi năm nay, các đồng nghiệp của tôi và tôi tin rằng “ràng buộc” với Trung Quốc sẽ khiến Trung Quốc hợp tác với phương Tây về một loạt các vấn đề chính sách. Không có chuyện đó. Thương mại và công nghệ tưởng là sẽ đưa đến sự hội tụ quan điểm của Trung Quốc và phương Tây về vấn đề trật tự khu vực và toàn cầu. Cũng không có luôn. Tóm lại, Trung Quốc đã không đáp lại gần như tất cả các kỳ vọng lạc quan của chúng tôi.

Take, for example, weapons of mass destruction. No security threat poses a greater danger to the United States and our allies than their proliferation. But China has been less than helpful — to put it mildly — in checking the nuclear ambitions of North Korea and Iran.

Ví dụ, về các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Không có mối đe dọa an ninh và mối nguy hiểm nào lớn hơn đối với Hoa Kỳ và các đồng minh của chúng ta so với sự phát triển của các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt. Nhưng Trung Quốc đã chẳng giúp được gì trong việc kiểm tra tham vọng hạt nhân của Bắc Triều Tiên và Iran.

In the aftermath of 9/11, some commentators expressed the belief that America and China would henceforth be united by the threat of terrorism, much as they had once been drawn together by the specter of the Soviet Union. These high hopes of cooperating to confront the “common danger” of terrorism, as President George W. Bush described it in his January 2002 State of the Union address, by speaking of “erasing old rivalries,” did not change China’s attitude. Sino-American collaboration on this issue has turned out to be quite limited in scope and significance.

Sau cuộc khủng bố 9/11, một số nhà bình luận tin tưởng rằng Mỹ và Trung Quốc sẽ từ đó thống nhất vì các mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố, giống như họ đã đến gần với nhau vì bóng ma chiến tranh với Liên Xô. Những hy vọng hợp tác để đối đầu với “mối nguy hiểm chung” của khủng bố, như Tổng thống George W. Bush đã mô tả trong diễn văn trước quốc dân hồi tháng 1 năm 2002, bằng cách “xóa bỏ thù xưa” đã không thay đổi thái độ của Trung Quốc. Hợp tác Trung-Mỹ về vấn đề này thật ra khá hạn chế trong phạm vi và ý nghĩa.




False assumption #2: China is on the road to democracy

Giả thiết sai thứ nhì: Trung Quốc đang trên con đường tiến tới dân chủ

China has certainly changed in the past thirty years, but its political system has not evolved in the ways that we advocates of engagement had hoped and predicted. The idea that the seeds of democracy have been sown at the village level became the conventional wisdom among many China watchers in America.

Chắc chắn Trung Quốc đã thay đổi trong ba mươi năm qua, nhưng hệ thống chính trị của nó đã không tiến hóa theo chiều hướng mà chúng tôi, những người ủng hộ chính sách “ràng buộc”, đã mong đợi và dự đoán. Ý tưởng cho rằng những hạt giống dân chủ đã được gieo ở cấp thôn làng trở thành sự hiểu biết phổ thông trong giới quan sát Trung Quốc tại Mỹ.

My faith was first shaken in 1997, when I was among those encouraged to visit China to witness the emergence of “democratic” elections in a village near the industrial town of Dongguan. While visiting, I had a chance to talk in Mandarin with the candidates and see how the elections actually worked. The unwritten rules of the game soon became clear: the candidates were allowed no pubic assemblies, no television ads, and no campaign posters.

Lần đầu tiên lòng tin của tôi bị lung lay là vào năm 1997, khi tôi là một trong số những người khuyến khích đến thăm Trung Quốc để chứng kiến các cuộc bầu cử “dân chủ” trong một ngôi làng gần thành phố công nghiệp Đông Hoản. Khi đến thăm, tôi đã có một cơ hội để nói chuyện bằng tiếng phổ thông với các ứng cử viên và xem cuộc bầu cử thực sự diễn tiến ra sao. Các quy tắc bất thành văn của cuộc chơi đã nhanh chóng hiện ra: các ứng cử viên không được phép tụ họp, không được quảng cáo trên truyền hình, và không có bích chương vận động.

They were not allowed to criticize any policy implemented by the Communist Party, nor were they free to criticize their opponents on any issue. There would be no American-style debates over taxes or spending or the country’s future. The only thing a candidate could do was to compare his personal qualities to those of his opponent. Violations of these rules were treated as crimes.

Họ không được phép chỉ trích bất kỳ chính sách nào của Đảng Cộng sản, mà cũng không được chỉ trích đối thủ của họ về bất kỳ vấn đề gì. Sẽ không có cuộc tranh luận kiểu Mỹ về thuế khóa hay về ngân sách chi tiêu hoặc về tương lai của đất nước. Điều duy nhất một ứng cử viên có thể làm là so sánh đức hạnht cá nhân của mình với phẩm chất của đối thủ. Vi phạm các quy tắc đó được coi là tội phạm.



False assumption #3: China, the fragile flower
china phone

Giả thiết sai thứ ba: Trung Quốc là cánh hoa mong manh

In 1996, I was part of a U.S. delegation to China that included Robert Ellsworth, the top foreign policy adviser to the Republican presidential nominee, Robert Dole.

Năm 1996, tôi là một phần của một phái đoàn Mỹ đến Trung Quốc trong đó có Robert Ellsworth, cố vấn hàng đầu về chính sách đối ngoại cho Robert Dole, ứng cử viên tổng thống đảng Cộng hòa.

In what appeared to be a forthright exchange of views with Chinese scholars, we were told that China was in serious economic and political peril — and that the potential for collapse loomed large. These distinguished scholars pointed to China’s serious environmental problems, restless ethnic minorities, and incompetent and corrupt government leaders — as well as to those leaders’ inability to carry out necessary reforms.

