Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 5 tháng 7, 2014

Trong văn học có những nhà văn rất xứng đáng là nhà văn, mà chỉ có một bài.

Quả thật không thể không nói đến tác dụng tích cực của báo chí, đặc biệt của thể loại phóng sự, được khôi phục một cách đúng lúc vào thời điểm đó đã thật sự góp phần không nhỏ tạo nên chuyển động xã hội quan trọng nhất của đất nước kể từ sau năm 1975.
Trong sự sống dậy mạnh mẽ, sinh động của phóng sự hồi ấy, Cái đêm hôm ấy đêm gì...của Phùng Gia Lộc có một vị trí đặc biệt: nó gây xúc động lớn hơn cả, chấn động tâm trí người đọc khắp nước (bấy giờ báo Văn Nghệ (*) ở Hà Nội vừa đăng xong lập tức được báo Tuổi Trẻ Chủ Nhật ở TP.HCM đăng lại ngay), và có lẽ trong hàng trăm phóng sự sôi nổi hồi ấy, riêng nó chắc sẽ còn sống lâu dài như một giá trị văn học độc đáo, khó quên, đánh dấu một thời.
Hoàn cảnh ra đời của phóng sự cũng thật đặc biệt. Tôi nhớ những ngày ấy...
Đang là những ngày âm ỉ mà nóng cháy của “Đêm trước”, và Thanh Hóa là một trong những điểm nóng nhất. Ở đấy cuộc đấu tranh giữa các lực lượng bảo thủ và các lực lượng đòi hỏi đổi mới có thể nói đã đến mức sống mái, thậm chí theo nghĩa đen của từ này. Một không khí khủng bố thật sự, uy hiếp đến cả tính mạng của nhiều người dũng cảm đấu tranh, trong đó có nhiều anh chị em cầm bút.
Anh Phùng Gia Lộc, một người viết nghèo, đau yếu, hiền lành mà hết sức trung thực và can trường, là một mục tiêu trọng điểm của người đứng đầu tỉnh này và tay chân của họ. Lo lắng cho tính mạng của anh, các bạn viết và cả bạn đọc của anh bàn nhau phải tìm cách đưa anh đi lánh nạn.
Đưa đi đâu? Các vùng nông thôn khác cũng đều đang khá căng. Chỉ ra Hà Nội mới có thể tương đối an toàn. Nhưng thoát ra được đến Hà Nội cũng chẳng dễ: có cả một mạng lưới dày đặc theo dõi, bao vây chặt các “mục tiêu”. Anh em phải năm lần bảy lượt mưu mô mới lén đưa được anh Phùng Gia Lộc đến một ga nhỏ, nhanh chóng bí mật đẩy anh lên tàu rồi cử người canh gác chặt hai đầu toa... hệt như thời các chiến sĩ hoạt động bí mật trong lòng địch... cho đến khi tàu tới ga Hà Nội.
Ra đến Hà Nội rồi vẫn còn phải rất cảnh giác, vẫn phải giấu kín anh, đề phòng còn có thể bị “truy kích”. Giấu ở đâu bây giờ? Anh Phùng Gia Lộc vốn quen thân với anh Bế Kiến Quốc, biên tập viên văn xuôi ở báo Văn Nghệ. Anh Quốc báo với chúng tôi và chúng tôi quyết định đưa anh Lộc về giấu ngay ở tòa soạn báo.
Anh Lộc ở ngay trong cơ quan, hết sức hạn chế đi ra bên ngoài, đêm ngủ ngay trên chiếc bàn lớn chúng tôi vẫn dùng làm chỗ giao ban và duyệt báo hằng ngày. Chúng tôi cũng căn dặn nhau rất kỹ, tuyệt đối không ai được tiết lộ sự có mặt của anh ở đây. Hồi đó báo chúng tôi còn rất nghèo. Các chị em ở phòng trị sự chung nhau mỗi người góp mấy lon gạo nấu cơm nuôi anh. Anh chị em biên tập thì góp mỗi người một ít tiền.
Chính trong những ngày đó anh Lộc đã kể cho chúng tôi nghe tình cảnh bi đát của nông dân trong cái “đêm trước” vô cùng đen tối ở quê anh. Chúng tôi ngồi nghe, không ai cầm được nước mắt. Chúng tôi nói với anh Lộc: “Thôi bây giờ anh ở đây với anh em chúng tôi, no đói có nhau. Và anh ngồi đây, viết lại tất cả những gì anh đã biết, đã sống qua và đã kể đi. Chỉ cần viết đúng như anh đã kể”.
Anh Lộc đã ngồi viết thiên phóng sự nổi tiếng Cái đêm hôm ấy đêm gì... như vậy đấy, đều về đêm, trên chiếc bàn lớn duy nhất của tòa soạn chúng tôi hồi bấy giờ, viết mệt quá thì nằm luôn lên bàn đó mà ngủ, nửa đêm sực thức dậy lại viết tiếp... Anh Bế Kiến Quốc là người trực tiếp biên tập bài báo ấy. Theo tôi được biết, anh Quốc hầu như không sửa bỏ chữ nào. Bài viết chỉ trong hai đêm thì xong. Và chúng tôi cho đăng ngay...
Anh Lộc còn tiếp tục phải trốn ở chỗ chúng tôi mấy tháng nữa, rau muối với anh chị em chúng tôi... cho đến khi vị đứng đầu tỉnh anh bị đổ, an toàn cho những người trung thực ở quê anh đã được khôi phục...
Như chúng ta đều biết, sau đó anh Lê Huy Ngọ được cử về làm bí thư Thanh Hóa, thay vị tiền nhiệm ghê gớm kia. Một trong những việc làm đầu tiên của anh Ngọ khi về Thanh Hóa là tổ chức một cuộc gặp gỡ và đối thoại trực tiếp với báo chí, lắng nghe ý kiến của những tờ báo đã tích cực tham gia cuộc đấu tranh quyết liệt cho một Thanh Hóa, và một nông thôn của chúng ta lành mạnh và phát triển.
Tôi đã quen anh Ngọ hồi anh còn làm bí thư Vĩnh Phú. Hôm gặp lại nhau tại Thanh Hóa, tôi còn nhớ rõ anh nói với tôi như thổ lộ một suy nghiệm chắc đã nung nấu khá sâu và khá lâu, một câu hỏi tôi mà cũng có thể là anh tự hỏi mình: “Có phải Thanh Hóa đã được dùng làm “bãi thử” cho dân chủ hóa?”.
Rất có thể đúng như vậy đấy. Dân chủ hóa xã hội không phải cứ nghĩ ra là có ngay được, cũng không phải có thể có trong ngày một ngày hai, mà là một cuộc vận động và đấu tranh xã hội kiên định, kiên trì, lâu dài. Phải “học làm dân chủ” như các bạn ta ở một nước xã hội chủ nghĩa cũ đã nói trong cuộc trăn trở chuyển mình của đất nước các bạn, một cuộc học có thể rất gian nan. Và cần có những “bãi thử”. Để mới dần dần thật sự có được.
Phùng Gia Lộc là một chiến sĩ dũng cảm trong cuộc “học” gian nan đó của chúng ta một thời. Anh đã mất rồi, hầu như chỉ để lại cho chúng ta một bài báo ngắn. Trong văn học có những nhà văn rất xứng đáng là nhà văn, mà chỉ có một bài.
NGUYÊN NGỌC
-----------------
(*) Nhà văn Nguyên Ngọc là tổng biên tập báo Văn Nghệ giai đoạn 1987 - 1988.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 4 tháng 7, 2014

