Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2014

Vụ án nhà báo Đoàn Hữu Hậu kết thúc "không có hậu"

Phiên tòa phúc thẩm ngày 10/06/2014 tại Toà Án Nhân Dân Tối Cao TP Hồ Chí Minh tuyên xử Nhà báo Đoàn Hữu Hậu, nguyên Trưởng Văn phòng Đại diện Báo Gia Đình & Xã Hội tại Đồng Bằng Sông Cửu Long, ngụ tại số 509/17, Nguyễn Trung Trực, Phường Vĩnh Lạc, Thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang, phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xử phạt 1 năm tù (cấp sơ thẩm xử 2 năm tù) buộc bồi thường 32 triệu đồng.

Vụ án khởi tố ngày 9/4/2012 đã hơn 2 năm, qua 8 lần xét xử (4 lần hoãn xử) diễn biến như loạt bài chúng tôi đã thông tin trước đây. Nay kết thúc, một sự kết thúc “không có hậu”.

ĐIỀU KHÔNG MAY ĐÃ BÁO TRƯỚC

Ngay từ đầu Cơ quan CSĐT khởi tố vụ án “Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ quyền hạn để trục lợi” theo Điều 291 BLHS.
Trả lời PV báo Nhân Dân số ra thứ hai ngày 16-4- 2013, thượng tá Nguyễn Văn Luyện, Phó Trưởng Phòng Cảnh sát Điều tra tội phạm trật tự quản lý kinh tế và chức vụ cho biết: “Nếu Hậu nhận tiền mà không gặp những người có chức trách để lo, sẽ bị truy tố tội “lừa đảo”. Nhưng đây, Hậu có lo nhưng không thành, nên truy tố tội “Lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi” Nghĩa là cơ quan tố tụng đã nghĩ tới tội danh đó và xác định từ đầu là không có việc lừa đảo ở đây. Nên khởi tố tội “Lợi dụng ảnh hưởng…”
Ngày 08/4/2013 Tòa án tỉnh Kiên Giang xét xử, bản án số 26 /2013/HSST tuyên phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Ngày 24/06/2013 TANDTC tại TP Hồ Chí Minh xử phúc thẩm. Bản án số 646/2013/HSPT tuyên: Hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm, vì vi phạm nghiêm trọng Luật Tố Tụng Hình Sự, trả hồ sơ điều tra xét xử lại.
Ngày 03/9/2013 Cơ quan CSĐT tỉnh ra Bản kết luận điều tra Số 09/KLĐT-PC46, chuyển đổi tội danh“Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”(?!)
Theo đó ngày 09/9/2013 Viện Kiểm sát ra cáo trạng số 23/ KSĐT-KT truy tố, với kết luận gần như đối lập với cáo trạng trước đây. Trong khi cùng một hành vi, sự việc.
Bản án số 08/2014 – HSST ngày 16/01/2014 của Tòa án tỉnh Kiên Giang, tuyên phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt…” xử phạt 2 năm tù. Ông Đoàn Hữu Hậu kháng án.

BỊ TÒA GÀI THẾ “VIỆT VỊ”

Sau một lần tạm hoãn, ngày 10/6/2014 TANDTC mở phiên xử phúc thẩm tại TP Hồ Chí Minh.
Ngay từ đầu Thẩm phán Nguyễn Hữu Ba từ chối 2 vị Luật sư bào chữa tham gia tố tụng, với lý do là mới nhận giấy đăng ký, dù rằng thủ tục này đã gửi qua đường Bưu điện trước đó 10 ngày. Đến khi bị cáo xin cho được bào chữa, mới được miễn cưỡng đồng ý. Nhưng cũng bị Chủ tọa “dằn mặt”. Trước đây, ngày 22/4/2014 tại phiên Tòa Phúc thẩm tại Tòa án tỉnh Kiên Giang cũng vị Chủ Tọa này cũng đã từ chối 2 Luật sư này với lý do tương tự, nên bị cáo xin hoãn lại phiên xét xử.
Hội đồng xét xử nhiều lần gợi ý “xin kháng cáo giảm nhẹ”, bị cáo đã 3 lần trả lời là “xin được xem xét không phạm tội”. Một vị Hội thẩm đã nói là “Bị cáo không phạm tội thì cả hệ thống pháp luật ở Kiên Giang không ra thể thống gỉ cả, phải bồi thường cho bị cáo à?” Có nghĩa là bị cáo vô tội, thì mất danh dự và các Cơ quan Tố tụng ở Kiên Giang phải bồi thường.
Một vị lại nói “Nếu không phạm tội lừa đảo, thì có dấu hiệu phạm tội “chạy án”. Nghĩa là đường nào cũng phải có tội. Nhận tội đi để được giảm nhẹ.”
Từ ngày khởi tố vụ án, cấm đi khỏi nơi cư trú (09- 4- 2012) đến nay đã hơn 2 năm và qua 8 lần xét xử, trong đó có 4 lần hoãn. Ông Đoàn Hữu Hậu bị đình chỉ công tác, không đi đâu, làm được gì, tâm trạng nơm nớp bất an, gia đình lâm vào cảnh kiệt quệ, trong một thời gian dài như thế. Trước áp lực phủ đầu ngay từ đầu của HĐXX, làm bị cáo bị khủng hoảng tinh thần.
Đến khi vị đại diện Viện Kiểm Sát gợi ý nên xin giảm nhẹ, vì có tình tiết giảm nhẹ, thì bị cáo chấp thuận theo hướng đó.
Bị cáo nhận mình có lỗi là phạm quy định nghề nghiệp, Điều lệ Hội Nhà báo, làm ảnh hưởng đến danh dự uy tín Nhà báo. Chủ tọa bắt ngay bị cáo thế “việt vị” và lưu ý Luật sư là chỉ bào chữa theo hướng giảm nhẹ.
Chủ Tọa phiên Tòa cho rằng bị cáo “thật thà khai báo, nhận tội”. HĐXX đã sai lần khi nhận định đánh đồng giữa hai ý tưởng. Và đã tuyên án bị cáo phạm tội, xử phạt 1 năm tù giam.
Nhận định này hoàn toàn không đúng với thực chất ý tưởng những gì bị cáo đã nói. Trong toàn bộ phiên xét xử, bị cáo không có một lời nào nhận tội. Bị cáo chỉ nói là mình có “lỗi” khi làm một việc không đúng với nghề nghiệp và nhận lỗi. Chỉ có thế. Thế nhưng!... Dư luận cho rằng việc làm đó không phạm tội. Vì giữa “tội” và “lỗi” là khác nhau. Đánh đồng “lỗi” và “tội” HĐXX đã kết án oan sai cho bị cáo.