Trong một cuộc trao đổi quan điểm, tưởng chừng như thẳng thắn, với các học giả Trung Quốc, chúng tôi đã nói rằng Trung Quốc đang trong tình trạng nguy hiểm về kinh tế và chính trị nghiêm trọng – và tiềm năng sụp đổ đang lẩn quẩn quanh đây. Những học giả Mỹ đã chỉ ra vấn đề nghiêm trọng về môi trường của Trung Quốc, tình trạng bất ổn của người dân tộc thiểu số, và sự thiếu khả năng cũng như nạn tham nhũng trong giới lãnh đạo chính phủ – cũng như giới lãnh đạo không có khả năng để thực hiện những cải cách cần thiết.

I later learned that the Chinese were escorting other groups of American academics, business leaders, and policy experts on these purportedly “exclusive” visits, where they too received an identical message about China’s coming decline. Many of them then repeated these “revelations” in articles, books, and commentaries back in the United States.

Sau này tôi biết rằng Trung Quốc đã tiếp đón các nhóm học giả Mỹ, các nhà lãnh đạo kinh doanh, và các chuyên gia chính sách khác trong những lần viếng thăm gọi là “dành riêng”, rồi họ cũng đã nghe lại những thông điệp như cũ về suy sụp sắp tới của Trung Quốc. Nhiều người trong các phái đoàn vừa kể sau đó lặp đi lặp lại những “khám phá” đó trong những bài báo, sách, và bình luận tại Hoa Kỳ.

Yet the hard fact is that China’s already robust GDP is predicted to continue to grow by at least 7 or 8 percent, thereby surpassing that of the United States by 2018 at the earliest, according to economists from the International Monetary Fund, the Organisation for Economic Co-operation and Development, and the United Nations. Unfortunately, China policy experts like me were so wedded to the idea of the “coming collapse of China” that few of us believed these forecasts. While we worried about China’s woes, its economy more than doubled.

Tuy nhiên, thực tế rõ ràng là GDP mạnh mẽ của Trung Quốc được dự đoán sẽ tiếp tục tăng trưởng ít nhất là 7 hoặc 8 phần trăm, từ đó sẽ, sớm nhất, vượt mặt Hoa Kỳ vào năm 2018, theo các nhà kinh tế của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, của Tổ chức kinh tế hợp tác và Phát triển, và Liên Hiệp Quốc. Thật không may, các chuyên gia về chính sách Trung Quốc như tôi đã quá gắn bó với những ý tưởng về một “sự sụp đổ sắp tới của Trung Quốc” khiến ít người trong chúng tôi tin rằng những lời dự báo ấy. Trong khi chúng ta lo lắng về khủng hoảng của Trung Quốc thì nền kinh tế cả họ đã tăng hơn gấp đôi.


A foreign journalist raises her hand to ask a question during a news conference in Beijing.

Một nhà báo nước ngoài đưa tay xin dặt câu hỏi trong một cuộc họp báo ở Bắc Kinh
False assumption #4: China wants to be — and is — just like us

Giả thiết sai thứ tư: Trung Quốc muốn – và – giống như chúng ta

In our hubris, Americans love to believe that the aspiration of every other country is to be just like the United States. In recent years, this has governed our approach to Iraq and Afghanistan. We cling to the same mentality with China.

Trong sự ngạo mạn, người Mỹ chúng ta thích tin rằng nguyện vọng của mọi quốc gia khác là để được giống như Hoa Kỳ. Trong những năm gần đây, điều này đã ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ ở Iraq và Afghanistan. Chúng ta cứ bám vào tâm lý đó để đối ứng với Trung Quốc.

In the 1940s, an effort was funded by the U.S. government to understand the Chinese mind-set. One conclusion that emerged was that the Chinese did not view strategy the same way Americans did. Whereas Americans tended to favor direct action, those of Chinese ethnic origin were found to favor the indirect over the direct, ambiguity and deception over clarity and transparency. Another conclusion was that Chinese literature and writings on strategy prized deception.

Trong những năm 1940, một nỗ lực được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ bởi để tìm hiểu tư tưởng của Trung Quốc. Và có một kết luận là Trung Quốc không xem chiến lược giống như cách của người Mỹ. Trong khi người Mỹ có xu hướng hành động trực tiếp, người Trung Quốc đã thường hành động gián tiếp hơn là trực tiếp, chuộng sự mơ hồ và lừa dối hơn sự rõ ràng và minh bạch. Một kết luận khác cho rằng văn học Trung Quốc và những bài viết về chiến lược đánh giá cao sự dối trá. [Như thấy trong Tam thập lục kế rút ra từ thời Chiến quốc, Tam Quốc – TM]

Two decades later, Nathan Leites, who was renowned for his psychoanalytical cultural studies, observed:

Hai mươi năm sau, Nathan Leites, nổi tiếng với nghiên cứu văn hóa phân tâm học, nhận định:

Chinese literature on strategy from Sun Tzu through Mao Tse-tung has emphasized deception more than many military doctrines. Chinese deception is oriented mainly toward inducing the enemy to act in expediently and less toward protecting the integrity of one’s own plans.

Tác phẩm của Trung Quốc về chiến lược từ Tôn tử tới Mao Trạch Đông đã nhấn mạnh đến sự lừa dối hơn nhiều học thuyết quân sự khác. Lừa dối là kế sách của Trung Quốc nhằm vào việc làm cho đối thủ có hành động bất lợi và mất chú ý bảo vệ sự toàn vẹn kế sách của chính mình.



