Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 14 tháng 12, 2014

Điện ảnh và nền chính trị ở Nga và Trung Quốc


Vladimir-Putin-shakes-han-011
Nguồn: Ian Buruma, “Rusia and China: The Movie“, Project Syndicate, 11/11/2014.
Biên dịch: Phan Việt Hưng | Hiệu đính: Lê Xuân Hùng
Thời đại chúng ta đang sống thường được phản ánh một cách rõ nét qua tấm gương nghệ thuật. Nhiều tác phẩm đã viết về thời kỳ hậu cộng sản ở Nga và Trung Quốc. Tuy nhiên, 2 bộ phim gần đây, “Thiên chủ định” (A Touch of Sin) của Giả Chương Kha sản xuất năm 2013 ở Trung Quốc và “Thủy quái” (Leviathan) của Andrew Zviagintsev sản xuất năm 2014 ở Nga, cho thấy bối cảnh xã hội và chính trị của hai nước này một cách trung thực hơn bất kỳ sách báo in  nào tôi đã từng xem.
Bộ phim của Giả gồm bốn câu chuyện về những hành vi bạo lực được kết nối với nhau, hầu hết được lấy từ những câu chuyện trên báo chí hiện nay. “Thủy quái” thì nói về một người đàn ông tử tế nhưng cuộc đời bị hủy hoại bởi thị trưởng thành phố với sự tiếp tay của Giáo hội Chính thống Nga và một quan tòa tham nhũng.
Hai bộ phim đều rất tuyệt vời về mặt hình ảnh bất chấp cốt truyện ảm đạm của chúng. Bầu trời đêm trên bãi biển phía Bắc nước Nga đẹp một cách say đắm; và Giả cũng làm một rừng bê tông và kính của Thâm Quyến, thành phố khổng lồ nằm giữa Quảng Châu và Hồng Kông, trở nên tráng lệ. Sự lôi cuốn ở những câu chuyện huyền bí cũng làm nên điểm chung của 2 bộ phim, cuốn Ước bá ký (Book of Job)  trong “Thủy quái” và những tình huống võ thuật hư cấu trong “Thiên chủ định”.
Bất động sản cũng chiếm một vai trò to lớn trong cả 2 bộ phim. Trong câu chuyện đầu tiên của “Thiên chủ định”, một quan chức ở địa phương đã trở thành một tỉ phú sở hữu cả máy bay riêng nhờ việc tước đoạt và bán đi các tài sản thuộc sở hữu tập thể trong vùng. Mọi thứ ở đất nước Trung Quốc hiện đại này – nơi Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn nắm quyền nhưng những tư tưởng của Karl Marx thì đã chết giống như ở Nga – đều có thể đem bán, ngay cả những thứ đại diện cho chế độ Mao cũ. Trong một cảnh khác, chúng ta có thể thấy những cô gái bán dâm trong một hộp đêm kích thích các doanh nhân Hoa kiều bằng cách diễu qua diễu lại trong những bộ quân phục gợi cảm của Quân Giải phóng Nhân dân.
Câu chuyện trong “Thủy quái” tập trung vào một ngôi nhà xây bởi một người thợ máy tên Nikolay. Tài sản của ông bị chiếm đoạt bởi vị thị trưởng tham ô, người được Giáo hội Chính thống hối lộ để giành được quyền xây một nhà thờ mới trên đất của Nikolay. Nikolay bị gán tội giết vợ và bị xử trong một phiên tòa được sắp đặt.
Tầm quan trọng của bất động sản trong hai bộ phim này không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên. Bất động sản, xây dựng và đất đai là những phương tiện quyền lực phổ biến trong các xã hội mafia – ở Trung Quốc và Nga không hề kém ở Sicily. Một lý do Trung Quốc trở thành một công trường khổng lồ, với những thành phố mới mọc lên chỉ sau một đêm, là bởi điều này thúc đẩy một nền kinh tế tăng trưởng nóng và đầy rẫy tham nhũng, được điều khiển bởi một Đảng Lê-nin-nít vốn đã tiền tệ hóa quyền lực chính trị bằng việc tước đoạt đất đai và xây dựng.
Việc Tổng thống Vladimir Putin của Đảng Nước Nga Thống nhất, khác với Đảng Cộng sản Trung Quốc, không tuyên bố theo tư tưởng Marx dưới bất kỳ hình thức nào cũng không quan trọng gì. Cách mà chính phủ hai nước hoạt động vẫn tương tự nhau: các ông chủ đảng, các nhà tài phiệt và các quan chức tham nhũng chia nhau quyền lực, trong khi vẫn nâng cao chủ nghĩa Sô-vanh và các giá trị truyền thống – dù đó là các giá trị của Giáo hội Chính thống hay đạo Khổng. Các quan tòa bị mua chuộc hoặc bị đe dọa để đảm bảo những ông chủ này nằm ngoài vòng pháp luật.
Đảng của ông Putin được bầu lên ở Nga, cũng giống như đảng Công lý và Phát triển của Tổng thống Recen Tayyip Erdogan ở Thổ Nhĩ Kỳ, đảng Fidesz của Thủ tướng Viktor Orban ở Hungary và chính quyền quân sự của Tổng thống Abdel Fattah el-Sisi ở Ai Cập. Đảng Cộng sản Trung Quốc không được bầu lên như vậy. Tuy nhiên, điều này cũng không ảnh hưởng đến điểm chung của các chính quyền này: sự hòa trộn của kinh doanh tư bản chủ nghĩa và chính trị độc tài.
Hình mẫu chính trị này được xem như một đối thủ đáng gờm của nền dân chủ tự do kiểu Mỹ, và có thể thực sự là như vậy. Nhưng trong suốt Chiến tranh Lạnh, nền tư bản độc tài, thường được đặt dưới các chính quyền quân sự, mang tính chống cộng và rất thân Mỹ. Nhà độc tài Park Chung-hee, cha của Tổng thống Hàn Quốc đương nhiệm Park Geun-hye, cũng như tướng Augusto Pinochet ở Chile, dưới nhiều góc độ là những người tiên phong của hình thức xã hội mà chúng ta đang thấy ở Nga và Trung Quốc.
Vì những nền độc tài ở những quốc gia vệ tinh của Mỹ kết thúc gần như cùng lúc với Chiến tranh Lạnh và bị thay thế bởi các chính phủ dân chủ tự do, rất nhiều người tin rằng dân chủ tự do và tư bản cuối cùng sẽ hội tụ ở bất kỳ đâu. Tự do chính trị có lợi cho kinh doanh và ngược lại.
Niềm tin không căn cứ của thế kỷ 20 này đã tan vỡ. Vào đầu năm nay, Orban tuyên bố rằng dân chủ tự do không còn là một mô hình khả thi. Ông lấy dẫn chứng về Nga và Trung Quốc, không phải vì ý thức hệ, mà vì ông cho rằng hai nước này có sức cạnh tranh mạnh hơn trên thế giới ngày nay.
Đương nhiên có những lý do để chúng ta nghi ngờ điều này. Nền kinh tế Nga quá phụ thuộc vào dầu lửa và các nguồn tài nguyên thiên nhiên; và tính chính danh của hệ thống độc đảng Trung Quốc có thể sụp đổ nhanh chóng trong một cuộc khủng hoảng kinh tế. Cách mà các chính quyền phi tự do sử dụng luật pháp phục vụ các mục đích của chúng cũng không giúp tăng cường niềm tin của các nhà đầu tư, ít nhất là trong dài hạn.
Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại, những xã hội được lột tả một cách chua chát trong “Thiên chủ định” và “Thủy quái” vẫn tỏ ra tốt đẹp trong mắt những  người đã vỡ mộng với nền kinh tế trì trệ của châu Âu hay tình trạng bế tắc của nền chính trị Mỹ. Những doanh nhân, nghệ sĩ, kiến trúc sư… ở phương Tây, những người cần một nguồn vốn lớn cho những dự án của họ, thích làm việc với những chính quyền độc tài “được việc”. Những nhà lý luận phi tự do cực tả hay cực hữu ngưỡng mộ những lãnh đạo độc tài dám đứng ra đối đầu với Mỹ.
“Thiên chủ định” nhận được sự ca ngợi trên khắp thế giới ngoài Trung Quốc. Ngược lại, “Thủy quái” được chọn làm phim chính thức của Nga tham dự giải Oscar.
Có thể các nhà lãnh đạo Trung Quốc thiếu tự tin hơn ông Putin. Hoặc có thể Putin khôn ngoan hơn. Những người ủng hộ ông ở Nga hiếm khi xem một bộ phim nghệ thuật chứ đừng nói tới việc bị ảnh hưởng bởi nó; và một chút tự do ngôn luận này có thể thuyết phục người ngoài rằng vẫn còn một ít tự do dân chủ nào đó còn sót lại trong chính quyền độc tài của Putin – ít nhất trước khi niềm tin này cũng tan biến.
Ian Buruma là Giáo sư khoa Dân chủ, Nhân quyền, và Báo chí tại Đại học Bard. Ông là tác giả của nhiều cuốn sách, bao gồm Murder in Amsterdam: The Death of Theo Van Gogh and the Limits of Tolerance, và gần đây nhất là cuốn Year Zero: A History of 1945.
- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/12/15/dien-anh-doc-tai-nga-trung-quoc/#sthash.u3g1LJNH.dpuf