THẾ NÀY SAO GỌI LÀ LỪA ĐẢO?

Trong đơn yêu cầu của bà Đinh Ngọc Diễm gửi Tòa án và VKS tỉnh Kiên Giang đề ngày 29/11/2013, chúng tôi có được nhờ một “kỳ công” của một đồng nghiệp (trích) “ông Đoàn Hữu Hậu cũng nhiệt tình giúp đỡ, hướng dẫn làm thủ tục khiếu kiện cho tôi thời gian xét xử sơ thẩm ở Tòa án huyện Phú Quốc…”
Trong đơn thứ 2 đề ngày 08/01/2014 bà Diễm ghi rõ:
“Tôi đã trả tiền bồi dưỡng cho ông Hậu tổng cộng 70 triệu đồng. Nhưng vì ông Hậu không tiếp tục giúp đỡ tôi, nên tôi đòi tiền lại. Tôi đã nhiều lần khẳng định là ông Hậu không có lừa đảo… Khi cơ quan điều tra Công an tỉnh mời tôi làm việc, tôi cũng chỉ đưa đơn khởi kiện Dân sự theo hướng dẫn của CATP”
Nhưng 2 đơn yêu cầu này không được 2 cấp Tòa xem xét và đã bị thủ tiêu.
Nội dung hai lá đơn nầy được Luật sư bào chữa trình bày trong phiên Tòa sơ thẩm Tòa án tỉnh Kiên Giang. Bà Diễm thừa nhận là có viết, và gửi. Nhưng không hiểu vì sao hai tờ đơn đó không được HĐXX cả 2 cấp xem xét. Họ đã quăng vào sọt rác hay đã đốt đi rồi. Mà lại tuyên phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt…” (?!)
Ngay sau khi phiên Tòa kết thúc, trong dư luận râm ran rằng Đoàn Hữu Hậu đã nhận tội và đã làm kinh động đến với giới trí thức. Một tội mà anh đã chống trả quyết liệt hơn hai năm nay. Là người theo dõi xuyên suốt vụ án và trực tiếp tham dự các phiên Tòa, kể cả phiên cuối cùng này. Tôi khẳng định anh không nhận tội.
Nhưng việc anh có nhận tội hay không thì Tòa Phúc Thẩm cũng đã tuyên và có hiệu lực pháp luật. Họ có giảm 1 năm tù so với cấp sơ thẩm tuyên, vì anh có nhân thân tồt. Nhưng anh sẽ phải vào tù thi hành án. Còn việc xin Giám Đốc Thẩm vụ án, có vẻ còn xa vời và rất ít hy vọng.
Có lần anh tâm sự: “Mình viết báo không đủ sống, sẵn có mấy chuyện oan sai người ta nhờ hướng dẫn giúp đỡ, rồi đưa tiền chi phí giao dịch. Đến khi có chuyện lôi thôi ra cớ sự này…Mình mong có đèn trời soi xét…” Thực ra việc làm của anh nó nhan nhản ở đất nước này, là một việc bình thường của hàng ngàn người. Anh bị truy tới cùng là do một sự trả thù của bọn quan tham. Anh là “khắc tinh” của những kẻ tham ô, độc ác đang nắm quyền hành.
Rồi đây trong tù anh sẽ bị đối xử như thế nào đây? Chắc chắn là không được tử tế. Nghỉ tới đây tôi cảm thấy nhói lòng. Tôi phải tạm biệt một người bạn, một đồng nghiệp tài năng “hảo hán” dám xả thân. Và giờ đây chịu nhiều oan trái, trong vòng lao lý.
Qua đây tôi cũng xin kêu gọi mọi người hãy hiểu và thương nhà báo Đoàn Hữu Hậu. Còn những ai hại anh hãy tự để lương tâm dày vò. Vụ án nhà báo Đoàn Hữu Hậu đến đây coi như kết thúc. Xin cảm ơn quý vị đã chuyển tải thông tin về vụ án này trong thời gian qua./.
Tường Vi

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tại sao bấy lâu nay ta tránh tổn thương tình hữu nghị, còn TQ âm thầm chuẩn bị rồi công khai thóa mạ, xuyên tạc, vu không VN ..Có phải bắt nguồn từ nguyên nhân này:

Cuộc chiến không cân sức giữa học giả Việt Nam và Trung Quốc

Bài viết dưới đây của tôi, “Cuộc chiến không cân sức giữa học giả Việt Nam và Trung Quốc”, được đăng tải trên Tuần Việt Nam vào ngày 16/3/2009, một ngày trước hội thảo quốc gia đầu tiên về tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông.

Hơn 5 năm đã trôi qua. “Cuộc chiến” vẫn không cân sức. Sự xuất hiện những gương mặt mới, những nghiên cứu mới bên phía Việt Nam, vẫn hoàn toàn là các nỗ lực cá nhân của những người Việt còn quan tâm đến chủ quyền đất nước. 5 năm qua, giới truyền thông vừa viết bài vừa nghe ngóng, đoán ý lãnh đạo, thấy “bật đèn xanh” thì dấn tới, thấy “không ổn” thì im bặt. Dư luận viên vẫn canh từng diễn đàn, từng trang FB, blog chính trị, hối hả lao vào định hướng mỗi khi thấy có ý kiến nào có vẻ bất lợi cho chính quyền. Thỉnh thoảng, lại thấy một đồng chí cán bộ cao cấp nào đấy, kiểu như Đại tá-PGS-TS-NGƯT Trần Đăng Thanh, được mời đi “nói chuyện chính trị” tại những “Đảng ủy khối, lãnh đạo Đảng, Tuyên giáo, Công tác chính trị, Quản lý sinh viên, Đoàn, Hội thanh niên các trường Đại học-Cao đẳng Hà Nội” về Biển Đông và quan hệ Việt Nam-Trung Quốc, huấn thị rằng “ta” thế này, “bạn” thế kia…