False assumption #5: China’s hawks are weak

Giả thiết sai thứ năm: Phe diều hâu của Trung Quốc yếu

In the late 1990s, during the Clinton administration, I was tasked by the Department of Defense and the CIA to conduct an unprecedented examination of China’s capacity to deceive the United States and its actions to date along those lines.

Trong những năm cuối thập niên 1990, dưới thời chính quyền Clinton, tôi được Bộ Quốc phòng và CIA giao nhiệm vụ để tiến hành một cuộc xem xét nghiệm chưa từng để biết khả năng của Trung Quốc để đánh lừa Mỹ và hành động của TQ từ trước đến nay trong phạm trù này.

Over time, I discovered proposals by Chinese hawks (ying pai) to the Chinese leadership to mislead and manipulate American policymakers to obtain intelligence and military, technological, and economic assistance. I learned that these hawks had been advising Chinese leaders, beginning with Mao Zedong, to avenge a century of humiliation and aspired to replace the United States as the economic, military, and political leader of the world by the year 2049 (the one hundredth anniversary of the Communist Revolution).

Sau mọt thời gian, tôi đã khám phá ra những đề nghị của phe diều hâu Trung Quốc (ưng phái, ) với lãnh đạo Trung Quốc để đánh lừa và thao túng giới hoạch định chính sách của Mỹ để có được thông tin tình báo và quân sự, công nghệ, và viện trợ kinh tế. Tôi học được rằng nhóm diều hâu đã tư vấn cho giới lãnh đạo Trung Quốc, bắt đầu từ Mao Trạch Đông, để trả thù cho một thế kỷ bị sỉ nhục và khao khát thay thế Hoa Kỳ làm lãnh đạo kinh tế, quân sự và chính trị của thế giới vào năm 2049 (kỷ niệm một trăm Cách mạng Cộng Sản).

This plan became known as “the Hundred-Year Marathon.” It is a plan that has been implemented by the Communist Party leadership from the beginning of its relationship with the United States.

Kế hoạch này được biết đến qua cái tên “Cuôc chạy đường dài Một trăm năm”. Đó là kế hoạch mà giới lãnh đạo Đảng Cộng sản thực hiện từ khi có quan hệ với Hoa Kỳ.

When I presented my findings on the Chinese hawks’ recommendations about China’s ambitions and deception strategy, many U.S. intelligence analysts and officials greeted them initially with disbelief. Chinese leaders routinely reassure other nations that “China will never become a hegemon.” In other words, China will be the most powerful nation, but not dominate anyone or try to change anything.

Khi tôi trình bày những khám phá của tôi về những khuyến nghị của phe diều hâu Trung Quốc về tham vọng của Trung Quốc và chiến lược dối trá, nhiều người trong giới phân tích tình báo và chính quyền Mỹ đã tỏ vẻ hoài nghi. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc thường xuyên trấn an các quốc gia khác rằng “Trung Quốc sẽ không bao giờ trở thành một bá chủ.” Nói cách khác, Trung Quốc sẽ là quốc gia mạnh nhất, nhưng không thống trị bất cứ ai hay cố gắng thay đổi bất cứ điều gì.

The strength of the Hundred-Year Marathon, however, is that it operates through stealth. To borrow from the movie Fight Club, the first rule of the Marathon is that you do not talk about the Marathon. Indeed, there is almost certainly no single master plan locked away in a vault in Beijing that outlines the Marathon in detail. The Marathon is so well known to China’s leaders that there is no need to risk exposure by writing it down. But the Chinese are beginning to talk about the notion more openly — perhaps because they realize it may already be too late for America to keep pace.

Tuy nhiên, sức mạnh của cuôc chạy đường dài một trăm năm, là những hành động tàng hình. Mượn chữ của bộ phim Fight Club, nguyên tắc đầu tiên của Marathon là không nói về Marathon. Thật vậy, gần như chắc chắn rằng không có một kế hoạch tổng thể nào đang được dấu kín dưới hầm ở Bắc Kinh vạch ra chi tiết của Marathon. Marathon đã được giới lãnh đạo Trung Quốc biết rõ nên không cần phải viết thành văn để tránh khỏi việc bị lộ. Nhưng Trung Quốc đang bắt đầu nói về các khái niệm này (Marathon) một cách cởi mở hơn – có lẽ vì họ biết rằng có thể đã quá muộn cho Mỹ theo kịp.



Delegates sit at the stage before the opening ceremony of 18th National Congress of the Communist Party of China at the Great Hall of the People in Beijing, November 8, 2012.

Các đại biểu ngồi trên sân khấu trước lễ khai mạc Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh, 08 tháng 11 năm 2012.
I observed a shift in Chinese attitudes during three visits to the country in 2012, 2013, and 2014. As was my usual custom, I met with scholars at the country’s major think tanks, whom I’d come to know well over decades. I directly asked them about a “Chinese-led world order”— a term that only a few years earlier they would have dismissed, or at least would not have dared to say aloud. However, this time many said openly that the new order, or rejuvenation, is coming, even faster than anticipated. When the U.S. economy was battered during the global financial crisis of 2008, the Chinese believed America’s long-anticipated and unrecoverable decline was beginning.

Tôi quan sát thấy có sự thay đổi trong thái độ của Trung Quốc trong ba lần viếng thăm TQ trong những năm 2012, 2013, và 2014. Theo tập quán, tôi đã gặp gỡ với các học giả của những think tanks chính của TQ, những người mà tôi đã biết từ nhiều chục năm qua. Tôi trực tiếp hỏi họ về một “Trật tự mới do Trung Quốc dẫn đầu thế giới” – một thuật ngữ mà họ sẽ bác bỏ ngay một vài năm trước đó, hoặc ít nhất họ cũng không dám nói lớn tiếng. Tuy nhiên, thời gian này có nhiều người nói công khai cho rằng trật tự mới, hoặc sự hồi xuân, đang đến, đến nhanh hơn người ta đã chờ đợi. Khi nền kinh tế Mỹ đã bị vùi dập trong cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Trung Quốc tin tưởng dài dự đoán sự suy thoái không thể phục hồi của Mỹ đã bắt đầu.

