Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Tư liệu văn học cũ: Hoàng Cầm phê bình tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu

TP THƠ VIT BC THIU CHT SNG THC T

[Nguồn: Văn nghệ, số. 67 (1.4.năm 1955)]
 Sức truyền cảm của đa số bài thơ trong tập Việt Bắc thường thường là đi từ từ, nhẹ nhàng vào lòng người đọc, rồi đi vòng quanh, lởn vởn ở bên ngoài chứ không đột phá vào một khía cạnh nào của tâm hồn cho thật sắc bén.
 Bài “Cá nước”: tình cảm gặp gỡ giữa anh cán bộ và anh bộ đội cũng chỉ nhẹ nhàng lớt phớt:
Mt thoáng lng nhìn nhau
Mt đã tìm hi chuyn
Ðôi b áo qun nâu
Ðã âm thm thương mến.
Từ nguồn gốc sâu xa nào hai người “mới gặp nhau” mà trở nên “thân thiết”, bài thơ không gợi ra được. Ở đây tôi chỉ thấy hai người gặp nhau như một chút “duyên cá nước” rất ít mặn nồng như một cảnh gặp nhau thường, giữa hai người bạn. Sự gặp gỡ, cuộc nói chuyện giữa anh bộ đội và anh cán bộ chưa truyền cho người đọc một phút nào rung động mãnh liệt. Ðọc hết bài thơ tình cảm còn lại trong lòng tôi chỉ thoáng như một cơn gió mát của một buổi trưa hè, dịu dàng, thân mật và hơi gợn một chút buồn. Cái buồn ở ngoài lời. Lời ru cháu xa xôi văng vẳng của một bà cụ già, rồi “chia nhau điếu thuốc lào”, đến lúc “anh về xuôi tôi ngược”, thì cái buồn đã lên tới độ khá cao. Bài thơ êm êm rồi thoảng tan đi, không để lại trong lòng tôi một chút gì gắn bó thiết tha. Lòng anh cán bộ của thời đại yêu mến anh chiến sĩ bộ đội không những chỉ có cái bề ngoài ấy mà bên trong còn xoắn xít ràng buộc với nhau như gan với ruột, không thể có gì dằng xé ra được. Bài thơ không nói được bề sâu, chỉ mới thấy bề rộng. Ðọc lần đầu, cái không gian của bài thơ choán lấy tâm hồn tôi một lúc, như bóng rợp một đám mây giữa đường trời nắng. Bóng mây qua… “Tình cá nước” ở tên đề và ở câu kết cũng không bật lên được: cá nước từ đây dường như cũng cách biệt nhau, mỗi bên mang theo một kỷ niệm đẹp, lòng vấn vương như sau một giấc mơ. Ðâu, cái khăng khít, mật thiết cụ thể, từng giờ, từng phút của quân và dân trong một cuộc chiến tranh du kích?
 Ðến tình cảm bài “Phá đường” mở đầu bằng “rét” và kết thúc bằng “gió rét trăng lu”, còn đoạn giữa tả một cảnh lao động bình thường, cặm cụi trong lúc “trăng non mới hé”, tất cả chỉ truyền vào lòng tôi một chút hơi thở nhè nhẹ của công việc phá đường, vẫn đượm một chút hắt hiu. Tại sao lại gió rét? Gió rét ấy có cắt nghĩa được cái gian nan vất vả của việc phá đường không? Tuyệt nhiên là không! Nó chỉ gợi được ra cái buồn. Tôi đã đi qua những nơi nhân dân phá đường hồi đầu kháng chiến. Một buổi sáng mùa hè, một đêm mưa, một trưa nắng gắt. Nặng nhọc vất vả ở hai cánh tay và ở cả trong lòng những người phá đường. Nhưng giặc đã đến đầu ngõ, phải phá ngay, không thì nó đi được nhanh, nó sẽ giết con mình, đốt nhà mình! Ðau đớn, nhưng mạnh mẽ quyết liệt. Bài thơ “Phá đường” cũng lại không truyền được tình cảm đó của thời đại.
 Trong khi đó thì ở “Giữa thành phố trụi” không khí u tối, lạnh lẽo hiện lên ngay từ đầu:
Ðông lnh ghê người
Chiếc lá vèo rơi xung c
Ô ca mt tròn thăm thm
Ai lên tin tuyến đường muôn dm
 Tuy về sau, bài thơ cố gợi ra tương lai:
Ngày mai xanh li tng cây
Ngày mai li đp hơn ry, hơn xưa
T trong đ nát hôm nay
Ngày mai đã đến tng giây tng gi...
 Cái cảm giác chung vẫn là một sự tan vỡ, u uất. Mấy câu sau chỉ là suy luận, khái niệm chứ không truyền cảm. Cái hắt hiu cô đơn ấy lại rõ ràng trong “Bà bủ nằm ổ chuối khô”:
Ðêm nay tháng chp mng mười
Vài mươi ba na tết ri hết năm
Ngoài phên gió núi ù ù
Mưa đêm mưa t chiến khu mưa v...
 Cả bài, câu nào cũng ngậm ngùi, điu hiu vắng vẻ. Mà bà bủ lại “càng nghĩ càng căm thù”. Căm thù ai? Một ý nghĩ rất trừu tượng, đại khái. Cả bài là một tình cảm buồn vắng, nhớ con, nhớ đứa con bộ đội, con đi “bước run, bước ngã, bước ly, bước trơn” và “năm xưa cơm c ngon chi, năm nay cơm gié nhà thì vng con“. Thật rất thương tâm, não nuột! Có một đồng chí bộ đội đọc bài thơ này thấy buồn quá, nói với tôi: “Mẹ tôi không nhớ tôi thế này”.
 Tôi hỏi: “Thế nhớ thế nào?”
“Nhớ hơn thế này, nhưng mà… khó nói quá… không buồn thế đâu!”
 Buồn, lạnh lẽo đến ghê rợn khi tôi đọc:
 Xác ai nm ngn ngang
Bãi tuyết lng quanh làng
Ph đ nhà hoang vng
M ca em đư?
Cái thân trng lc lư
Ðu giây treo lng lng
Cha ca em đư?
Cái đu lâu rũ tóc
Máu chy dài thân cc
(“Em bé Triều Tiên”)
 Không căm thù, chỉ thấy ghê rợn. Tuy về sau bài thơ cố tạo ra cái không khí chiến đấu rộn ràng vẫn không át được cái ghê rợn ban đầu. Không khí buồn, xa vắng vẫn kéo dài sau cái chết của đồng chí Sta-lin:
Trên đường quê sáng tinh sương
Hôm nay nghi ngút khói hương xóm làng
Ngàn tay trng nhng băng tang
Ni lin khúc rut nh thương đi đi.
 Ðành rằng sau một cái chết thì buồn, nhưng sau khi Sta-lin mất, cái buồn đã biến thành sức mạnh. Không khí và tình cảm bài thơ “Ði đi nh ông” không phản ảnh được tình cảm thực của nhân dân ta sau cái chết đó: xót thương, nhưng rồi băng băng đi dân công, đi gánh thóc thuế, sôi nổi phát động đấu tranh chống giai cấp địa chủ toát ra “ngoài lời” ở khắp bài thơ, trong đó có cái ngậm ngùi trách móc của một đôi tình nhân chia tay, tuy miệng thì nói là chung thủy mà trong tình ý đã thấy là sẽ không gặp nhau bao giờ nữa.
 Mình v thành th xa xôi
Nhà cao còn thy núi đi na chăng?
Ph đông còn nh bn làng?
Sáng đèn còn nh mnh trăng gia rng?
Mình đi ta hi thăm chng
Bao gi Vit Bc tưng bng thêm vui?
 Ý hỏi thì nhẹ nhàng trách móc như thế, thấm thía như thế, mà trả lời thì gượng quá và hơi loanh quanh:
 Ðường v đây đó gn thôi
Hôm nay ri bn v nơi th thành
Nhà cao chng khut non xanh
Ph đông càng gic chân nhanh bước đường
 Người về xuôi không nói lên được là lòng vẫn ở Việt Bắc. Người ở lại núi rừng thì chỉ thấy xa xôi chia cách mà ít thấy hy vọng tin tưởng. Nhớ Hồ Chủ tịch, cũng lại thấy hình bóng người xa dần.
Nh chân Người bước lên đèo
Người đi rng núi trông theo bóng Người
 Hai câu này khiến tôi nhớ đến câu thơ Nguyễn Du:
Người lên nga, k chia bào
Rng phong thu đã nhum màu quan san
 Cô đơn vắng vẻ, đó là hai cảm giác của bài thơ gợi ra.
 Một cán bộ ở Việt Bắc về Hà Nội cuối tháng 10-1954 đã kể chuyện với tôi:
“Khi thấy bài thơ Việt Bắc tôi đọc và thích quá, tôi ngâm cho một gia đình ở vùng Chợ Chu nghe. Cả nhà sụt sịt khóc. Cảm động quá. Nhưng sau đó, tôi vẫn phải tạ từ, đeo ba lô đi. Nhìn lại, trong bóng tối nhà sàn: ông ké, bà mé và chị con gái vẫn ngồi im, khóc lặng lẽ. Tôi cũng cảm thấy như không bao giờ mình còn trở lại Việt Bắc nữa. Thật là một cảnh chia ly đau xót.”
Bài thơ “Việt Bắc” đã dựng lên cảnh chia ly ấy và bồi thêm mũi kim đau xót vào chỗ yếu đuối nhất của lòng người.
 Và bài thơ vớt vát lại ở hai câu kết giả tạo, gượng ép:
Cm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Th đô
 Người ở lại Việt Bắc thấy cầm tay gượng, ậm ừ với lời chào hẹn chiếu lệ nghe đã quá quen tai. Chưa kịp nghĩ đến bao giờ “hát cùng Thủ đô”, hát thế nào và cái hát ấy có sẽ bù được sự chia ly hay không thì… thôi thế là xa rồi!