Niềm tự hào cay đắng của thế hệ hôm nay dành cho mai sau ( Chưa tính gánh nặng nợ nần lút đầu ngập cổ )!

'Thế hệ chúng tôi đã hút dầu, đào hết than...'

 - Chuyên gia kinh tế Bùi Văn nói rằng thế hệ của ông đã hút dầu, khai thác hết than, đánh bắt hết cá và đã chặt rừng xuất khẩu sang Nhật nhưng tự hào về điều đó vì đã để lại cho thế hệ trẻ con đường duy nhất là sự học mà không còn dựa vào tài nguyên thiên nhiên.
Các diễn giả tại buổi thảo luận “Người trẻ và sự học”

Phiên thảo luận “Người trẻ và sự học” diễn ra cuối tuần trước tại TP.HCM do chương trình Hạt giống lãnh đạo IPL tổ chức đã thu hút được đông đảo bạn trẻ, sinh viên ưu tú của các trường đại học lắng nghe các chuyên gia chia sẻ về việc học hành.

Giới trẻ đang học cái mình thích 
Theo nhạc sĩ Quốc Trung, việc học kiến thức thì vô tận, kho kiến thức cũng vô hạn nhưng thời gian hữu hạn, quan trọng là người trẻ biết chọn lựa cần học cái gì?

Mọi việc chúng ta làm đều phục vụ cho đời sống và cuộc sống của riêng mình. Các bạn trẻ hiện nay đã biết học để làm gì và thích học gì, có người học ít, người học nhiều, hoặc không học nhưng chúng ta đang học cái chúng ta thích hơn là học cái để sống (học để kiếm tiền).

Chuyên gia kinh tế Bùi Văn cho rằng hiện nay, nếu muốn thống trị thế giởi phải là sức mạnh của sự học. Cách đây 700 năm trước đế chế Mông Cổ thống trị cả thế giới bằng vó ngựa. 500 năm về trước người ta thống trị thế giới bằng thuyền buồm và chỉ mới cách đây 250 năm người Anh đã thống trị thế giới bằng sức mạnh của động cơ hơi nước – Ông Bùi Văn phân tích.

Theo ông kết quả của sự học đã chứng minh, trong 3 năm liên tiếp gần đây năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam đã tụt từ hạng 59 xuống 65. Ba vùng lõm gồm GDĐH - CĐ và dạy nghề, khả năng tiếp thụ công nghệ và năng lực sáng tạo đều thấp dưới mức trung bình.

Tại buổi thảo luận, đại diện cho thế hệ trẻ, diễn giả Võ Thị Minh Anh – ĐH Mount Holyoke (Mỹ) cũng đồng tình rằng, hiện nhiều bạn đang đi học nhưng không biết đi học cái gì, hoặc học cái mình thích nhưng sau khi ra trường đời, cần phải học lại để cảm nhận cuộc sống và soi lại để xem nó có phục vụ cuộc sống hay không.

Anh Lê Ngọc Duy Thắng - CEO Navisto cho rằng, thế hệ trẻ hiện giờ “học xói đầu” nhưng nền GD của Việt Nam chưa tạo ra được nhiều cơ hội cho bạn trẻ đi theo đam mê mà học giống như là một nghĩa vụ.

Con đường duy nhất là sự học

Theo nhạc sĩ Quốc Trung, các bạn trẻ đừng đòi hỏi nền GD phải thay đổi mà nên tự thay đổi, tự tạo ra nhu cầu về sự học, chủ động để học. Các bạn trẻ có nhiều lý do học nhưng trong đó có những lý do rất lãng xẹt như học chỉ để lấy cái bằng, lấy chỗ chứ không phải học điều chúng ta cần, nên điều này rất lãng phí thời gian.

“Nền GD của Việt Nam hiện nay có rất nhiều điểm yếu nhưng đừng để cái điểm yếu đó ảnh hưởng đến sự học. Nếu ngồi chê giáo dục Việt Nam học nặng quá, học nhiều quá thì mỗi người nên tự làm khác môi trường học của mình”

Chuyên gia kinh tế Bùi Văn cho rằng, cái chính của sự học là sự nỗ lực. “Chúng ta hay nói việc học ở Việt Nam là thầy giảng, trò ngồi nghe. Lớp học có tới 60-70 người đã cho là đông, khó tiếp thu, nhưng có những lớp học ở Harvard có tới 1.000 SV ngồi nghe, vậy tại sao họ vẫn đưa ra được cách học tốt? Cứ thử làm một phép so sánh đơn giản, để làm được 1 tỷ USD đầu tiên, Bill Gates đã phải mất từ 6 đến 7 năm nhưng ông chủ Facebook làm ra số tiền đó chỉ mất trong vòng 1 năm, đó là sự khác nhau giữa sự học và không học.