I was told — by the same people who had long assured me of China’s interest in only a modest leadership role within an emerging multipolar world — that the Communist Party is realizing its long-term goal of restoring China to its “proper” place in the world. In effect, they were telling me that they had deceived me and the American government. With perhaps a hint of understated pride, they were revealing the most systematic, significant, and dangerous intelligence failure in American history. And because we have no idea the Marathon is even under way, America is losing.

Cũng những người đó, những người đã từng trấn an tôi là Trung Quốc chỉ mong có được vai trò lãnh đạo khiêm nhường trong một thế giới mới đa cực đang thành hình – và Đảng Cộng sản chỉ đang thực hiện mục tiêu dài hạn để khôi phục lại vị trí “hợp lý” của Trung Quốc trên thế giới. Trong thực tế, họ nói với tôi rằng họ đã lừa dối tôi và chính phủ Mỹ. Có lẽ với một chút tự hào, họ đã tiết lộ sự thất bại một cách có hệ thống, có ý nghĩa, và nguy hiểm nhất về tình báo trong lịch sử nước Mỹ. Và vì chúng ta không hề nghĩ rằng kế sách Marathon đã khởi động từ lâu nên Mỹ đang thua trận.



A cellist performs on a vehicle bridge filled with tents set up by pro-democracy protesters at the financial Central district in Hong Kong December 9, 2014.

 Một nghệ sĩ cello biểu diễn trên một cây cầu xe cộ qua lại với những túp lều được dựng lên bởi những người biểu tình ủng hộ dân chủ ở khu vực tài chính trung tâm  Hồng Kông 09 tháng 12 năm 2014.

Excerpted from THE HUNDRED-YEAR MARATHON: China’s Secret Strategy to Replace America as the Global Superpower by Michael Pillsbury, published February 10, 2015 by Henry Holt and Company, LLC. Copyright © 2015 by Michael Pillsbury. All rights reserved.

Trích từ cuốn “The Hundred-Year Marathon”: Chiến lược bí mật của Trung Quốc để thay thế Mỹ như một siêu cường toàn cầu của tác giả Michael Pillsbury, do Henry Holt và Công ty, LLC. phát hành ngày 10 tháng hai năm 2015. Bản quyền © 2015 Michael Pillsbury. Tất cả quyền được bảo lưu.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

9 phát minh mới khiến dư luận thế giới sửng sốt 10 năm tới.

Dùng điện từ não để lướt web, bay khắp thế giới chỉ trong 4 giờ... là những ý tưởng khoa học - công nghệ độc đáo hứa hẹn trở thành hiện thực trong tương lai. 

Công nghệ khoa học luôn không ngừng phát triển với mục tiêu giúp hoạt động của con người trở nên dễ dàng, nhanh chóng hơn. Hàng loạt các ý tưởng phát minh ra đời, hứa hẹn đem đến cho chúng ta nhiều điều tuyệt vời nhất mà chúng ta có thể sẽ thấy vào năm 2020.
Dưới đây là một vài phát minh đáng kinh ngạc nhất mà hẳn bạn sẽ hoàn toàn ngỡ ngàng trước sự kỳ diệu của nó. 


1. Máy bay có thể bay khắp nơi trên thế giới chỉ trong 4 giờ.
Cơ quan không gian vũ trụ Reaction Engines của Anh đang nghiên cứu chiếc máy bay có thể chở 300 hành khách bay khắp nơi trên thế giới chỉ trong 4 giờ. Chiếc máy bay này cũng sẽ có thể bay vào không gian. 



Kỹ sư trưởng Alan Bond giải thích rằng, không khí khi vào trong hệ thống động cơ mới có tên Sabre sẽ được làm lạnh ở nhiệt độ hơn 1.000 độ C chỉ trong vòng 0.01 giây, tương đương với tỉ lệ làm lạnh 400 megawatt.
Điều này có nghĩa rằng hệ thống động cơ sẽ có khả năng hoạt động với công suất lớn hơn nhiều so với các loại động cơ hiện tại. Theo Reaction Engines, động cơ Sarbe sẽ được sử dụng với hai mô hình máy bay sắp tới là LAPCAT A2 - một loại máy bay thương mại có khả năng chuyên chở hành khách từ Brussel đến Sydney chỉ trong 2 tiếng đồng hồ và SKYLON - máy bay không người lái có thể tái sử dụng với mục đích tiết kiệm chi phí bay vào không gian. 


2. Tay điện tử điều khiển bằng ý nghĩ.
Cơ quan quản lý và tài trợ nghiên cứu khoa học DARPA đã đưa ra phát minh về cánh tay điện tử - trợ thủ đắc lực cho các cựu chiến binh bị mất tay.
Cánh tay nhân tạo này cử động giống như thật và sẽ có thể làm được bất cứ thứ gì, ví dụ như chơi piano, cầm một chiếc ly, hay giúp người sử dụng uống cafe. 



Nhờ vào các phần tử cảm biến truyền tín hiệu đến não, người đeo cánh tay giả này có thể hoạt hóa từng ngón tay đơn lẻ, điều khiển cánh tay nhờ vào hàng loạt những cảm xúc khác nhau, cảm nhận được bất cứ thứ gì khi họ cầm và nắm.
Có nhiều phương pháp để điều khiển cánh tay nhân tạo này. Một vài bệnh nhân trải qua quá trình phẫu thuật cấy các cảm biến vào vai, cơ ngực, và phần còn lại của cánh tay để điều khiển cánh tay. 