*Với nội dung truyền cảm trình bày trên kia, tập thơ Việt Bắc đã tạo nên những hình ảnh như thế nào của những tình thế, nhân vật điển hình của thời đại?
 Ðầu tiên là hình ảnh anh bộ đội:
Git git m hôi rơi
Trên má anh vàng ngh
Rt đp hình anh lúc nng chiu
Bóng dài lên đnh dc cheo leo
 Có những hình ảnh cụ thể do tác giả vẽ nên và có những hình ảnh không vẽ ra, nhưng do toàn bộ bài thơ để lại, thí dụ như trong các bài “Bắn”, “Voi”, “Bao giờ hết giặc”, v.v…
 Nói chung hình ảnh bộ đội trong tập thơ Việt Bắc là hình ảnh đẹp một cách mỏng manh, mờ nhạt như dáng dấp một người lẩn trong sương, trong một bức tranh chấm phá. Con người bằng xương bằng thịt, có bao nhiêu tình cảm, lúc bồng bột, lúc vui buồn, hờn giận, thương xót, lúc vào bộ đội, khi nhớ quê hương đồng ruộng, cha mẹ vợ con, khi tác chiến anh dũng, khi nhịn đói hành quân, lúc chia sẻ ngọt bùi cay đắng với cán bộ, với đồng đội, tôi chưa tìm thấy trong thơ Việt Bắc. Chỉ thấy những hình ảnh chung chung, gặp bất cứ ở chỗ nào, thoáng qua và mờ dần vì không rõ hình nét, không “thực” đến độ in sâu vào lòng người.
 Anh bộ đội trong bài “Cá nước” chỉ thấp thoáng trên lưng đèo rồi lại đi. Anh bộ đội Tây Bắc:
Quê hương anh đó, gió sương mù
Và rú rng đây ca chiến khu
C ngp đng khô m li cũ
Tan hoang làng cháy khói căm thù
 Anh đi rất nhiều, gian nan cũng lắm, lòng anh chưa có gì bật lên trong bài thơ và kết cục thì “anh nm sưởi nng mt lơ mơ“. Bà bủ nhớ con bộ đội, trong ý nghĩ của bà thấy anh bộ đội bé bỏng đáng thương:
Nó đi đánh gic đêm nay
Bước run, bước ngã, bước ly, bước trơn
Nhà còn  chui la rơm
Nó đi đánh gic đêm hôm sưởi gì?
 Trong bài “Voi”, tôi thấy có anh bộ đội khiêng pháo lên đèo, thấy gian nan khó nhọc nhưng mới thấy ở “chữ”, chưa thấy ở “người”. Nghe như kể một câu chuyện vác pháo gian lao khó nhọc, bài thơ mới tả cảnh chứ không dựng được người “bộ đội khiêng pháo” anh dũng và vĩ đại trước mắt tôi.
 Còn ở bài “Bắn”, thì hình ảnh anh bộ đội là một tượng gỗ, tay cầm giây súng và có hình ảnh một anh bàng quan đứng ngoài hô hào gào hét ầm ỹ, giục pho tượng giật giây nổ súng bắn cho hả.
Năm phút na: Sao mà lâu thế nh
Anh pháo binh, anh còn đi ch gì?
 Không thấy anh pháo binh đâu, chỉ thấy một người nào đứng ngoài múa tay hoa chân giục bắn:
Anh pháo binh, anh chưa bn đi à?
Mt phút na. Ðu tôi cháy bng lên như cc la
Sướng bao nhiêu chc na s thành than.
 Anh pháo binh không trả lời (vì có anh ấy đâu mà trả lời). Người nào đó lại gọi:
Ơi các anh xung kích dưới c âm thm
Hãy sn sàng tay mác nhy lên đâm
Giết, bt sng không mng nào được thoát.
 Bài thơ tuy có vẻ sôi nổi giục bắn, mà thực ra bàng quan lạ lùng. Việc bắn là việc của anh bộ đội, đứng ngoài hò hét như thế không những không động viên được bộ đội, mà còn làm cho anh pháo binh bực mình. Anh bộ đội trước khi bắn, tâm tư thế nào, không ai biết, lại chỉ thấy tiếng giục, và kết thúc bằng một câu rất khó chịu:
Anh đi bác, tôi ch anh đ hát!
 Còn hình ảnh chú bé liên lạc (trong bài “Lượm”):
Như con chim chích
Nhy trên đường vàng
Lượm là người thân yêu khi bị giặc bắn chết mà người còn sống lại thấy cái chết ấy đẹp và nhẹ:
Cháu nm trên lúa
Tay nm cht bông
Lúa thơm mùi sa
Hn bay gia đng
 Chú Lượm chết không khác gì một con chim trúng đạn chết ở giữa đồng lúa. Rồi cái chết ấy thoáng đi, trên đường vắng lại có những con chim chích khác.
 Hình ảnh một em bé liên lạc của kháng chiến, một em bé thân yêu ruột thịt của những cán bộ, của bộ đội của nhân dân, sống thế nào, chết thế nào? Sau cái chết ấy, hình ảnh của em còn lại trong lòng người thế nào, chua xót, đau đớn, nhưng trong trẻo, mạnh mẽ thế nào? Bài thơ chỉ để lại trong óc tôi hình ảnh của một con chim đẹp, sống hồn nhiên, chết tự nhiên. Nhà thơ đau đớn và căm thù ở chỗ nào?
 Ðến hình ảnh lãnh tụ, là đúc kết những tinh túy của quần chúng. Hình ảnh lãnh tụ chính là hình ảnh vĩ đại của quần chúng lao động đang đấu tranh, và cuồn cuộn đi đến một tương lai tốt đẹp.
 Ta thường ví Hồ Chủ tịch với “ngôi sao”, với “trời biển” với
Cây hi đăng mt bin
Bão táp chng rung rinh
La trường kỳ kháng chiến.
 Tôi chưa thấy bài thơ nào tả đúng lãnh tụ, tả đúng Hồ Chủ tịch, chỉ mới có những bài thơ, những đoạn thơ tả đúng một phần, hoặc tả bề ngoài hoặc thần thánh hóa, tách rời lãnh tụ với quần chúng.
 Trong tập thơ Việt Bắc, tôi thấy Hồ Chủ tịch:
Người ngi đó vi cây chì đ
Ch đường đi tng phút tng gi
… Bác H đó ung dung châm la hút
Trán mênh mông thanh thn mt vòm tri
… Bác đang cúi xung bn đ
Chc là nghe tiếng quân hò quân reo
 Lãnh tụ xa xôi và cách biệt, có lúc giống như một đạo sĩ đi nhàn du trong núi rừng:
Áo nâu, túi vi đp tươi l thường
Nh người nhng sáng tinh sương
Ung dung yên nga trên đường sui reo
 Hồ Chủ tịch của chúng ta không những chỉ có thế. Tất cả hình ảnh trên mới là một đôi chút bề ngoài của Hồ Chủ tịch. Còn những giờ Người ra tiền tuyến, đến bên cạnh dân công, bộ đội; Người ở nông thôn, bàn bạc chuyện trò với các cụ phụ lão nông dân, Người ở đâu đến đâu thì quần chúng thêm mạnh mẽ phấn khởi.
 Hình ảnh Hồ Chủ tịch trong tập thơ Việt Bắc thong dong nhiều hơn là hành động và lúc hành động tôi thấy “cây chì đỏ”, “cúi xuống bản đồ” và nhân dân nhìn lên Hồ Chủ tịch chưa thấy ấm áp gần gũi, dù có những câu: Ta bên Người, Người ta sáng ta, Ta bng l bên Người mt chút, tôi vẫn chưa thấy “sáng” ở chỗ nào và “lớn” ở chỗ nào.
 Cách ca ngợi lãnh tụ như thế chưa phải là tình cảm của toàn dân đối với Hồ Chủ tịch.
 Nghệ thuật tập thơ Việt Bắc có nhiều sức thấm vào lòng người đọc, vì nó hay gợi cái buồn kín đáo, man mác. Thời đại chúng ta có nhiều cái buồn, nhưng cái hơi buồn của một số bài thơ tập Việt Bắc là một hơi thở đã trở thành cũ kỹ, lạc hậu, trong khi thời đại chúng ta đang tràn đầy một niềm vui lớn, một sức chiến đấu mãnh liệt, băng băng tiến tới…
 Tập thơ Việt Bắc cũng có “nói” đến những cái đó, nhưng chưa “xây dựng” những cái đó. Vì chỉ “nói” thôi, nên có thể êm tai, đẹp mắt, nhưng giả tạo, gò ép.
 Ðây, vui mừng giữa những người về giải phóng Hà Nội và những người ở Hà Nội giải phóng:
Hôm nay v li đây Hà Ni
Giàn gia vui lên ướt mt cười
… Ðường quen ph cũ đây ri
Th đô tươi dy mt người như hoa
…Tay vui sóng v rt rào
Người v k đi, mng nào mng hơn
 “Mừng nào mừng hơn” chưa thể bao hàm cái mừng vô cùng trong ngày lịch sử giải phóng Hà Nội.
 Và đây là quang cảnh Hà Nội giải phóng.
H Gươm xanh thm quanh b
Thiên thu hn nước mong ch by nay
Bây gi đây li gp đây
Quc kỳ đnh tháp, sao bay mt h
 Sao quang cảnh thủ đô giải phóng lại “tĩnh” và lặng lờ như thế? Bài thơ “Lại về” là tâm trạng của một người du lịch se sẽ rung động vì cảnh, vì người gặp lại, rồi trong lòng lại yên tĩnh như không. Lạnh lùng, bàng quan và giả dối.
 Biết đâu bao nhiêu đau đớn quằn quại, bao nhiêu lúc vùng lên, ngã xuống rồi lại quật khởi cho đến ngày giải phóng thì tất cả Hà Nội trào lên như sóng bể.