Ông Giản Tư Trung - Hiệu trưởng trường PACE và Viện trưởng viện IRED cũng nêu quan điểm rằng, người Việt Nam ai cũng mong muốn tiếng nói của mình được thế giới lắng nghe. Nhưng để có được điều đó phải có năng lực và thành tựu; quan trọng là chúng ta phải học và học kiểu gì để có năng lực và thành tựu.

Tôi rất tâm đắc với các bạn đi học ở nước ngoài về bảo rằng ở Anh- Pháp –Mỹ học chẳng khác gì Việt Nam nhưng vấn đề có chăng chỉ có vài điểm khác nho nhỏ. Khác ở chỗ thầy nói cái gì và nhận thức của người học như thế nào. Ví dụ, tại giảng đường Harvard sinh viên vào trường, câu khẩu hiệu “chúng tôi là những nhà lãnh đạo thế giới” nên suy nghĩ của họ làm thế nào để thay đổi thế giới, làm thế nào để thế giới tốt đẹp hơn. Chính sự khác biệt nho nhỏ đó biến học trò của họ thành người khác và dân tộc họ thành một dân tộc khác – Ông Trung phân tích.

Chuyên gia kinh tế Bùi Văn ví von: “Tôi không dám đại diện cho cả thế hệ chúng tôi. Nhưng cá nhân tôi thấy: Thế hệ chúng tôi đã hút gần hết dầu, đã đào gần hết than, đã dùng lưới cào và  thuốc nổ  khai thác hết cá ở biển, từng đi chặt rừng để bán sang Nhật.

Như vậy, cái chúng tôi để lại cho thế hệ sau là gì? Là hết than, hết dầu, hết cá, hết rừng nhưng tôi rất tự hào về cái đó. Bởi vì chúng tôi để lại cho thế hệ trẻ một con đường duy nhất là phải học là không còn dựa vào tài nguyên thiên nhiên nữa. Đó là điều mà tôi tự hào để lại cho thế hệ sau”.

• Lê Huyền

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Các đêm sau và sau nữa có gì khác chưa?? ( Cảm ơn NS Minh Thu đã nhắc nhớ bài này )

Phùng Gia Lộc - Cái đêm hôm ấy... đêm gì?