Một số khác không sử dụng phương pháp phẫu thuật, họ vẫn có thể cầm được những thứ có kích cỡ nhỏ như chiếc nút nhấn. Các nhà thiết kế hy vọng, cánh tay sẽ có lớp da y hệt da thật, thậm chí là có cả vết vân tay và chống thấm nước. 


3. Tương tác với môi trường bằng... mắt. 



Không còn cần internet, smartphone... bởi trong tương lai gần, một sự thay đổi lớn sẽ diễn ra trong cách chúng ta tương tác với môi trường xung quanh. Theo đó, bạn sẽ có thể nhìn vào một tòa nhà hoặc một địa điểm và nhận các thông tin về chúng chỉ bằng việc sử dụng đôi mắt của mình. 


4. Máy in sinh học 3D "siêu phàm".
Các nhà nghiên cứu Úc mới đây đã chế tạo ra một “chiếc máy in” sinh học 3D có thể được dùng để tạo ra cơ quan hỗ trợ nhằm thay thế kịp thời một cơ quan trong cơ thể lúc phẫu thuật. 



Thiết bị này có khả năng nuôi dưỡng các mạch máu và mặc dù đang trong giai đoạn kiểm tra nhưng những nhà sáng chế nói rằng, những mạch máu được “in” ra từ thiết bị này có thể được dùng trong phẫu thuật bắc cầu động mạch vành trong ít nhất 5 năm tới, trong khi đó, những cơ quan phức tạp hơn như tim, gan, hay xương có thể là 10 năm. 


5. Robot "người thật".
Thế kỷ XXI chứng kiến sự phát triển vượt bậc trong khoa học nghiên cứu và chế tạo người máy. Mặc dù chúng ta chưa sử dụng robot trong nhà hay xây dựng các công trình, nhưng ngành khoa học này đã có nhiều bước tiến dài.
Mới đây, các chuyên gia thuộc ĐH California, San Diego đã tạo ra một robot có tên Eistein giống người đến mức siêu đẳng. Nó có thể cười và có những biểu cảm y hệt người thật. 



Hay như công ty Boston Dynamics đã tạo ra một con robot có 2 chân tên Petnam có thể giữ cân bằng các bước di chuyển và nhanh nhẹn như người thật.
Chú robot hình người này được tạo ra nhằm kiểm tra các bộ quần áo bảo hộ chống hóa chất. Petman sẽ mô phỏng tình trạng sinh lý học của con người trong bộ quần áo bảo hộ này bằng việc điều khiển nhiệt độ, độ ẩm và lượng tiết mồ hôi, tất cả nhằm cung cấp những điều kiện kiểm tra thực tế nhất.


6. Quần áo phát ra điện.
Các nhà nghiên cứu về công nghệ Nano đang nghiên cứu những bộ quần áo giúp người mặc thấy thoải mái hơn. Theo Giáo sư Ashwini Agarwal của Viện Công nghệ Ấn Độ Delhi: "Sợi vải và tơ là những chất liệu có cấu trúc một chiều. Nhờ vào công nghệ Nano, chúng ta có thể tiết kiệm chi phí và tăng độ bền của chúng.
Ngoài việc tạo ra sợi nano đa hợp, công nghệ này còn có tác dụng trong việc thay đổi màu sắc bề mặt vải cũng như giúp bộ quần áo đẹp hơn. Nhờ đó, những sản phẩm dệt may trở nên bắt mắt và thu hút khách hàng hơn.” 



Sợi nano cũng đang được sử dụng để tạo ra năng lượng nhờ vào sự cử động của cơ thể. Một bộ quần áo “năng lượng” sẽ có khả năng phát điện đến các thiết bị điện tử nhỏ. Điều này rất giúp ích cho các binh lính, nhà leo núi hay người tham gia các hoạt động thể chất khác. 


7. Người dùng sử dụng điện từ não để lướt web.
Bằng việc áp dụng công nghệ nano để chế tạo các con chip nhỏ gọn, tiêu thụ ít năng lượng, các chuyên gia hi vọng sẽ có thể tạo ra hệ thống máy tính hoạt động hiệu quả mà siêu "nhỏ". 



Những nhà nghiên cứu của Intel cũng dự đoán rằng, trước năm 2020, bạn sẽ không cần bàn phím hay chuột để điều khiển máy tính nữa. Thay vào đó, người dùng sẽ sử dụng tín hiệu điện từ của não để mở tài liệu hay lướt web. 


8. Các tòa nhà biết xoay.
Dubai đang xây dựng một tòa nhà với những ứng dụng cực kỳ đẹp mắt và thiết thực. Tòa nhà sẽ có 59 tầng có thể xoay một cách độc lập để những người sống ở đây có thể liên tục được đổi vị trí ngắm cảnh bên ngoài. Các tầng sẽ xoay khoảng 6m/phút và sẽ không ai nhận ra được sự di chuyển này. 



Tòa nhà cũng sẽ được thay đổi diện mạo bên ngoài thành những thiết kế phức tạp khi tất cả các tầng cùng xoay. Tua-bin gió được đặt giữa mỗi tầng sẽ giúp tạo ra năng lượng cung cấp cho tòa nhà và thậm chí là những tòa nhà lân cận trong khu vực.


9. Công nghệ ghi lại giấc mơ.
Các nhà sáng lập mới đây đưa ra ý tưởng về chương trình trải nghiệm Scanner Cinema - cho phép mọi người xem một bộ phim theo những cách khác nhau. Người xem được đeo một bộ ống nghe cảm biến sinh học có thể đọc được tín hiệu điện từ của não. 