 Còn tình cảm chiến đấu? Cả bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” nói đủ ý về chiến thắng Ðiện Biên Phủ, nói đầy đủ quá nên không chen vào chỗ nào được những tình cảm con người của chiến dịch Ðiện Biên. Bài thơ đó là một bài tham luận về chiến dịch Ðiện Biên đã thi vị hóa bằng một kỹ thuật khá điêu luyện.
Ðao to búa lớn:
Hoan hô chiến sĩ Ðin Biên
Hoan hô đng chí Võ Nguyên Giáp
Sét đánh ngày đêm xung đu gic Pháp
 Một loạt hình ảnh một chiều, cứng nhắc, kém sinh động:
Chiến sĩ anh hùng
Ðu nung la st
…Nhng đng chí thân chôn làm giá súng
Ðu bt l chân châu mai
…Nhng bàn tay x núi lăn bom
 Những hình ảnh ấy đã có sẵn ở chiến trường và ở trong cảnh thực còn sâu sắc hơn trong bài thơ. Nếu bài thơ muốn ôm tất cả, cả đến Hội nghị Giơ-ne-vơ, thì còn hàng nghìn hình ảnh nữa cần phải nêu ra. Bài thơ đầy đủ quá cho nên thiếu thốn. Và kết luận:
Nhân dân Vit Nam anh dũng
Ðã cm súng tiến lên
Nht đnh hoàn toàn thng li.
 Một khẩu hiệu chính trị đã nêu lên ngay từ khi toàn quốc bắt đầu kháng chiến. Khẩu hiệu diễn biến trong tâm trạng người dân Việt Nam, trong lòng anh bộ đội thành những tình, những ý gì thầm kín, sâu sắc? Khẩu hiệu đó đã tạo ra bao nhiêu hình ảnh đẹp, mạnh, sinh động vô cùng trong thời đại chúng ta? Muôn sắc muôn màu, muôn hình vạn trạng trong chiến dịch Ðiện Biên, ta không thể tham vọng nói hết trong một bài thơ và lại kết luận bằng khẩu hiệu.
 Người đọc, đọc một bài báo tóm tắt về chiến dịch Ðiện Biên và đọc một bài thơ trên, có thấy gì khác không? Bài thơ dễ lọt tai hơn, thế thôi. Anh bộ đội đã chiến đấu ở Ðiện Biên Phủ, không thấy được ở bài thơ chút gì tâm sự, bè bạn thâm tình. Nhiều độc giả bộ đội khen bài thơ hay rồi hôm sau thì quên. Bộ đội muốn có những bài thơ để nắn nót chép vào sổ tay, đút vào túi ngực, giữa hai đợt chiến đấu lại giở ra đọc, lúc vui, lúc lo nghĩ là lại lấy bài thơ làm người bạn tâm tình. Ða số bài thơ về bộ đội đã có trong tập Việt Bắc chưa thành người bạn tâm tình của bộ đội.
 Vì nhiều bài thơ rộng quá, tổng hợp quá, “chính trị” quá, nên nó bao quát và tất nhiên trở nên chung chung đại lược. Ta đi tới, ta đi khắp cả và nhất định “ta đi tới” thống nhất đất nước. Lời đẹp, ý đúng, tình cảm bay rộng khắp nhưng không xoáy chặt vào lòng người. “Ta đi tới” cũng giống như “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” từ đầu đến cuối rất đầy đủ về ý nghĩa chính trị. Ở bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” tôi thấy những câu những chữ rắn chắc, sấm sét, hùng mạnh, đến bài “Ta đi tới” tôi thấy những chữ những câu bóng bẩy, tha thiết, trùng điệp những tên thị trấn địa phương để khêu gợi lòng yêu đất nước. Một cảnh lấp lánh ánh sáng khắp nơi, khi lại gần thì nhạt nhẽo, không thấy đẹp nữa.
 Ở một số bài thơ gần đây của Tố Hữu, tôi thấy như vậy: Ðầu tiên thì nêu lên một vấn đề rồi tiếp đến suy luận bằng những câu văn đèm đẹp. Thành phố đã phá trụi thì nhất định là ngày sau phải tưng bừng. Cha mẹ em bé Triều Tiên chết treo khủng khiếp, em bơ vơ lạc lõng thì nhất định là có cả một dân tộc ở bên em, săn sóc cho tương lai em, và nhất định em sẽ sung sướng. Ðã chia ly Việt Bắc thì sau phải nghĩ đến Việt Bắc và trao đổi hàng hóa với Việt Bắc. Ðiện Biên đã thắng thì nhất định ở Hội nghị Giơ-ne-vơ sẽ thêm điều kiện thuận lợi đấu tranh với kẻ thù. Thật khó mà tìm thấy một khuyết điểm nào về ý nghĩa chính trị. Những bài thơ đó đầy đủ thế, nhưng rất ít chất của cuộc sống một dân tộc đã đấu tranh gay go phức tạp và đã giành được thắng lợi hòa bình. Tôi thấy bài “Ta đi tới” hoặc bài “Hoan hô chiến sĩ Ðiện Biên” giống như một vại nước to, đầy tràn, pha loãng một màu sữa. Loãng quá. Tôi thèm một cốc dù nhỏ thôi, nhưng chan chứa những chất sống nuôi dưỡng tâm hồn.
 Theo ý tôi, giá trị thơ không phải ở chỗ đầy đủ mạch lạc về một vấn đề chính trị. Thơ phải đi vào từng góc cạnh của tâm hồn từng lớp người đang xây dựng thời đại mới. Muốn nói tất cả phải đi sâu vào một khía. Và nhiều bài thơ góp lại, mỗi bài một góc tâm hồn khác nhau sẽ thành ra toàn bộ phản ảnh thời đại đi vào hiện thực chủ nghĩa. Như vậy từ con người đang dào dạt sức sống kết lại thành thơ, chứ không thể từ một khái niệm về đời sống, từ một luận đề chính trị viết ra thơ, dù rằng lúc viết, tác giả cũng cố tìm cảm xúc và tạo hình ảnh. Làm như thế, dễ rơi vào công thức, giả tạo. Và lập trường chính trị trong thơ chính là nói đúng được sự sống và xây dựng tâm hồn của con người đang sống trong một thời đại cách mạng. Ở thời đại chúng ta, cái hiện thực xã hội chủ nghĩa nhất là ở lòng người dân đang tiến lên đè bẹp đế quốc và phong kiến. Sức sống mãnh liệt này tôi thấy rất ít trong tập thơ Việt Bắc. Tôi đã ngâm nga những bài đứng về phía đánh đế quốc chủ nghĩa để xem con người Việt Nam đứng lên tiêu diệt đế quốc xâm lược ra sao? Tôi thấy nhiều chữ, nhiều lời, nhiều cảnh đẹp và buồn, ít thấy hình ảnh con người điển hình của thời đại hiện ra bằng xương thịt rắn chắc, bằng đau đớn xót xa, bằng bước đi vững chãi. Thơ nói:
Ta đi ti trên đường ta bước tiếp
Rn như thép, vng như đng
Ði ngũ ta trùng trùng đip đip
Cao như núi, dài như sông
 Tôi vẫn chưa thấy con người bước đi rắn như thép cụ thể ở chỗ nào. Và “trùng trùng điệp điệp” chỉ là bốn chữ cố khêu gợi sức mạnh nhưng bản thân sức mạnh ấy không hiện ra.
 Còn những con người đau khổ tủi nhục vì bị giai cấp địa chủ bóc lột đến xương tủy, những người nông dân ngấm ngầm nuôi sức mạnh và rồi ào ào tiến lên, phá tung cảnh đọa đày của mấy nghìn năm phong kiến, tôi chỉ thấy vẻn vẹn có hai câu nói hăng hái nhưng trống rỗng:
Nhng bàn chân đã vùng dy đp đu
Lũ chúa đt xung bùn đen vn kiếp!
 Ðọc thơ và ngâm những bài thơ trong tập Việt Bắc, nhiều khi tôi thường có cảm giác buồn ngậm ngùi, đôi lúc xa vắng. Có ấm áp cũng là cái ấm áp mong manh chóng tắt và thấy cái đẹp cũng nhè nhẹ mơ màng. Ðôi khi thấy tha thiết mến thương nhưng không được bao lâu vì nhẹ quá và rộng quá. Tôi thèm ở Tố Hữu những bài thơ tâm sự với mình lâu dài. Nhưng trong tập Việt Bắc, phần lớn tôi chỉ gặp những bài rủ rỉ một lát rồi thôi.
 Rồi tôi suy nghĩ: Những bài thơ nào diễn tả lòng người sâu sắc nhất, lòng người của một thời đại, nhất định đều để lại trong lòng người ta những hình ảnh rung động lâu bền nhất. Tập thơ Việt Bắc ít chất thực tế để đúc thành thơ. Ðành rằng cần phải có những bài thơ do suy luận, nhằm mục đích hô hào, động viên, nhưng thực chất của bài thơ vẫn phải tìm trong cuộc sống sâu sắc. Thiếu sự sống phong phú, thơ trở nên vô duyên, khô khan, dù lời đẹp ý tốt. Tôi đã đọc nhiều bài thơ “mới nghe thì hay, nghe nhiều lần thì chán”. Ðó cũng là cảm tưởng cuối cùng của riêng tôi đối với tập thơ Việt Bắc.
 Nguồn: Văn nghệ, số. 67 (1.4.1955)
Lại Nguyên Ân sưu tầm.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc bắt thêm một đại tướng quân tham nhũng

