Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014

Kết hợp uy hiếp quân sự với gây sức ép ngoại giao, tranh thủ chính trị để phối hợp giải quyết, đây chính là mô hình Trung Quốc đang, sẽ áp dụng trên Biển Đông.

Kênh 13.

Ông Tập Cận Bình. Ảnh: AFP
Đa Chiều, tờ báo của người Hoa hải ngoại ngày 13/6 bình luận, Tập Cận Bình đang điều chỉnh chiến lược quân sự quy mô lớn trên Biển Đông nên việc thị uy sức mạnh cơ bắp với máy bay, tàu chiến ở gần vị trí giàn khoan 981 (hạ đặt trái phép trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam – PV) không có gì là lạ.
Tập Cận Bình đã một lần nữa chứng minh rằng ông là một đối thủ khó nhằn, và “nếu bị khiêu khích”, ông thực sự có thể tiến hành 1 hoặc 2 cuộc chiến tranh.
Trên thực tế, ngay từ tháng 12/2012 Tập Cận Bình lần đầu tiên đề ra phương châm phát triển quân đội “gọi là đến, đến là đánh, đánh là thắng” ngay trong chuyến tuần du phương Nam, thị sát đại quân khu Quảng Châu và hạm đội Nam Hải. Tập Cận Bình nói câu này khi đang đứng trên chiến hạm của hạm đội Nam Hải. Đó chính là biểu hiện của của chủ động phòng ngự, chủ động uy hiếp và chủ động tấn công, Đa Chiều bình luận.
Việc Bắc Kinh điều ít nhất 6 chiến hạm hiện đại bậc nhất và ít nhất 4 máy bay quân sự ra gần giàn khoan 981 theo Đa Chiều là biểu hiện của sự chuyển ngoặt trong chủ trương của Bắc Kinh, từ chỗ chỉ “nói mồm” tới chỗ “động tay chân”, kết hợp uy hiếp quân sự với gây sức ép ngoại giao, tranh thủ chính trị để phối hợp giải quyết, đây chính là mô hình Trung Quốc đang, sẽ áp dụng trên Biển Đông.
Theo Đa Chiều, giữa lúc Biển Đông đang leo thang căng thẳng (vì những hành vi gây hấn của Bắc Kinh – PV) quân đội Trung Quốc không hề do dự phô diễn sức mạnh cơ bắp ngoài dàn khoan 981 rõ ràng là đã có tính toán rất kỹ, điều đó cho thấy sự thay đổi trong mô hình xử lý vấn đề Biển Đông của Tập Cận Bình. Điều này càng nổi bật khi so sánh vụ giàn khoan 981 với những vụ căng thẳng trên Biển Đông (do Trung Quốc gây hấn) trước đó.
Tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đã điều 5 tàu gồm 1 tàu khảo sát, 1 tàu hộ vệ, 1 tàu hậu cần và 2 tàu “chấp pháp” ra (xâm nhập trái phép) bãi Cỏ Mây để phản ứng với Philippines trong vụ kiện đường lưỡi bò và tòa án ra thời hạn để Bắc Kinh nộp bản thuyết trình quan điểm. Tháng 8 năm ngoái khi đối đầu với Philippines ở bãi Cỏ Mây, Trung Quốc cũng điều động 1 tàu hộ vệ và 1 tàu hậu cần quân sự tham gia.
Trong khi tháng 4/2012 xảy ra khủng hoảng Scarborough Bắc Kinh không sử dụng lực lượng quân sự mà chỉ dùng tàu Hải giám, Ngư chính và các thủ đoạn trừng phạt kinh tế (cấm nhập khẩu chuối, hạn chế du lịch đến Philippines). Suốt 3 tháng căng thẳng liên tục, tàu chiến Trung Quốc không hề xuất hiện ở khu vực này mà tập trận ở vùng biển phía Bắc Philippines. Nó còn được gọi là “mô hình Scarbrough”, “chiến thuật cải bắp”, “chiến lược cờ vây” dùng “tàu cá”, tàu “chấp pháp” ở vòng trong, tàu quân sự đứng xa vòng ngoài.
Tập Cận Bình đã sẵn sàng cho 1 đến 2 cuộc chiến tranh, Đa Chiều bình luận.
Thời kỳ trước 2013, Mã Hiểu Thiên khi đó là Phó Tổng tham mưu trưởng Trung Quốc có lần đã nói với Trung tướng Võ Tiến Trung, Giám đốc Học viện Quốc phòng Việt Nam rằng Trung Quốc hy vọng Việt Nam không “làm phức tạp, lớn chuyện, đa phương hóa và quốc tế hóa vấn đề Biển Đông”, “lấy đại cục duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và giữ gìn quan hệ 2 nước làm trọng”.
Ông Toàn cao giọng thách thức: Không phải ai đó muốn cản là cản được. Việt Nam đừng phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác thành đại sai lầm?!
Nhưng lần này thì khác, sau vụ giàn khoan 981 và Trung Quốc đâm chìm tàu cá Việt Nam, Phòng Phong Huy – Tổng Tham mưu trưởng Trung Quốc thăm Mỹ lớn tiếng tuyên bố cái gọi là sẽ không chấp nhận bất kỳ sự “can thiệp và phá hoại” nào từ bên ngoài với “chủ quyền” của họ trên Biển Đông, kiên quyết không rút giàn khoan. Thường Vạn Toàn, Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc khi tiếp xúc với Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam cũng cao giọng cảnh báo Việt Nam “chớ phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác, thành đại sai lầm”?!
Trong 2 năm 2011-2012, mỗi khi xảy ra căng thẳng trên Biển Đông (do những hành động gây hấn của Bắc Kinh), Trung Quốc thường công khai đề xuất đàm phán và không hề có biểu hiện dùng sức mạnh quân sự uy hiếp. Nhưng sang 2 năm 2013, 2014 thì quân đội Trung Quốc đã chủ động lên gân cùng với Bộ Ngoại giao nước này gây sức ép lên đối phương. Không những điều tàu chiến máy bay ra khu vực giàn khoan, chiến đấu cơ của Trung Quốc còn liều lĩnh áp sát máy bay quân sự Nhật Bản ở Hoa Đông 2 lần liên tục cách nhau chưa đầy 1 tháng.
Trung Quốc có lẽ không nhiều tiền nuôi giàn khoan 981 và “hạm đội” hơn 100 tàu hộ tống mãi được, chỉ e khi họ rút rồi thì đã có 1 hay 2 đảo nổi đã đắp xong.
Thủ đoạn Trung Quốc uy hiếp quân sự trên Biển Đông rõ ràng là một sự thay đổi căn bản trong chiến lược của Tập Cận Bình, đây là điểm khác biệt rõ nét so với người tiền nhiệm Hồ Cẩm Đào.
Ấy vậy mà ngày 13/6, Dịch Tiên Lương, Vụ phó Vụ Biên giới và sự vụ biển đảo thuộc Bộ Ngoại giao Trung Quốc tổ chức họp báo nói rằng Trung Quốc không điều chiến hạm bảo vệ giàn khoan, mà tàu chiến máy bay Trung Quốc chỉ “đi ngang qua” giàn khoan, và “đứng xa chỗ tàu Việt Nam quấy rối giàn khoan”?1 Thật nực cười, trẻ con cũng không tin được.

Sự hiếu chiến, hung hăng của Trung Quốc trên Biển Đông ngày một gia tăng kể từ khi ông Tập Cận Bình lên nắm quyền. Cũng chính Đa Chiều đã bình luận, Tập Cận Bình đã sẵn sàng cho 1 đến 2 cuộc chiến tranh, hy vọng ông đừng đẩy những người dân Trung Quốc lương thiện vào nơi lửa đạn, mất xương máu vô ích chỉ để thực hiện giấc mộng bá quyền, bành trướng lãnh thổ, xưng hùng xưng bá trong một thế giới văn minh, bởi chiến tranh không phải trò đùa.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Du lịch Ðà Nẵng trả giá đắt vì lệ thuộc khách Trung Quốc

Làm kinh tế ai cũng biết không nên đặt tất cả trứng vào một giỏ. Sự lệ thuộc vào TQ không chỉ ở một ngành du lịch nhỏ nhoi của Đà Nẵng mà còn cả ở tầm toàn nền kinh tế quốc dân. Thật là nguy hiểm, biết thế nhưng các cấp có thẩm quyền vẫn mặc kệ. Phải chăng vì họ ngộ nhận cho rằng chúng ta có cùng hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa với TQ, có 16 chữ vàng và tinh thần 4 tốt với TQ... nên không lo nghĩ, cứ đắp chăn ngủ kỹ như hàng chục năm qua ? He he, tranh thủ khách sạn Đà Nẵng vắng khách, hè này mời các bạn ghé qua, sẽ được hưởng giá rẻ ngạc nhiên.

Du lịch Ðà Nẵng trả giá đắt vì lệ thuộc khách Trung Quốc 
ÐÀ NẴNG (NV) - Sự lệ thuộc và trông chờ du khách Trung Quốc của ngành du lịch Ðà Nẵng kéo dài nhiều năm nay, đã đến lúc phải trả giá. Số lượng du khách Trung Quốc đến thành phố này giảm 90% kể từ giữa tháng 5, 2014 cho đến nay, đã làm giới kinh doanh khách sạn, nhà hàng, tiệm tạp hóa điêu đứng, bất an.
Du khách Trung Quốc ồ ạt đổ vào Ðà Nẵng trước đây,
nay chỉ còn vài ngàn người mỗi tháng. (Hình: Infonet)
Theo báo mạng Infonet, ngành du lịch ở thành phố Ðà Nẵng những năm qua hầu như “đổi lốt,” vì sự tràn ngập của du khách Trung Quốc. Chỉ riêng trong năm 2013, có đến 105,605 lượt người Trung Quốc đến viếng Ðà Nẵng. Các hãng hàng không Trung Quốc cũng như Vietnam Airlines của Việt Nam, đã mở một loạt 13 chuyến bay trực tiếp nối các tỉnh Trung Quốc với Ðà Nẵng.