Bộ ống nghe này sau đó sẽ chỉnh sửa những hình ảnh mà một người xem được tùy theo tiềm thức của họ. Bằng cách này, các đoạn kể chuyện có thể được hình thành và điều khiển bởi mức độ tập trung của người xem.
Trưởng dự án cho biết: "Khán giả có thể diễn đạt cảm xúc của họ vào bộ phim họ đang xem. Mục đích của dự án nhằm giúp mọi người có thể nhìn thấy và nghe được giấc mơ của họ. Trong 10 - 15 năm tới, nghiên cứu này có thể giúp chúng ta có thể ghi lại toàn bộ giấc mơ của mình".
(Theo MASK Online)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lại nhớ câu ông "ĐẤT NƯỚC ĐỨNG LÊN" nói: "Vừa là.."

Chuyện đời
cong, thẳng
và trong, đục…

Trong kiệt tác kiếm hiệp kiêm chính trị cổ điển Tam quốc diễn nghĩa, La Quán Trung tiên sinh từng ca ngợi cây dâu cổ thụ mọc trong sân nhà anh thợ đóng dép Lưu Bị là linh mộc, là hiện thân của phong thủy, đến nỗi bịa ra một ông thầy, đi qua nhìn thấy cái cây ấy bèn phán: “Cây dâu này mọc thẳng tắp, tán xoè như cái ô. Nhà ở dưới gốc cây này ắt sinh quý nhân“.  Quý nhân ấy chẳng phải Lưu Huyền Đức thì còn ai vào đây nữa. Cây dâu đó là cái ô Trời, là bản mệnh sự nghiệp của Lưu Bị sau này. Quả là về sau, Lưu Bị nhờ có cái bản mệnh ấy mà gặp được khối người ngay thẳng. Trong số đó, người quan trọng số 1 phải kể đến là vị quân sư Gia Cát Lượng (Khổng Minh).
Thế nhưng La Quán Trung tiên sinh đã “lờ“ đi không chép việc cái “ô“ vĩ đại ấy rồi cũng đến lúc đổ kềnh. Số là một hôm, trời nổi bão giông. Cây dâu cổ thụ bỗng nghiêng ngả, quay cuồng rồi đổ sập xuống, đè nát đúng bàn thờ nhà Lưu Bị. Lúc ấy Lưu Bị đã lên ngôi hoàng đế bên đất Thục. Giá như ông thầy kia lại nhìn thấy, chắc thể nào cũng bảo vị quý nhân nhà này có nhẽ sắp đến lúc… toi. Quả nhiên một thời gian ngắn sau đó, Thục chủ Lưu Bị gặp hạn ở thành Bạch Đế rồi “toi“ luôn tại đó. Trước khi chết, ngài không ngại nước Ngụy của Tào Tháo, cũng chẳng thèm ngại nước Ngô của Tôn Quyền. Ngài chỉ ngại mỗi… quân sư Khổng Minh mà thôi. Vì thế ngài đã phải triệu Khổng Minh đến tận giường bệnh mà chơi bài ngửa, tiếng là gửi gắm con côi, song lại “thòng“ một câu rùng rợn rằng nếu nó bất tài, thì hay là ông thay nó, làm chủ quách nước Thục đi!
Lưu Bị nói thế là có ý muốn “đe“ Khổng Minh, rằng ta biết tỏng ông là người như thế nào rồi. Trước khi gặp ta, ông có tiếng là một người ngay thẳng. Ông bắt ta phải ba lần hạ cố mới chịu ra, giả vờ không thèm màng đến danh vọng. Có thật ông không thèm màng danh vọng? Sao ở lều tranh mà ông theo dõi việc thiên hạ kĩ thế? Lại còn lặn lội đi gài sẵn “thạch trận“ ở những đâu đâu. Giờ ta mới biết ông rất có tài ảo thuật, dễ dàng mê hoặc được lòng ngưỡng mộ của thiên hạ không chỉ trong một vài đời. Ông mẹo vặt có thừa, song bụng dạ lại hẹp hòi. Trong thiên hạ, bất cứ ai tài hơn, ông cũng tìm cách chiêu nạp về rồi nghĩ kế trừ đi. Đã mượn tay Trương Nhiệm giết ngóm một Bàng Thống ngây thơ cả tin, kẻ “học giỏi gấp mười ông“ (ý này do chính ông từng nói ra), lại còn định chém Ngụy Diên ngay trước mắt ta. Ham hố danh tiếng như ông thì sau khi ta chết đi rồi, dẫu có làm chuyện thoán nghịch cũng chẳng có gì lạ…
Khổng Minh lúc đó sợ toát mồ hôi, vội vàng sụp xuống dập đầu thề lấy thề để (thề cá trê chui ống). Màn chơi bài ngửa này tuy chỉ có Lưu Bị và Khổng Minh biết, song khó mà che được cặp mắt thế gian. La Quán Trung về sau nhân đó cũng “lờ“ đi cho văn vẻ sạch sẽ, sử sách trơn tru. Ấy là cái truyền thống chép sử xưa nay nó thế. Sử sách vốn chỉ ưa chép những chỗ thơm mà giấu nhẹm đi chỗ thối. Và La Quán Trung đã tỏ ra là một người chép sử khéo, song lại là một tay kể chuyện tồi, bởi ông vẫn để lộ những chỗ thối của lịch sử ra.