Để rồi tới hôm nay thì báo chí được bật đèn xanh, phỏng vấn, viết bài, đưa tin rõ náo nhiệt, được tố cáo Trung Quốc “lập luận vô lý”, “bất nhất”, “lấy thịt đè người”, “vu cáo” cái lọ cái chai… Thể nào cũng có đồng chí cán bộ nào đó đã và đang chém tay vào không khí mà nói rằng “ta làm truyền thông chưa đủ mạnh cho thế giới biết chính nghĩa của ta”, rồi thì “cần đề nghị đẩy mạnh truyền thông bằng tiếng Anh ra cộng đồng quốc tế”, v.v.

Đúng là đi theo đường lối.. thì đến con rắn cũng phải gãy xương sống.

Trong khi đó, bao nhiêu năm qua, có nhiều học giả, nhà khoa học, ở trong và ngoài nước, có hoặc không có chuyên môn liên quan, vẫn thầm lặng nghiên cứu về Biển Đông, vượt qua những khó khăn, cực nhọc về điều kiện vật chất và tinh thần, vượt qua sự dò xét, nghi ngờ của các đồng chí an ninh rỗi việc, vượt qua cả muôn vàn ức chế đời thường. Tất cả đều đã lao vào nghiên cứu, lặng lẽ và âm thầm, chỉ với mục đích “vì chủ quyền của Việt Nam”, “vì công lý và hòa bình trên Biển Đông”… Không được một xu trợ cấp của Nhà nước (tất nhiên rồi), không được hỏi một lời, không được đếm xỉa đến trong mọi sự kiện ngoại giao, mọi quyết định ngoại giao; không những thế còn thường xuyên bị an ninh hạch sách, quấy rối.

Hỏi ai mới đã và đang liên tục lợi dụng lòng yêu nước của họ, của người dân Việt Nam?

* * *

CUỘC CHIẾN KHÔNG CÂN SỨC GIỮA HỌC GIẢ VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC

Trong đàm phán lãnh hải với Trung Quốc, nếu coi việc nghiên cứu và đưa ra các bằng chứng để xác lập chủ quyền là một mặt trận, thì đã và đang có một cuộc chiến không cân sức giữa giới nghiên cứu của hai nước, với phần thua thiệt thuộc về các học giả Việt Nam. Sự thua thiệt thể hiện rõ trên các mặt: số lượng học giả, số lượng và diện phổ biến của công trình nghiên cứu, sự hỗ trợ từ phía Nhà nước, sự tham gia của tư nhân…

Để cất lên tiếng nói khẳng định chủ quyền

Ngày nay, tất cả các học giả về quan hệ quốc tế đều khẳng định rằng: Thời hiện đại, để chiến thắng trong những cuộc đấu tranh phức tạp như tranh chấp chủ quyền, điều kiện cốt yếu là sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, chứ không đơn thuần là ưu thế về quân sự. Việc quốc tế hóa vấn đề lãnh thổ, lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa, do đó, là điều Việt Nam không thể không làm. Việc này mở đầu bằng quá trình đưa các quan điểm của phía Việt Nam ra trường quốc tế.

Có ba kênh chính để đưa quan điểm của Việt Nam ra quốc tế.

Thứ nhất là thông qua các tuyên bố ngoại giao, như chúng ta vẫn thường thấy phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao trả lời báo giới: "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa".

Thứ hai là thông qua các tạp chí khoa học quốc tế, các diễn đàn thế giới. Sự xuất hiện những bài viết khoa học, công trình nghiên cứu của phía Việt Nam trên các tạp chí khoa học đầu ngành của thế giới về lịch sử, địa lý, hàng hải, công pháp quốc tế… sẽ cực kỳ có sức nặng trong việc tranh biện.

Thứ ba là thông qua các nỗ lực ngoại giao và truyền thông như ra sách trắng, tổ chức hội thảo quốc tế, giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài, v.v…

Trung Quốc "chiếm sóng"

Trên kênh thứ hai, có thể thấy phía Việt Nam đang yếu thế so với Trung Quốc. Dù không nhiều, nhưng đã có những bài viết khoa học của học giả Trung Quốc về vấn đề lãnh hải đăng trên các tạp chí uy tín của thế giới và khu vực như: Marine Policy, Marine Custom Management, Marine and Coastal Law Journal (các tạp chí về hàng hải và luật biển), American Journal for International Law (tạp chí nghiên cứu luật pháp, của Mỹ), Southeast Asia Studies (tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, của Singapore).

Đây là các tạp chí khoa học đầu ngành của thế giới, nghĩa là uy tín của chúng được thừa nhận trên phạm vi quốc tế. Một bài viết được đăng trên những tạp chí loại này mang lại danh tiếng cho sự nghiệp cá nhân của nhà khoa học - tại một số nước, bậc lương và số lần tăng lương của giáo sư tỷ lệ thuận với số bài viết khoa học được đăng ở tạp chí đầu ngành.

Quan trọng hơn nữa, nó gây ảnh hưởng rất lớn đến cộng đồng. Trong ngắn hạn và trung hạn, nó là tiếng nói có sức nặng với giới khoa học quốc tế. Trong dài hạn, nó là nguồn tài liệu tham khảo có tác động đáng sợ. Một nhà khoa học trẻ Việt Nam từng đặt vấn đề: "Giả sử 10-20 năm nữa, có nhà nghiên cứu phương Tây muốn tìm hiểu về tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam và Trung Quốc đối với Hoàng Sa - Trường Sa: Cái mà ông ta tìm thấy sẽ là hàng chục bài viết của học giả Trung Quốc trên các tạp chí quốc tế nhằm chứng minh Hoàng Sa - Trường Sa là của họ. Lúc đó, ông ta có muốn khách quan khoa học cũng khó. Tích tiểu thành đại, hàng loạt bài viết như vậy sẽ làm cán cân sức mạnh nghiêng thêm về phía Trung Quốc, gây ảnh hưởng rất bất lợi cho Việt Nam".