Tướng Dai Weimin, hiệu phó Học viện Chính trị Nam Kinh - Ảnh: Sina Weibo
Theo tạp chí Tài Tân  Trung Quốc nhật báo, các điều tra viên quân đội đã bắt giữ thiếu tướng Dai Weimin, 52 tuổi, hiệu phó Học viện Chính trị Nam Kinh.
Đây là cơ sở đào tạo rất có uy tín của quân đội Trung Quốc.
Nhà chức trách cáo buộc tướng Dai “nhận các khoản hối lộ khổng lồ” từ các dự án phát triển đất đai và xây dựng hạ tầng của quân đội từ năm 2010-2014.
Tài Tân cho biết tướng Dai là một học giả có tiếng trong lĩnh vực viễn thông quân sự và được Quốc vụ viện Trung Quốc cấp chế độ đãi ngộ đặc biệt.
Tướng Dai từng có nhiều bài viết được đăng tải trên các tờ báo lớn ở Trung Quốc, trong đó có tờ Quân đội giải phóng nhân dân và Nhật Báo Quang Minh. Như vậy, ông Dai là vị tướng quân đội mới nhất bị ngã ngựa trong chiến dịch chống tham nhũng “diệt cả ruồi lẫn hổ” của chính quyền Bắc Kinh.
Trước đó các quan chức quân đội Trung Quốc từng cảnh báo tham nhũng đe dọa khả năng chiến đấu của quân đội nước này.
Hiện chính quyền đang điều tra hai nhân vật cỡ bự là tướng Cốc Tuấn Sơn - nguyên phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân giải phóng nhân dân, và Từ Tài Hậu - cựu phó chủ tịch Quân ủy trung ương.
Hôm qua, Đài truyền hình Phượng Hoàng dẫn nguồn tin cơ quan điều tra Trung Quốc cho biết tướng Cốc Tuấn Sơn dính líu tới các vụ tham nhũng tài sản có tổng giá trị 5 tỉ USD. Trong đó, ông Cốc trực tiếp nhận hối lộ 97 triệu USD. 
Các nhà điều tra tiết lộ tướng Cốc cực kỳ mê vàng, đặc biệt là tượng Phật vàng. Do đó ông ta thường thích đưa và nhận hối lộ bằng vàng. Khi nhận hối lộ, ông Cốc chỉ lấy vàng miếng. Ngược lại mỗi khi đi đưa hối lộ, tướng Cốc chất đầy vàng thỏi vào trong một chiếc xe Mercedes và đưa chìa khóa xe cho người nhận. 
Cơ quan điều tra còn cho biết tướng Cốc có một số quan chức cấp cao “đầy quyền lực” chống lưng. Vụ tham nhũng của tướng Cốc cũng có liên quan đến án tham nhũng của tướng Từ Tài Hậu.  
NGUYỆT PHƯƠNG




























