21/12/2005 11:44 (GMT + 7)
Sau loạt bài "Đêm trước đổi mới", rất nhiều bạn đọc đã gọi đến Tuổi Trẻ yêu cầu đăng lại bài ký sự một thời gây sóng gió "Cái đêm hôm ấy.... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc. Ngày ấy, khi xuất hiện trên báo Văn Nghệ, những dòng chữ rút ruột từ nỗi uất ức, cay đắng, ngỡ ngàng của Phùng Gia Lộc đã tạo nên một "cơn địa chấn".
Tác giả Phùng Gia Lộc, tháng 6-1988 - Ảnh tư liệu
Nhiều người đã phải giật mình, phải tự nhìn lại mình, nhìn lại những việc mình làm và đang hô hào người khác làm... Một hơi gió của đổi mới cũng bắt đầu từ đó, góp vào cơn gió sẽ đổi mới cả một đất nước, đổi đời cho hàng chục triệu con người.
Theo yêu cầu của độc giả, Tuổi Trẻ xin đăng lại toàn văn bài ký sự "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?" của nhà văn Phùng Gia Lộc trên Tuổi Trẻ Online. Xin bạn đọc thông cảm cho việc không thể đăng trên báo ngày, vì các trang còn phải dành cho tin, bài thời sự.
Cuối năm 1983, tôi được ở nhà chờ quyết định về nghỉ chế độ. Chiều chủ nhật, thằng Học con tôi rủ rỉ nói:
- Con bắt được bác Quang ăn bánh cuốn ở hàng anh Minh. Bác đi thồ sắn ở chợ Phúc Địa về. Bác cho mấy bó nhưng con không lấy. Bác dặn con về đừng nói với bố mẹ là đã gặp bác. Nói, hôm nào sang bác đánh chết.
- Hừ! Lại thế nữa...
Tôi buột miệng bảo với con thế, rồi thừ ra. Bạn bè anh em cùng một phòng với nhau mà đi qua không vào. Có điều gì nhỉ?
Sáng thứ hai tôi sang cơ quan ứng mấy cân gạo và định bụng sẽ gặp, trút sấm sét lên đầu anh ấy. Nghe tôi trách, Lê Trung Quang, trưởng phòng tổ chức Ủy ban huyện Thọ Xuân, cười hà hà làm lành thật đôn hậu, dễ yêu:
- Giá có một mình thì tôi vào. Đằng này những bốn binh, khao được, anh cũng liệt. Vả lại, bốn cái xe nặng è, sợ tối.
Là trưởng phòng tổ chức ủy ban huyện, anh cũng để gia đình vợ con đói thiếu. Ra anh còn kém cỏi hơn cả tôi, một kẻ chân chim trần trụi, một tay sắp trở thành "phó thường dân". "Nhà mình cũng bí. Nộp sản đi rồi, lúa đã cạn. Khó mà ăn thấu tết được". Quang lắc đầu bảo thế.
Anh gạn tôi:
- Ông ở đây với tôi đêm nay cho vui. Tôi buồn quá.
Tôi chỉ vào mấy cân gạo đã bó buộc sau xe, bảo anh Quang:
- Phải mang "hàng chiến lược" này về chứ.
Nếu nghe lời Lê Quang Trung nằm lại với anh một đêm, thì tôi đã không thể nào hình dung nổi ở Phú Yên xã tôi Cái đêm hôm ấy là đêm gì...
Có cái "các" quá giang của Lê Trung Quang cho mượn, tôi không phải mất ba đồng tiền đò. Qua sông Chu gió vù vù bên tai, tôi phải kéo vành mũ len, trùm thấp cho đỡ run. Tôi về đến nhà, trời đã sẩm tối, con mực xông ra í a í ẳng vờn chân lên hông. Vợ tôi bế thằng Văn ngủ khì trong lòng, ngồi bên bếp than vỏ cao su um khói. Bên cạnh, thằng cu Thức bốn tuổi đang liến láu. Còn Học - thằng con nhớn đang học bài ở nhà trên.
Thấy tôi về thằng Thức reo lên:
- A bố! Bố về là bố về! Có chi không bố?
- Có cái rét cóng đây này!
Tôi nói rồi dắt xe vào nhà, mở túi gạo, vác xuống bếp khoe:
- Ứng được năm cân gạo.
Bà cụ thân sinh ra tôi mệt đã lâu, thấy tôi về, cũng gượng chống gậy xuống bếp sưởi. Cụ bảo:
- Mẹ Học đi nấu cơm cho bố va ăn!
Tôi hỏi:
- Nhà ăn rồi hả mẹ?
Cái thằng Thức đến là hở miệng, cấm có giấu nó được tí gì. Nó nói:
- Chỉ nấu cơm cho bà với em thôi! Mẹ với anh Học, với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau cải.
Tôi thấy cay sè trong mắt.
- Thế thì nấu thêm vào. Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào?
Vợ tôi định cãi câu gì đó, nhưng lại thôi, vội trao thằng Văn cho bà rồi lại mở túi gạo đi vo. Bà cụ nói:
- Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua. Hôm nay mẹ va không đong được gạo. May lấy được đấy, không thì mai gác con lên...
Ngoài cửa gió ào ào, tiếng chó sủa ổng oảng ở đầu ngõ. Có tiếng ai hỏi mua rau cải nhà tôi. Cô Hoa vợ chú Được. Hoa cũng người họ Phùng, gọi tôi bằng bác. Chồng cô ấy là đội trưởng đội sản xuất cũ, nay vừa được rút lên làm trưởng ban định mức, rồi phó chủ nhiệm. Cô vào bếp vừa nói, vừa run:
- Sao năm nay rét sớm thế này? Bác bán cho cháu mấy bó rau cải xào.
Vợ tôi bắc nồi cơm lên bếp, mấy bà cháu phải dồn chỗ cho hai người đàn bà tê cóng này ngồi cạnh bếp hơ tay, ngó chẳng khác những viên đạn bị nén trong cái băng lò xo tròn. Tuy gần bằng tuổi vợ tôi, nhưng là hàng cháu họ, nên Hoa vẫn bác bác, cháu cháu ngon ơ.
- Bác có ngan, gà gì để cho cháu vài cân. Giá mấy cũng được, cháu không quản.
- Còn có vài ba con, phải để hôm sau bà...
Tôi lừ mắt chặn lại câu nói hớ, khiến vợ tôi im bặt. Chả là vì mẹ đẻ ra tôi yếu lắm rồi. Cụ đã bảy mươi lăm tuổi, lại phù nề mặt mũi vàng ủng như quả thị rụng. Ai cũng bảo khó qua cái đầu mùa Đông này. Vì vậy gia đình tôi đã lo chuẩn bị ngầm, phòng sau khi cụ về cõi. Cái gì vợ tôi cũng bảo dành để hôm sau bà... thành quen miệng. Cau cũng phơi kỹ bỏ be để hôm sau, thậm chí bọt bẹt được đồng rau nào cũng dồn mua ván đóng sẵn áo quan để hôm sau... Ấy nhưng nói đến cái chết, cụ lại giận và làm nau: Bay trông tao chết à? Tao phải sống để nhìn con cháu được đến lúc sung sướng chứ. Khổ mãi rồi.
Tôi hỏi Hoa để lấp láp câu hớ rồi cho bà cụ khỏi giận:
- Mua đồ nhậu làm gì tối thế này?
- À... mua cho mấy thằng về đội ta thu sản, khuya các hắn đớp. Đội và quản trị thuê khoán cháu nấu.