Về phía các học giả Việt Nam ở trong nước, cũng đã có những bài viết khoa học liên quan tới vấn đề lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa. Tuy nhiên, các bài này chỉ được đăng tải bằng tiếng Việt trên các tạp chí chuyên ngành của Việt Nam (Tạp chí Hán Nôm, Nghiên cứu Lịch sử, Lịch sử Quân sự, Nghiên cứu Phát triển - tạp chí của Thừa Thiên - Huế) . Số lượng bản in hạn chế - chừng 1.000 bản, phát hành trên diện rất hẹp, tới mức gần như “lưu hành nội bộ”.

Trung Quốc đã đưa bài viết tố cáo "Việt Nam khiêu khích" 
lên báo Philippines (Philippines Star, 12/6/2014) 

Việt Nam yếu thế

Trung Quốc cũng đã có khoảng 60 cuốn sách về Hoàng Sa - Trường Sa, bằng tiếng Trung và tiếng Anh, như Trung Quốc dữ Trung Quốc Nam Hải vấn đề (Trung Quốc và vấn đề biển Nam Trung Quốc, Phó Côn Thành - Thủy Bỉnh Hòa, 2007), Nam Hải chư đảo địa danh luận cảo (Lưu Nam Uy, 1996), Nam Hải chư đảo địa lý - lịch sử - chủ quyền (Lữ Nhất Nhiên chủ biên, 1992)... Chưa kể, còn hàng chục công trình của các nhà nghiên cứu gốc Trung Quốc ở Đài Loan, Hong Kong, Singapore, Anh, Mỹ.

Việt Nam có vài đầu sách, như Cuộc tranh chấp Việt - Trung về hai quần đảo Hoàng Sa - Trường Sa (Lưu Văn Lợi, Nhà xuất bản Công an Nhân dân, 1995), Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020 (Nguyễn Hồng Thao chủ biên, Nhà xuất bản Sự thật, 11/2008)… Nhưng số lượng chỉ đếm trên đầu ngón tay, các sách đều bằng tiếng Việt, phát hành rất ít. Đa số là "tài liệu tham khảo nội bộ" hoặc cũng gần như "lưu hành nội bộ" bởi không được quảng bá và phát hành rộng.

Gần đây, Nhà xuất bản Tri thức bắt đầu tham gia giới thiệu rộng rãi tới công chúng các cuốn sách nghiên cứu về chủ quyền biển, với mục tiêu giới thiệu được khoảng 5 đầu sách/năm. Tuy nhiên, theo ông Chu Hảo, Giám đốc Nhà xuất bản, khó khăn lớn nhất là nguồn kết quả nghiên cứu của giới học giả Việt Nam còn hạn chế.

Hiện tại, Việt Nam chỉ có ba cơ quan nhà nước từng đặt vấn đề nghiên cứu chính thức về lãnh hải và luật biển, là Vụ Biển thuộc Ủy ban Biên giới Quốc gia, Trung tâm Luật Biển và Hàng hải Quốc tế, Tổng cục Quản lý Biển và Hải đảo. Đếm số lượng các nhà nghiên cứu chuyên sâu vào vấn đề lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa, tính cả người đã mất, thì “vét” trong cả nước được gần một chục người.

Còn Trung Quốc đã có hàng chục cơ quan nghiên cứu chuyên sâu về tranh chấp lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa từ hơn nửa thế kỷ qua. Ít nhất, có thể kể tới trung tâm nghiên cứu trực thuộc các trường đại học Bắc Kinh, Hạ Môn, Phúc Kiến, Trung Sơn, hoặc trực thuộc Ủy ban Nghiên cứu Biên cương, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, v.v…

Với kênh thứ ba - thông qua việc tổ chức hội thảo quốc tế, đưa các học giả đi giảng bài tại các trường đại học ở nước ngoài v.v. - thì sự tham gia của giới khoa học gia Việt Nam càng yếu ớt hơn.
Cộng đồng các nhà khoa học người Việt tại nước ngoài đã có nhiều nỗ lực nghiên cứu để đưa ra các bằng chứng giúp Việt Nam tranh biện trong vấn đề lãnh hải. Chẳng hạn, Tiến sĩ Từ Đặng Minh Thu (Đại học Luật Sorbonne), luật gia Đào Văn Thụy từng đọc bài tham luận tại Hội thảo hè "Vấn đề tranh chấp Biển Đông" (New York, 1998), phân tích lập luận của Việt Nam và Trung Quốc với nhiều lý lẽ khoa học xác đáng. Tuy nhiên, không rõ vì lý do gì mà các công trình như vậy lại chưa được phổ biến chính thức tại Việt Nam.

Danh mục một số sách của các học giả TQ và thế giới về tranh chấp chủ quyền và quan hệ VN-TQ.

Vì đâu giới nghiên cứu Việt Nam yếu thế?

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện (Viện Nghiên cứu Hán Nôm) nhận xét: "So tương quan lực lượng với Trung Quốc trong chuyện nghiên cứu về lãnh hải, thì các công trình của học giả Việt Nam vừa ít ỏi, manh mún về số lượng, lại vừa không được sự quan tâm, hỗ trợ của xã hội".

Ai cũng biết rằng điều kiện cần để có bài viết khoa học là một quá trình nghiên cứu tập trung cao và kéo dài. Nghiên cứu về vấn đề lãnh hải và Hoàng Sa - Trường Sa lại càng khó khăn hơn, nó đòi hỏi rất nhiều công sức, thời gian, kinh phí. Người nghiên cứu phải có khả năng tiếp cận với các tài liệu cổ bằng nhiều thứ tiếng khó (Hán, Nôm, Pháp, Anh, thậm chí tiếng Latin), phải bỏ chi phí mua tài liệu, đi thực địa, trao đổi tìm kiếm thông tin, v.v... Đổi lại, mỗi bài viết trên các tạp chí của Việt Nam được nhận vài trăm nghìn đồng nhuận bút.