Phần nhận xét hiển thị trên trang

BẢN LUẬN VĂN VỀ ĐOÁ HOA HỒNG...



Bạn nhận được tin báo về một đoá hoa nở trái phép, và bạn phải đến điều tra.
Bạn thấy mấy cánh hoa hơi hé mở, rồi xoắn lại, nhú ra như một cái mồng, gợi cho bạn một hình ảnh tục tĩu. Bạn chụp ảnh và gửi cho trưởng nhóm nghiên cứu. Anh ấy nhắn tin: “Đó có phải là những hinh ảnh thật không? Bạn không lắp ghép đấy chứ?”
“Thật.” Bạn trả lời.
“Bạn có thể bắt giữ người trồng hoa.” Anh ấy ra lệnh.
Bạn lập tức dừng lại, bỏ mũ bảo hiểm và bước khỏi xe máy của mình. Hàng chục người hiếu kỳ tụ tập quanh đoá hoa khi bạn chụp thêm một số ảnh làm bằng chứng, sau đó bấm chuông nhà người trồng hoa.
“Vâng, tôi ra ngay đây.” Có tiếng trả lời.
Bạn nói: “Tôi ở Cơ quan Bảo Vệ Cảnh Quan Môi Trường Văn Hoá, tôi cần nói chuyện với người trồng hoa.”
“Đó là tôi.” Vẫn giọng anh chàng ấy.
Bạn hạ giọng: “Tôi có thể vào nhà được chứ?”
Bạn đi qua tiền sảnh. Người đàn ông đón bạn mặc một chiếc áo len cũ, tóc tai xù ra trông hơi nghệ sĩ. Anh ta bắt tay bạn. Bàn tay anh ta mềm và hơi run.
Bạn nói: “Ông có biết hoa của ông là...”
“... Nở trái phép, tôi biết.”
“Vậy tại sao ông lại trồng nó?”
Anh ta mỉm cười một cách lịch sự: “Bạn muốn ngồi xuống một chút không? Tôi có cà-phê nóng.”
Bạn nghiêm giọng với anh ta: “Những gì tôi cần là một câu trả lời.”
Nụ cười trên môi anh ta vụt tắt: “Hôm nay là sinh nhật thứ 14 của con gái tôi. Nó đang chơi ở ngoài sân. Nó chưa bao giờ nhìn thấy một đoá hoa.”
“Ông có biết các hình ảnh tục tĩu khi đoá hoa nở sẽ ảnh hưởng đến mọi người như thế nào không?”
Anh ta lắc đầu: “Các cô dâu dùng hoa để chứng minh tính hợp pháp của một cuộc hôn phối. Còn tôi là một nhà thực vật học, tôi làm việc chỉ để đoá hoa nở ra những cánh hoa.”
Bạn biết anh ta bắt đầu lòng vòng như bao kẻ phạm tội khác. Bạn gằn giọng: “Nói như ông, thay vì đoá hoa, ông cũng có thể đặt một quả bom trong vườn của mình? Ông không cần gì đến việc giữ vững sự ổn định à?” Nhưng dường như anh ta không còn lắng nghe bạn.
Bạn hỏi tiếp: “Ông nhận hạt giống từ đâu?”
Anh ta im lặng như thể có đồng phạm, rụt rè: “Thế giới đã thay đổi, một ngày nào đó bạn sẽ không muốn con gái của bạn lớn lên mà không thấy một đoá hoa hồng. Nó như đang chảy máu. Nó nhắc các cô gái về kinh nguyệt.”
Bạn thấy sự thô lỗ trong lời khai như vậy là quá đủ. Bạn lấy còng tay ra: “Ông bị bắt vì vi phạm mục 2, khoản 22 của Bộ luật kiểm soát Sự Tuyên Truyền Làm Xấu Hình Ảnh Của Đất Nước.” Bạn biết anh ta không dám cưỡng lại, và bạn dẫn anh ta ra cửa.
Nhóm nghiên cứu của bạn đã đến, họ đang vặt bỏ những cánh hoa nhú ra gợi lại hình ảnh tục tĩu.
“Ôi, không!” Anh ta hét lên: “Hãy bắt tôi, nhưng đừng vặt bỏ những đoá hoa.”
Bạn trao anh ta cho một người có trách nhiệm. Anh ta vẫn cố giãy giụa: “Tôi đã chọn hạt giống cẩn thận. Đoá hoa không gây ra hình ảnh như vậy, chỉ là con mắt của các ông. Hãy tin ở hoa hồng. Nó vô tội.”
Người có trách nhiệm đã bịt mắt anh ta và đưa vào một chiếc xe thùng bịt kín.
Đám đông bên ngoài hàng rào hồi hộp, họ cũng biết rằng lời nguyền, các hình ảnh tục tĩu hay mối đe dọa... chắc chắn là không có. Họ biết bạn chỉ giỏi bịa chuyện. Họ nhìn bạn, kêu lên: “Trời đất ơi, vậy mà cũng là giáo sư phó tiến sĩ...”
Con gái của anh ta cũng bật khóc, nó kêu lên: “Bố ơi...”
Bạn quay lại công việc của mình. Khi các đoá hoa được chất lên, nhàu nát trên chiếc xe tải để mang đi đốt, bạn kiểm tra lại lần cuối cùng. Giữa những hạt bụi bẩn màu đỏ lốm đốm vàng, có chút xíu màu xanh nhợt nhạt của chồi non nhú hé. Bạn cúi xuống và nhặt nó lên.
Bạn ngớ người ra vì biết đó là một hạt giống.
“Này,” đến phiên bạn hét lên với nhóm nghiên cứu của bạn.
Có người trong số họ quay lại: “Gì thế?”
Bạn gần như khóc, bạn nâng niu hạt giống bạn vừa nhặt được trên tay. Nó giống như cánh một con côn trùng, giữa có cái bụng phình ra. Ngày xưa, bạn đã từng chơi trò ném chúng lên trời và xem chúng quay tròn, xoay tròn, lơ lửng rơi xuống chầm chậm như một chiếc máy bay trực thăng nhỏ xíu, quên cả mẹ chờ cơm.
Theo quy định của nhóm nghiên cứu thì cả hạt giống cũng phải bị đốt bỏ, nhưng bạn biết, có những hạt giống có thể thay đổi thế giới. “Chúng ta đã tìm thấy một cái gì đó,” bạn nói, và nhóm của bạn bắt đầu do dự. Không ai dám tiếp tục ngắt hay bẻ hoa. Họ thừa biết, không phải anh chàng trồng hoa mà chính họ đang phạm tội. “Nếu một ngày nào đó chúng ta phát hiện mình sai lầm? Nếu những đoá hoa không phải là hình ảnh tục tĩu như chúng ta đang nghĩ? Chúng ta bị ám ảnh bời điều gì, ma quỷ hay lý tưởng xỏ lá trong đầu chúng ta?” Bạn thì thầm với cả nhóm trong khi vẫn nắm chặt hạt giống. “Chúng ta đã báo động sai. Quá nhiều báo động giả biến chúng ta thành báo hại.” Bạn nói như khóc, trong khi chiếc xe thùng bịt kín đã chạy tít xa...
Bạn nhét mấy hạt giống vào trong túi áo của mình và đi tìm cô gái đang nói cười một mình ở trong vườn. Sau khi người ta dẫn bố của cô ấy đi, cô gái ấy cũng phát điên. Nhưng cô gái ấy không bao giờ hét lên: “không, không...” nhằm chối tội sau khi gây ra biết bao tai họa cho người khác như bạn.
Bạn biết khu vườn sau trận càn hung hăng và tưởng tượng của bạn bây giờ xơ xác như những đoá hoa mềm trong nước mắt. Chỉ còn hy vọng vài hạt giống sót lại từ túi áo bạn sẽ nở ra như máu tràn ra khỏi trái tim, ướt ngực áo những người đang xúm lại nhìn...
Bạn nhìn cô gái lần nữa, vì bạn biết chút nữa cô gái ấy sẽ cùng với khu vườn và những đoá hoa vỡ tan như sương mù gặp nắng huyền thoại của những hạt giống, đỏ như máu trên túi áo của những người vô tội oan ức, đang nhìn bạn...



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tâm sự của một Việt kiều về đời sống bóc lột nơi xứ người

Đa số thành phần lao động chi tiêu hết sức tiết kiệm và dĩ nhiên là rất nhiều người không dám bỏ tiền để mua bảo hiểm y tế.

Theo Tạp chí Sống Mới




Đối với thành phần lao động này ở Mỹ thì phải nói là vô cùng vất vả. Tất nhiên, ở Mỹ không ai ép buộc mình phải làm việc nhiều giờ cả, nhưng vì cuộc sống và bạn muốn có tất cả mọi thứ nên phải làm việc cộng lái xe 11-13 giờ/ngày, 7 ngày/tuần. Với mức vật giá đồ ăn người Việt ưa thích tương đối đắt đỏ: 8 USD cho một kg rau muống, 1,29 USD cho 3 nhánh sả hoặc rau thơm các loại, 12 USD một kg nhãn tươi, 3,99 USD một trái đu đủ, hoặc thơm, 20 USD cho một hộp chôm chôm 36 trái... thì với mức lương khiêm tốn 1500-2500 USD/tháng chưa xài đã hết. Vì vậy đa số thành phần lao động chi tiêu hết sức tiết kiệm và dĩ nhiên là rất nhiều người không dám bỏ tiền để mua bảo hiểm y tế.

Bảo hiểm ở Mỹ rất mắc. Ngay bản thân tôi, gia đình gồm 8 người và nhiều bạn bè của tôi hầu như không ai có bảo hiểm. Cũng vì điều này nên tôi đã chứng kiến nhiều cảnh đau lòng. Chẳng may bạn mắc bệnh, đi khám bác sỹ dù bác sĩ không chữa được bệnh cho bạn nhưng cũng lấy 120-150 USD và bác sĩ đó giới thiệu tới một bác sĩ khác mà bác sĩ đó cũng bó tay luôn thì cũng lấy một khoảng tương tự. Ở Mỹ chữa bệnh vô cùng đắt đỏ, một ca phẫu thuật nhiều khi trả cả đời không hết. Cũng vì lý do này nên nhiều người dù mang bệnh trong người nhưng điều kiện kinh tế eo hẹp nên cứ chịu đựng để lâu ngày dẫn đến bệnh nặng và tử vong cũng là chuyện thường xảy ra.


Theo tờ Miami Herald, cộng đồng người Việt ở Mỹ đã trở thành lực lượng kiểm soát gần như hoàn toàn nghề làm móng (nail) ở nước này.


Tuy nhiên, làm nail cũng có những đắng cay mà người trong nghề mới hiểu hết.

Hầu hết ở Mỹ ai cũng phải làm việc nhiều giờ, nên không còn thời gian để chăm sóc bản thân, gia đình và con cái. Đi làm về đến nhà đã đau nhừ toàn thân, ăn cũng không muốn ăn chứ đừng nói là làm cơm tối cho gia đình và tất nhiên là cũng chẳng còn mặn mà tới chuyện chăn gối nữa vì phải giữ sức để mai đi cày.