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngôi chùa tuyệt đẹp cạnh thác Bản Giốc

Chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc tọa lạc trên diện tích 2ha ngay tại thác Bản Giốc. Ngôi chùa đầu tiên trên mảnh đất biên cương phía bắc của Tổ quốc với khiến trúc chùa Việt truyền thống sẽ khánh thành vào ngày 15/12/2014.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khi đến chùa Bản Giốc đã đánh giá cao việc T.Ư GHPGVN xây dựng chùa Phật tích Trúc Lâm Bản Giốc.
Chủ tịch nước khẳng định sự hiện diện của ngôi chùa tại Thác Bản Giốc góp phần nâng cao đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc và sự bình yên, hữu nghị tại khu vực biên giới, đồng thời cũng thúc đẩy phát triển du lịch của tỉnh Cao Bằng.
Chùa được khởi công ngày 15/6/2013 và sẽ khánh thành vào ngày 15/12/2014.
Chùa được xây dựng trên sườn núi với đầy đủ các hạng mục như: Tam quan, đền thờ vị anh hùng Nùng Trí Cao, lầu tượng Quán Thế Âm Bồ Tát, tam bảo, nhà tổ, nhà tăng xá, bãi đỗ xe và các công trình phụ khác.
Phía Bắc chùa giáp tỉnh lộ 211 và thác Bản Giốc; phía Nam tựa vào núi Phia Nhằm; phía Đông giáp với khu Resort Bản Giốc; phía Tây tiếp giáp khu dân cư xóm Bản Giốc.
Chùa được quy hoạch xây dựng theo đúng không gian, bố cục của một ngôi chùa Việt truyền thống, hướng chính của chùa có thể nhìn thấy toàn cảnh thác Bản Giốc.
Những hình ảnh về ngôi chùa:
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Toàn cảnh chùa Phật tích Trúc Lâm Bản Giốc nhìn từ tỉnh lộ 211
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Đường dẫn từ tam quan chùa lên lầu tượng Bồ tát Quan thế âm, tam bảo, nhà tổ.
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Tam quan chùa nhìn từ tượng Bồ tát Quan thế âm
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Phải mất 6 tháng để làm mặt bằng xây dựng chùa, trước khi xây chùa, diện tích nơi đây là 1 quả núi nhìn xuống thác Bản Giốc
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo

chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo

chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Đứng từ lầu chuông có thể nhìn thấy thác Bản Giốc dưới chân núi
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Tượng Bồ tát Quan thế âm được đặt tại chùa từ tháng 1/2014.
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Những lan can bằng đã được vận chuyển từ Ninh Bình lên xây chùa
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Đằng sau chùa còn có những luống đất để trồng rau xanh
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo

chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Những người thợ giỏi từ Bắc Ninh đang gấp rút thi công chùa ở giai đoạn cuối trước khi khánh thành vào ngày 15/12 tới đây.
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Toàn cảnh chùa Phật Tích Trúc Lâm Bản Giốc nhìn từ trên cao. Đứng ở chùa có thể nhìn thấy thác Bản Giốc dưới chân núi
chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo

chùa, Phật Tích Trúc Lâm, Bản Giốc, Cao Bằng, biên cương, phật giáo
Một ngôi chùa đầu tiên trên mảnh đất biên cương phía bắc của Tổ quốc với khiến trúc của một ngôi chùa Việt truyền thống sẽ khánh thành vào ngày 15/12/2014

Phạm Hải
http://vietnamnet.vn/vn/xa-hoi/211006/ngoi-chua-tuyet-dep-canh-thac-ban-gioc.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

'Quả bom' lơ lửng trên Đồng bằng sông Cửu Long


Một ngày không xa tiếng Đàn ca tài tử sẽ không còn vang lên trên bến Ninh Kiều, và những người lái phà sông Hậu đất Sóc Trăng sẽ phải định kỳ nghỉ việc do các dòng sông cạn nước.
Những câu chuyện về đập thủy điện, đặc biệt những dự án thủy điện được xây dựng trên các con sông đa quốc gia như Mê Kông, luôn là vấn đề đặc biệt nhạy cảm, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến không chỉ những cộng đồng dân cư rộng lớn, mà còn đến quan hệ giữa các quốc gia liên quan. Hiện nay việc xây dựng đập Don Sahong trên dòng chính sông Mê Kông do chính phủ Lào đề xuất đang ở giai đoạn tham vấn ý kiến.
Với chiều dài khoảng 4.909 km (MRC), sông Mê Kông chảy qua các nước Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam, Mê Kông, đã ban tặng cho con người một đồng bằng châu thổ trù phú & tươi đẹp – là vựa lúa và vựa cá lớn nhất trên đất nước chúng ta. Vùng đồng bằng có tên gọi Cửu Long này, mỗi năm được bồi đắp bởi một lượng lớn phù sa trong tổng số hơn 150 triệu tấn hòa cùng 475 tỷ mét khối nước chảy qua trước khi đổ ra biển bằng 9 cửa sông. Hiện nay cửa Ba Thắc trên sông Hậu đã bị mất do bồi lấp. Cửa Ba Lai trên sông Tiền bị đóng do cống thủy lợi nên sông Cửu Long thực tế chỉ còn 7 cửa.
Hạ lưu Mê Kông (thuộc Campuchia, Lào, Thái Lan, Việt Nam ) với diện tích vào khoảng 606.000 km2 là nơi “Sông mẹ” cung cấp nơi ở và sinh kế cho khoảng 60 triệu người với nguồn tài nguyên nước dồi dào cùng hệ sinh thái vô cùng đặc hữu và phong phú.
Đầu xuôi, đuôi có lọt?
Với nguồn tài nguyên nước dồi dào cùng cấu tạo địa chất đặc thù, lưu vực Mê Kông là nơi lý tưởng cho phát triển thủy điện trên cả dòng nhánh và dòng chính. Ước tính tổng công suất thủy điện của khu vực hạ lưu vào khoảng 29.760 MW, trong đó 2,612 MW đang được khai thác và khoảng 3,574 MW đang được triển khai lắp đặt.
Trong số hơn 120 dự án thủy điện đã, đang và sẽ triển khai, 70% dự án nằm trên lãnh thổ Lào, 10% của Campuchia, còn lại thuộc VN.
Do nhu cầu phát triển kinh tế và an toàn năng lượng, bất chấp các cảnh báo về mất cân bằng sinh thái và các biến động môi trường do thủy điện trên dòng nhánh gây ra. Các nước ven sông vẫn khẩn trương khai thác nguồn năng lượng “sạch” với việc 71 con đập lớn nhỏ trên các dòng nhánh đã và đang được xây dựng. Cùng với đó là việc hầu hết các địa điểm còn lại có tính khả thi cho đặt nhà máy thủy điện trên dòng nhánh Mê Kông cũng đã được các nước quy hoạch hết
Do đa phần các dòng nhánh thường nằm gọn trong lãnh thổ một Quốc gia, nên rất khó cho các tổ chức Quốc tế hay khu vực có thể lên tiếng khi có thêm một con đập trên dòng nhánh được xây mới.