Còn việc đưa bài viết ra tạp chí quốc tế thì gần như không tưởng, bởi thật khó để các nhà khoa học dồn sự nghiệp cho cả một công trình nghiên cứu để rồi không biết… đi về đâu, có được đăng tải hay không. Thiếu kinh phí, khó khăn trong việc tiếp cận các tài liệu "nhạy cảm" là những vật cản lớn. Chỉ riêng việc dịch bài viết sang một thứ tiếng quốc tế, như tiếng Anh hay tiếng Trung, cũng đã là vấn đề.
Một nhà nghiên cứu độc lập, ông Phạm Hoàng Quân, cho biết: "Ở Trung Quốc, việc tuyên truyền về Hoàng Sa - Trường Sa và lãnh hải được phân chia thành ba cấp. Cấp thấp nhất là cấp phổ thông, cho quần chúng. Cấp hai và cấp ba là cho các độc giả có trình độ cao hơn và các nhà nghiên cứu chuyên sâu. Như ở Việt Nam thì chẳng cấp nào phát triển cả".

Không có văn bản quy định chính thức, nhưng tài liệu liên quan tới lãnh hải, biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc mặc nhiên được coi là "nhạy cảm", "mật", và một cá nhân khó mà có đủ tư cách để "xin" được nghiên cứu về Hoàng Sa - Trường Sa hay chủ quyền đất nước. Ông Quân, với tư cách nhà nghiên cứu độc lập, gặp khó khăn tương đối trong việc tiếp cận các tài liệu khoa học phục vụ cho công việc. Dĩ nhiên là chẳng bao giờ ông được mời tham dự những hội thảo chuyên đề về lĩnh vực mình nghiên cứu - thường chỉ dành cho những nhà khoa học đã có biên chế chính thức ở một cơ quan nhà nước nào đó.

Với một cá nhân là như vậy. Với các viện nghiên cứu trực thuộc Nhà nước, tình hình cũng không khả quan hơn. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện nhận xét: "Về nguyên tắc, phải là cấp trên đặt hàng, cấp dưới đề đạt lên. Nếu Nhà nước không đặt hàng, các cơ quan chuyên môn có khả năng làm cũng e dè không muốn đề xuất. Các cá nhân nghiên cứu độc lập thì không thể có điều kiện thuận lợi về sưu tập tư liệu, điền dã thực địa, công bố kết quả của đề tài".

Không tiếp cận được với các công trình nghiên cứu chuyên sâu đã đành, người dân còn không được giới truyền thông cung cấp thông tin và kiến thức về chủ quyền đất nước. Trong khi, trên thực tế, "Việt Nam có đầy đủ bằng chứng lịch sử và cơ sở pháp lý để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa" - như khẳng định của Bộ Ngoại giao. (Các tuyên bố ngoại giao theo thông lệ này lại không kéo theo việc công bố một bằng chứng cụ thể nào, khiến cho người nghe ngay cả khi muốn tham gia vào một nỗ lực chung để xác lập chủ quyền cho Hoàng Sa - Trường Sa cũng bớt phần tự tin).

Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân 
trong một lần làm "ông đồ cho chữ" ngày Tết.

Chúng ta có thể làm gì?

Về bản chất, nghiên cứu khoa học là các nỗ lực cá nhân, tuy nhiên, với những vấn đề thuộc diện "công ích" như tranh chấp chủ quyền, thì Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng.

Nhà nước phải đặt hàng giới nghiên cứu, tạo thành một chiến lược lâu dài và bài bản, đồng thời để cho giới truyền thông diễn giải và phổ biến những công trình nghiên cứu chuyên sâu tới quần chúng sao cho tất cả mọi người đều có ý thức về chủ quyền đất nước. Một số học giả người Việt Nam ở nước ngoài gợi ý rằng, cách tốt nhất là Nhà nước "xã hội hóa" công việc nghiên cứu khoa học, bằng cách tạo điều kiện để xã hội dân sự (tư nhân, các tổ chức phi chính phủ, hiệp hội, quỹ...) tài trợ cho các dự án khoa học, tạo điều kiện, thậm chí "luật hóa", để người nghiên cứu được tiếp xúc với thông tin khi cần.

Một điểm cần lưu ý là hoạt động nghiên cứu phải mang tính liên ngành, toàn diện, trên mọi lĩnh vực: văn bản học, khảo cổ, địa chất lịch sử, thổ nhưỡng, công pháp quốc tế...Theo quy luật số lớn, số lượng nghiên cứu càng nhiều thì khả năng có những công trình chất lượng càng cao.

Sau hết, không thể thiếu nỗ lực công bố các công trình nghiên cứu đó ra diễn đàn quốc tế, nỗ lực diễn giải và phổ cập chúng tới người dân trong nước, cũng như, thông qua chính sách "ngoại giao nhân dân", tới được dư luận quốc tế và cộng đồng Việt Nam tại nước ngoài.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thử xem chuyên gia biên giới Việt Nam phản hồi các tư liệu mà Bộ Ngoại giao Trung Quốc vừa trình ra

Tôi nghĩ là Trung Quốc còn ủ không ít tư liệu nữa. Chưa vội tung ra hết.


Loạt vừa rồi, họ đưa ra, mới tạm thế, nhưng lại là mang tính chính thức (gửi lên Liên hiệp quốc), cốt để xem Việt Nam có bấn loạn hay không với cái tạm thế ấy đã.

Trong khi chờ đợi để có thể may mắn thấy lại trang nhất báo Nhân Dân ngày 6/9/1958, thử xem mấy bác được mang trọng trách của phía Việt Nam phản hồi thế nào với số tư liệu tạm thế vừa rồi.

Xem toàn văn ở dưới. Đọc bài, đủ biết trình độ của chuyên gia Đại Việt đến đâu.



Bài trên Giáo dục Việt Nam. Của một bác nguyên.

---

Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Ảnh: An ninh Thủ đô.