Vì có chồng ở ban quản trị, cô ấy cũng là loại biết nhiều chuyện "bí mật nội bộ". Hoa thì thò cho vợ tôi biết đêm nay là đêm "đồng khởi" thu sản, tổng vét cả xã. Họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay cứng cựa. Hoa khuyên:
- Bác có thiếu sản, thì liệu mà xoay đi
- Thế thì tao đét bán rau cho mi nữa.
Vợ tôi toan từ chối, nhưng Hoa nài mãi và có tôi nói vào nên chị chàng mới chịu nghe. Hoa cầm đèn ra vườn soi cho vợ tôi hái. Cô ấy cầm rau, rồi còn đi các nhà bên cạnh hỏi mua gà. Cơm cạn, tôi vần cạnh bếp. Vì không phải ghế độn khoai độn sắn gì nên chín rất mau. Thấy chỉ nấu mình cơm tôi, lòng tôi lại buồn nổi gai. Vợ tôi bế thằng út vào lót cho nó ngủ trong buồng, rồi lấy cho tôi cái bát, đôi đũa. Cuộc chào mời đùn đẩy, nhường nhịn nhau rõ bực.
Tôi lùa hai bát cơm với nước dưa chua, rồi bỏ đấy. Bà cụ nài, rồi tôi dỗ thằng Thức cũng lắc đầu không dám ăn chỗ cơm còn lại. Hắn sợ mẹ. Nhà này, mẹ chúng nó có quyền uy tối thượng. Biết vậy, nhưng tôi cũng sắp trở thành kẻ sống nhờ...
Ngồi ở bếp, tôi hỏi vợ:
- Nhà mình còn thiếu của hợp tác xã bao nhiêu thóc nữa em?
Cô ấy không trả lời tôi mà nói rất vô lễ:
- Có biết thế này, đái tòe tòe vào, chứ tội gì lôi về. Cha đời! Bữa trước thì tuyên bố vớt được nấy ăn nấy, người ta mới hụp lặn xuống nước lụt mà khở (gở) từng bông lúa. Nay lại giở trò giảm tỷ lệ!
Tôi vỗ về:
- Thôi! Lụt thì lụt cả làng, em ạ! Em nói xem, so với tổng sản phải nộp, nhà ta thiếu bao nhiêu?
- Một tạ mười hai cân, em đã trình bày với anh Nhà đội trưởng rồi. Thực tế mò được hạt nào đã ăn hết hạt nấy. Mấy lâu nay bán được đồng rau nào mua ăn, không bán được thì nhịn. Đã nói khất rồi. Không cho khất, thì nhà đấy có dỡ được, đến mà dỡ.
- Phải mềm mỏng, em ạ! Khéo bán khéo mua thua người khéo nói! Gia đình mình, con cái mình còn ăn đời ở kiếp nơi đây.
Vợ tôi rền rĩ như sắp khóc:
- Chả nhẽ kiếm liều thuốc chuột, cho vào nồi cháo, ăn hết cả nhà cho sướng cái đời...
Ngồi sưởi ở bếp rất lâu, vỏ cao su cháy tàn, đã vạc hai ba đống than, mà chẳng ai muốn nói với ai câu nào nữa. Bà cụ ngồi lâu, mỏi và chán chuyện bỏ đi nằm. Thằng Học làm toán xong, lấy cho bà nồi than, rồi cũng rúc xuống bếp. Hắn đi bốc rơm lót ổ ngay cạnh bếp, lấy ván chắn rồi trải chiếu, ôm chăn ra nằm.
- Ngủ đây mà ấm, bố ạ!
Trong giường thằng Út Văn khóc í óe. Hắn lại đái lạnh đít rồi. Mẹ nó vào quả không sai. Nó được ôm ra bếp sưởi, nằm gọn trong lòng mẹ. Gần một tuổi mà nó còn bắt nhá cơm bón và bú thì hơn con bê non. Lại nhai tòm tọp thế đó! Tôi đùa với con để nó cười sằng sặc cho dịu cơn lo buồn.
Gần mười hai giờ khuya, cả nhà đi nằm. Tôi ngủ với hai thằng oắt trong ổ rơm dưới bếp.
Có điều gì đó bồn chồn và nơm nớp...
Bỗng tiếng kẻng gõ giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây chuyền. Tiếng loa phóng thanh mở hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động lương thực của tỉnh và chỉ thị của tỉnh ủy về công tác lương thực.
Hoàng Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc chưa giao nộp cho hợp tác xã. Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường. Chó sủa ơi là chó sủa. Cũng cái loa phóng thanh ấy, có tiếng ông chủ tịch xã gọi cán bộ về đội 12 hội ý.
Ông trưởng công an xã Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân, công an tăng cường về chi viện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu huy động. Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ gõ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ.
Gần một giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang, tiếng lợn kêu èng ẹch như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh, làm thằng Út Văn khóc thét lên, ôm riết lấy mẹ. Thằng Thức cũng im thin thít, nằm co trong lòng tôi không dám cựa. Bên nhà ông Ái, láng giềng cách vườn nhà tôi một hàng rào, công an và dân quân đang lùng sục. Tiếng ông bà Ái kêu xin và tiếng quát lác, tôi nghe rõ mồn một.
- Cứ bắt lấy cái xe đạp! Phích, xô, bắt ráo!
Ở cổng nhà tôi đã có bước chân rình rịch, con chó mực đang có chửa bị quất, kêu ử ử.
Cạch cạch cạch.
- Chị cò Lộc, mở cửa ra!
Tiếng thằng bé trong buồng khóc thét. Thằng Thức đang ôm tôi, nghe em khóc cũng òa khóc toáng lên. Thằng Học mười hai tuổi đã học lớp tám rồi, mà cũng níu lưng tôi run bắn. Nghe tiếng quát lần thứ hai, từ nhà bếp, tôi chạy lên. Một luồng đèn pin soi giữa mặt làm tôi lóa mắt, phải lấy tay che.
- Có chuyện gì đấy, các bạn trẻ ơi?
- Thu thóc, thu thóc chứ còn gì, ông đừng hỏi vờ.
Vợ tôi đã mở toang cửa, tay ôm thằng bé ngất lịm. Một anh, hai anh... bốn anh bạn trẻ ùa vào nhà. Anh đi đầu cao to, tóc cắt tăng gô, mặc áo bông thùng thình, soi đèn pin rồi đánh diêm châm cái đèn hoa kỳ ở bàn thờ. Có lẽ Tâm "hộ pháp" là người này. Phải, tôi đã thấy anh ta đứng chân hộ vệ giữa, trong một cuộc đá bóng với xã khác. Tay anh cầm cái choòng sắt cỡ ngón tay cái. Vợ tôi mời họ ngồi ghế. Bà cụ đang ốm ở giường bên cũng cố ngóc dậy, run rẩy chào.
Theo danh sách đội báo, chị còn thiếu hơn tạ thóc. Yêu cầu chị đem nộp ngay!
Bà cụ tôi đáp thay con dâu:
- Các bác các anh ơi! Có còn cái gì mà nộp. Các anh và các bác không thấy đàn con hắn đói xanh đói trong đi à? Các bác không thấy tôi cũng phát phù phát nề, vàng cây úa lá đây à?