Đối với chị em, khi đến Mỹ cứ nghĩ mình là số một, nhưng tôi thấy chị em chẳng sung sướng tí nào cả. Nhiều khi họ còn phải làm việc vất vả hơn cánh đàn ông ấy chứ. Chỉ đơn cử việc sinh đẻ thôi cũng đã là một thiệt thòi lớn. Thông thường ở Mỹ sau khi sinh, chỉ ở lai bệnh viện 48h. Chồng thì cũng chỉ nghỉ 2-3 ngày sau đó là chị em phải tự lo cho bản thân và con nhỏ, 1-2 tuần nhiều lắm là 4 tuần lại phải đi làm. Con nhỏ chưa đầy tháng tuổi phải gửi trẻ 11-12h/ngày. Nhiều khi nhìn con còn quá bé mà phải đưa đi gửi cả ngày ứa cả nước mắt, nhưng biết làm sao bây giờ. Nghỉ ở nhà để lo cho con ư? Lấy tiền đâu ra để mà sống? Ai lo cho đống hóa đơn hàng tháng? Đến khi con đi học thì cả tuần không thấy mặt con ấy chứ.

Ở Mỹ, hầu hết thực phẩm đều là đông lạnh có khi hàng tháng. Đồ ăn thì nấu một lần cho 2-3 ngày. Ăn thì chẳng bao giờ đúng bữa, mà cũng chẳng còn kịp nhai nữa, nuốt cho đầy bụng để mà làm việc. Bữa sáng thì ăn ở trên xe, bữa trưa thì ăn ở chỗ làm, rỗi lúc nào thì ăn lúc đó, nhiều hôm bận quá chẳng có thời gian để mà ăn phải uống sữa trừ cơm. Rất nhiều hôm bữa tối, cơm canh đổ đầy một tô, hâm nóng bằng lò vi sóng, chồng lái xe vợ vừa ăn vừa đút cho chồng ăn vội vã tới đón con kẻo trễ bảo mẫu than phiền. Đọc đến đây thôi thì nhiều bạn đã đặt câu hỏi: Tại sao không về Việt Nam mà sống?

Xin thưa với các bạn, có rất nhiều nguyên nhân.
Khi đi thì tìm mọi cách đi cho bằng được giờ về sợ xấu hổ, con cái học hành dở dang, khả năng kinh tế không cho phép, nhà ở Việt Nam giờ quá mắc. Nếu ngày xưa ai có nhà mặt phố bán để ra đi thì đừng bao giờ về tìm hiểu xem căn nhà đó bây giờ bao nhiêu, nếu không bạn sẽ không ngủ được đâu. Về Việt Nam lại phải bắt đầu lại từ đầu...

Riêng bản thân tôi thì, mình đã quá hèn mọn, không làm được gì cho dân tộc thôi thì hy sinh chút sức mọn này cho gia tộc. Chỉ mong những người thân trong gia tộc tôi nói riêng và những người ở Việt Nam có thân nhân ở nước ngoài nói chung thực sự hiểu được giá trị của đồng tiền mồ hôi nước mắt mà người con tha hương gủi về.

Nói chung, người Việt chúng ta rất cần kiệm. Đa số sau khi định cư ở nước ngoài 2-3 năm thì ai cũng bắt đâu dư dả 40.000-50.000 USD hay hơn thế nữa. Nhưng những ngày đen tối lại bắt đầu từ đây. Lúc đã có tiền , bạn bắt đầu nhìn lại cuộc sống. Với suy nghĩ, mình không thể ở mãi trong một căn hộ chật hẹp, phức tạp, đi một chiếc xe cũ kĩ như thế này được... Một ngày, bạn tới gặp chuyên viên ngân hàng, người nhân viên này đã từng ăn học ở trường hàng năm để dụ dỗ mọi người. Nào là: bạn không phải ở nhà mướn, thực sự làm chủ căn nhà của mình, là tài sản lớn, là khoản đầu tư sinh lời cao, sau khi bạn trả xong căn nhà bạn sẽ có một khối tài sản lớn... Sau khi gặp môi giới xem một loạt nhà và tất nhiên là bạn không thích một căn nhà cũ, nhỏ trên dưới 100.000 USD. Kết quả là bạn quyết định mua trả góp 30 năm cho một căn nhà 300.000-400.000 USD ở cho sướng tấm thân. Lúc này bạn cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Đất nước Mỹ đã cho mình quá nhiều cơ hội. Rõ ràng là, chỉ cần 5000 USD để mua một chiếc xe 40-50.000 USD; 10-20.000 USD để mua một căn nhà 400.000 USD. Thậm chí bạn chỉ cần có công việc ổn định chẳng cần đồng nào cũng mua được nhà, xe...

Nhưng theo sự hiểu biết của tôi thì bạn đã chui vào một cái bẫy tài chính hết sức tinh vi mà các chuyên gia kinh tế hàng đầu tạo ra. Tại sao vậy? Vừa ký mua căn nhà thì bạn đã mất đi 6% giá trị của căn nhà cho "tiền môi giới", mà nhiều người cho rằng người bán trả, nhưng theo tôi thì người mua đưa tiền cho người bán trả. Nếu không tin thì bạn bán ngay căn nhà vừa mua thì sẽ biết là mình mất bao nhiêu %. Chẳng hạn, bạn mua một căn nhà 400.000 USD, cứ cho là trả trước 100.000 USD thì ngân hàng phải trả cho chủ đầu tư 300.000 USD, tức bạn mượn 300.000 USD tiền mặt thế chấp bởi căn nhà với lãi suất 4,99-7,99 %/năm tùy tín dụng từng người. Bên cạnh đó, bạn phải trả thuế tài sản 1,75-4 %/năm tùy từng khu và thành phố mình ở.


Những ngôi nhà được bán với giá 500 hay 1.000 USD đăng tải trên báo chí Việt Nam rất phổ biến tại Mỹ. Tuy nhiên, theo các chuyên gia, nếu không am hiểu luật pháp của Mỹ, nhà đầu tư có thể bị mất cơ hội và... mắc cạn.

VD: với một căn nhà 400.000 USD trả trước 100.000 USD thì phải trả hàng tháng: tiền gốc 1000-1200 USD, tiền lời ngân hàng 1500-2000 USD, tiền thuế tài sản 600-800 USD cộng tiền vệ sinh khu vực 300-600 USD/năm, tiền bảo hiểm... Tính ra mỗi ngày ngủ dậy thì có một ai đó đã rút ra từ hầu bao của bạn 100-150 USD/ngày, sau 30 năm bạn phải trả 1,2 - 1,5 triệu đô cho một căn nhà 400.000 USD.

Sau khi dọn tới căn nhà mới, bạn thấy căn nhà trống trơn, lúc này thì túi tiền cũng đã vơi và bạn lại nhớ tới "lệnh bài " mà Hoàng Đế Obama ban tặng. Mà nó cũng giống lệnh bài thật, cứ tới bất cứ trung tâm mua sắm nào, chỉ cần kéo cái rẹc là có thể khuân về bất cứ thứ gì, từ cái mở nắp chai rượu đỏ tới TV, tủ lạnh... Bạn lại thấy vô cùng sung sướng là mình không còn thiếu bất cứ thứ gì chỉ có thiếu nợ đến mức không thể thiếu nhiều hơn được nữa. Đến thời điểm này thì bạn và vợ con đã nhiễm loại virus mua sắm, loại virus này ở Mỹ chưa có thuốc chữa.

Nhưng xin thưa với các bạn là loại thẻ tín dụng mua trước trả tiền sau này chẳng khác gì một lưỡi dao cắt cổ. Với lãi suất 14,99-24,99 % năm, tính ra cũng xấp xỉ mượn tiền nợ nóng ở tiệm cầm đồ ở Việt Nam. Khoảng 20 ngày sau thì hóa đơn đòi nợ tới gõ cửa nhà bạn mà không bao giờ biết mệt mỏi. Tôi cam đoan là sau khoảng 2-3 năm lo trả tiền nhà, thẻ... tóc của bạn không còn kịp bạc nữa mà nó rụng ráo trọi. Có nhiều anh chàng kỹ sư, chuyên gia theo được 5-7 năm nhưng đùng một cái mất việc. Bạn thử nghĩ những người này trụ được bao lâu? 3-6 tháng là mất nhà => mất vợ, con. Vì vậy cho nên, lâu lâu lại nghe tin, có một anh chàng tầm 35-40 tuổi vác súng tới chỗ làm sát hại đồng nghiệp, vợ con rồi đặt dấu chấm hết cho cuộc đời. Mà cứ cho là có nhiều người leo đến 30 năm để trả hết nợ nhà đi chăng nữa thì lúc này bạn cũng sắp trở thành người của thế giới bên kia, còn nhà thì sắp sập.