Tiến sĩ Trần Công Trục vạch mặt các "bằng chứng" của Trung Quốc


(GDVN) - Những tư liệu mà phía Trung Quốc gửi tới Liên hợp quốc là cố ý bóp méo sự thật để biện minh cho hành vi sử dụng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974.

13/06/14 06:15

Ngày 9/6, Vương Dân, Phó đại diện thường trực Trung Quốc tại Liên Hợp Quốc đã gửi thư cho Chủ tịch HĐBA LHQ kèm theo cái gọi là "chứng cứ" Việt Nam thừa nhận 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa là của Trung Quốc. "Chứng cứ" này bao gồm Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…xuất hiện vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước. 
Những tài liệu mà Trung Quốc đã trích dẫn này là có thật. Tuy nhiên, nội dung của các tài liệu này cụ thể ra sao và giá trị pháp lý của chúng như thế nào? Đó là những câu hỏi  cần được phải làm sáng tỏ trên tinh thần thật sự khách quan, trung thực, cầu thị…:
Thứ nhất, xin nói về hình thức của các tư liệu này:
Tài liệu đầu tiên mà Trung Quốc thường xuyên nêu lên trong tất cả các lập luận về cái gọi là Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từng thừa nhận “chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa, Nam Sa”. Thực chất đây chỉ là bức thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho cố Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958 có liên quan đến Tuyên bố quy định về chiều rộng lãnh hải 12 hải lý của CHND Trung Hoa; hoàn toàn không phải là “Công hàm” như phía Trung Quốc đã nhấn mạnh.
Các tài liệu khác như Sách giáo khoa địa lý lớp 9, Tập bản đồ thế giới…thực chất đây là những tài liệu tham khảo phục vụ cho giảng dạy, nghiên cứu, học tập…
Ngoài ra, còn có một số nội dung khác đã được trích dẫn chủ yếu là những cuộc  trao đổi, phát biểu cá nhân  của một số cán bộ ngoại giao trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể.
Thứ 2, nói về nội dung của các tài liệu này:
Nội dung bức thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: Căn cứ vào câu chữ của bức thư này thì rõ ràng không hề có  một câu chữ nào đề cập đến “Tây sa”, “Nam Sa”:… “Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin kính gửi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân trọng”
Nội dung các tư liệu khác đúng như những gì mà Trung Quốc đã dẫn.
Lá thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi người đồng cấp Chu Ân Lai năm 1958 không phải "Công hàm" như Trung Quốc suy diễn, và cũng không có câu chữ nào đề cập đến cái gọi là "Tây Sa", "Nam Sa".
Thứ 3, nói về hoàn cảnh ra đời của những tài liệu này:
Xin lưu ý rằng tất cả các tài liệu nêu trên  đều xuất hiện vào thời điểm trước những năm 70 của thế kỷ trước. Đó là thời điểm mà tình hình trong nước và  quốc tế về chính trị, ngoại giao, pháp lý… mang những nét đặc thù liên quan rất lớn đến giá trị pháp lý của các tư liệu nói trên, cụ thể là:
Đất nước tạm thời chia làm 2 miền với 2 chủ thể bình đẳng trong quan hệ quốc tế, có trách nhiệm quản lý lãnh thổ ở 2 niềm Nam, Bắc, được phân chia bởi vỹ tuyến 17 theo quy định của Hiệp định Geneve 1954.
Sau một thời gian dài, cả dân tộc Việt Nam, bất kể già trẻ trai gái, không phân biệt quan điểm chính trị, thành phần giai cấp…đều dốc lòng, dốc sức cho cuộc kháng chiến chông ngoại xâm, giành quyền độc lập, tự do, hạnh phúc…bằng nhiều phương thức có lợi nhất cho công cuộc kháng chiến cứu quốc, chống giặc ngoại xâm…Trong hoàn cảnh đó, sau khi hòa bình được lập lại, biết bao khó khăn bộn bề mà cả chính thể  2 miền Nam Bắc đều phải tập trung ưu tiên giải quyết… Cũng cần phải nói một cách thẳng thắn rằng những nội dung liên quan đến việc bảo vệ chủ quyền  2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cả trên thực địa và trên mặt trận đấu tranh ngoại giao pháp lý, cũng còn nhiều bất cập, thậm chí còn có những sơ suất, sai sót…Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng điều này không phải xuất phát từ ý thức, mà chủ yếu là từ thực lực, nhận thức, hiểu biết...do thiếu thông tin hoặc thông tin không được cập nhật và tập trung.
Ngoài ra, có vấn đề không thể không đề cập đến khi nghiên cứu, đánh giá những nội dung nói trên; đó là những chủ trương, chính sách của các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc trong khu vực và quốc tế, trước những thay đổi về địa-chính trị, địa- chiến lược, địa-kinh tế…trong khu vực có liên quan đến vị trí, vai trò của 2 quần đảo này giữa Biển Đông. Trong đó không thể không nói đến tư duy ý thức hệ được hình thành và liên kết trong thời kỳ chiến tranh lạnh…
Xuất phát từ bối cảnh chính trị đó, sự xuất hiện các tài liệu nói trên, thậm chí có cả những hành động không làm tròn được sứ mệnh bảo vệ, quản lý trên thực tế quần đảo Hoàng Sa và một số đảo trong quần đảo Trường Sa cũng là điều có thể lý giải được…
Thứ 4, những tài liệu Trung Quốc dẫn ra hoàn toàn không có giá trị pháp lý
Dưới ánh sáng của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ và theo cách nhìn nhận đánh giá của giới luật gia, luật sư, chúng ta hãy xem xét giá trị pháp lý của các tư liệu này: Có phải đó là bằng chứng có giá trị  pháp lý chứng minh rằng Nhà nước Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa, hay nói một cách khác, các tài liệu này có phải là những bằng chứng chứng minh rằng Nhà nược Việt Nam đã từ bỏ chủ quyền của mình đối Hoàng Sa, Trường Sa hay không? Câu trả lời là không. Vì sao?
Phải khẳng định rằng, cho dù nội dung của các tư liệu nói trên có nói đến “Tây Sa và Nam Sa của Trung Quốc” thì chúng cũng chỉ là những tư liệu vô giá trị pháp lý trước ánh sáng của Luật pháp và Thực tiễn quốc tế, bởi vì:
Chúng chỉ là những tư liệu, những phát biểu cá nhân, không phải là những văn bản quy phạm pháp luật được phê chuẩn bởi Cơ quan quyền lực nhà nước, hoặc bởi những tổ chức, cá nhân được ủy quyền đại diện hợp pháp cho Cơ quan quyền lực đó.
Vào thời điểm đó, đại diện cho Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, quản lý lãnh thổ đối với 2 quần đảo này theo quy định của Hiệp định Geneve là chính quyền miền Nam Việt Nam, lúc đầu là Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Cộng hòa, kế đến là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Việt Nam Cộng hòa, đại diện cho dân tộc Việt Nam tiếp quản chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ Cộng hòa Pháp chờ ngày tổng tuyển cử hòa bình theo Hiệp định Geneva 1954.
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không có trách nhiệm nghĩa vụ pháp lý trong việc bảo vệ quản lý vùng lãnh thổ ở phía Nam vỹ tuyến 17. Đó là một thực tế pháp lý rõ ràng, không thể chối cãi được, cho dù về mặt chính trị, tư tưởng, quan hệ ngoại giao, có thể có lúc, có nơi, chính thể Việt Nam Cộng hòa đã bị lên án, phủ nhận…Nhưng đó lại là chuyện khác, chuyện chính trị, ý thức hệ, lập trường giai cấp. Mà chuyện chính trị, tư tưởng, ý thức hệ không có giá trị phủ nhận, chối bỏ những quy định pháp lý trong quan hệ quốc tế.
Trong thực tế, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa, theo Hiệp định Genève 1954, đã liên tục thực thi chủ quyền lâu đời của người Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa bằng các văn bản hành chính nhà nước cũng như bằng việc triển khai thực thi chủ quyền thực tế trên hai quần đảo này. 
Đỉnh cao của sự khẳng định chủ quyền Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong giai đoạn này là trận hải chiến quyết liệt của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chống lại sự xâm lược của tàu chiến và máy bay Trung Quốc tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974.
Và để chứng minh vai trò của Chính quyền miền Nam với tư cách là đại diện hợp pháp cho Nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ, quản lý chủ quyền, lãnh thổ đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa  như thế nào, chúng tôi xin trích dẫn các sự kiện quan trọng và có ý nghĩa say đây:
Trong hoàn cảnh lịch sử cuối năm 1946 đầu năm 1947, mặc dù Việt Nam đã tuyên bố độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945, không còn ràng buộc vào Hiệp định Patenotre 1884, song Pháp cho rằng theo Hiệp định sơ bộ ngày 6 tháng 3 năm 1946, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn nằm trong khối Liên hiệp Pháp, về ngoại giao vẫn thuộc Pháp, nên Pháp có nhiệm vụ thực thi quyền đại diện Việt Nam trong vấn đề chông lại mọi xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Theo Hiệp định ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp dựng nên chính quyền thân Pháp, gọi là Quốc gia Việt Nam do cựu hoàng Bảo Đại đứng đầu; tuy nhiên, trong thực tế quân đội Pháp vẫn làm chủ Biển Đông , trong đó có 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. 
Năm 1949, Tổ chức khí tượng thế giới (OMM: Organisation Mondiale de   Meteorologie) đã chấp nhận đơn xin đăng ký danh sách các trạm khí tượng do Pháp xây dựng tại quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa vào danh sách các trạm khí tượng thế giới: Trạm Phú Lâm, số hiệu 48859, Trạm Hoàng Sa số 48860, Trạm Ba Bình số 48419.
Ngày 8 tháng 3 năm 1949, Pháp ký với cựu hoàng Bảo Đại Hiệp định Hạ Long, trao trả độc lập cho chính phủ Bảo Đại, tháng 4, Hoàng thân Bửu Lộc, tuyên bố khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa.
Ngày 14 tháng 10 năm 1950, Tổng trấn Trung phần Phan Văn Giáo đã chủ trì việc bàn giao quản lý quần đảo Hoàng Sa giữa Chính phủ Pháp và Chính phủ Bảo Đại.
Từ 5 tháng 9 đến 8 tháng 9 năm 1951, Hội nghị San Francisco có đại diện của 51 nước tham dự để ký kết Hòa ước với Nhật. Tại phiên họp toàn thể mở rộng, ngày 5 tháng 9, với 48 phiếu chống, 3 phiếu thuận đã bác bỏ đề nghị của Ngoại trưởng Gromyco (Liên Xô cũ) về việc tu chỉnh khoản 13 của Dự thảo Hòa ước, trong đó có nội dung : Nhật thừa nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa và những đảo xa hơn nữa về phía Nam .
Ngày 7 tháng 9 năm 1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt nam: “et comme il faut franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les  germes de discorde, nous affirmons nó droits sur les iles de Spratley et de Paracel qui de tout temps ont fait partie du Vietnam”. Không một đại biểu nào trong Hội nghị này có bình luận gì về tuyên bố này. Ngày 8 tháng 9 năm 1951, Hòa ước với Nhật được ký kết. Điều 2, Đoạn 7, của Hòa ước đã ghi rõ: “Nhật bản từ bỏ chủ quyền, danh nghĩa và tham vọng đối với các quần đảo Paracel và Sprathly”(khoản f).
Tháng 4 năm 1956, khi quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Quốc gia Việt Nam, về sau là Việt Nam Công hòa, đã ra tiếp quản  nhóm  phía Tây quàn đảo Hoàng Sa của Việt nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.
Ngày 22 tháng 8 năm 1956, Tàu HQ04 của Hải quân Việt Nam Cộng hòa đã ra quần đảo Trường Sa cắm bia chủ quyền, dựng cờ, bảo vê quần đảo trước hành động  xâm chiếm trái phép, vi phạm chủ quyền Việt Nam của Đài Loan và Philippines.
Ngày 20 tháng 10 năm 1956, bằng  Sắc lệnh 143/VN Việt Nam Cộng hòa đã đặt quần đảo Trường Sa trực thuộc tỉnh Phước Tuy.