- Chúng tôi không hỏi mụ nghe chưa?
Cả bốn người cùng soi đèn pin khắp nhà trong, nhà ngoài, dưới bếp, bên chái. Hai người tuông soi cả trong vườn rau. Vợ tôi mếu máo:
- Làm gì có lúa để ngoài ấy. Các anh xéo nát cả rau.
Tôi chạy ra trụ sở đội, định tìm cán bộ trình bày. Chủ tịch Phê, bạn dạy học với tôi ngày trước, đi bộ đội về giải nghệ, vào cấp ủy, đang đứng đấy. Thấy thế tôi mừng quýnh. Lại thấy cả Phùng Gia Miện anh họ tôi, làm bí thư đảng ủy cũng có mặt, tôi càng yên trí. Nhưng thấy tôi họ quay đi lảng tránh.
Anh Miện bảo nhỏ tôi:
- Chú về động viên gia đình thanh toán bằng đủ, nhà mình là cán bộ. Không có thóc thì nộp bằng tiền. Lãnh đạo đã nhất trí cho nộp cả bằng tiền rồi đó.
Tôi đang định nói: "Đã không có thóc thì làm cóc gì có tiền", nhưng anh họ tôi đã dịu giọng:
- Ở đội trên, hắn bắt cả anh Thiện, anh ruột tôi, mà tôi cũng phải điếc đi... "Mất mùa màng, lợi ích thứ ba của người lao động phải hy sinh cho lợi ích của nhà nước". Đồng chí bí thư tỉnh ủy đã chỉ thị thế, chú biết rồi đó.
Lúc ấy ở trụ sở, công an, dân quân đã khuân về nào xe đạp, bàn ghế, tủ, chum vại, thùng tôn, lợn gà... để ngổn ngang ra tận ngõ. Tên chủ nhà thiếu thóc đề chữ bằng phấn trắng vào các đồ vật: Ông Ất, ông Do Khả, ông Hưng, ông Hồng, ông Khính (mẹ đẻ cô Hoa, mẹ vợ chú Được phó chủ nhiệm)... Mấy con bò bị bắt cột gần đó sợ đèn, sợ đám đông cứ lồng lên, chực bút mũi. Chúng xoay vòng quanh, mgửa lên mặt kêu "hấp bồ", "hấp bồ"...
Tôi loạng choạng đi về nhà, thấy người ta đang còn soi đèn tìm rất kỹ. Tôi nói:
- Các người anh em soi tìm gì cho mất công. Nhà tôi xin khất đến mai, tìm cái bán chác, nộp tiền bằng đủ.
Anh đầu tốp nháy nháy mắt ra hiệu.
- Đêm nay là đêm nay! Mai chúng tôi mất thưởng ai chịu cho?
- Bắt cái xe đạp ni, bay!
Hai ba anh chạy lại. Tôi từ tốn ngăn họ:
- Các đàn anh ơi! Tôi không làm ruộng sản mà. Đây là xe đạp nhà nước cấp cho tôi để tôi đi công tác. Các vị bắt cái này không được đâu.
- Nếu chúng tôi cứ bắt thì sao?
Tôi loáng nghĩ được một mẹo. Rút cái "thẻ hội viên Hội văn nghệ tỉnh" ra, tôi nói:
- Tôi phản đối! Tôi là "nhà báo"! Tôi sẽ kiện lên tận ông Đồng.
Nước cờ của tôi không ngờ lại có hiệu quả. Họ im lặng. Hẳn họ đã biết tên tôi dưới những bài đăng nào chăng.
Chợt vị "hộ pháp" nhìn chằm chằm vào cỗ quan tài để dưới gầm bàn thờ, rồi đi lại, vừa gõ vừa hỏi:
- Cái gì trong này, chị Lộc?
Im lặng...
- Cái gì trong này, chị nói mau?
Vợ tôi ấp úng. Tôi muốn tắc thở.
- Có cái gì đâu...
Mấy vị hăm hở lại, đạp lật nghiêng một cái. Nắp văn thiên bung ra, lúa chảy rào rào. Cả toán reo lên như một hiệp đào vàng trúng vỉa:
- A! Lúa! A lúa! Lúa! Anh em ơi. Ghê thật! Thế mà giả nghèo giả khổ.
Mẹ tôi chống gậy vái dài:
- Van các anh! Cắn rơm cắn cỏ tôi lạy các anh! Lúa của tôi. Đó là tạ lúa hai đứa con gái hắn mua góp lại cho, để hôm sau tôi chết, bà con thương mà chạy đến để ăn lưng cơm sốt.
Thực ra là của hai bà chị trong đó mỗi người có mười cân thôi. Ba mươi chín cân tiêu chuẩn hai tháng vừa qua tôi lấy về, còn lại là hơn bốn mươi cân, vợ tôi đong để dành "hôm sau" cho bà.
Bà cụ nói như rên rẩm:
- Đã bảo xay phứa đi cho con nó ăn không nghe. Cứ bóp mồm bóp miệng, để dành làm chi. Sống chả thấy đâu nữa là!
Một tay râu tóc lồm xồm hỏi:
- Chị có gánh đi hay không thì bảo?
Một tay khác tôi hơi quen mặt, đến trước vợ tôi lạy lia lịa:
- Thôi em xin bà chị. Em đi làm ở đây thế này, nhưng lại có bọn khác đến chỗ em làm ác y hệt. Nhà em cũng thiếu mà. Chị không gánh, để cánh này bê cả hòm ra, chị phải chịu hai chục công là ít, chưa nói phạt tiền.
Họ xúm vào khiêng bàn thờ ra, để lôi hòm lúa. Bất đồ hai thằng Học và Thức từ bếp tuôn lên, ôm lấy tay chân chư vị, van rối rít.
- Cháu van các chú! Các chú đừng lấy lúa này đi. Lâu nay các cháu phải nhịn để dành bữa sau cúng cỗ bà, làm ma bà!
- Buông ra đi! Ô hay, đồ con nít!
Bà cụ loạng choạng đi lại, giơ gậy cản:
- Các ông không thương trẻ, thì các ông thương lấy thân già, để lấy phúc đức cho con cháu.
Vì họ đá vấp gậy, lại yếu như con căng cắc lột, bà cụ ngã chỏng queo như chiếc ghế đổ.
- Ối Đảng ôi là Đảng ôi! Chính phủ ôi... Trông xuống mà coi...
Tôi xốc mẹ lên giường, bịt mồm cụ lại:
- Mẹ! Mẹ không được la như thế! Đây không phải Đảng! Đảng ta không làm thế. Đảng không chủ trương thế này!
Tôi nói vậy và ngoặp hai hàm răng vào cổ tay mình để kìm giữ cái gì cứ chực tung ra. Hai vợ chồng xúc hết lúa ra thúng bì. Dặn thằng Học trông em, ngó bà, tôi cùng vợ hì hục gánh thóc ra trụ sở nộp...
Đoạn cuối này tôi dành cho anh Quang.
Lê Trung Quang ơi! Anh có thể giấu cái bi kịch của gia đình anh, nhưng tôi không còn có thể che giấu nỗi đau của nhân dân bất hạnh. Dù sự tiết lộ này có làm mất cái chức huyện ủy viên của anh, thì tôi cũng thấy cứ phải nói ra.
Chuyện thật của nhà anh đây: lúa vay ăn còn nợ bảy tạ, con Lâm, thằng Sơn phải đi mò hến từng bữa, chị ấy nấu bánh đúc đi các làng đổi lúa. Anh mà nói ra, người ta cho là anh bêu riếu. Việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983, người ngoài cuộc hẳn cho là mình bịa. Cho đến nay, mỗi khi nghĩ đến, tôi cứ thảng thốt hỏi mình: "Cái đêm hôm ấy... đêm gì?".
PHÙNG GIA LỘC - Cuối năm 1987
Theo Báo Văn Nghệ
Phần nhận xét hiển thị trên trang