Khi chúng ta đang còn tự hào rằng Mê Kông, cùng với sông Amazon là hai con sông hiếm hoi còn lại trên TG vẫn giữ được dòng chảy tự nhiên trên dòng chính (tại hạ lưu), thì cũng là lúc các nước thành viên bắt đầu quan tâm đến tiềm năng thủy điện trên dòng chính này.
Thời điểm đập Xayaburi được CP Lào đưa ra tham vấn với các nước thành viên của Ủy hội sông Mê Kông (MRC) vào năm 2011, đã có rất nhiều ý kiến lo ngại về những tác động tiêu cực mà con đập này có thể gây ra cho dòng sông cùng HST của nó, đặc biệt về phía hạ lưu, trong đó có ĐBSCL của chúng ta. Khi đó nhà đầu tư đã giải thích rằng sẽ không quá lo ngại cho vùng Đồng bằng châu thổ của VN khi con đập này được thiết kế theo dạng đập tràn và hơn nữa vị trí của nó nằm khá xa, 1930 km so với cửa sông Cửu Long (theo đường cá bơi)
Tính chất ngoại giao đầy nhạy cảm giữa các QGTV của MRC đã tạo điều kiện cho Lào vượt qua dư luận và các lo ngại của cộng đồng ven sông để tiếp tục triển khai dự án. Kết quả là con đập này đã xuất hiện.
Nếu như một con đập Xayaburi không quá đe dọa vựa lúa của chúng ta thì cái mà mọi người lâu nay lo ngại và cũng đã dự báo trước – nguyên tắc “đầu xuôi đuôi lọt” đã thực sự bắt đầu với việc CP Lào đang lấy ý kiến tham vấn về việc xây dựng con đập thứ hai trên dòng chính – đập Don Sahong (nằm sát BG Camphuchia và khá gần VN). Sau Don Sahong sẽ là đập nào trong tổng số 9 con đập còn lại.
Như vậy, các nguy cơ đe dọa đến ĐBSCL của chúng ta đang ngày càng hiện hữu và lần này nếu đập Don Sahong vẫn tiếp tục được triển khai, thì trong tương lai gần, về cơ bản ĐBSCL sẽ gánh chịu rất nhiều ảnh hưởng bất lợi, trong đó bao gồm các ảnh hưởng sau:
Thứ nhất, các con đập sẽ làm cho mùa nước nổi của ĐBLCL ngắn lại, gây tổn thất đáng kể đến năng suất mùa vụ cũng như thủy sản. Khi tích nước các con đập sẽ khiến chế độ thủy văn bị “trễ làm ảnh hưởng đến việc thau chua, rửa mặn, ém phèn, đồng thời góp phần thay đổi cơ cấu mùa vụ..
Thứ hai, theo Peter Adamson (2009). Sau khi hoàn thành cả 8 con đập tại Trung Quốc, 90% tổng lượng phù sa khu vực này đóng góp cho Mê Kông sẽ bị chặn lại. Cộng với 11 con đập tại hạ lưu, có thể nói vùng ĐBSCL của chúng ta sẽ bị mất khoảng 90% tổng lượng phù sa nhận được so với trước kia.
Thiếu phù sa sẽ khiến nhiều nơi tại ĐBSCL bị cát bồi lấp và mất đất canh tác hay giảm độ màu mỡ của đồng ruộng. Phù sa giảm cũng đồng nghĩa với việc giảm năng suất sinh học sơ cấp và từ đó ảnh hưởng tiêu cực đến nghề cá do sản lượng cá sụt giảm – ảnh hưởng đến an ninh lương thực của khu vực và sinh kế của hàng triệu người.
Thứ ba, các con đập cũng tạo nên những bức tường nhân tạo ngăn cản các loài cá di cư sinh sản hoặc làm thay đổi HST dòng sông và sinh cảnh của nhiều loài cá hoặc bồi lấp những vực sâu của sông nơi từng là môi trường sống lý tưởng cho nhiều loài cá. Đặc biệt, sự mất mát về dinh dưỡng sẽ khiến cho khu vực bờ biển ven ĐBSCL bị giảm mạnh về sản lượng thủy sản. Còn rất nhiều ảnh hưởng khác như giao thông thủy, du lịch, chất lượng nước và môi trường và xã hội mà tôi không thể liệt kê hết được trong một bài viết.
Cái gì đang chờ đợi chúng ta?
Còn nhiều, nhiều nữa nguy cơ đang đe dọa những cây dừa Bến Tre, quả bưởi Năm Roi đất Vĩnh Long, con cá Basa An Giang và những đàn cá Linh mùa nước nổi xứ Đồng Tháp Mười.
Những ảnh hưởng về xã hội, kinh tế rồi cũng có thể giải quyết được bằng các cơ chế hợp tác sâu rộng và phù hợp hơn thông qua ý chí và thiện chí của các quốc gia.
Cái khó giải quyết nhất đó là xây đập thì dễ, phá đập thật khó hơn nhiều. Hãy hành động khi chưa quá muộn không chỉ để cứu một dòng sông, một vựa lúa mà để con cháu chúng ta không phải thiệt thòi vì ông cha chúng đã không làm tròn bổn phận khiến cho một dòng sông phải chết.
Hơn hết, cái mà tôi lo ngại nhất đó là một ngày không xa tiếng Đàn ca tài tử sẽ không còn vang lên trên bến Ninh Kiều, và những người lái phà sông Hậu đất Sóc Trăng sẽ phải định kỳ nghỉ việc do các dòng sông cạn nước.
Theo VIETNAMNET
Phần nhận xét hiển thị trên trang

NÓI LẠI CHUYỆN PHIM XÍCH LÔ

Thái Kế Toại (Đại tá Nguyên Giám đốc Điện ảnh CAND)