Trong vòng ba năm, từ 2010 đến 2013, Ðà Nẵng có thêm 8,000 phòng khách sạn. Chỉ riêng năm rồi, Ðà Nẵng có 65 khách sạn, nhà trọ mới với trên 3,000 phòng. Ðến giờ này, tổng số cơ sở khách sạn, nhà trọ ở Ðà Nẵng lên đến con số 400, với 14,000 phòng, có thể tiếp đón 8.5 triệu lượt khách mỗi năm.

Trước đó, người ta ước tính, số du khách Trung Quốc chiếm 20% lượt khách ngoại quốc đến Ðà Nẵng, sẽ tăng dần và chiếm đến một nửa tổng số du khách ngoại trong năm 2014. Ðó là chưa kể các nhà hàng, quán nhậu, tiệm bán hàng lưu niệm và các dịch vụ đi kèm... mọc lên như nấm tại thành phố Ðà Nẵng.

Tuy nhiên, tính chất hoạt động chỉ “chăm bẳm” vào thị trường Trung Quốc đã khiến ngành du lịch thành phố này gần như rơi xuống đáy những ngày qua. Hiện nay, hầu hết các khách sạn 2-3 sao mới xây dựng sau này “ế” khách thê thảm. Có nơi chỉ đón được vài ba người khách mỗi đêm, lợi tức thu được không đủ trả tiền điện và lương nhân viên. Con số hàng trăm ngàn du khách Trung Quốc đến Ðà Nẵng nay chỉ còn lèo tèo vài ngàn người mỗi tháng.

Infonet dẫn lời ông Huỳnh Tân Vinh, chủ tịch Hiệp Hội Du Lịch Ðà Nẵng nói rằng, ông đã từng cảnh cáo giới doanh nhân ngành du lịch Ðà Nẵng việc lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường, mà không chịu “đa dạng hóa” thị trường.

Theo ông, chỉ vì xây dựng quá nhiều cơ sở vật chất làm tăng nguồn cung cao ngất, trong khi thiếu biện pháp quảng bá để lôi cuốn du khách khắp nơi để đẩy mạnh mức cầu, là phương hướng kinh doanh sai lầm. Khi căng thẳng biển Ðông bùng nổ, thị trường Trung Quốc “teo” lại khiến mức cầu tuột thấp thảm hại, cơ sở kinh doanh thương mại của ngành du lịch đua nhau “sập tiệm.”

Hiện nay, chỉ còn hai đường bay trực tiếp nối Hồng Kông và Quảng Châu với Ðà Nẵng của Dragon Air, Vietnam Airlines và Jetstar. Ðiều đáng lo, theo đại diện của Sở Văn Hóa-Thể Thao-Du Lịch Ðà Nẵng, số lượng du khách Trung Quốc đến thành phố này sẽ giảm dần từ nay cho đến hết tháng 7, 2014. Phải sau 2 tháng nữa, người ta mới có thể ước lượng đầy đủ sự suy sụp nặng nề của ngành kinh doanh du lịch tại đây, vì để lệ thuộc quá lớn vào thị trường Trung Quốc. (PL)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Công trình hữu nghị đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông..

Bom nổ chậm Trung Quốc gài tại dự án gần tỉ đô ở Hà Nộ

Công trình hữu nghị đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông nhưng lại phải vay vốn lãi suất thương mại của chính phủ Trung Quốc có dự toán ban đầu là 552 triệu USD, vừa kiến nghị “điều chỉnh” lần 1 lên 891 triệu USD (tăng 339 triệu USD), để tiếp tục xin vay Trung Quốc. Bị buộc cái ách hữu nghị vào cổ (nhưng vẫn phải trả lãi theo giá thị trường), công trình này đạt mấy kỷ lục: điều chỉnh vốn kỷ lục; kỷ lục về suất đầu tư cao, kỷ lục về tỉ lệ hoàn vốn thấp, kỷ lục về sự liều lĩnh: chủ đầu tư, tư vấn Việt Nam, tổng thầu thi công Trung Quốc đều chưa từng có kinh nghiệm làm đường sắt đô thị. Hiện, nửa tỉ USD coi như đã bị vứt xuống sông mà dự án còn chưa xong phần móng cọc. Tệ hơn, Việt Nam vẫn phải nai lưng ra trả lãi gần 50 triệu USD/năm cho đống bê tông vô tích sự. Chưa ai dám khẳng định dự án này có tiếp tục xin điều chỉnh lần 2, lần 3 nữa hay không.
Tại lễ khởi công dự án hôm 10/10/2011, đồng chí Đinh La Thăng chúm chím khoe: số vốn 420 triệu USD trên tổng vốn cho dự án là hơn 551 triệu USD được nước bạn Trung Quốc tạo điều kiện cho vay “hữu nghị”, phía Việt Nam góp phần nhỏ chỉ nằm ở một số hạng mục như nhân công, hạ tầng, ít bê tông… Nghe đồng chí Thăng nói vậy, người ta không khỏi hoài nghi nghĩ đến sự giúp đỡ “vô tư, chí tình” của các đồng chí Trung Quốc dành cho Việt Nam tại công trình gọi là hữu nghị xã hội chủ nghĩa cầu Thăng Long năm xưa. Thực tế, đây là khoản vay thương mại với lãi suất cắt cổ. Sau 5 năm không trả hết gốc, lãi suất này sẽ tăng lũy tiến cao hơn nhiều.
.
0
.
Đơn vị được Bộ GTVT phân công làm đại diện chủ đầu tư là Ban quản lý dự án đường sắt mà đồng chí Trưởng ban Trần Văn Lục bị Bộ Công an bắt chiều hôm 8/5/2014. Tổng thầu là Công ty hữu hạn tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc, Nhà thầu tư vấn giám sát thi công lắp đặt thiết bị là công ty TNHH giám sát xây dựng Viện nghiên cứu thiết kế công trình đường sắt Bắc Kinh. Lưu ý là các đơn vị của Trung Quốc đều chưa có chút kinh nghiệm nào về đường sắt đô thị. Nhà thầu tư vấn thẩm tra thiết kế kỹ thuật và dự toán công trình là Tổng công ty Tư vấn thiết kế GTVT (TEDI của VN), cũng chưa từng có kinh nghiệm về đường sắt đô thị. Đơn vị này chỉ có duy nhất một kỹ sư học vận tải đường sắt tại Liên Xô trước đây nên việc giám sát, thẩm tra chỉ đơn giản là “4 tốt” trước mọi tính toán của các đồng chí Trung Quốc. Được một số đồng chí cán bộ cấp cao Việt Nam “động viên, khích lệ”, dù chưa có 1 chút kinh nghiệm nào về đường sắt đô thị nhưng Giám đốc đại diện Tập đoàn Cục 6 đường sắt Trung Quốc (Tổng thầu EPC), đồng chí Trương Kiến Huân (người Tàu) rêu rao: tổng thầu Trung Quốc sẽ hỗ trợ kỹ thuật và chuyển giao công nghệ cho các đồng chí Việt Nam.
Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, Chủ tịch thành phố … liên tục tới thăm công trường xã hội chủ nghĩa, kịp thời động viên, cảm ơn các cán bộ, chuyên gia nước bạn về sự giúp đỡ quý báu, vô tư, thắm đượm tình đồng chí anh em. Theo tiến độ, dự án này sẽ hoàn thành đưa vào chạy tháng 1/2015. Chẳng biết các vị “16 vàng, 4 tốt” với nhau thế nào, qua 3 năm thi công, tiêu hàng vài trăm triệu đô mà công trình vẫn chưa xong phần móng cọc nhưng lại kiến nghị Thủ tướng phê duyệt điều chỉnh mức đầu tư lần 1 từ 552 triệu USD lên tới 891 triệu USD, tăng 339 triệu USD để Chính phủ vay tiếp của Trung Quốc.
Không biết rồi đây Thủ tướng có phê duyệt cho cái sự hữu nghị viển vông này không. Hiện có tin Trung Quốc đang chơi khó Việt Nam trong vụ này. Với khoản vay bổ sung, Trung Quốc dự tính áp lãi suất cao ngất ngưởng khiến Việt Nam không dám vay. Nếu không vay, Việt Nam không thể cơ cấu nguồn tài chính khác vào dự án này do vướng công nghệ, quy định pháp luật, chính trị v.v. Trong khi công trình đắp chiếu không sử dụng được vì chưa xong phần móng cọc, Việt Nam vẫn phải nai lưng ra trả lãi khoản tín dụng đã vay mỗi năm gần 50 triệu USD và sau 5 năm mà chưa trả được gốc, lãi suất sẽ tăng lũy tiến rất cao.
Dân Hà Nội còn nhớ năm 1978, Trung Quốc chơi bài tương tự khi bỏ dở công trình cầu Thăng Long. May mà sau đó ông anh Liên Xô nhiệt tình nhảy vào hót cho đống chất thải đó. Nay, công trình đường sắt đô thị Cát Linh – Hà Đông thực sự là quả bom xú uế nổ chậm Trung Quốc gài một cách rất tinh vi giữa lòng Hà Nội. Việt Nam chỉ có thể chọn một trong hai cách: hoặc đắp chiếu công trình với chi phí hơn nửa tỉ đô hoặc chấp nhận mọi điều kiện của Trung Quốc để có tiền thi công tiếp và hoàn thiện công trình. Dù thế nào, Việt Nam sẽ lập thêm kỷ lục mới: suất đầu tư/km đường sắt đô thị đắt nhất hành tinh với tỉ lệ hoàn vốn mà các nhà kinh tế thoáng thấy đã hãi đến già và một bài học nữa rất đắt giá về 16 vàng 4 tốt.
Ủy viên Bộ Chính trị Phạm Quang Nghị động viên các đ/c chuyên gia Trung Quốc trên công trường xã hội chủ nghĩa: trước mặt đ/c Nghị là Trương Kiến Huân, bên phải là thứ trưởng GTVT Lê Mạnh Hùng (vừa hưu, đang phải viết giải trình vụ ăn tiền Nhật Bản), đeo kính đằng sau là Trần Văn Lục (mới bị Bộ Công an bắt)
.
3_nghi_huan_luc
.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nói bừa như TQ, họ có thể nhận nhiều lãnh thổ các quốc gia khác qua việc "Phát hiện" hay chiếm giữ trái phép!

Phản bác lý sự ngụy biện về "chủ quyền" của Trung Quốc
Gần đây, trong một số hội nghị, hội thảo quốc tế (Hội nghị quốc tế lần thứ 2 về “An ninh và Hợp tác ở châu Á-Thái Bình Dương” tổ chức tại Bắc Kinh (từ ngày 27 đến 28/5/2014); Đối thoại Shangri-La (Singapore, từ ngày 30/5-1/6/2014), một số quan chức cao cấp, tướng lĩnh, nhà ngoại giao, học giả Trung Quốc lên tiếng cho rằng Trung Quốc có chủ quyền ở quần đảo Nam Sa (Trường Sa); giàn khoan Hải Dương-981 nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Hoàng Sa thuộc Trung Quốc; Việt Nam cản trở hoạt động thăm dò dầu khí của giàn khoan Hải Dương-981 tại vùng biển mà Việt Nam không có chủ quyền…
Chiến sỹ Trường Sa chắc tay súng gìn giữ biển đảo Tổ quốc. (Ảnh: Việt Đức/Vietnam+)
Tất cả những cái gọi là “lý lẽ” ấy đều nhằm biện minh quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm trong lãnh thổ của Trung Quốc.

Trong bài viết: ''Phản bác lý sự "chủ quyền" của Trung Quốc,'' phó giáo sư-tiến sỹ Nguyễn Hồng Quân đã góp thêm tiếng nói vạch trần những “lý lẽ” ngụy biện trên của một số quan chức, tướng lĩnh, nhà ngoại giao, học giả Trung Quốc.

Nguyên tắc xác định “quyền thụ đắc lãnh thổ” trong pháp luật quốc tế

Trung Quốc đã dựa vào nguyên tắc “chủ quyền lịch sử,” “danh nghĩa lịch sử” để khẳng định chủ quyền các đảo mà họ gọi là Tây Sa (Hoàng Sa), Nam Sa (Trường Sa), Đông Sa, Trung Sa. Họ khai thác tất cả các yếu tố được ghi nhận trong các tài liệu lịch sử của Trung Quốc để nói rằng, người Trung Quốc đã xuống Biển Đông và khu vực các đảo này, chính họ là người phát hiện, khai phá, đã làm ăn và sau đó là quản lý, đồng thời rêu rao cái gọi là thực hiện chủ quyền của Trung Quốc với các đảo này.

Trong lịch sử phát triển lâu dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế (như “chiếm hữu thật sự,” “chủ quyền lịch sử,” “khoảng cách địa lý”…), nhưng nguyên tắc “thụ đắc lãnh thổ quốc gia” mới là phương thức đánh giá một cách khách quan, khoa học đối với các quan điểm pháp lý do các bên tranh chấp chủ quyền nêu ra và trở thành nguyên tắc được thế giới thừa nhận sử dụng rộng rãi, gọi là nguyên tắc “quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia.”

Từ thế kỷ XVI, sự phát triển và lớn mạnh khiến các nước như Hà Lan, Anh, Pháp... trở thành những cường quốc cạnh tranh với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (Sắc lệnh của Giáo hoàng Alexandre VI ký ngày 4/5/1493 đã phân chia khu vực ảnh hưởng cho Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở các lãnh thổ mới phát hiện ngoài châu Âu) tại các lãnh thổ mới phát hiện ngoài châu Âu.

Một bức bản đồ Trung Quốc cố không có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. (Nguồn: TTXVN)

Trước thực trạng đó, các cường quốc hàng hải đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho việc thụ đắc lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện, bao gồm nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu” (hay còn được gọi là nguyên tắc “quyền phát hiện”) và cùng với đó là nguyên tắc “chiếm hữu thật sự.”

Theo nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu,” luật pháp quốc tế dành quyền ưu tiên chiếm hữu cho quốc gia đã phát hiện vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc quyền phát hiện chưa bao giờ tự nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ mới đó, bởi người ta không thể xác định được khái niệm, giá trị pháp lý của việc phát hiện, ai là người phát hiện trước, dấu ấn hành vi phát hiện đó…

Vì thế, việc “phát hiện” được bổ sung bằng việc “chiếm hữu danh nghĩa,” nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu tích trên vùng lãnh thổ mới phát hiện đó. Tuy vậy, nguyên tắc “chiếm hữu danh nghĩa” không những không giải quyết được một cách cơ bản những tranh chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với các vùng “đất hứa,” đặc biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa đất liền hàng ngàn hải lý, thậm chí xa hơn…, trái lại còn dẫn đến không ít cuộc đối đầu quyết liệt giữa các cường quốc, bởi không thể lý giải được cụ thể “chiếm hữu danh nghĩa” được lập ra bao giờ và tồn tại như thế nào…

Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885 của 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ, đặc biệt sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888, người ta đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thụ đắc mới, đó là nguyên tắc “chiếm hữu thật sự.”

Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin ký ngày 26/6/1885 đã xác định nội dung của nguyên tắc “chiếm hữu thật sự” và các điều kiện chủ yếu để “chiếm hữu thật sự” là: Phải có thông báo về việc chiếm hữu cho các quốc gia ký Định ước nói trên; và phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước đã thực hiện hành vi chiếm hữu trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến cho các quyền của nước chiếm hữu được tôn trọng.

Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh: “… mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh nghĩa chủ quyền… thì phải là thật sự, tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc “chiếm hữu thực sự” của Định ước Berlin 1885 có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét, giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.

Nội dung chủ yếu của nguyên tắc “chiếm hữu thật sự” trong luật pháp quốc tế gồm các yếu tố sau:

i) Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành.

ii) Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình, trên một vùng lãnh thổ vô chủ (Res Nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto).

iii) Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp. Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó.

iv)Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.

Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này, nên mặc dù Công ước Saint Germain ngày 10/9/1919 tuyên bố hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và các cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo (Tháng 4/1928, Tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, Phán quyết của Tòa án quốc tế của Liên hợp quốc tháng 11/1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrehous…).

"Lý lẽ" mà Trung Quốc sử dụng để biện minh cho quan điểm của họ sau khi dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam dựa vào cái gọi là thuyết “chủ quyền lịch sử.” Đây là một luận thuyết vô cùng lạc hậu, trái với công pháp quốc tế, không được luật pháp quốc tế dùng để xử lý các tranh chấp về thụ đắc lãnh thổ đối với các quần đảo.

Việt Nam có chủ quyền không thể tranh cãi ở Hoàng Sa và Trường Sa

Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.


Việt Nam đã sớm xác lập chủ quyền ở Trường Sa trong lịch sử. (Ảnh: Việt Đức/Vietnam+)

Các ghi chép lịch sử chính thức cho thấy, ít nhất từ thế kỷ XVII các hoàng đế Việt Nam đã xác lập chủ quyền và có các hoạt động khẳng định chủ quyền, thực thi chủ quyền nhà nước một cách hòa bình và liên tục đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, khi các vùng lãnh thổ này được xem là vô chủ.

Cụ thể, nhà Nguyễn đã thành lập Hải đội Hoàng Sa để khai thác kinh tế và thực hiện các hoạt động quản lý nhà nước khác đối với hai quần đảo này. Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây dựng ngôi chùa “Hoàng Sa tự” và đặt một tượng đá trên quần đảo Hoàng Sa... Như vậy, công việc thực thi chủ quyền của các hoàng đế Việt Nam liên tục trong suốt mấy thế kỷ mà không bị một nước nào, kể cả Trung Quốc, phản đối.

Với một thời gian dài như vậy, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý để khẳng định rằng chủ quyền của Việt Nam đã được xác lập từ thời phong kiến đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong khi đó, Trung Quốc không hề có tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa hay Trường Sa. Nhiều bản đồ, gần nhất là bản đồ của Trung Quốc xuất bản đầu những năm 30 của thế kỷ trước, mô tả đảo Hải Nam là tận cùng phía nam của Trung Quốc, không hề có các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Nhiều người hẳn chưa quên sự kiện tháng 3/2014, nhân chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tới Cộng hòa Liên bang Đức, Thủ tướng Cộng hòa Liên bang Đức bà Angela Merkel đã tặng Chủ tịch Tập Cận Bình món quà là một trong số các bản đồ nói trên.

Bản đồ "Đại Nam nhất thống toàn đồ”, vẽ năm 1834 (dưới triều vua Minh Mạng) thể hiện địa danh Hoàng Sa, Vạn lý Trường Sa bằng chữ Hán, (Nguồn: TTXVN)

Sau thời kỳ nhà Nguyễn, chính quyền bảo hộ Pháp và Việt Nam đều tiếp tục duy trì chủ quyền và quản lý trên thực tế đối với hai quần đảo này. Khi thiết lập nền bảo hộ tại Việt Nam vào năm 1884, Pháp đã tiếp quản các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nhân danh Việt Nam, xây dựng Trạm khí tượng trên quần đảo Hoàng Sa. Thậm chí cuối năm 1973, các binh sỹ Việt Nam Cộng hòa đóng trên quần đảo còn cứu một gia đình ngư dân (5 người) Trung Quốc chẳng may gặp sóng to, gió lớn dạt vào đảo, chia sẻ khẩu phần ăn ít ỏi của mình để cưu mang gia đình ngư dân này.

Tháng 9/1951, Hội nghị hòa bình San Francisco với sự tham dự của lãnh đạo 51 quốc gia, nhằm giải quyết các tranh chấp lãnh thổ sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, đã công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tại hội nghị này, trưởng phái đoàn Việt Nam, ông Trần Văn Hữu, khi đó là Thủ tướng dưới thời Vua Bảo Đại, đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trước sự hiện diện của đại diện 50 nước khác, trong đó có Trung Quốc, mà không gặp phải sự phản đối nào. Trong khi đó, có tới 48/51 quốc gia tham dự Hội nghị đã bác bỏ đề nghị công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Tháng 7/1954, các bên trong đó có Trung Quốc, tham gia Hội nghị Geneva 1954 về lập lại hòa bình ở Đông Dương, đã ký kết Hiệp nghị Geneva công nhận và tôn trọng nền độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Sau khi Pháp rút các lực lượng khỏi Việt Nam, Việt Nam Cộng hòa đã phục hồi việc thực thi chủ quyền, quản lý đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có nhiều hành động và đưa ra một số tuyên bố để khẳng định chủ quyền đối với các quần đảo này.

Ấy vậy, năm 1956, Trung Quốc đưa quân đánh chiếm khu vực phía Đông và tháng 1/1974, chiếm nốt khu vực phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Tiếp đó, tháng 3/1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm đảo Gạc Ma do Việt Nam quản lý.

Theo luật pháp quốc tế, việc sử dụng vũ lực để chiếm hữu lãnh thổ là không được thừa nhận. Hành động nói trên của Trung Quốc đã vi phạm một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế là cấm sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, được ghi trong Điều 2 khoản 4 của Hiến chương Liên hợp quốc. Do đó, việc Trung Quốc chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa, một số đảo ở Trường Sa hiện nay là không có giá trị, dù Trung Quốc đã ở đó bao lâu và thực hiện những biện pháp gì nhằm thực thi sự quản lý. Cho nên, tuyên bố Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi đối với “Tây Sa” (Hoàng Sa), “Nam Sa” (Trường Sa) là phi pháp.

Trong khi đó, từ sau năm 1974, Việt Nam tiếp tục khẳng định và chưa bao giờ từ bỏ chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việt Nam phản đối các hoạt động phi pháp cũng như yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Hoàng Sa, Trường Sa.

Về Công thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng


Một số học giả Trung Quốc cố tình trích dẫn sai Công thư ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai, như là một sự thừa nhận công khai chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong Công thư, Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập một từ nào về các lãnh thổ của Trung Quốc, lại càng không đề cập đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ ủng hộ tuyên bố của Trung Quốc về vùng lãnh hải 12 hải lý.

Hơn nữa, việc Thủ tướng Phạm Văn Đồng không đề cập tới các quần đảo trên là phù hợp với hoàn cảnh lịch sử, bởi các quần đảo này đang nằm dưới sự kiểm soát của chính quyền Việt Nam Cộng hòa kể từ sau Hiệp nghị Geneva năm 1954 như đã nói ở trên.

Với tư cách là một nước tham gia và “giúp” Việt Nam đàm phán Hiệp nghị Geneva năm 1954, Trung Quốc biết rõ hơn ai hết phạm vi địa lý hành chính của Việt Nam được chia tại vĩ tuyến 17. Hơn nữa, các tuyên bố của Trung Quốc rằng không có tranh chấp đối với quần đảo Hoàng Sa là hoàn toàn trái ngược với những gì các lãnh đạo Trung Quốc đã thừa nhận.

Tháng 9/1975, Phó Thủ tướng Trung Quốc khi đó là ông Đặng Tiểu Bình đã nói với Bí thư thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn rằng hai bên (Trung Quốc và Việt Nam) có các quan điểm khác nhau về Hoàng Sa và Trường Sa và vấn đề này có thể được giải quyết thông qua các cuộc đàm phán(!).

Trung Quốc hành xử trái luật pháp quốc tế


Từ tháng 5/2014, khi đặt giàn khoan Hải Dương-981, Trung Quốc luôn biện minh cho hành động ngang ngược của mình là giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của cái gọi là “Tây Sa” (Hoàng Sa) của Trung Quốc. Điều này hoàn toàn phi pháp, sai trái về mặt luật pháp quốc tế, trên các mặt sau:

Nhiều tàu Trung Quốc vây quanh, bảo vệ giàn khoan Hải Dương-981 hạ đặt trái phép trên vùng biển Việt Nam. (Nguồn: TTXVN)

i) Các đảo đá tại Hoàng Sa có diện tích nhỏ (lớn nhất là đảo Phú Lâm có diện tích khoảng 2km vuông), không thỏa mãn điều kiện pháp lý áp dụng cho quy chế đảo là phải có đời sống kinh tế riêng và có thể tự duy trì cuộc sống.

Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển (UNCLOS 1982), các đảo đá này không được hưởng 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, mà chỉ có vùng lãnh hải 12 hải lý. Điều đó khẳng định vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 (cách đảo Tri Tôn 17 hải lý và sau đó là 25 hải lý) hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và hoàn toàn không có tranh chấp, lại càng không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Hoàng Sa theo quy định của UNCLOS 1982.

ii) Trung Quốc sử dụng số lượng lớn tàu hải cảnh, hải giám, ngư chính, quân sự cùng máy bay chiến đấu để hộ tống trái phép giàn khoan Hải Dương-981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Đặc biệt, Trung Quốc cho mở bạt che nòng súng trên các tàu quân sự, chĩa vào tàu dân sự của Việt Nam.

Các hành động nói trên cho thấy rõ ràng Trung Quốc đã có hành động đe dọa sử dụng vũ lực. Nghiêm trọng hơn, các tàu của Trung Quốc chủ động, cố tình đâm va, làm hư hại nhiều tàu thuyền của lực lượng thực thi pháp luật của Việt Nam, thậm chí đâm chìm tàu đánh cá của ngư dân Việt Nam, đâm hỏng tàu kiểm ngư, tàu cảnh sát biển Việt Nam, làm bị thương nhiều cán bộ các cơ quan thực thi pháp luật của Việt Nam và nhiều ngư dân đang hoạt động tại ngư trường truyền thống trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đây là các hành động sử dụng vũ lực hết sức nguy hiểm, đe dọa trực tiếp hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không ở Biển Đông.

Hiến chương Liên hợp quốc đã cấm tất cả các hành động sử dụng vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực nói chung và liên quan đến các vấn đề lãnh thổ nói riêng. Các hoạt động tranh chấp phải được giải quyết thông qua thương lượng hòa bình. Hoạt động sử dụng vũ lực chỉ được thực hiện trong các hoàn cảnh đặc biệt như là tự vệ và (hoặc) được Hội đồng Bảo an cho phép.

iii) Trung Quốc tuyên bố thiết lập vùng an toàn 3 hải lý xung quanh giàn khoan Hải Dương-981 cũng là hành vi hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế. Theo UNCLOS 1982, một quốc gia chỉ được phép thiết lập vùng an toàn 500 mét cho các công trình và thiết bị lắp đặt trên biển.

Trên thực tế, phạm vi các tàu hải cảnh, hải giám, ngư chính và tàu quân sự của Trung Quốc ngăn cản tàu thực thi pháp luật của Việt Nam bảo vệ chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam nhiều khi lên tới 30-40 hải lý. Hành động này đã đe dọa tự do, an ninh và an toàn hàng hải trong khu vực.

Không những thế, việc các máy bay trinh sát và tiêm kích của Trung Quốc thường xuyên bay thấp, uy hiếp các tàu công vụ, tàu cá của Việt Nam đã trở thành mối đe dọa đối với an toàn và tự do hàng không trên Biển Đông.

Thay lời kết

Cách đây một thập kỷ, Trung Quốc đưa ra khái niệm ''trỗi dậy hòa bình,'' rồi ''phát triển hòa bình,'' cam kết không bá quyền, trấn an thế giới về sự phát triển của mình.

Năm 2013, Trung Quốc đề xuất sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” và đề nghị ký hiệp định láng giềng hữu nghị với ASEAN. Tuy nhiên, với những hành động gây hấn và khiêu khích từ năm 2009 trở lại đây trên biển Đông và biển Hoa Đông, thế giới đã thấy khoảng cách ngày càng lớn giữa lời nói và hành động của Trung Quốc.

Thế giới đang nhìn Trung Quốc như là một cường quốc ngày càng ưa sử dụng sức mạnh để thay đổi hiện trạng trong khu vực, khẳng định chủ quyền bằng cách tạo ra những “thực tế mới” trên Biển Đông, ngày càng hung hăng, vi phạm luật pháp quốc tế, đe dọa an ninh, hòa bình và ổn định khu vực.

Chính vì vậy, lòng tin của các quốc gia trong khu vực đối với Trung Quốc suy giảm, Trung Quốc càng bị cô lập trong khu vực và cộng đồng quốc tế. Tai hại hơn, khi niềm tin về sự “phát triển hòa bình” của Trung Quốc thiếu cơ sở, các nước trong khu vực sẽ tìm kiếm các biện pháp tài phán, xây dựng các mối quan hệ hợp tác quốc tế mới, thậm chí tăng cường khả năng tự vệ. Điều này không có lợi đối với Trung Quốc, bởi cường quốc nào cũng phải tạo dựng môi trường hòa bình và hợp tác xung quanh mình. Một môi trường hòa bình, hợp tác vì phồn vinh chung liệu có thể được tạo dựng bằng chính sách cường quyền?/.

(TTXVN)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2014

Hãy cảnh giác:

Khi cái ác lên ngôi

Yên Trang thực hiện
Khi thiện và ác đổi ngôi
Phóng Viên: Thưa ông, điều gì khiến ông cho rằng xã hội hiện nay biến loạn đến mức trầm trọng?
GS.TSKH Nguyễn Đăng HưngHằng ngày trên các trang thông tin đại chúng, đâu đâu cũng có những chuyện cướp của, giết người, vô nhân tính. Cái ác hoành hành khắp nơi, khắp chốn một cách ngang nhiên. Điều đó cho thấy kháng thể của xã hội trong cuộc chiến chống cái xấu cái ác đang bị xuống cấp trầm trọng. Chính bản thân tôi cũng có kinh nghiệm chẳng lành. Một lần khi đi rút tiền từ ngân hàng, trên đường về bằng xe gắn máy có người cố tình ép sát tôi làm tôi té ngả. Họ là một đám chuyên trấn lột người đi đường gồm 4 thành viên. Người thứ tư thừa lúc tôi đôi co với kẻ gây tai nạn lặng lẽ làm động tác móc ví. Những kẻ côn đồ này đã hành động nhanh chóng trên một đoạn đường đông đúc người đi qua lại. Đó là đoạn đường giữa ngã tư Nguyễn Đình Chiểu và Cách mạng tháng 8 vào lúc hơn 2 giờ chiều chứ không phải đêm hôm khuya khoắt. Rất nhiều bạn bè tôi cũng từng bị như vậy. Một vị giáo sư Bỉ qua đây dạy, ngày nghỉ ông tranh thủ đi chụp hình kỷ niệm tại sân Tao Đàn. Khi chiếc để camera vừa đặt xuống để mở túi, ông bị giật luôn. Kẻ cướp hành xử ngay chốn đông người, còn vị giáo sự nọ cũng không kịp than vãn và phỉ bác. Ông tự an ủi với tôi rằng “thôi thì cái máy của tôi cũ quá rồi, đây là dịp để mua cái mới”. Một người bạn khác, ra chợ Bến Thành bị móc ví. Ông ấy hới ha hớt hải vì mất hộ chiếu và giấy tờ tùy thân. Được một lúc sau có người vỗ vai nói nhỏ bằng tiếng Anh hẳn hoi, rằng ví của ông đang ở góc bên kia đường. Ông đi đến và thấy ví của mình đó, tiền mất nhưng may mắn là còn giấy tờ. Ông ấy hài hước: “đám ăn cướp Việt Nam văn minh đấy”.
Phóng Viên: Nhưng ở đất nước nào cũng có những chuyện tương tự như vậy thưa ông?
GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng: Ở Châu Âu những năm 1960, 1970 dường như rất ít tệ nạn. Cho tới khi bức tường Berlinsụp đổ, dân Đông Ấu có thể tràn qua các nước Châu Âu và từ đó tệ nạn xuất hiện nhiều hơn. Bởi tệ nạn xã hội thường xuất phát nhiều ở các nước Đông Âu. Các quốc gia ở Đông Âu kinh tế kém phát triển, nền giáo dục cũng chưa cao. Khi sang Tây Âu họ thấy ở đây giàu quá, dân hiền quá, xe đạp để ngoài đường không cần khóa nên họ lấy. Nhưng vấn đề của chúng ta lại khác, tình trạng đến mức trầm trọng khi người ta sẵn sàng giết cha mẹ vì vài trăm ngàn. Hay những hành động côn đồ xảy ra giữa chợ mà không ai phản đối… đó là sự băng hoại về đạo đức.
Phóng Viên: Vậy thưa ông, cái ác bắt đầu đến từ đâu?
GS.TSKH Nguyễn Đăng HưngTrộm, cướp… đến từ cuộc sống khó khăn nhưng sự chiếm đoạt của các ác lại nằm ở giáo dục và khi giá trị đạo đức bị hủy hoại, tha hóa rõ ràng. Bởi kinh tế khó khăn thì sau thời gian suy thoái sẽ vực dậy. Địa ốc đóng băng thì có ngày phục hồi. Đồng tiền mất già và từ giá mới sẽ vươn lên. Nhưng nền giáo dục của ViệtNamđang lầm đường lạc lối. Nền giáo dục không tạo được con người có nhân cách, có niềm tin đạo đức, biết sống lương thiện, biết sống thương yêu… Thay vào đó là từ ngay tấm bé trẻ con đã thấy một xã hội vị kỷ, thực dụng, chỉ thấy tiền là chính. Một chuyện nhỏ thế này, cô bạn tôi kể rằng, con gái mình về nhà bảo mẹ sao không mua quà bánh trung thu đến tặng cô giáo. Nếu cô giáo không tìm cách để hối thúc học sinh phụ huynh phải cung phụng mình thì tại sao đứa trẻ lại lại hỏi mẹ như vậy. Thay vì chúng ta đem ánh trăng vàng, là câu chuyện về chị Hằng nga, chú Cuội để con nít biết mơ mộng sáng tạo thì lại dạy cho chúng về lòng tham muốn vật chất. Đứa trẻ sẽ nghĩ gì về cô của nó và trong tương lai chắc chắn nếu có điều kiện đứa trẻ đó sẽ móc tiền, của bằng địa vị và chỗ đứng của mình. Đây là những chuyện mà khi chúng tôi còn học phổ thông không hề có. Và chính cô giáo kia vì hoàn cảnh xã hội, vì điều kiện kinh tế đã vô tình tiếp tay phá hoại nền giáo dục quốc dân. Đây là không còn là câu chuyện nhỏ mà là một vấn đề trầm trọng. Các em lớn lên trong một môi trường giáo dục như thế, xã hội biến chất, đảo điên như thế. Bởi vậy nên mới có chuyện con giết cha mẹ để có tiền chơi game. Đây là đỉnh điểm của sự bấn loạn rất khó tưởng tượng là có thể đi đến điểm nào tệ hơn nữa.
Khi con người không được bảo vệ
Phóng Viên: Vậy ông có nhận xét gì khi gần đây trên nhiều tờ báo có viết về những hành động “tự xử” của người dân thay vì báo công an?
GS.TSKH Nguyễn Đăng HưngĐó là hậu quả phải chờ đợi. Tội phạm không sợ bị trừng trị, không sợ bị lên án, Họ đánh mất lòng tự trọng nên thay vì xấu hổ và lo sợ chúng lại quay ra thách thức xã hội, hành hung những người dám ngăn cản mình. Từ năm 2007 khi ấy tôi tham gia giảng dạy cho lớp cao học khoa quốc tế của Trường đại học Bách Khoa. Trong số đó có một sinh viên luận văn yếu quá nên không đạt điểm. Bởi vậy tôi đề nghị ra các em làm lại để chấm lại. Tuy nhiên trong số đó có một học sinh không chịu làm mà muốn qua môn. Phụ huynh đã đến gặp nhưng tôi từ chối. Tôi bảo tôi chỉ có thể tiếp khi đã thi xong. Nhưng cũng từ đó ngày nào tôi cũng bị mấy cuộc điện thoại dọa giết, dọa đâm xe… Sau một thời gian không chịu nổi tôi báo công an, kèm với các đoạn băng ghi âm cuộc nói chuyện dọa nạt để công an làm rõ. Nhưng kết cục công an có làm hay không tôi không biết nhưng mặc tôi cứ giải trình vụ việc vẫn không dừng lại và ngày càng nhiều cuộc điện thoại hơn. Sau mấy tháng như vậy tôi cảm thấy rất mệt mỏi và đành tự giải quyết. Hôm ấy có vị giáo sư bạn từ Hà Nội vào tôi đã kể về chuyện này. Sau đó tôi nhờ ông nếu có cuộc điện thoại dọa nạt đến, ông hãy nghe dùm tôi. Ông hãy nói mình là công an từ Hà Nội vào giúp tôi giải quyết sự việc.Và xác định với đầu giây bên kia rằng ông đã ghi lại tất cả các cuộc điện thoại dọa nạt và biết tác giả là ai, địa chỉ ở đâu. Cho nên sắp tới sẽ có những cuộc thăm hỏi từ phía công an. Sau đó bên kia cúp máy và từ đó không bao giờ tôi còn bị làm phiền và dọa giết nữa. Tuy nhiên, cũng mất ròng rã 4 tháng trời. Câu chuyện của tôi tương tự như sự việc vừa qua, người dân Nghệ An đã đốt xe tên trộm chó. Qua những điều này cho thấy công an dần dần xa rời nhiệm vụ chính của mình là bảo vệ người dân lương thiện. Hiện trạng này ngày càng nguy ngập…
Phóng Viên: Nghĩa là lòng tin từ dân bị mất mát thưa ông?
GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng: Đúng vậy, chưa bao giờ lòng tin của người dân mất mát ghê gớm đến thế. Từ anh lái taxi, đến anh đi xe ôm hay người thợ xắt tóc… đều mang tâm trạng lo âu về cuộc sống. Người ta lo không biết mình sẽ sống thế nào đây, thu nhập thế này có đủ sống không. Họ cũng theo dõi báo đài, họ cũng đặt niềm tin vào việc chống tham nhũng của Chính Phủ. Nhưng mọi chuyện dường như lại đâu vào đó. Điều đó cho thấy họ chờ đợi sự thay đổi mà sự thay đổi ở đây không phải thay đổi căn cơ chế độ mà ít ra thay đổi nhân sự. Những người không kiềm chế được tham nhũng không làm được gì với tham nhũng phải được thay thế, nhường chỗ cho những người giỏi hơn với quyết tâm cao hơn, với tinh thần vì dân tỏ rõ nét hơn…
Phóng Viên: Nhưng không phải tất cả mọi câu chuyện đều giống nhau thưa ông?
GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng: Thời điểm Pháp thuộc, đất nước ta bị bóc lột, dân Việt bị bần cùng hóa. Đây là lý do chính nghĩa của cuộc đấu tranh giành độc lập, giải phóng dân tộc. Hiện thực xã hội lúc đó cũng có thể là thời điểm đen tối nhưng cũng có nhà văn phản tỉnh, trí thức tả chân. Cụ thể như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố trong tác phẩm của họ tố cáo trước dư luận những tội ác của thực dân và sự cùng cực của dân tộc bị trị . Nhưng những cuốn sách ấy được xuất bản, và truyền lại cho hậu thế. Còn bây giờ tôi không thấy những cuốn sách như vậy. Không phải không có những người tài mà những cuốn sách đó khó được in ấn xuất bản một cách chính diện. Người tốt giờ đây phải co cụm lại, im lặng…
Phóng Viên: Nghĩa giá trị và quy luật thiện thắng ác đang bị đảo ngược thưa ông? .
GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng: Đúng, nhưng cái ác hành hoành,người tốt, người có đạo đức, vốn là rường cột của xã hội họ lại phải lui về thúc thủ, bàn quan. Bởi vì nếu can thiệp họ sẽ gặp tai họa, gặp rắc rối. Chúng ta vẫn biết những câu chuyện về những nhà báo viết về chống tiêu cực phải vào tù, chúng ta biết những người viết ca khúc chống Trung Quốc bị bắt. Còn những người làm thất thoát hàng trăm tỷ đồng chẳng bị sao cả, có chăng cũng chỉ đi tù sơ sơ. Điều đó làm xã hội đang đi xuống chứ không phải đi lên. .
Phóng Viên:
Nhưng tại sao nhiều người nước ngoài tới Việt Nam lại bảo an ninh ở đây tốt thưa ông?
GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng,
Ở một số nước như Philippin, Indonesia, Pakistan, Thái Lan… thường hay có các phe quá khích hồi giáo, chống phương Tây. Người có đạo Hồi giáo theo phe quá khích oán hận các nước phương Tây vì nhiều lý do lịch sử. Họ tổ chức khủng bố trên bình diện quốc tế, nhất là trong thế giới Hồi giáo. Còn ở ViệtNamchính trị ổn định, Phật giáo hiền hòa, Công giáo cũng vậy nên người nước ngoài tới đây yên tâm là không bị khủng bố. Nhưng chuyện cướp, giật đường phố, bạo lực học đường thì ngày càng trầm trọng.
Nền giáo dục tự hoại
Phóng Viên: Nhưng chúng ta không thể đổ hoàn toàn cho giáo dục. Bởi trong ca dao vẫn dạy “anh em như thể chân tay, thương người như thể thương thân…” Và vẫn còn nhiều tấm gương tốt trong xã hội?
GS.TSKH Nguyễn Đăng HưngHồi cách mạng năm 1789 ở bên Pháp, giáo dục nằm trong tay nhà thờ. Cách mạng thành công, trường học được giải phóng, việc giáo dục trở thành lĩnh vực của thế nhân, chính quyền dân sự. Tuy nhiên, người Công giáo vẫn có có quyền mở lớp riêng cho họ… Những người theo đạo có quyền đi học ở mọi trường lớp và đức tin của những con chiên được nhà nước đảm bảo và tôn trọng. Xin kể một kinh nhgiệm cá nhân mà tôi đã thâu thập tại Bỉ. Tôi là người theo đạo Phật, vợ tôi là người Công Giáo. Các con tôi theo đạo bố nhưng vì trường công giáo rất nghiêm, tôi ghi tên các con theo học tiểu và trung học tại đây. Nhưng không vì thế mà chúng bị phân biệt. Ở trường con tôi đứng đầu lớp về môn học giáo lý công giáo, tuy chúng nó thưa với thầy cô là chúng nó theo đạo Phật. Những nhưng thầy cô ở đây nói rằng: Con tin vào điều gì hãy giữ vừng niềm tin đó. Đằng này chúng ta đưa chính trị vào trường học, nhồi nhét quan điểm một chiều trong trường học. Thay vì khuyến khích yêu thương nâng đỡ nhau để giải quyết các vấn đề thì có một thời ta lại khuyến khích đấu tranh để sống còn. Mà đấu tranh giai cấp là tiêu diệt kẻ thù, tiêu diệt thế lực thù địch… Thói ghen ghét, đố kỵ ở đâu cũng có, nhưng tôi có cảm nhận tại ViệtNamngày nay, những tật xấu này có phần gay gắt một cách không bình thường.
Phóng Viên: Nghĩa là dù thế nào con người cũng phải sống với một niềm tin thưa ông?
GS.TSKH Nguyễn Đăng Hưng: Vâng tôi có cảm tưởng niềm tin ở con người, ở tổ chức xã hội bị đánh mất. Khoảng trống không có gì bồi đắp nhất là khi lòng tin ở tâm linh bị phá vỡ hay không được vun xén nữa. Hậu quả nhãn tiền là người ta ngày càng coi trọng vật chất hơn là những giá trị tinh thần. Đã có một thời, không xa lắm, những giá trị tâm linh, tôn giáo bất cứ từ xu hướng nào bị bài bác. Thái độ vị kỹ, thực dụng trở thành bao trùm. Phạm trù thần linh phai mờ trong tâm thức con người và dần dần lòng tham lam của thân xác, của dục vọng sẽ không có gì ngăn cản nữa. Lương tâm con người chìm xuống, cái ác lên ngôi. Chẳng những kỷ cương xã hội bị phá vỡ mà luân thường đạo lý gia đình tan biến. Đây chính là hậu quả phải chờ đợi của việc đánh mất niềm tin, xoá bỏ đức tin…
Phóng Viên: Nghĩa vấn đề nằm từ gốc chứ không phải ngọn thưa ông?
GS.TSKH Nguyễn Đăng HưngĐúng thế. Một một lớp học tiểu học, sự giàu nghèo thể hiện ngay trong ăn mặc, trong những tiệc sinh nhật của từng đứa trẻ. Những đứa trẻ con nhà giàu có nếu không được dạy phải thương bạn, tôn trọng bạn, chúng sẽ ra sao khi trưởng thành. Những đứa trẻ nghèo khó luôn tự hỏi tại mẹ sao không mua cho con áo đẹp, tại sao mẹ không mua cho con cặp đẹp. Tất cả những cái đó nếu không được giải tỏa bằng các bài học thường trực hàng ngày thì lâu dần sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành nhân cách của một đời người. Giáo dục thường thức, giáo dục công dân đang có vấn đề. Tuổi trẻ xao nhãn học văn, ngán gẫm học sử vì bài học, vì sách giaó khoa quá ư cứng nhắc, một chiều, không hấp dẫn, không sinh động. Giới trẻ ngày nay không biết sử ta, nhưng khi mở ti vi lên, khắp mọi kênh chiếu toàn phim Trung Quốc. Tình trạng này đang dẫn đến tai hoạ trước mắt là tuổi trẻ ta hiểu biết lịch sử Trung Quốc hơn là lịch sử ViệtNam. Đó là điều không thể chấp nhận được.
Phóng Viên: Bởi vậy ông cho rằng xã hội hiện nay giống một câu chuyện cổ tích mà kết thúc là thảm họa?
GS.TSKH Nguyễn Đăng HưngTôi nói có ngoa đâu. Ba tôi, những người cùng thời với ông cả đời đi theo cách mạng. Trên đôi vai của họ là những vì sao, là khát vọng về một xã hội công bằng, là dân tộc độc lập, tự do và hạnh phúc. Lý tưởng sống ngày đó là tổ quốc trên hết, mình vì mọi người mọi người vì mình. Còn bây giờ mọi thứ lại dường như đi ngược lại hết. Ai có nhiều quyền người ấy có nhiều lợi ích nhất. Chứ người dân chân lấm tay bùn thì chẳng có gì để tham nhũng.
Phóng Viên: Vậy theo ông, bài học trường trực trong nhà trường phải nói về yêu thương?
GS.TSKH Nguyễn Đăng HưngĐúng vậy, ở trường hiện nay tôi thấy ít có chủ trương dạy con thương yêu cha mẹ. Chỉ thấy dạy yêu tổ quốc nhưng người ViệtNam cũng như các dân tộc khác, căn bản là gia đình. Trẻ con phải được dạy yêu thương cái nôi là yêu cha mẹ, yêu anh em, yêu ông bà rồi mới yêu cái cây đa, yêu cái đình làng, cánh đồng lúa chin, con sông nho nhỏ uốn quanh làng quê, con đường phố rợp bóng mát cây xanh, rồi mới đến yêu tổ quốc với tất cả những yếu tố văn hoá, lịch sử đi theo: Tuyên ngôn độc lập của Lý Thường Kiệt trên sông Như Nguyệt, Bình ngô Đại cáo của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du…. Vì với trẻ con tổ quốc là điều gì rất mông lung. 5, 6 tuổi biết thế nào là tình yêu tổ quốc. Tuổi này nó cần bàn tay ấm áp của mẹ, sự vuốt ve của cha, sự nâng đỡ của anh và bài học giáo dục mỗi ngày ở nhà, ở trường cũng phải thường xuyên như vậy. Nhưng dường như bài học thương yêu, đề cao những tâm hồn cao thượng, tình tương thân tương ái, nhiễu điều phủ lấy giá gương, thương người như thể thương thân, đã bị làm cho mờ nhạt từ lâu. Một môi trường như vậy mà bạo lực không xuất hiện mới là điều lạ.
(Tân Sơn Nhất ngày 13/11/2012)
Blog Nguyễn Đăng Hưng

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Rất tiếc là số bảo thủ, cực đoan, quan liêu lại không đọc bài này:

Phản tỉnh không phải để bôi nhọ dân tộc

Nguyễn Hải Đăng
Nhân Dân
04:39' PM - Thứ năm, 27/03/2014
Trên ý nghĩa nhất định, ý thức về sự phản tỉnh là yếu tố có vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Ðối với mỗi quốc gia, dân tộc, phản tỉnh giúp nhận chân các hạn chế và nhược điểm, từ đó triển khai biện pháp khắc phục. Tuy nhiên, nếu phản tỉnh thực hiện một cách thiếu khách quan sẽ rất dễ rơi vào xu hướng soi mói, bới móc, không đưa tới tác động tích cực.
Theo nghĩa thông thường, phản tỉnh là tự kiểm tra tư tưởng, hành động trong quá khứ để nhận ra sai lầm, tìm cách phòng tránh. Vì vậy, phản tỉnh luôn mang tính tự giác và tự thân, lấy chính mình làm đối tượng để tìm ra các hạn chế, nhược điểm, từ đó khắc phục, sửa đổi, tự hoàn thiện; và đòi hỏi phải được thực hiện một cách sáng suốt, có bản lĩnh để nhìn thẳng vào sự thật. Trong lịch sử dân tộc, ở mức độ khác nhau, ý thức về phản tỉnh đã từng bước hình thành. Gần đây, sau khi một số người viện dẫn là ở nước ngoài có sách Người Mỹ xấu xíNgười Trung Quốc xấu xí nên Việt Nam cũng cần có một cuốn như vậy để nhận thức lại mình, thìphản tỉnh trở nên một vấn đề có tính thời sự. Yêu cầu trên không có gì sai trái, nhưng điều được viện dẫn lại không phải là phổ biến. Thực tế thì loại sách được dẫn ra làm thí dụ lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, không phải sách nghiên cứu về văn hóa, dù văn hóa là chủ đề chính. Người Mỹ xấu xí là một tiểu thuyết hiện thực trào phúng, đã được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh. Còn Người Trung Quốc xấu xí là tập tạp văn gồm các ghi chép, phỏng vấn, bài diễn thuyết do Bá Dương thực hiện. Trong cả hai cuốn sách, các tác giả tập trung chỉ trích một số dạng người đang làm phương hại thể diện dân tộc họ; song do lối viết trào phúng, chung chung và nóng vội, nên sự chỉ trích có phần phiến diện. Tuy nhiên, nhan đề "đao to, búa lớn" của hai cuốn sách lại được một vài người khéo lợi dụng làm to chuyện, phóng đại "giá trị".
Một trường hợp không thể không nhắc tới là gần đây đã xuất hiện một số bài viết sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu người Việt Nam với người ở quốc gia khác để nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa, tìm hiểu con người Việt Nam. Và thường thì các bài này bỏ qua tất cả những đức tính, phẩm chất tốt đẹp, mà chỉ chăm chăm bêu xấu người Việt Nam như là để thỏa mãn chủ đích về cuốn sách "người Việt xấu xí"! Vừa qua, một nhà phê bình văn học đăng trên blog cá nhân bài Một nước Nhật quá xa xôi, sau đó có một số trang web đăng lại. Với vẻ cao đạo như đã là phong cách riêng, nhà phê bình tổ chức bài viết theo lối bút ký có lồng ghép các chương mục với đề từ hoa mỹ, để làm nổi lên hai chủ đề chính là: ca ngợi Nhật Bản và hạ thấp Việt Nam. Ai cũng biết Nhật Bản là quốc gia phát triển, với nền kinh tế đứng thứ ba thế giới, sự ca ngợi nào đó không phải là điều bất thường. Nhưng ca ngợi như nhà phê bình này thì có khi chính người Nhật Bản cũng không dám nhận, nhất là chỉ sau năm ngày du lịch mà ông đã tự tin để đặt bút viết: Nhật Bản là "hình ảnh đảo ngược của xã hội Việt, người Việt"! Nước Nhật Bản đương đại cũng có vấn đề riêng của họ, họ giải quyết tốt một số vấn đề mà Việt Nam hoàn toàn có thể thực hiện nhưng chưa làm được, hoặc còn làm chưa hiệu quả. Ðáng lẽ nhà phê bình cần tìm hiểu để sẽ cẩn trọng hơn, nhưng hẳn là vì muốn "chê cho đã" nên ông lại chỉ đi tìm những gì phù hợp với tiêu chí riêng? Từng tỏ ra tâm đắc với cuốn sách của Bá Dương, nhưng nhà phê bình nọ không coi cuốn sách chỉ như một gợi ý, nên ông không quan tâm điều Bá Dương thừa nhận: "Chúng ta cũng không thể ca ngợi nước Mỹ là một đóa hoa được. Nếu thật tình nó đẹp như một đóa hoa thì người Mỹ đã không phải dùng đến những nhà lao (...) Thật ra để tự cứu mình, chúng ta không nhất thiết cần phải noi gương nước Mỹ, nước Ðức, nước Nhật".
Sử dụng phương pháp đối lập để hạ thấp Việt Nam, qua mớ luận lý hỗn độn và luận điểm cay nghiệt, cực đoan rồi phóng đại thói xấu của một bộ phận người Việt Nam thành thói xấu của dân tộc, trong bài viết trên, nhà phê bình còn suy diễn, bịa đặt. Ông cho rằng, Việt Nam hiện giờ là một "quốc gia xuất khẩu lưu manh". Mấy dẫn chứng vơ quáo vơ quào trong chuyến du lịch năm ngày chỉ giúp ông hạ thấp hơn dân tộc đã sinh ra ông, không mảy may lưu tâm chính ông cũng là một con dân nước Việt, và mọi điều dù hay, dù dở của dân tộc cũng trực tiếp làm nên con người ông. Hay ông coi mình là người đứng trên dân tộc, đứng ngoài dân tộc?
Ðây không phải lần đầu ông làm công việc để có "cái danh" được một số người xưng tụng. Mấy năm trước, nhà phê bình này từng lập một chuyên đề nhiều kỳ về "thói hư tật xấu người Việt" đăng trên một tờ báo có uy tín. Công việc của ông chủ yếu là trích dẫn từ các bài viết, công trình nghiên cứu văn hóa của một số trí thức ở đầu thế kỷ 20, rồi nhận định ông cha ngày xưa đã ý thức được bài học "người Việt xấu xí"! Nhưng nhà phê bình trích dẫn bằng cách cắt bỏ, lược bỏ không nương tay, chọn lấy những gì được coi là hạn chế của người Việt Nam để lập một danh sách, bỏ qua các ưu điểm, phẩm chất tốt đẹp của dân tộc. Vậy thử hỏi: nếu chỉ được đào tạo, dẫn dắt bởi cái xấu thì con người của ông hôm nay ra sao? Ðể tăng "tính thuyết phục" cho loạt bài viết đó, ông lồng ghép tản văn, ký sự, hồi ký, phát biểu cá nhân không chính thức hoặc có tính chủ quan ở thời kỳ sau làm dẫn chứng. Ông không chú ý rằng khi nghiên cứu văn hóa, dân tộc Việt Nam ở đầu thế kỷ 20, một số tác giả không chỉ xuất phát từ lòng yêu nước mà còn nghiên cứu để phục vụ tư tưởng, lợi ích riêng của họ.
Văn hóa luôn biến động, chuyển dịch để phát triển, do đó người nghiên cứu văn hóa nghiêm cẩn chỉ nên coi các ghi chép khai thác được như tài liệu tham khảo, là nguồn hỗ trợ, bổ sung, quyết không phải là luận điểm cơ bản, chính yếu. Một nghiên cứu chỉ dựa trên sách vở từ thế kỷ trước, với các suy nghĩ đơn lẻ của một số trí thức, mà không đánh giá dựa trên số liệu khảo sát trực tiếp từ thực tế, chắc chắn thiếu tính thuyết phục, càng không thể trở thành một tác phẩm nhân học. Tùy tiện trích dẫn với ý đồ riêng, không phải là công trình tổng thuật toàn bộ ý kiến của các tác giả thời trước để đưa ra một toàn cảnh, rốt cuộc thì chỉ nhằm thỏa mãn thói kiêu kỳ của một bộ phận người vốn ảo tưởng về "tầm cao văn hóa, văn minh" của mình so với đồng bào, với dân tộc.
Thiết nghĩ, nghiêm khắc với bản thân là yêu cầu đầu tiên và quan trọng nhất với bất cứ ai muốn tự phản tỉnh và phản tỉnh cộng đồng. Thứ nữa, dù là bài học cá nhân rút ra, thì khi hướng tới phản tỉnh cộng đồng; tùy mức độ, sức "nóng" của vấn đề mà bài học thu được có thể tác động tới cộng đồng, và có thể làm thay đổi nhận thức, hành động của cộng đồng, xã hội. Vì thế, ý thức về phản tỉnh và hành vi phản tỉnh tuyệt đối không được xuất phát từ mặc cảm cá nhân, phải dựa trên nguyên tắc khách quan - toàn diện - cụ thể, tránh đưa ra kết luận phiến diện và cực đoan. Từ nguồn gốc và bản chất của nó, có thể nói phản tỉnh chân chính là việc làm hữu ích và cần thiết, giúp mỗi con người và mỗi cộng đồng nhìn nhận đúng mọi hay - dở, mạnh - yếu, đẹp - xấu,... của bản thân, của cộng đồng, từ đó triển khai kế hoạch khắc phục cái dở, cái yếu, cái xấu,... thông qua hành động hướng tới sự hoàn thiện của cộng đồng. Nếu không xác định mục đích lành mạnh, sẽ đi vào lối phản tỉnh cực đoan, lợi dụng phản tỉnh nhằm dựng bức tranh u ám về cộng đồng, không đưa ra bất cứ ý kiến đóng góp tích cực nào. Vì thế khi đề cập tới yếu tố tiêu cực để phản tỉnh, cần nhận thức rằng, mọi cộng đồng luôn mang trong mình các đặc điểm riêng, có tích cực và tiêu cực. Nhưng mọi cộng đồng sẽ không thể phát triển nếu không thấy rõ một điều: chính truyền thống lịch sử, văn hóa cùng những yếu tố tốt đẹp, nhân văn,... mới là sức mạnh nội sinh để tồn tại, phát triển.
Nhân Dân

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đối thoại giữa Thật & Giả

Chúng Ta.com
Nguyễn Tất Thịnh
06:59' AM - Thứ năm, 12/06/2014
Tôi tức điên phải đi tàu đêm đến Vính ( do nhân viên làm kế hoạch sai ) để kịp làm việc sáng mai…vứt bỏ điều khó chịu xuống đường, viết một bài vu vơ…ai ngờ mở máy tính ra tự nhiên gõ hàng tràng những dòng chữ về ‘Thật’ / ‘Giả’…khái quát với những cư xử lớn, những sự kiện điển hình trong cuộc sống xã hội để tự hiểu về bản chất những điều đang xảy ra…. ‘Thật’ / ‘Giả’ là hai phạm trù xã hội, ở nơi này đang như thế nào?
Giả: Nói thật với cậu nhé, dù chúng ta hàng ngày vẫn nhẵn mặt nhau, nhưng ta chả thèm bận tâm đến cậu đâu, muôn người khác cũng thế thôi. Trông cậu xanh xao, gày gò, như luôn đói kém, ăn mặc xo rúi …trong khi đa số bây giờ ai cũng không béo tốt, bảnh bao thì cũng đầy đặn lành lặn. Chưa kể những điều cậu nói ra nghe nó mới mệt làm sao, nguy hiểm cho người nào xung quanh tỏ ra là có nghe…Còn tí may cho chính cậu là chẳng có quyền chức, hay danh tiếng gì khiến người ta phải hóng hớt nghe
Thật: Em cảm ơn anh đã tiếp chuyện em ạ. Nói ra nhiều người bảo điêu, chứ chính bọn cùng loại em, thỉnh thoảng gặp nhau cũng mặt nặng mày nhẹ , ngôn ngữ văng ra cũng khó chịu lắm, ai cũng cho mình to hơn, quan trọng hơn kẻ khác. Hôm nay, nghe anh nói em cảm được anh rất thẳng thắn và sâu sắc. Em trông anh đúng là thuộc giới người quan trọng lắm, hay ít ra cũng là chỗ quen thân của giới Vua biết mặt, Chúa biết tên. Em nói không biết anh có tin không chứ bọn em nhiều khi nhìn các anh cũng tủi phận lắm
Giả: Ô, tin á? Từ đó không có trong ngôn ngữ bọn này, nhưng điều đó thì ta thông cảm ! Bọn này phải tường tận về lẽ đời thì mới trăm cửa trăm quan muôn vàn biến báo được. Nói thật là các cậu không phải là trở ngại gì của bọn này cả, không đến nỗi là kẻ thù của nhau như nhiều kẻ nông nổi nghĩ. Cái chính là đối tác hay bạn bè của bọn này cơ… Toàn là cốp bự cả, hoặc giới học thức đầy mình, bét ra cũng là những người trải nghiệm đi qua vạn gian dối… Họ chấp nhận mình, coi mình là bạn ruột, là đồng minh, thì tài năng khiến lớp người đó chấp nhận được mới là vấn đề… Chứ bản thân các cậu… bọn ta ..phù…chỉ cần cơn gió nhẹ thổi bay, lớp mây mù là tan biến. Các cậu chưa bao giờ là đáng được gọi là ‘thế lực’ cả. Lũ các cậu cô đơn và tồn tại thiếu thuyết phục trong đời sống rất thực này. Các cậu có bằng chứng thôi cũng đã chả đáng kể gì…nhìn đám lậu nhậu các cậu cùng đời thực của các cậu cũng chả ai muốn theo
Thật: Nói chuyện thân tình được với nhau thế này, em cũng xin được tâm sự thật nỗi đau tâm thế của bọn em: nhiều khi không dám gọi tên người, hay sự vật bằng đúng bản chất của nó nữa. Ví như phải gọi người này người kia bằng Y, Z,@.... Không dám nói thất nghiệp mà phải nói: lao động dư dôi, nói đói là đứt bữa, nói tham nhũng là thất thoát, nói ăn độn là ăn tổng hợp, nói về Nước lớn ăn hiếp mình là Nước Lạ, thậm chí nhắc về dải đất hùng vĩ yêu quý của mình ở dọc phía tây và nam nhưng phải tránh nói tên, đừng đi kèm với từ boxit… Kêu về tiêu cực lộm cộm tung hoành mà chỉ dám ca là như ngứa ghẻ đôi chỗ đôi nơi đôi người đôi lúc thôi ạ…. Em mới thấy phục vài ông mà anh vẫn thẳng thừng ca ngợi dám nói thế là ‘Quốc nạn’
Giả: ( thở dài )…Ôi…tớ biết là lũ các cậu đã thế cũng là yêng hùng rồi…. Thật ra bọn chúng mình về điểm này cũng còn có chỗ giống nhau. Nhưng ta dù sao vẫn ăn to nói lớn được hơn thế: còn thẳng thắn trong khuôn khổ những cuộc họp nhớn về sự dân chủ chưa được phát huy, sự quản lý nhà nước vẫn còn bị buông lỏng, tệ những nhiễu chỉ mới đẩy lùi được vài bước, sự lạm quyền vẫn cần được tăng cường chấn chỉnh… Đấy…các cậu có dám như thế không ? Và có chỗ nào như thế để được tham dự mà nói không ? Còn những loại báo cáo láo, bệnh thành tích, tư duy bao biện, nói một đằng làm một nẻo…như người ta vẫn đề cập á… không đáng xếp vào hàng ngũ bọn này, nghe chưa ! Chỉ là biểu hiện kém cỏi của một bộ phận quan chức nhỏ, công chức vặt thôi…Cũng giống như trong giới các cậu nào là ‘nói thẳng, nói đúng, nói trúng…gì gì đó’ cũng chỉ là gãi ngứa cái mẩn muỗi…bản lĩnh các cậu chưa vào cái bên trong mà thấy hết, toàn cục và bản chất cho được… Ha ha…còn bọn ta á…tường tận ngóc ngách , thao túng hết trơn….chưa kể lại có luận thuyết, trường lớp, học giả…
Thật: Bọn em vẫn nghe nói: điều không đúng nói mãi người ta cũng tin, điều gì sai làm mãi cũng thành hợp lý, điều gì trái mà mọi người cùng đi rồi tất thành phải…. Bọn em đi tìm Chân lý nhưng càng đi càng mung lung, lạc đường, thất tán…Người ta bảo chính các anh bắt giữ được Chân lý và giấu nó trong tay áo của mình. Chúng em hồ nghi điều đó ghê gớm, và lại các anh lại có nguồn lực và sức mạnh để cất kỹ và bảo vệ nó khỏi sổng mất, giữ để thao túng nó. Có đúng thế không ạ ?
Giả: cả đời, toàn bộ sự nghiệp thành danh của tớ, trước câu hỏi này của cậu phải nói thật: không phải thế như người ta đồn đâu ! ( thở dài ). Ôi Chân lý ! Là gì tớ đâu được biết mặt mũi nó ra sao?! Thực ra là bọn ta luôn làm ra vẻ thể hiện có nó thật trong tay mà thôi..đôi khi cho nó lấp ló trình diễn trong những sự kiện PR có rất nhiều vòng bảo vệ, truyền thông, ánh đèn công nghệ…. Ta hỏi cậu: Nghe nói cậu hay đến các Chùa chiền..nhiều nơi tự bảo chỗ mình có cất ‘Xá lị của Phật Tổ’ thì cậu có tin không ? Nếu không tin cậu thể hiện thế nào ? Hãy nói thật ?
Thật: Dạ với câu hỏi này của anh thì có phần em không được chân xác cho lắm, em cũng có hồ nghi, nhưng không dám nói là không tin ạ. Đi về lại còn khoe mình đã tận mắt nhìn thấy nữa. Chắc không quá ngoa , khi chính nhiều đứa trong bọn em cũng hay nói lấy được, rồi tự gán vào mình những từ ‘chân thiện mĩ’ thực ra chưa hiểu thấu đáo mấy, rồi cũng hay tầm chương trích cú kiểu ‘vi phạm bản quyền’ khi muốn củng cố điều gì muốn chứng tỏ . Khổ, hôm vừa rồi em có giành chút tiền tiết kiệm làm từ thiện, bị bọn bạn mắng cho là muốn đánh bóng bản thân vì họ thấy có vẻ giống giống cách làm của các anh!
Giả: đấy, thấy giới các cậu chưa ? Không thể nhất quán….và tự bị phân thân , phân chia bởi thế… Các cậu chưa đủ tư cách để là chính mình. Còn tớ đây đã là siêu tính cách để lời nói của tớ, biểu hiện của tớ được cộng đồng xem là hợp lý. Chưa kể các cậu cũng khá thô thiển khi nói về sự vật hiện tượng trần trụi, chả nghệ thuật gì, đến người chính trực cũng khó nuốt trôi cho nổi. Còn bọn ta á...nhìn vết nứt chân cầu thì có ngay cách nói ‘vết nứt an toàn’ , đường bị uốn cong thì ứng khẩu ngay thuật ngữ ‘ cong mềm mại’…Này…hãy nghe ta chia sẻ một điều: ‘hãy biết dựa vào những gì chính thống, chứ không phải là sự thật’ hiểu chõ ký ào nghe chưa. Nghe ta hỏi chuyện thời sự kh đây: sự kiện Trung Quốc đem dàn khoan khủng vào lãnh hải VN… thì cậu bình luận ra sao ? Sử dụng ngôn ngữ kiểu gì ? Thể hiện và phản ứng như thế nào …hả…
Thật: Dạ…dạ…cái Nước Lớn Lạ í hành động thế là sai ạ, phía Nhà nước Việt Nam em thấy trên truyền thông toàn đăng phỏng vấn những cán bộ cấp nhỏ, hoặc phó và rất nhiều ý kiến của cán bộ đã về hưu, những còm men của dân thường ạ…Chắc Bác Nhất khẽ khọt bận họp quy hoạch cán bộ và tăng cường nhận thức về lấy phiếu tín nhiệm, Bác Hai đang vê mép giấy chỉ đạo ra soát vài vụ lừa dối ngân hàng, Bác Ba cươi cười ở hoi nghị quốc tế về viễn cảnh tầm nhìn của khối, bác Tư thì hình như đang nhẩu môi buồn về chuyện nhiều văn bản chồng chéo ạ…Nhưng em thấy vẫn còn hơi may là Mĩ Nhật ngay lập tức lên tiếng phê phán cái Nước Lớn Lạ kia ạ. Hóa ra họ quên họ trước kia là kẻ thù của nước mình rồi. Còn Nước mình sẽ coi Nước Lớn Lạ là gì từ chuyện này thì tầm em chưa hiểu được anh ạ
Giả: ( thở dài, lắc đầu )…đấy, thấy chưa…cái sản phẩm tư duy, lao động trí óc của lũ các cậu sao nó không hơn báo lá cải thế nhỉ ?! Tư liệu, cứ liệu cũng chỉ nhặt nhạnh trên mạng thế thôi á…Quan điểm và chính kiến cũng chỉ là thắc mắc kiểu dân thường thế ư…tội nghiệp …cho các cậu…à quên, cho những đối tác của các cậu…Nghe ta đây: Cái Nước Lớn Lạ đó là Tổ sư của ta đấy ! Hiểu chưa ?! Ta tiết lội sự thật lớn lao đó cho bọn Thật các người đấy ! Khổ !!!!
Thật: bọn em tuy có yếu, nhỏ, và lẻ….nhưng cố trước anh để giành nói câu cuối trong buổi gặp ngày hôm nay: Bọn em tháo khẩu hiểu mà sẽ hành động đề lớn mạnh anh ạ….
Giả: ( Cười đểu) Ư hừm…ừ thì để cho cậu nói câu cuối cùng, được chưa? Sốt ruột…và liệu hồn đấy! Ta cũng mong lũ các người sống được đủ để bọn ta luôn là thế lực!

Phần nhận xét hiển thị trên trang