NHA TRANG

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Sao chúng bắt dân ta như bắt gà vào vườn chúng vậy???

Theo thông tin sơ bộ chính quyền huyện Đức Phổ (Quảng Ngãi) vừa xác minh, vùng biển mà tàu cá cùng 6 ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt giữ hôm qua (3.7) là tại Vịnh Bắc Bộ chứ không phải là tại Hoàng Sa như lời người thân của ngư dân trên chiếc tàu này trình báo lúc ban đầu.
Sáng nay (4.7), trao đổi với báo Dân Việt qua điện thoại, ngư dân Võ Đạt (sinh năm 1969, quê thôn Thạnh Đức, xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, Quảng Ngãi) - chủ của chiếc tàu cá mang số hiệu QNg 94912 TS vừa bị Trung Quốc bắt giữ cùng 6 ngư dân, cho biết: Dự kiến vào trưa mai (5.7), chiếc tàu cá đi cùng với chiếc tàu đã bị bắt, mang số hiệu QNg 94913 Ts với 2 ngư dân là Trần Xi (41 tuổi) và thuyền viên Quý (40 tuổi) sẽ trở về đến cảng Sa Huỳnh. 
Tàu cá của ngư dân Phổ Thạnh (Ảnh minh họa)
Theo thông tin sơ bộ chính quyền huyện Đức Phổ vừa xác minh, vùng biển mà 1 trong 2 tàu cá của ông Đạt bị Trung Quốc bắt giữ là tại Vịnh Bắc Bộ chứ không phải là tại Hoàng Sa như lời mà người thân của ngư dân trên chiếc tàu này trình báo lúc ban đầu.
Như Dân Việt đã thông tin, 2 chiếc tàu cá mang số hiệu QNg 94912 TS và QNg 94913 Ts do ông Đạt làm chủ đã rời cảng Đà Nẵng vào ngày 28.6 để ra khai thác tại vùng biển Vịnh Bắc Bộ. Đến sáng 3.7, khi đang khai thác hải sản thì 2 tàu này bị nhiều tàu Trung Quốc đến vây, đuổi. Phía Trung Quốc đã bắt giữ tàu QNg 94912 Ts cùng 6 ngư dân; chiếc tàu nhỏ hơn mang số hiệu QNg 94913 Ts cùng 2 ngư dân được thả về.
Báo Dân Việt sẽ tiếp tục cập nhật tới bạn đọc thông tin về sự việc nghiêm trọng này.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc bắt giữ tàu cá của ngư dân trong xã khi đang đánh bắt trên vùng biển Việt Nam.


Chiều ngày 3.7, UBND xã Phổ Thạnh (Đức Phổ, Quảng Ngãi) cho biết đã báo cáo với huyện về việc hải quân Trung Quốc bắt giữ tàu cá của ngư dân trong xã khi đang đánh bắt trên vùng biển Việt Nam.

Sáng cùng ngày, khi đang đánh bắt trên vùng biển Việt Nam thì tàu cá QNg - 94912 TS với công suất 100CV của ông Võ Đạt (ở thôn Thạnh Đức 1, xã Phổ Thạnh) bị nhiều tàu của hải quân Trung Quốc vây bắt. Trên tàu lúc này có thuyền trưởng Võ Tấn Tèo cùng với 5 ngư dân hành nghề giã cào đôi cùng với tàu QNg - 94913 TS (cũng của ngư dân Võ Đạt). Sau khi bắt tàu, binh sĩ Trung Quốc vẫy tay ra hiệu cho tàu cá còn lại chạy vào bờ, rồi đưa tàu cá QNg - 94912 TS và 6 ngư dân về phía Trung Quốc. Ước tính giá trị tàu cá và ngư cụ bị bắt khoảng 1,1 tỷ đồng.
Một tàu cá của ngư dân Việt bị tàu Trung Quốc đâm va trên vùng biển Hoàng Sa ngày 15.5.2014.
Lúc này, trên vùng biển tàu cá của ông Đạt đang đánh bắt có rất nhiều tàu cá của ngư dân Việt Nam tham gia khai thác hải sản. Ngư dân Huỳnh Kim Cơ (ở cùng xã) chủ tàu cá QNg - 44158 TS sử dụng máy Icom báo tin về đất liền và gia đình ông Đạt đã báo cáo với lực lượng chức năng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TIN TỐT:

Cả xã đua sắm xe hơi đi… thăm rẫy
Nhiều nông dân tại xã Thuận Hạnh, huyện Đăk Song (Đăk Nông), do chí thú làm ăn, đã có thu nhập tiền tỷ mỗi năm. Tiền dư dả, hàng chục gia đình đã mạnh tay mua xe hơi để phục vụ nhu cầu đi lại của gia đình và hàng ngày lái xe đi… thăm rẫy!
xe hơi, thăm rẫy, Đăk Nông, nhu cầu
Ông Nguyễn Quốc Trọng tự hào bên chiếc xe hơi tiền tỷ của gia đình
Ông cha ta có câu: “Tậu trâu, cưới vợ, xây nhà” là ba việc làm quan trọng cần thực hiện đối với một đời người. Riêng ở xã Thuận Hạnh (huyện Đăk Song, Đăk Nông) những mục tiêu này được nhiều người dân hoàn thành xuất sắc, nhưng thay vì tậu trâu, nhiều nông dân đã tậu… xe hơi để tiện bề đi lại.

Trên con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, có phần nhão nhoẹt vì cơn mưa lớn tối qua, ông Phạm Văn Thiếu (thôn Thuận Hòa, xã Thuận Hạnh) cố ghì chặt tay lái để giữ chiếc xe Toyota trị giá 1,1 tỷ đồng mới mua đi đúng làn đường.
Ruộng khoai của ông cách nhà khoảng 10 km, đường hơi khó đi, đang là mùa thu hoạch nên ông cũng gắng "cưỡi" con xe của mình ra ruộng để đốc thúc công việc, đồng thời luyện tập thêm tay lái. 
Được biết, gia đình ông có 4 ha cà phê và 4 ha trồng rau củ quả các loại. Sau ba năm liên tiếp trúng đậm do giá khoai cao, vợ chồng ông quyết định bỏ ra một khoản lớn để mua ô tô.
Ông Thiếu tự hào kể: “Những năm gần đây, khoai lang có đầu ra ổn định, thương lái về mua tận ruộng với giá cao nên kinh tế gia đình tôi đi lên trông thấy”. 
Với 8 ha trồng cà phê và khoai lang, mỗi năm nhà ông Thiếu thu nhập cả tỷ đồng. Hiện ông Thiếu có căn nhà ba tầng khang trang, một chiếc xe ô tô tải để phục vụ việc chuyên chở phân bón, nông sản; giờ lại mua thêm chiếc Toyota để phục vụ cho cả nhà đi chơi và thăm rẫy.
Tương tự, ông Nguyễn Quốc Trọng (thôn Thuận Hòa, xã Thuận Hạnh) cũng đang sở hữu một căn nhà trị giá 2,2 tỷ đồng và 3 chiếc ô tô, trong đó có hai chiếc xe tải và một chiếc Huyndai giá hơn 1,3 tỷ đồng.
 Ông Trọng cho biết, ông rời Nam Định vào Đăk Nông lập nghiệp từ năm 1997, với số vốn chỉ có 700.000 đồng. Nhờ chăm chỉ làm ăn mà đến nay ông đã gây dựng nên khối tài sản trị giá hơn 20 tỷ đồng.

“Tôi có 3 ha cà phê, 2 ha tiêu, 2 ha khoai và bí đỏ cho thu hàng tỷ đồng mỗi năm. Ruộng rẫy thì ở xa, sức tôi cũng không còn như trước nên phải thuê nhân công, đầu tư để giữ sức. Hồi trước sống cực khổ rồi, giờ làm ra tiền phải để vợ con sống khá hơn chứ”, ông Trọng chia sẻ.

Hiện, thống kê trên địa bàn xã Thuận Hạnh có hơn 50 chiếc ô tô con, trong đó loại đắt tiền trên 1 tỷ có khoảng 10 chiếc. Những hộ mua xe thường xuống các công ty đặt hàng nhập khẩu nguyên chiếc từ nước ngoài đưa về, có những hộ có xe rồi mới đi học bằng lái.

Thuận Hạnh là một xã biên giới có khí hậu thuận lợi và đất đai màu mỡ, đời sống của người dân phụ thuộc vào nông nghiệp. Với phương châm “tấc đất tấc vàng” nên người dân Thuận Hạnh sử dụng tài nguyên đất vô cùng hợp lí, biết xen canh, tăng vụ để mang lại hiệu quả kinh tế cao.
Ông Nguyễn Cao Trí - Chủ tịch Hội Nông dân xã Thuận Hạnh cho biết: “Các loại cây được đưa vào cơ cấu trên địa bàn là những cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao như hồ tiêu, cà phê. 
Bên cạnh đó các loại cây màu như khoai lang, bí đỏ, khoai môn, su hào cũng được trồng phổ biến và được thay đổi linh hoạt theo nhu cầu thị trường. Năm 2013, Thuận Hạnh có 200 hộ đạt danh hiệu nông dân kinh doanh sản xuất giỏi”.
Công việc thuận lợi, thu nhập ở mức cao nên việc nhiều nông dân mua xe hơi không còn là điều lạ lẫm ở vùng biên giới xa xôi, hẻo lánh này.

Tuy nhiên, tại đây cũng đã có hiện tượng nhiều nông dân chưa đủ lực, nhưng thấy hàng xóm sắm xe hơi cũng gồng mình tìm mua xe để nở mày nở mặt.

Ông Nghiêm Xuân Dưng - Chủ tịch xã Thuận Hạnh cho biết: “Tại xã đang rộ lên phong trào nông dân đi học lái xe ô tô, phong trào này phát triển đến mức Trường Cao đẳng nghề số 8 phải cử cán bộ về tận xã mở lớp dạy lái ô tô cho nông dân”.

Hy vọng rằng, việc nông dân sắm ô tô tiền tỷ phản ánh đúng thực chất đời sống kinh tế của người dân chứ không phải là một trào lưu chạy theo hình thức.
(Theo Nông nghiệp Việt Nam)
Phần nhận xét hiển thị trên trang