Tôi là một người trong cuộc. Lúc đó tôi đang là Trưởng phòng An ninh Văn hóa quốc gia, A25 Bộ Công an.
Chuyện bắt đầu như thế này:
Vào đầu thập niên 90 người Việt có một tài năng điện ảnh kiệt xuất. Người đó là đạo diễn Trần Anh Hùng.
Trần Anh Hùng tên Pháp là Guy Phimasset sinh ngày 5- 6- 1966 tại Mỹ Tho, quốc tịch Pháp. Bố mẹ TAH quê ở Nam Đàn, Nghệ An, theo đạo Thiên chúa, di cư vào Nam từ 1954, sang Lào sinh sống từ 1973, rồi sang Pháp năm 1975, hiện làm nghề may quần áo ở Pháp. TAH có một người em trai tên là Dũng sinh năm 1968 tên Pháp là Henry Phimasset, tốt nghiệp ngành kinh tế thương mại. Từ phim Xích Lô anh Dũng làm trợ lý đạo diễn cho TAH.
Tại Pháp TAH học và đậu tú tài văn chương bậc A, học Đại học Triết một năm rồi bỏ để thi vào học Trường Điện ảnh Lumière bốn năm, quay phim ngắn Thiếu phụ Nam Xươngtrong trường. Học xong chương trình TAH không thi tốt nghiệp, ở nhà viết một loạt kịch bản chào bán cho các hãng phim như:
Thiếu phụ Nam Xương, Hòn Vọng Phu, Saint Julien L’ Hospitalien,
Phim trinh thám dựa theo một cuốn tiểu thuyết của Nhật, năm nay đã quay tại Nhật.
Phim về cuộc chiến của giặc Cờ Đen ở Việt Nam năm 1910.
Phim về đời sống người Việt ở Pháp.
Mùi đu đủ xanh. Phim đã được sản xuất.
Cyclo ( Xích lô). Phim đã được sản xuất.
Rượu đế củ kiệu. Đề tài Việt Nam dự định quay ở Hà Nội.
Những ngày không mưa. Đã quay ở Hà Nội.
Năm 1991 lần đầu tiên TAH về Việt Nam để chọn cảnh cho phim Mùi đu đủ xanh nhưng không thực hiện được việc quay phim ở Việt Nam vì lí do tài chính mà chỉ có thu thanh tiếng động Việt Nam trong tháng 10- 1992.
Tại Liên hoan phim Cannes 1993 Mùi đu đủ xanh đoạt Giải Caméra vàng. Ngày 15-7-1993 Trần Anh Hùng cùng Christophe Rosignon Giám đốc hãng LAZENNEC FILM vào Việt Nam mang phim Mùi đu đủ xanh chiếu báo cáo cho Hội đồng duyệt phim quốc gia và xin đi khảo sát thực tế cho kịch bản phim Xích lô.
Từ tháng 2 đến tháng 5 – 1994 TAH vào sửa chữa và trình duyệt kịch bản phim Xích lô. Trong thời gian này phim Mùi đu đủ xanh được gửi đi dự giải OSCAD, lọt vào chung kết cùng bốn phim khác. TAH cùng Trần Nữ Yên Khê nữ diễn viên vợ chưa cưới của TAH, Rosignnon và Giám đốc Hãng phim Giải phóng Trần Thanh Hùng đi Hollywood dự lễ trao giải OSCAR năm 1994.
Cần nói một chút về ảnh hưởng của phim Mùi đu đủ xanh. Tôi quan sát thấy bộ phim này mang đến một giọng điệu kể chuyện lạ khác với cách kể chuyện truyền thống trong phim của chúng ta và cách tác giả khai thác những chi tiết đời sống nông thôn Nam Bộ một cách chuyên nghiệp, hiện đại. Một vài nghệ sĩ đã mượn tôi kịch bản Mùi đu đủ xanh để tham khảo. Sau đó tôi thấy quả là ngôn ngữ Trần Anh Hùng có tác động tạo ra sự chuyển biến ở một số tác phẩm, trong đó có thể nói có cả nghệ sĩ cỡ hàng đầu trong nước. Trong bối cảnh lúc ấy, sự tác động đó là quý giá.
Ngày 6-4-1994 Thứ trưởng BVHTT Nguyễn Trung Kiên ký Quyết định số 501 HTQT/ QĐ đồng ý cho phép Hãng phim Giải phóng cung cấp dịch vụ cho hãng Lazenec Film thực hiện bộ phim truyện Xích lô của đạo diễn Trần Anh Hùng tại Việt Nam.
Xin nói thêm để có kịch bản trình duyệt lãnh đạo Bộ VHTT các chuyên viên, lãnh đạo Cục Điện ảnh, Vụ HTQT Bộ VHTT và A25 trong đó có tôi đã phải đọc và giúp tác giả sửa chữa nhiều lần. Đến khi nội dung kịch bản đạt yêu cầu, có chính kiến của A25 ủng hộ, Cục Điện ảnh ra văn bản Giám định nội dung kịch bản trình lãnh đạo Bộ VHTT ký quyết định cho phép sản xuất phim. Tôi phải đọc kịch bản Xích lô nhiều lần. Với bản thảo lần cuối cùng tôi chấp nhận được về nội dung và tin rằng với ý đồ của TAH, cách trình bày câu chuyện đầy ấn tượng của anh sẽ có một bộ phim độc đáo.
Vì phim được thực hiện chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh, lại do Hãng phim Giải phóng cung cấp dịch vụ nên A25 giao cho A25B tức bộ phận thường trực của A25 ở phía Nam do anh Trương Hòa Bình phụ trách, trong đó có bộ phận của đơn vị tôi anh Hoàng Phước Thuận và anh Bùi Dương Minh phụ trách công tác bảo vệ.
Phim Xích lô quay trong 77 ngày từ 4-11-1994 đến 11-2-1995. Trong thời gian đó giám sát viên A25b liên tục làm việc cùng đoàn phim. Tôi được nghe báo cáo có những cảnh trên hiện trường thấy có thể gây tác động không tốt, cán bộ A25b còn yêu cầu thay đổi chi tiết. Ví dụ trường đoạn đứa bé con mụ trùm băng cướp bôi sơn đỏ vào người chạy ra đường bị xe chẹt chết, giám sát viên không yên tâm vì mầu đỏ có thể gây phản cảm đã đề nghị TAH thay bằng sơn màu xanh lơ. TAH đã đồng ý thay đổi nhiều phân đoạn theo ý các cán bộ giám sát.
Từ 21-4 đến 6-5- 1995 thu tiếng động thật cho phim tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn có cán bộ giám sát của A25b.
Từ 29-8 đến 9-9-1995 Trần Anh Hùng cùng các Đoàn nghệ sĩ của Xích lô đi dự Liên hoan phim VENISE lần thứ 52 tại Italya. Trong đoàn có diễn viên Lê Văn Lộc vai Xích lô, Đinh Hoài Ngọc trợ lý đạo diến kiêm phiên dịch của đoàn phim, hai vợ chồng nghệ sĩ Nguyễn Văn Đây Chủ nhiệm kiêm diễn viên Thầy ru con.
Đêm 9-9-1995 phim Xích lô được đăng quang nhận Giải thưởng lớn Sư tử vàng. Tôi và nhiều đồng nghiệp, nghệ sĩ điện ảnh cũng xúc động vì cái tin này. Lần đầu tiên một đạo diễn người Việt Nam còn rất trẻ, một phim về Việt Nam hiện tại, làm tại Việt Nam với các diễn viên Việt Nam được một giải thưởng vào loại danh giá nhất của điện ảnh thế giới. Đấy là một dịp để quảng bá cho đất nước Việt Nam, cho con người Việt Nam và cho cả tương lai của điện ảnh Việt Nam nữa nếu nó quy tụ được những người con tài năng đang sống ngoài đất nước.
Nhưng thật đáng tiếc, ngay sau đó tôi được nghe đã có những phản ứng bất lợi choXích lô. Sớm nhất là ý kiến của ông Lý Chánh Trung từ bên Pháp về làm xao động tại thành phố Hồ Chí Minh… trong lúc dư luận ồn ã như vậy thì bản phim nhựa chưa về đến Việt Nam. Hầu hết người Việt Nam chưa biết mặt mũi bộ phim được Giải Sư tử vàng là thế nào.
Tôi nhớ một buổi chiều nóng nực cuối tháng 9-1995 tại phòng họp của Cục Điện ảnh, phòng họp thôi, ngày ấy chưa có phòng chiếu hiện đại như bây giờ, Xích lô được trình chiều bằng băng video. Thành phần xem phim gồm có Hội đồng duyệt phim quốc gia và một số cán bộ của Ban Tuyên huấn, Bộ VHTT, Hội ĐAVN. Công an có anh Khổng Minh Dụ, tôi và anh Nguyễn Trọng Đạo. Tôi thấy nội dung phim vẫn như kịch bản nhưng cách dựng phim và sử dụng âm thanh, màu sắc của Trần Anh Hùng đã tạo ra một ấn tượng dữ dội. Bây giờ thì cái kiểu âm thanh đó đã trở nên bình thường vì người ta đã quen với âm thanh Xơ rao [surround -VV] các phim bom tấn của Mỹ của châu Âu nhưng lúc đó tôi thấy mấy gương mặt thật tội nghiệp. Có người còn la hét đòi giảm âm lượng. Âm thanh của phim gây sốc cho những người thần kinh yếu. Trong không khí oi bức, nhộn nhạo với cách tổ chức chiếu phim cẩu thả, Xích lô đã tạo ra một ấn tượng để tự giết nó. Cuối cùng có một cuộc hội ý nhưng lộn xộn và ý kiến không thống nhất, đợi bàn lại với một buổi chiếu bản phim nhựa.
Sau buổi chiếu có các bài báo Suy ngẫm sau khi xem phim Xích lô – Giải thưởng Sư tử vàng của Nguyễn Tường trên báo Tuần tin tức số 40 (2-8 / 10/ 1995), Phim Cyclo: Việt Nam là phương tiện hay là đối tượng phản ánh trên báo Văn Hóa ngày 15-10-1995.
Hình như có một thế lực vô hình nào đó tạo ra sụ trấn áp Xich lô. Trong cơ chế bộ máy của chúng ta những người lãnh đạo nhiều khi rất sợ những người cực đoan tả khuynh hay nhân danh chế độ XHCN như thế. Chẳng lẽ vài người như thế lại tài giỏi, sáng suốt hơn một guồng máy làm việc của chúng tôi ư? Một guồng máy chuyên môn trực tiếp với nghề nghiệp phải nghĩ kỹ hơn họ chứ.
Bộ trưởng Bộ VHTT đã yêu cầu Hãng phim Giải phóng kiểm điểm về việc hợp tác với Hãng Lazennec làm phim Xích lô. Sau đó có quyết định cấm chiếu phim Xích lô ở Việt Nam. Còn tôi và A25 không được hỏi ý kiến về việc này. Tôi dự định khi có một buổi họp đàng hoàng hơn với bản phim nhựa sẽ phát biểu chính kiến của mình. Tất nhiên là tôi bảo vệ đạo diễn Trần Anh Hùng và người bạn của tôi Trần Thanh Hùng Giám đốc Hãng phim Giải phóng một người đầy nhiệt huyết và mạnh dạn tìm cầu nối điện ảnh nước nhà với thế giới.
Vậy mà tôi cứ chờ… Cuối cùng cho đến nay không hề có một buổi họp như thế. Tôi không rõ những cá nhân nào đã làm các văn bản tham mưu cho lãnh đạo Bộ VHTT ra một quyết định vội vã như vậy. Với một quyết định của ông Bộ trưởng Bộ VHTT người ta đã coi Trần Anh Hùng như một nghệ sĩ chống chế độ, ra tiếp một cái lệnh cấm anh về nước trong nhiều năm.
Quay lại nội dung phim Xich lô. Bộ phim đã gây ra sự phân hóa cao độ trong số người đã được xem phim. Tôi hỏi ý kiến một số nghệ sĩ, người khen thì khen hết lời, người chê thì cũng chê thậm tệ. Nhưng tựu trung người ta đều cho rằng nó trình bày thực trạng xã hội một cách táo bạo mới mẻ quá. Ấn tượng của nó mãnh liệt quá. Các bài báo lên án phim Xích lô nói gì? Người ta cho là bộ phim đầy những hình ảnh bạo lực, nhiều cảnh sex và hiện thực trong phim không đúng với thực tế Việt Nam.
Sau này các đĩa phim Xích lô được bán chui ở trong nước nhưng bản quay trộm chất lượng xấu. Anh Ba Đây có cho tôi mượn một cái băng video din, tôi lại cho bạn tôi Lê Cẩm Lượng ở Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh sao lại cho sinh viên xem.
Tôi cứ tự hỏi tại sao Liên hoan phim Venise năm 1995 người ta trao giải Sư tử vàng cho phim Xích lô? Lẽ ra các nhà phê bình phim Việt Nam phải giải đáp câu hỏi đó. Có lẽ vì sợ hãi Bộ VHTT mà họ im lặng. Không một ai bênh vực cho bộ phim tội nghiệp đó.
Chả lẽ LHP Venise chỉ nhằm chống Việt Nam? Chả lẽ vì chống Việt Nam Ban Giám khảo lại hạ mình để trao giải cho một bộ phim mà người Việt Nam cho là thấp kém? Lý trí của một người tỉnh táo có thiện chí giải đáp câu này không khó lắm.
Ở phim Xích lô, Trần Anh Hùng trình bày một phong cách khác hẳn Mùi đu đủ xanh.Tôi cho rằng với những đạo diễn có biên độ phong cách giữa các tác phẩm xa nhau như vậy là một tài năng. Nhịp điệu của Xích lô co dãn thất thường, chất liệu và cốt truyện Á Đông được trình bày với các thủ pháp ấn tượng hậu hiện đại. Các hình tượng mang tính ẩn dụ cao, mang cả tinh thần triết học, nó cho người ta thấy cuộc sống các xã hội Á Đông kiểu như Việt Nam đang vươn tới thị trường và thế giới hiện đại như thế nào cùng cái giá mà nó phải trả, cái giá rất đắt, thậm chí kinh hoàng. Tuy vậy TAH đã đưa ra được lời giải cho câu hỏi đó. Gìn giữ gia đình là chỗ cứu rỗi cho con người. Thực trạng xã hội đen hôm nay sau 15 năm cho thấy đã vượt qúa xa những cảnh báo của anh.
Sau này hệ lụy của vụ Xích lô còn theo tôi và Trần Anh Hùng khi tôi chuyển sang làm Giám đốc Điện ảnh CAND. Giữa năm 1998 tôi hợp tác với Hãng Laennec Film. Tôi đã tạo điều kiện cho TAH về nước đi thăm Hà Nội và một số nơi để viết một kịch bản phim mới. Chúng tôi nói chuyện nhiều về những biến đổi của Hà Nội. Đầu tiên Hùng muốn ba người đàn bà Hùng yêu quý cùng đóng trong một bộ phim. Như Quỳnh, Lê Khanh, Trần Nữ Yên Khê. Sau Hùng định hình ý tưởng, cho ba người này vào dòng xoáy của một gia đình gốc Hà Nội lâu đời đang rạn vỡ vì các tác động của đời sống hiện đại. Hùng vẫn băn khoăn về việc bảo vệ các giá trị của gia đình Á Đông. Đó là kịch bản phim Những ngày không mưa.
Kịch bản Những ngày không mưa cũng phải sửa chữa nhiều lần, cuối cùng cũng được ĐACAND chấp nhận và chuẩn bị trình Cục Điện ảnh thì rắc rối lại rơi xuống.
Báo Quân đội nhân dân ngày 23-8-1998 đăng bài  Nội và Sài Gòn thời mở cửa qua cách nhìn phiến diện của đạo diễn Trần Anh Hùng. Bút pháp của tác giả khá chuyên nghiệp, có thể là một nhà phê bình chuyên nghiệp ở Cục Điện ảnh nhưng ký tên Hạnh Lê.
Tiếp theo báo Văn Nghệ số 36 ngày 5-9-1998 đăng bài Cần một chữ Tâm khi làm phim về Việt Nam. Tác giả là Phạm Viết Đào, một người đã có nhiều chỉ trích gay gắt ngành điện ảnh.
Điều có vẻ vô lý và không đàng hoàng cho lắm là sự phê phán nhằm vào một kịch bản còn ở thời kỳ bí mật, chưa trình duyệt, chưa công bố chỉ có những người có trách nhiệm mới được cầm nó, lý lẽ phê phán với những tiêu chí không phải là tiêu chí nghệ thuật, phiến diện, thô thiển, nặng về quy chụp chính trị. Để thêm nặng đòn người ta còn lật lại cả phim Xích lô, tức là Trần Anh Hùng chống Việt Nam có cả quá trình, có cảhệ thống quan điểm
Thời gian này tại Bộ VHTT đang có mâu thuẫn của một vài người với Cục Điện ảnh, với anh Nguyễn Khoa Điềm về vấn đề hợp tác làm phim với nước ngoài. Theo tôi mâu thuẫn này không phải là bản chất vấn đề hợp tác làm phim với nước ngoài mà xuất phát từ một góc độ khác nhưng hợp tác làm phim với nước ngoài là một cái cớ tốt nhất có thể lợi dụng vì nó rất dễ bị khai thác về chính trị. Anh em nghệ sĩ chúng ta nhiều khi bị những cú đòn oan trong một xã hội lỏng lẻo về pháp luật như thế.
Trần Anh Hùng đưa cho tôi bản thảo bài viết của anh để trả lời hai bài báo ở trên.
Về phim Xích lô TAH viết:
Để nói rõ sự thật về tôi, trước hết tôi xin nói đến vấn đề bạo lực trong phim Cyclo. Người ta thấy bạo lực trong phim này rất ghê tởm. Tôi cho đó là điều tốt. Bạo lực phải đưa ra một cảm giác ghê tởm. Đây không phải là một loại bạo lực giải trí. Và phim này đoạt giải Sư Tử Vàng tại Venise không phải “về thành công trong thể loại phim bạo lực” như có người Việt Nam mới viết trên báo. Trong liên hoan Phim Venise không có phân biệt thể loại.
“Chúng tôi trao giải Sư Tử Vàng cho phim Cyclo về phong cách thể hiện bạo lực”. Đây là lời nói của ông Jorge Semprun thì cái từ “bạo lực” trong miệng ông có một giá trị đặc biệt.
Jorge Semprun là một nhà văn, cũng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa của Tây Ban Nha trước kia. Và cái điều quan trọng nhất có liên quan đến bạo lực là ông ta đã bị giam trong trại tập trung của Đức trong Thế Chiến Thứ Hai, ông đã thấy cái bạo lực và cái chết của mình rất rõ ràng. Vậy thì ông ta thừa biết bạo lực là như thế nào và thế nào là cái nhìn đạo đức về bạo lực và thế nào là kích động bạo lực.
Khi tôi làm phim Cyclo tôi không hề nghĩ đến chuyện bôi nhọ đất nước của tôi. Tôi là một nghệ sĩ Việt Nam định cư ở nước ngoài. Và Tổ quốc Việt Nam rất thiêng liêng đối với tôi. Nếu ai không hiểu về tôi mà kết luận vội vàng về tôi thì đó là một ác cảm ghê tởm tôi không thể tưởng tượng nổi… Cái mục đích của tôi khi làm phim này là để đưa vào nền Điện ảnh thế giới một tác phẩm nghệ thuật do một người Việt Nam làm.
Và tôi chọn một con đường đi cực kỳ khó khăn là vì phim Cyclo không phải là một loại phim dễ thương. Sự giằng xé giữa cái thiện và cái ác là một đề tài rất nặng nề, rất khó xử. Đã nói đến cái thiện và cái ác thì đừng nói đến sự cân bằng giữa hai khái niệm này. Cái ác thường phô trương một cách ly kỳ. Còn cái thiện thì không. Cái thiện không phải là loại sức mạnh biểu hiện ở bên ngoài. Phim Cyclo gắn bó rất chặt chẽ với cái ý này. Để tránh sự giả tạo và để gần sự thật, phim Cyclo dành cho cái thiện một chỗ đứng đặc biệt, đó là giữa hai hình ảnh, giữa hai cảnh, ở khoảng trống giữa hai hàng chữ. Phong cách mô tả cái thiện qua âm bản tạo cho tâm hồn thèm muốn cái thiện và đi tìm nó. Ai cũng biết trong xã hội nào cũng có mảng sáng và mảng tối. Đó cũng có nghĩa là thiện và ác. Tôi muốn thể hiện cái ác ghê gớm bao nhiêu thì sụ tồn tại và giá trị của cái thiện càng lớn bấy nhiêu.
… Tôi xin kể một giai thoại rất riêng tư đã đến với tôi trong liên hoan Phim Venise làm cho tôi hiểu rõ vì sao tôi phải đấu tranh quyết liệt để thuyết phục những nhà sản xuất phải để cho tôi làm phim nói tiếng Việt. Việc này là rất phức tạp vì không có một lý do gì khiến cho một người Pháp bỏ tiền ra để làm một cuốn phim không nói gì về dân tộc của họ. Không có lý do gì ngoài tình yêu tha thiết của tôi đối với Việt Nam mà thuyết phục được họ.
…Sau khi xem phim Cyclo chiếu lần đầu tiên ở Venise, tôi hỏi bố tôi xem phim thấy thế nào, có được không?
Ba phải xem lại vì đoạn đầu của phim, nước mắt nó cứ ứa ra làm ba chẳng thấy gì cả.
Sao vậy?
Thì… trên màn ảnh khổng lồ, ba thấy những khuôn mặt Việt Nam, mà trong đó chứa đầy sự trưởng thành của con. Họ nói tiếng Việt tại liên hoan phim lớn này làm ba xúc động.
Đây là lời nói của một người cha khoan dung.
Nhưng tôi rất tin ở lời nói này bởi vì tôi chợt nhớ cảm xúc tự hào của tôi khi tôi nghe âm thanh của những câu nói bằng tiếng Việt vang lên trong Liên hoan Phim Cannes với cuốn phim đầu tay của tôi.”
Do những rắc rối ở nội bộ đơn vị tôi, một nhóm người vì cá nhân chống lại việc làm phim Những ngày không mưaNhững ngày không mưa phải chuyển sang Hãng phim truyện Việt Nam do nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát mới lên Giám đốc. Và cuối cùng do tài ngoại giao khéo léo của Hồng Ngát, phim đã làm xong và được công chiếu ở Việt Nam. Những người cản bước Trần Anh Hùng đã không thực hiện được ý đồ đen tối của họ. Niềm vui của Hãng phim truyện Việt Nam cũng là niềm vui của tôi, bởi trước đây khi còn ở A25 tôi đã coi đây là chỗ thân thiết của mình, nơi tôi vào ngành điện ảnh với bộ phim đầu tay cùng đạo diễn Vương Đức, phim Cỏ Lau.
Đúng là phim Xích lô là một chuyện buồn của ngành điện ảnh Việt Nam. Một bài học điển hình về cách đối xử với tài năng nghệ thuật và các tác phẩm đỉnh cao của bộ máy quản lý nghệ thuật một nước tiểu nông. Nhưng vụ phim Xích lô không chỉ liên quan đến vài ba cá nhân trong cuộc. Nó ảnh hưởng đến những vấn đề lớn hơn đối với nền điện ảnh của chúng ta. Tác hại lâu dài của nó vẫn còn đang ám ảnh đời sống điện ảnh với những cách hành xử vô lối tùy tiện. Và cũng không ít chuyện buồn đã diễn ra như thế trong mấy chục năm qua. Nhiều số phận nghệ sĩ phải trả giá, nhiều tác phẩm bị chìm nổi. Những con người ấy, những tác phẩm ấy đang đợi chúng ta nói lại về họ… Đó cũng là điều tâm huyết của tôi muốn nói với các đồng nghiệp điện ảnh của mình.
Tháng 8- 2010

Phần nhận xét hiển thị trên trang