Lưu Huyền Đức quả có con mắt tinh đời. Về sau, chỉ vì ghen tài mà Khổng Minh đã quyết không thực hiện diệu kế của Ngụy Diên, lại còn dùng lời lẽ ngụy biện để chê bai, dè bỉu. Rốt cuộc cả 6 lần đem binh ra Kì sơn đều công cốc, đến nỗi thân phải bỏ ở gò Ngũ Trượng. Thế mà trước khi chết vẫn còn nghĩ kế để giết Ngụy Diên cho bằng được. Vị quân sư ngay thẳng ấy thù dai hay sợ Ngụy Diên sau này được đắc dụng thì sẽ thành công hơn mình? Vì thân mà hy sinh béng cả cơ nghiệp của chúa như thế, chẳng trách nước Thục do Lưu Bị tốn công gây dựng chẳng bao lâu cũng mất toi về tay cha con Tư Mã Ý, không để lại được chút hơi hám gì.
Vậy thì cái điềm cây dâu cổ thụ kia bị đổ, làm nát cả bàn thờ nhà Lưu Bị quả là nghiệm lắm. “Mệnh“ trời quả không thể xem thường. Tuy thế, song những màn “ảo thuật,“ những “mẹo“ vặt của Khổng Minh vẫn được người đời thích thú, tôn sùng, đã lưu truyền được danh tiếng lẫy lừng của ông cho đến tận bây giờ. Danh tiếng ấy bao đời nay át cả Lưu Bị, đến mức bất cứ ai nghe thấy cũng phải trợn mắt thán phục. Thế thì có thể nói rằng Khổng Minh mới chính là người đã “vớ“ được Lưu Bị, còn Lưu Bị, là người đã “vớ“ phải Khổng Minh vậy.
Tóm lại, việc đời thường tuân theo quy luật quân tử khởi xướng, tiểu nhân a dua, quân tử thiệt thân, tiểu nhân thủ lợi. Cho nên cái triết lý “đầu voi đuôi chuột“ dẫu chẳng ra gì, vẫn luôn tỏ ra đúng với mọi thời đại. Cái “ô Trời“ ấy ở nhà Lưu Bị ban đầu dẫu có mang cái “lý“ của một “con voi,“ thì cuối cùng, “con voi“ ấy vẫn phải có lúc đổ kềnh. Và một khi nó đã đổ, thì kết quả bao giờ cũng vô cùng thảm hại.
Việc của Trời Đất còn như thế, huống hồ là việc của con người. Một cây cổ thụ còn như vậy, huống chi những loài cỏ lác. Vậy mà có kẻ vẫn còn muốn bền vững muôn năm? Có biết đâu rằng cái tử tế mãi chính là cái đáng nghi nhất trên đời. Cứ xem những sự khởi đầu và kết thúc của mọi cuộc đổi thay trên thế gian này thì biết. Sự thật rốt cuộc chẳng mang tí dáng dấp nào của những bản tuyên ngôn kinh điển viển vông. Tuy rằng cây dâu kia ở nhà Lưu Bị (có vẻ) chẳng liên quan gì đến Khổng Minh. Song việc mọc thẳng của nó hóa  ra lại là một cái “triệu“ bất tường. Thật chẳng biết rồi nó sẽ đổ về phía nào để mà đề phòng vậy. Giá như nó đừng đứng thẳng, mà cứ cong hẳn về một phía, để ông cha Lưu Bị cất nhà ở bên phía ngược lại, thì bàn thờ nhà ông đâu đến nỗi bị đập nát, và duyên trời biết đâu đã chẳng dun rủi cho ông gặp phải con người cũng có tiếng ngay thẳng là Khổng Minh? Tưởng gặp phúc mà thành ra vô phúc, tưởng kì duyên mà lại hóa  vô duyên. Chắc chỉ có giời mới đùa nổi kiểu ấy. Trên đời, có ai lại ngu đến mức không tự nhận mình là người ngay thẳng, nhất là những hạng được coi là kẻ sĩ. Thế nhưng so với cái trò đùa ghê gớm ấy của cơ trời, thì sự dối trá kinh niên của con người xem ra chẳng thấm tháp vào đâu.
Ấy là chuyện cong, thẳng. Thế còn chuyện trong, đục… thì như thế nào?
Có một vị hoàng đế (mà người viết không nhớ rõ cụ thể là ai), vốn được các bầy tôi, lâu la xưng tụng là bậc thánh, đạo đức trong vắt như pha lê, không hề gợn chút dơ đục nào của cuộc đời. Một hôm cải trang vi hành (tất nhiên ngài sẽ đến lầu xanh. Bởi lầu xanh bao giờ cũng là đích cuối cùng của mọi cuộc vi hành trên thế gian này), ngài vớ được một cô gái đẹp lắm, mắt liếc như thu ba, thân hình ngon như đùi gà rán. Bèn tán tỉnh rồi đưa nhau vào phòng trọ. Lâu lắm rồi hoàng đế mới được một phen thỏa chí mày mò trên thân xác của một ả thần dân như vậy. Đang lúc hứng đến cao trào, vị hoàng đế bỗng buột mồm ngôn ra một lời dạy mà các thần dân của ngài ai ai cũng thuộc lòng từ thuở lên ba. Ngay lập tức, cô gái kia phát hiện ra chân tướng của ngài và kiên quyết cự tuyệt. Ngài năn nỉ thế nào cũng vô ích. Đành tiếc nuối nuốt nước bọt, mặc quần áo vào rồi than thở, rằng giá ta đừng mang tiếng là một kẻ đạo đức trong suốt như pha lê thì có phải đỡ thiệt thòi. Đằng này… Té ra lũ bầy tôi kia sở dĩ xưng tụng ta như thế đâu phải vì chúng yêu ta, mà chính vì cái lợi ích của chúng…