Nếu bạn muốn sang căn nhà cho con cái thì con của bạn lại phải đóng một khoản thuế rất cao. Nếu chẳng may bạn qua đời thì tất cả chủ nợ, đặc biệt là nợ tiền bệnh viện đến phong tỏa căn nhà và toàn bộ tài sản của bạn kể cả tiền tiết kiệm trong ngân hàng. Lúc này chủ nợ sẽ bán đấu giá từ căn nhà đến đôi bông tai, cho đến khi đủ số tiền bạn nợ mới thôi. Nếu không đủ, họ có quyền thu hồi những tài sản mà trước đây bạn đã cho tặng con cái trong vòng 7 năm. Đau quá phải không các bạn? Tôi nghĩ, ở Mỹ họ áp dụng chính sách "xẻo dần", người có nhiều xẻo nhiều, kẻ có ít xẻo ít, xẻo đến chết thì thôi không xẻo nữa, mà bưng sạch luôn.

Cũng vì những lý do kể trên, dù tôi đã ở Mỹ lâu năm nhưng tôi lại thuê phòng hoặc căn hộ để ở. Bao nhiêu tiền làm ra tôi đều đầu tư về Việt Nam, vừa xây dựng quê hương đất nước vừa thắng lợi lớn. Hiện tại có những bất động sản của tôi ở Việt Nam đã lên giá 30 lần vì tôi mua từ năm 1998. Hàng tháng tôi vấn có thu nhập từ tiền thuê nhà, còn hơn cả thu nhập ở Mỹ. Và nhất định một ngày không xa tôi sẽ về Việt Nam để sinh sống.

Theo cách nghĩ của riêng tôi, nếu như một ngày nào đó các bạn ở Việt Nam qua Mỹ để du lịch, thấy cuộc sống ở Mỹ quá hào nhoáng mà bỏ một triệu đô để mua đứt một căn nhà thì bạn đã thuộc thành phần đại gia. Mà đại gia thì sống ở Mỹ làm gì cho buồn mà chủ yếu là lo cho con cháu. Mà lo cho con cháu thì phải tính 20 -30 năm hay hơn thế nữa, thì bạn không chỉ bỏ một triệu, mà phải chuẩn bị thêm ngót nghét một triệu nữa để đóng thuế. Cho nên tôi thiết nghĩ, đại gia thì không dại gì đầu tư một cách thiếu khôn ngoan như vậy. Thà bỏ tiền ra làm từ thiện hay xây cho liệt tổ liệt tông một căn nhà thờ còn để lại tiếng thơm ngàn đời cho con cháu.

Thật ra thì còn nhiều điều phải nói lên nữa nhưng thời gian không cho phép và sự hiểu của tôi về xã hội Mỹ còn rất khiêm tốn. Qua đây cũng cầu xin những ai hiểu biết về xã hội Mỹ, đặc biệt là về khía cạnh luật sở hữu và thừa kế tài sản, hãy viết lên một bài để cộng đồng người Việt chúng ta ở nước ngoài có thêm kinh nghiệm để bảo toàn tài sản của mình.

Danny Nguyen
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vụ đảo chính chấn động của Chu Vĩnh Khang: Bao vây Trung Nam Hải?


Hải Võ
(Soha.vn) - Diễn đàn Tân Hoa Xã đã so sánh vụ của Chu Vĩnh Khang với “âm mưu lật đổ chính quyền” của Bè lũ 4 tên thời Cách mạng Văn hoá.

Vụ Chu Vĩnh Khang nguy hiểm như vụ Bè lũ 4 tên

Sau khi có tuyên bố điều tra chính thức với Chu Vĩnh Khang, ngày 30/ 7, diễn đàn trên trang điện tử của Tân Hoa Xã xuất hiện bài phân tích “Những vấn đề sâu xa trong vụ Chu Vĩnh Khang”.

Bài viết nhận định, vụ Chu Vĩnh Khang gây “chấn động thế giới”, những người có quan hệ liên đới với ông Chu như vợ con, họ hàng, thuộc cấp, trợ lý, đặc biệt là nhóm lợi ích “bang dầu khí” đều đã nằm trong tầm ngắm của Ủy ban Kiểm tra kỷ luật (CCDI).

Bài phân tích trên so sánh vụ án của Chu Vĩnh Khang với vụ Lâm Bưu và Bè lũ 4 tên thời Mao Trạch Đông. Bài viết có nhắc tới Băng nhóm Lâm Bưu phản Đảng, Bè lũ 4 tên, “câu kết bè đảng, âm mưu lật đổ chính quyền”…, tuy không chỉ ra những liên hệ trực tiếp với vụ Chu Vĩnh Khang nhưng cũng đủ khiến độc giả có sự liên tưởng.

"Chu Vĩnh Khang điều động lực lượng, bao vây Trung Nam Hải"

Các nguồn tin quốc tế tiết lộ, Chu Vĩnh Khang từng nhiều lần mưu đồ đảo chính nhưng không thành, trong đó, được nhắc tới nhiều nhất chính là sự kiện 19/3.

Ngày 15/3/2012, cựu Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai chính thức bị cách chức. Nhiều nguồn tin được lan truyền trên các trang mạng ở Hong Kong nhưng chưa được kiểm chứng cho hay, việc Chu Vĩnh Khang cùng cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo tranh giành một nhân chứng quan trọng là doanh nhân Từ Minh đã dẫn tới vụ đảo chính Bắc Kinh 19/3.

Nguồn tin tự nhận là "từ bên trong Trung Nam Hải" tiết lộ, đêm 19/3, Chu Vĩnh Khang điều động lực lượng cảnh sát vũ trang quy mô vô cùng lớn tại Bắc Kinh và vùng lân cận, bao gồm cả Tân Hoa Môn và Thiên An Môn, đồng thời khống chế Tân Hoa Môn của Trung Nam Hải. Khi đó, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Lệnh Kế Hoạch, “đại nội tổng quản” của chủ tịch Hồ Cẩm Đào, đã lập tức điều động Cục cảnh vệ Trung ương, đối phó tình hình. Lúc này, lực lượng vũ trang mà Chu huy động chỉ “chần chừ trước cửa Trung Nam Hải” chứ không dám tiến xa hơn.

Sau khi nhận tin Trung Nam Hải bị bao vây, Hồ Cẩm Đào đã phải điều động khẩn cấp Quân đoàn 38 thuộc Bộ đội Vệ Tuất (cảnh vệ bộ đội cấp cao, được ví như “cấm vệ quân” thời xưa) tiến vào Bắc Kinh, đối phó với lực lượng cảnh sát vũ trang của Chu Vĩnh Khang. Sau khi cảnh sát vũ trang kháng cự lại mệnh lệnh rút khỏi Bắc Kinh của Quân đoàn 38, giữa hai bên đã xảy ra đấu súng.

Các nguồn tin này dẫn lời một nhân chứng giấu tên cho hay “đã nghe thấy tiếng súng phát ra từ phía Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương”. Cảnh sát vũ trang sau đó đã đầu hàng và được Quân đoàn 38 cách ly khỏi “khu vực nhạy cảm”.

Hồ Cẩm Đào từng muốn bắt giữ Chu Vĩnh Khang nhưng không thành

Cũng theo các nguồn tin chưa được kiểm chứng nói trên, trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, khẩu hiệu của Quân đoàn 38 chính là “đập tan phần tử âm mưu đảo chính”. Quân đoàn này từng bao vây trụ sở Ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương, tuyên bố truy bắt Chu Vĩnh Khang, chủ mưu vụ đảo chính, theo chỉ đạo của Hồ Cẩm Đào.

Một nguồn tin giấu tên khác tiết lộ, tại trụ sở CCDI, Quân đoàn 38 đã có xung đột với lực lượng cảnh vệ và thậm chí còn khống chế lực lượng này. Tuy nhiên trong đêm đó, người ta không thể tìm thấy Chu Vĩnh Khang bất kể là tại trụ sở CCDI hay tư gia của Chu.

Trước thềm Đại hội Đảng Trung Quốc lần thứ 18, Bạc Hy Lai đã thừa nhận chính Chu Vĩnh Khang là người đã tiết lộ thông tin cựu Chủ nhiệm Ủy ban an ninh Trùng Khánh trốn tại Lãnh sự quán Mỹ. Chu còn yêu cầu Bạc phải “lập tức hành động, bằng mọi giá phải bắt được Vương Lập Quân”. Sau động thái trên của Chu, bà Cốc Khai Lai, vợ Bạc Hy Lai, đã mật báo với Trung ương về  vụ chủ mưu đảo chính của ông này.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Triều Tiên thử nghiệm vũ khí hóa học trên trẻ khuyết tật?

(TNO) Trong một cuộc phỏng vấn với tờ Telegraph (Anh), một cựu sĩ quan lực lượng đặc nhiệm CHDCND Triều Tiên cho biết đã phải bỏ trốn khỏi quê hương sau khi chứng kiến cảnh chính quyền thử nghiệm vũ khí hóa học và sinh học trên trẻ em và người trưởng thành khuyết tật.