Năm 1960, Việt Nam Cộng hòa đã có quyết định bổ nhiệm ông Nguyễn Bá Thược, cán bộ hành chính hạng 1 tại Tam Kỳ, Quảng Nam, giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa; ngày 27 tháng 6 năm 1961, bổ nhiệm ông Hoàng Yêm giữ chức Phái viên hành chính Hoàng Sa. 
Ngày 13 tháng 7 năm 1961, VNCH sáp nhập  quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Quảng Nam. Ngày 11 tháng 4 năm 1967, VNCH ban hành Nghị định 809 –NĐ-DUHC cử ông Trần Chuân giữ chức phái viên hành chính xã Định Hải (Hoàng Sa), quận Hòa Vang, tỉnh Quảng Nam.  
Ngày 21 tháng 10 năm 1969, bằng Nghị định số 709-BNV-HCĐP-26 của Thủ tướng VNCH sáp nhập xã Định Hải ( quần đảo Hoàng Sa) vào xã Hòa Long quận Hòa Vang tỉnh Quảng Nam.
Trước  những hành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do Trung Quốc và Philippines tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối: Ngày 24 tháng 5 và ngày 8 tháng 6 năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ra thông cáo nhấn mạnh quần đảo Hoàng Sa cùng với quần đảo Trường Sa “luôn luôn là một phần của Việt Nam” và tuyên bố khẳng định chủ quyền từ lâu đời của Việt Nam.             
Ngày 13 tháng 7 năm 1971, tại Hội nghị ASPEC Manila, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền Việt Nam.
Ngày 6 tháng 9 năm 1973, Tổng trưởng Nội vụ Việt Nam Cộng hòa ký Nghị định 420-BNV-HCĐP/26 sáp nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy.
Từ 17 tháng 01 đến 20 tháng 01 năm 1974, Trung Quốc huy động lực lượng quân sự đánh chiêm nhóm phía Tây, quần đảo Hoàng Sa. Mặc dù đã chiến đấu quả cảm, nhiều binh sỹ đã anh dũng hy sinh, quân lực Việt Nam Cộng hòa đã không cản phá được hành động xâm lược của Trung Quốc. Tuy nhiên trên mặt trận ngoai giao Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối mạnh mẽ trước Liện Hợp Quốc và công đồng quốc tế: Ngày 19 tháng 01 năm 1974, Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã ra Tuyên cáo kêu gọi các dân tộc yêu chuộng công lý và hòa bình lên án hành động xâm lược thô bạo của Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tuyên bố nêu rõ lập trường của mình trước sự kiên này: 
Chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ là những vấn đề thiêng liêng đối với mỗi dân tộc.
Vấn đề biên giới và lãnh thổ là vấn đề mà giữa các nước láng giềng thường có những tranh chấp do lịch sử để lại.
Các nước liên quan cần xem xét vấn đề này trên tinh thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, hữu nghị và láng giềng tốt và phải giải quyết bằng thương lượng.
Ngày 01 tháng 02 năm 1974, Việt Nam Cộng hòa tăng cường lực lượng đóng giữ, bảo vệ quần đảo Trường Sa trong tình hình Trung Quốc tăng cường sức mạnh tiến hành xâm chiếm lãnh thổ  mà theo nhận định ủa Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu:  “Trung cộng sẽ đánh Trường Sa và xâm chiếm bằng vũ lực giống như Hoàng Sa, có sự tiếp tay hoặc làm ngơ của Mỹ”.
Ngày 02 tháng 7 năm 1974, tại Hội nghị luật biển lần thứ 3 của LHQ tại Caracas, đại biểu Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng tố cáo Trung Quốc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa bằng vũ lực và khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là lãnh thổ Việt Nam , chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo này là không tranh chấp và không thể chuyển nhượng.
Ngày 14 tháng 02 năm 1975, VNCH công bố Sách trắng về chủ quyền của Việt nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Ngày 05 tháng 04 năm 1975, Lực lượng Hải quân quân giải phóng nhân dân miền Nam Việt Nam đã triển khai kế hoạch tiếp quản quần đảo Trường Sa .
Từ ngày 13 đến 28 tháng 4 năm 1975, các lực lượng Quân giải phóng nhân dân Nam Việt Nam dưới sự lãnh đao của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa niềm Nam Việt Nam đã tiếp quản các đảo có quân đội Việt Nam Cộng hòa đóng giữ, đồng thời triển khai lực lượng đóng giữ các đảo, một số vị trí khác trong quần đảo Trường Sa .
Ngày 05 tháng 06 năm 1975, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày 02 tháng 07 năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa 6 (1976-1981), Quốc hội của nước Việt Nam thông nhất được bầu vào ngày 25 tháng 4 năm 1976, đã quyết định đổi tên nước là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn toàn có nghĩa vụ quyền hạn tiếp tục quản lý và bảo vệ chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa.
Từ những sự kiện nói trên, chúng ta khẳng định rằng tất cả những tư liệu mà phía Trung Quốc đã viện dẫn là cố ý bóp méo sự thật để biện minh cho những hành vi sử dụng vũ lực xâm lược quần đảo Hoàng Sa từ năm 1974 trở về trước, rồi tiếp đến là xâm lược một số bãi cạn ở phỉa Tây Bắc quần đảo Trường Sa năm 1988, và hiện nay đang triển khai một cuộc xâm lăng kiểu mới, một cuộc “xâm lược mềm”…với việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam trong hơn một tháng nay, là uổng công vô ích, không thể thuyết phục được ai.
Điều đó càng làm cho dư luận quốc tế, kể cả đa số người Trung Quốc, hiểu rõ hơn bản chất xâm lược, bất chấp luật pháp quốc tế, đe họa đến hòa bình, an ninh khu vực và thế giới, đe dọa an ninh an toàn hàng hải, hàng không quốc tế…của một số thế lực theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan đang tồn tại ở Trung Quốc.
http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi/Tien-si-Tran-Cong-Truc-vach-mat-cac-bang-chung-cua-Trung-Quoc-post145953.gd

Giao blogr

Phần nhận xét hiển thị trên trang