Sách Phật kể rằng trong một kiếp, Đề Bà Đạt Đa và Phật cùng đầu thai làm con cá chép. Con cá chép là Đề Bà Đạt Đa chỉ thích bơi vào chỗ dòng nước trong vắt để phô bày cái hình dáng tuyệt đẹp của mình. Những giống xấu xí khác như cá mại, cá mè, cả lũ đòng đong cân cấn cứ rùng rùng bám theo, vừa bơi vừa luôn miệng trầm trồ. Trái lại, con cá chép là Phật thì chỉ luẩn quẩn trong những chỗ nước đục, chẳng con nào thèm để ý tới làm gì. Một bữa có con chim bói cá đậu trên cây nhòm xuống. Trong làn nước trong vắt, nó nom rõ con cá chép Đề Bà Đạt Đa, liền lao xuống đớp gọn rồi nuốt chửng vào bụng. Đề Bà Đạt Đa chui vào bụng con bói cá, chẳng bao lâu bị nó tiêu hóa , biến thành một cục phân. Con bói cá bay qua sông, ỉa cục phân đó xuống giữa đàn cá vẫn thường bơi theo Đề Bà Đạt Đa khi trước. Lập tức, từ cá mại, cá mè đến lũ đòng đong cân cấn đều tỏ ra hết sức ghê tởm. Con nào con nấy vội cố hết sức bơi vào chỗ nước đục để lẩn trốn. Sau đây là mẩu đối thoại giữa cục phân Đề Bà Đạt Đa và Phật:
“Ngài thấy tôi bây giờ so với trước thế nào?“   - Cục phân hỏi.
“Không khác gì cả“ – Phật trả lời.
“Thế tại sao lũ mạt hạng kia giờ lại xa lánh tôi?“   - Cục phân hỏi tiếp.
“Bởi bây giờ chúng mới nhìn rõ ngài thực ra là cái gì“ – Phật trả lời.
“Ôi! Giá như ta đừng chọn chỗ nước trong“ – Cục phân than thở.
Câu chuyện chỉ đơn giản thế. Vậy mà có một số học thuyết rất đứng đắn đã căn cứ vào đó để chứng minh một cách đầy thuyết phục, rằng Đề Bà Đạt Đa nếu không là thủy tổ của cả loài người nói chung, thì ít nhất cũng là thủy tổ của cái giống mũi tẹt da vàng.
Chuyện khác: trong một lần giảng giáo lý Đại thừa, một vị Tổ của thiền tông kể rằng kiếp trước ông từng là một con sáo. Một bữa đang bay lượn, chợt bắt gặp một quả bầu rất to. Bèn khoét một lỗ rồi chui vào. Bảy bảy bốn chín ngày nằm trong đó, chén hết già nửa ruột bầu thì bỗng ngộ ra ba nghìn thế giới. Mừng vì đắc đạo, vị thiền sư (con sáo) bèn chui ra khỏi quả bầu rồi bay mãi, bay mãi… Bầu trời trước mắt ông như khác hẳn, rộng bao la và thơm ngát mùi hương. Tất cả, từ một sợi lông cho đến những quả núi, cánh rừng… đều được thu vào cặp mắt chỉ bé bằng hai hạt tấm của ông. Mới hay sự đắc đạo là vô cùng thỏa chí. Có lẽ ông sẽ bay mãi như thế, tự do tự tại, như lai như ý không gì câu thúc, không cần phải xác định phương hướng… nếu ông không vô tình bay qua một dòng suối. Dòng suối trong veo, nhìn thấu tận đáy. Nước suối ấy có thể rửa sạch mọi thứ. Có ai ngờ nó lại “rửa“ luôn cả cái tâm Phật vừa mới được nhen nhúm trong ông. Soi mình xuống dưới, thiền sư bỗng thấy mình rõ ràng đang là một… con nhặng. Vậy mà vẫn không hề kinh ngạc (đã là thiền sư thì không bao giờ kinh ngạc). Có điều đôi cánh của con nhặng lúc đó dường như cứ bị hút về một phương nào đấy không thể cưỡng nổi. Lại bay mãi, bay mãi… Cuối cùng té ra ông lại trở về đúng cái quả bầu ấy. Bấy giờ nó đã thối nhủn từ bao giờ. Con nhặng là ông bị cái mùi thối ấy hấp dẫn, lập tức lao vào thò vòi ra hút lấy hút để… Thế là toi một kiếp tu hành. Toi từ lúc nào? Thiền sư hỏi rồi tự trả lời: không phải vì ông hút phải cái thứ ruột bầu thối tha ấy. Mà toi vào đúng cái lúc ông thấy mình là một con nhặng. Kể đến đây, thiền sư chép miệng: giá như dòng suối kia đừng có trong vắt như thế, mà nó đục ngầu, thì ông đã đắc đạo ngay từ kiếp đó rồi. Và câu chuyện ấy đã giải thích tại sao con người hiện đại ngày nay không thể trở thành thiền sư.
Cũng vẫn vị Tổ ấy, một hôm muốn truyền lại y bát, bèn hỏi đệ tử thứ nhất:
“Trước mắt con là hai cốc nước, một trong, một đục. Con chọn cốc nào?“.  
Đệ tử thứ nhất trả lời:
“Con chọn cốc nước trong“. 
Sư nhắm mắt không nói gì. Để tử thứ nhất lui ra. Đệ tử thứ hai vào. Thiền sư vẫn hỏi câu ấy. Đệ tử thứ hai trả lời:
“Con chọn cốc nước đục“. 
Sư lại nhắm mắt không nói gì. Đến lượt đệ tử thứ ba. Nghe xong câu hỏi, đệ tử thứ ba lặng im hồi lâu. Sư hỏi:
“Sao con không trả lời?“.  
Đệ tử thứ ba bảo:
“Con không thể nào phân biệt được thế nào là trong, thế nào là đục…“
Sư liền trao ngay y bát.
3/2007
Phạm Lưu Vũ
Phần nhận xét hiển thị trên trang