Lãnh đạo CHDCND Triều Tiên Kim Jong-un trong một chuyến đi công cán - Ảnh: Reuters
The Telegraph bình luận mặc dù đây không phải là lần đầu tiên tố cáo dạng này được đưa ra, nhưng tiết lộ của Im Cheon-yong đã củng cố thêm cho báo cáo điều tra từng được công bố hồi tháng 6.2013 của  tổ chức Liên minh Công dân vì Nhân quyền Triều Tiên, trong đó đề cập về cách chăm sóc người khuyết tật tại Triều Tiên.
Ông Cheon-yong nói với tờ báo Anh rằng cuộc thử nghiệm đầu tiên mà ông được thấy là thử nghiệm vũ khí chứa vi rút bệnh than và các loại vũ khí hóa học khác hồi năm 1984.
Chính phủ Triều Tiên khi đó đã triển khai các cuộc thử nghiệm ghê rợn kể trên “một cách hợp pháp” bằng hình thức “mua lại trẻ khuyết tật từ cha mẹ kèm lời cam kết sẽ chăm sóc hộ”, theo lời cựu sĩ quan Triều Tiên.
“Nếu không mua được, họ sẽ đe dọa các bậc cha mẹ. Họ dùng những đứa trẻ cho các cuộc thử nghiệm vũ khí hóa học. Mà không chỉ trẻ em, họ còn dùng cả những người trưởng thành bị khuyết tật”, ông Cheon-yong cho hay.
Trong báo cáo công bố tại một cuộc họp báo ở Đại sứ quán Anh tại Hàn Quốc hồi tháng 6.2013, Liên minh Công dân vì Nhân quyền Triều Tiên, có trụ sở tại Seoul, dẫn lời một cựu quan chức chính phủ Triều Tiên hé lộ cái gọi là “Bệnh viện 83” trên một hòn đảo ngoài khơi tỉnh Nam Hamgyong, tờ Korea Herald (Hàn Quốc) đưa tin.
Đây là nơi chính quyền Bình Nhưỡng thực hiện “các cuộc  thử nghiệm y tế trên trẻ em khuyết tật, chẳng hạn như mổ xẻ cơ thể và thử vũ khí hóa học lẫn sinh học trên người”, theo nguồn tin của tổ chức này.
Triều Tiên đến nay vẫn chưa đưa ra phản ứng trước thông tin cáo buộc Bình Nhưỡng ở trên.
Hoàng Uy

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ai can thiệp để Bọ Lập có triển vọng “tại ngoại hầu tra”?


(VNTB) - Tin tức hết sức bất ngờ vừa được Cổng thông tin của Công an TP.HCM tung ra vào tối khuya ngày Quốc tế nhân quyền 10/12/2014: “Ông Lập khai nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình và xin được hưởng khoan hồng, sớm được tại ngoại. Ông Lập cam kết từ bỏ hoạt động vi phạm pháp luật để tập trung vào lĩnh vực văn học nghệ thuật, phục vụ xã hội” (PV11).

“Đề cao vai trò của Chủ tịch nước”

Theo kinh nghiệm và “thông lệ” của những trường hợp tương tự tin tức về số phận nhà văn Nguyễn Quang Lập, người ta có thể suy ra là chủ trang Quechoa nổi tiếng này rất có thể sẽ được phóng thích chỉ trong ít ngày tới. Nếu suy đoán này biến diễn thành hiện thực, có thể nói đây là một trong số hiếm hoi trường hợp trí thức phản biện được “tại ngoại hầu tra” chỉ sau ít ngày bị bắt khẩn cấp.

Vào đầu năm 2011, blogger Cô gái Đồ Long (Hương Trà) đã được thả sau khi bị bắt và giam giữ tại trại giam B34 nổi tiếng “10 người vào 1 kẻ ra” của Bộ Công an. Tuy nhiên, Hương Trà đã phải “chăn kiến” ít nhất vài tháng ở nơi kín cổng cao tường ấy.

Còn lần này, lại một lần nữa, dư luận và giới quan sát sôi trào. Rất có thể nhiều người sẽ bàng hoàng vì trong khi còn chưa giải đáp được câu hỏi vì sao Bọ Lập bị bắt thì lại phải đối diện với ẩn số do đâu ông có triển vọng được thả.

Cần nhắc lại, nhà văn Nguyễn Quang Lập bị Cơ quan an ninh điều tra - Công an TP.HCM bắt vào ngày 6/12/2014 khi bị cáo buộc vi phạm điều 258 Bộ luật hình sự về “lợi dụng các quyền tự do dân chủ…”. Vụ bắt giữ đột ngột này xảy ra sau một tuần vụ bắt giáo sư Hồng Lê Thọ - chủ trang blog Người Lót Gạch, cũng được thực hiện bởi PA92.

Liên tiếp hai vụ bắt giữ trên đã khiến dư luận dậy sóng. Một số cách nhìn, phân tích và giả thiết đã được nêu ra trên diễn đàn trong nước, hải ngoại và quốc tế về những lý do trực tiếp như “bắt để răn đe giới đấu tranh dân chủ", "bắt trước hội nghị trung ương", hoặc về nguồn cơn sâu xa hơn là "bắt vì chống Trung Quốc"…

Nhưng khác hẳn với hiện tượng hàng loạt bài viết ồ ạt xuất hiện trên báo đảng và các tờ báo nhà nước khác “lên án Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh” sau khi “đối tượng” này bị bắt khẩn cấp liên quan điều 258 vào đầu tháng 5/2014, vào lần này báo chí nhà nước chỉ đưa tin theo thông báo của Cổng thông tin Bộ Công an mà không kèm theo bình luận nào. Thậm chí cả Nhân Dân, Quân Đội Nhân Dân hay Công An Nhân Dân - những tờ báo đảng danh giá và kiên định nhất - cũng im lặng một cách đầy khó hiểu trước “kẻ phản động” Nguyễn Quang Lập.

Trong khi đó, nguyentandung.org - một trang tin luôn trở nên nhạy bén với những nguồn tin từ ngành công an và đặc biệt liên quan đến các vụ bắt bớ nhân sĩ trí thức, đã "tường thuật" một tin tức (cũng có thể hiểu như một nhận định, hoặc khái quát hơn nữa là mang tính "báo cáo"): "Trong một thời gian dài, ông Nguyễn Quang Lập đã viết và đăng tải lên mạng rất nhiều bài gây chia rẽ nội bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, như xúc phạm, bôi nhọ uy tín của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, nhưng lại đề cao vai trò của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang…".

Tuy nguyentandung.org chưa bao giờ được thừa nhận như một cơ quan báo chí chính thống, nhưng theo cách nhìn của VNTB, vài dòng tin tức ngắn ngủi trên rất đáng được chú ý và phân tích trên phương diện vừa đa dạng chính trường vừa chiều sâu chính khách, không chỉ như "căn cứ" để có thể khởi tố vụ án và dẫn đến truy tố bị can, mà còn biểu tả một cách đầy sâu lắng nguồn cơn bắt người.

Tất cả lồng trong bối cảnh trước hội nghị trung ương cuối năm 2014 - được dư luận đánh giá là đặc biệt quan trọng về công tác nhân sự để chuẩn bị cho đại hội đảng 12 vào năm 2016.

Ai can thiệp?

Nếu giả thiết nhà văn Nguyễn Quang Lập rơi vào bàn cờ chính trị là đúng, giả thiết có tính logic tiếp theo mà có thể dẫn đến việc ông Lập được “tại ngoại hầu tra” một cách ngoạn mục là đã có một sự can thiệp đủ “mạnh” từ một cấp lãnh đạo rất cao chỉ mới xảy ra trong vài ngày qua.

Ai?

Và nếu quả thực sắp tới nhà văn Nguyễn Quang Lập được phóng thích, bàn cờ chính trị vẫn giữ nguyên thế ngang ngửa một cách kỳ quặc. Vẫn chưa một con mã nào thực sự “sang sông”. Và có thể một số ai đó có ý muốn đưa người “muốn dùng con thuyền để chuyên chở sự thật” ra tòa án, hoặc chí ít cũng cầm giữ ông bằng vài ba lệnh tạm giam loại 4 tháng, sẽ không thể mãn nguyện.

Chính trị không đơn giản và hanh thông như ai đó thường muốn, nhất là khi nền chính trị đó đậm đà sắc tố phân hóa.

Những tín hiệu ngược dòng qua lại xung quanh vụ Bọ Lập đang hứa hẹn hội nghị trung ương cuối năm 2014 tuôn trào kịch tính.

Nguồn: http://www.ijavn.org/2014/12/ai-can-thiep-e-bo-lap-co-trien-vong-tai.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang