Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 12 tháng 6, 2014

Thư ngỏ gửi nhà thơ Đỗ Trung Quân và tất cả những ai quan tâm đến quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội Việt Nam

Văn đoàn độc lập Việt Nam

Ngày hôm nay, 12/04/2014, trên trang mạng bolapquechoa có đăng thư ngỏ của nhà thơ Đỗ Trung Quân gửi nhà văn Nguyên Ngọc và Văn đoàn Độc lập Việt Nam, sau đó được trang mạng Văn Việt của Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam (gọi tắt là BVĐVĐ) đăng lại ngay tức thời.


 Trong thư có đoạn: “… tôi được một nhân vật thuộc ngành an ninh thông báo lý do canh giữ tôi đến hôm nay ngoài việc xuống đường [chống China xâm lược] như dư luận trong và ngoài nước đã biết, tôi còn là THƯ KÝ VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP, còn là cầu nối, một trạm liên lạc của Văn đoàn”. Nhà thơ Đỗ Trung Quân yêu cầu VĐ ĐL trả lời công khai ông có được giao chức trách nói trên hay không?

Về vấn đề này, BVĐVĐ xin chính thức tuyên bố:

 1/ Nhà thơ Đỗ Trung Quân là một thành viên của BVĐVĐ trên cơ sở tự nguyện tán thành Tuyên bố của BVĐVĐ và đăng ký tham gia BVĐVĐ. Ngoài tư cách đó, ông chưa được giao bất cứ công việc gì của BVĐVĐ.

2/ Việc mỗi thành viên BVĐVĐ nhận và thực hiện công việc theo sự phân công của Trưỏng ban – nhà văn Nguyên Ngọc là việc hoàn toàn nội bộ của BVĐVĐ. Không ai có quyền, bất kể nhân danh tổ chức hay cơ quan nào, sách nhiễu các thành viên BVĐVĐ về việc này.

3/ Trong suốt thời gian từ khi BVĐVĐ tuyên bố ra mắt (03/03/2014), đã có những hiện tượng sách nhiễu, gây khó khăn với không ít thành viên BVĐVĐ, như: ngăn cản các thành viên BVĐVĐ xuất hiện trên các phương tiện truyền thông đại chúng (báo chí, truyền hình…), lặp lại đúng hệt các thủ đoạn xấu xa đối với Nhân văn Giai phẩm cách đây hơn nửa thế kỷ; gây áp lực với nơi làm việc của thành viên và trực tiếp với thành viên để “vận động” họ rút tên khỏi BVĐVĐ; vu cáo trắng trợn rằng BVĐVĐ là một tổ chức chính trị hoạt động nhờ tài trợ nước ngoài…

Những hành vi trên đã không lay chuyển được đại đa số thành viên BVĐVĐ. Nhiều người đã khẳng khái trả lời KHÔNG với mọi áp lực nhằm buộc họ rút tên khỏi BVĐVĐ.

4/ BVĐVĐ kịch liệt phản đối những hành vi sách nhiễu nói trên đối với các thành viên BVĐ, vì:

Đó là những hành vi vi phạm pháp luật và Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo đảm quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội của công dân.
Vu cáo, xúc phạm uy tín danh dự của tổ chức và công dân.

Chia rẽ khối đoàn kết dân tộc trong lúc đất nước đòi hỏi sự đồng thuận, một lòng của toàn dân, đặc biệt của giới trí thức, để đối phó với cuộc xâm lược của China đang diễn ra vô cùng nguy hiểm trên mọi mặt trận, trong đó văn hoá là một mặt trận hết sức then chốt.

5/ Lập trường nghệ thuật của BVĐ đã thể hiện rõ trong Tuyên bố Vận động ngày 03/03/2014 (http://vandoandoclapvietnam.org), đó là: “góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi.”

Lập trường chính trị của BVĐ đã thể hiện rõ trong Tuyên bố về vụ giàn khoan Hải Dương 981 (http://anonymouse.org/cgi-bin/anon-www.cgi/http://vanviet.info/van-de-hom-nay/tuyen-bo-cua-ban-van-dong-van-doan-doc-lap-viet-nam-ve-viec-trung-quoc-cho-gian-khoan-hd-981-va-cac-tau-vu-trang-xam-chiem-vung-bien-thuoc-chu-quyen-viet-nam/) chỉ 4 ngày sau khi China kéo giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam. BVĐ tự hào là tổ chức dân sự đầu tiên ở Việt Nam lên tiếng chính thức về sự kiện nghiêm trọng này, phản đối mãnh liệt hành động xâm lược của China và ủng hộ Nhà nước Việt Nam thi hành mọi biện pháp mạnh mẽ và tỉnh táo để bảo vệ chủ quyền đất nước.

Trang mạng vanviet.info của BVĐVĐ ra mắt từ 19/3/2014 đến nay đã thể hiện cụ thể lập trường nghệ thuật và chính trị trên, thu hút lượng bạn đọc và cộng tác viên đông đảo, mặc dù ở nhiều nơi bị chặn bằng tường lửa.

6/ Những tổ chức nghề nghiệp yêu nước có lập trường và hoạt động lành mạnh như BVĐVĐ không có lý do gì là đối tượng sách nhiễu, ngăn cản của bất cứ cơ quan, tổ chức nào với lý do an ninh chính trị tư tưởng văn hoá.

BVĐVĐ yêu cầu các cơ quan hữu trách chấm dứt những hành vi sách nhiễu bất hợp pháp của một số cá nhân, tổ chức đối với BVĐVĐ và các thành viên BVĐVĐ. BVĐVĐ tuyệt đối tin tưởng rằng lý tưởng và những việc làm đúng đắn của mình luôn được sự ủng hộ và hưởng ứng của đông đảo người viết văn và bạn đọc trong, ngoài nước.

Ngày 12/6/2014

Thay mặt Ban Vận động Văn đoàn Độc lập Việt Nam
Nguyên Ngọc

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TỄU - BLOG: TIN MỚI NHẬN: TÒA PHÚC THẨM ĐÃ LÉN LÚT XỬ KÍN NHÀ ...

TỄU - BLOG: TIN MỚI NHẬN: TÒA PHÚC THẨM ĐÃ LÉN LÚT XỬ KÍN NHÀ ...: Tin mới nhất về nhà văn Phạm Viết Đào: Tòa Phúc thẩm đã lén lút xử kín nhà văn Phạm Viết Đào Hôm thứ Hai đầu tuần (9/6/2014) Tòa ... Phần nhận xét hiển thị trên trang

Gọi là nghi binh hay dương đông kích tây thì đúng hơn "Con giả vờ". Nó sẽ làm thật,tàn độc nữa đấy, hãy cảnh giác với "con giả vờ" này các pác nhá!

Báo Đại Đoàn Kết:

“Cầm tinh con giả vờ” (12/06/2014)
Chỉ trong vòng 1 tháng, Trung Quốc 3 lần di dời giàn khoan Hải Dương 981 so với vị trí hạ đặt ban đầu, trong vùng biển Hoàng Sa của Việt Nam. Vì sao lại như vậy?

Giới quan sát cho rằng, Trung Quốc vẫn đang tiếp tục lừa dối thiên hạ, mỗi lần di chuyển như thể "báo cáo” với cộng đồng quốc tế rằng họ đang rút dần giàn khoan về vùng biển nước họ. Có nghĩa là họ "xuống thang”, vì không muốn Biển Đông nổi sóng. Lại cũng có người cho rằng, Trung Quốc rút giàn khoan đi khoan chỗ khác vì hai vị trí trước không có dầu. Cũng lại có người tính toán "hộ” Trung Quốc rằng, mùa bão đang sầm sập tới gần, để bảo đảm an toàn cho giàn khoan họ rút dần về nơi an toàn.

Nhưng, vải thưa khó che được mắt Thánh. Đó chỉ là những động thái trấn an dư luận, do họ đã và đang bị thế giới cô lập vì hành động "nuốt biển”, chiếm biển” của họ. Không dễ gì nhà cầm quyền Trung Quốc thôi đi giấc mộng bá quyền. Không đơn giản họ rút về khi mà đã điều động hàng trăm tàu các loại, trong đó có cả tàu chiến, tàu húc” theo kiểu lắp lưỡi phá băng, cả tàu trang bị tên lửa, pháo hạng nặng. Có nghĩa là họ quyết khiêu khích, gây hấn, đã chà đạp lên lẽ phải, đã nhẫn tâm tấn công cả tàu ngư dân Việt Nam- thì họ không dễ gì rút lui.

Việc trong vòng 1 tháng di dời 3 lần vị trí giàn khoan càng cho thấy họ đang cố tình đánh lạc hướng dư luận. Họ cố tình làm cho thế giới chú ý đến giàn khoan Hải Dương 981 mà mất cảnh giác với những hành động khác lớn hơn nhiều: đó là lẳng lặng cùng cố cái gọi là "Thành phố Tam Sa”, trong đó có cả việc xây dựng căn cứ quân sự trên đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Dám mang vải thưa ra che mắt Thánh, động thái "cầm tinh con giả vờ” của phía Trung Quốc không lòe bịp được ai, vì qua hàng loạt sự dối trá của Trung Quốc, thế giới đã nhận ra rằng: Phải cảnh giác!

NGƯỜI QUAN SÁT

Phần nhận xét hiển thị trên trang

KHÔNG GÌ LÀ MÃI MÃI.. ( Tiếp theo của Tr.ng của NGỐ )

Đúng là không có gì tồn tại mãi mãi..
 Sau lúc chồng cũ của Tân về, hắn, chồng mới của cô dậy. Thực ra hắn đâu có ngủ, như người ta nói nhắm mắt bỏ đấy, làm lơ như không biết mà thôi. Chả hay ho gì hai thằng địch thù gằm gằm như muốn ăn thịt nhau mà lại không thể làm gì được.
Có nhiều thứ để kìm hãm của cả hai bên.
Tương quan lực lượng đã đành còn miệng tiếng thiên hạ. Chỉ một xung đột nhỏ có thể làm đề tài cho miệng lưỡi cả vùng bàn tán thêm bớt không biết điểm dừng.. Thôi thì chả hay gì chọc cái thối lên mà ngửi.. Thằng chồng mới là hắn nghĩ vậy.
Hắn ra bàn uống trà, nhìn vu vơ ra bên ngoài. Cả khu chợ vẫn yên ắng. Thì vẫn. Chợ chiều lấy gì mà vui?
Đúng là vật đổi sao dời. Ngót ba mươi năm trước chả ai nghĩ rằng ở chỗ này lại thành cái chợ đông đúc, nuôi sống hàng trăm con người. Bán đủ thứ như mọi cái chợ ở bất cứ khu thị trấn thị tứ nào.
Nó vốn là bãi đất bằng, nhỏ hẹp nằm bên dưới rừng cây lát. Khu vườn giống đặc biệt của lâm trường.
Hồi đó chỉ cần người nào đấy chặt một cành, làm đứt một cái rễ cây của khu rừng nhỏ xen giữa khu dân cư này đều có thể bị bắt ngay lập tức.
Thời đó chưa có lệ phạt vi cảnh bằng tiền mặt như bây giờ. Nhất nhất mọi việc, nhẹ thì đưa ra ủy ban xã, nặng thì đưa về công an huyện.
Chỉ nghĩ đến thế thôi ai nấy cũng e sợ, chẳng dám đụng đến một cây lát nào. Khu rừng cây lại gần bờ sông, chim chóc đủ loại dễ kiếm mồi nên về làm tổ rất đông. Ngay cả việc trèo bắt tổ chim cũng chẳng ai dám.
Chỉ có hắn, đương vị cán bộ nhà nước là thỉnh thoảng leo lên những ngọn cây này bắt chim non.
Hồi ấy hắn làm cán bộ của kho lương thực. Một khu kho có từ thời sơ tán phòng không tránh máy bay. Sau hòa bình người ta không chuyển về tỉnh, xây dựng mới thêm làm nơi thu mua, bán lương thực theo tiêu chuẩn cho người ăn lương nhà nước.
Đường xá chưa có, nhưng có con sông kế bên nên việc vận chuyển lên xuống bằng thuyền khá thuận lợi.
Đã làm chân thủ kho rồi mà tật leo trèo bắt chim của hắn không bỏ được. Một phần cũng bởi chỗ này khá hẻo lánh và buồn, có muốn cũng chả biết chơi đâu. Ti vi, đài đóm không sẵn như bây giờ. Cả khu kho có mỗi cái bán dẫn “Ông đi lung tung” cứ được vài hôm lại hỏng, chán chả muốn sửa.
Một hôm trèo bắt đàn ong mới về đậu trên bọng cây, hắn xảy chân bị ngã, bong gân. Chỗ cổ chân sưng vù lên đi không nổi. Có người mách cho hắn là ở dưới Soi Đủ có người chữa bồng gân, gãy xương hay lắm.  Hắn chân đau không đi được, đành phải nhờ người. Người này đi đến gần trưa về cùng một người nữa. Chính là tay chồng cũ vừa rồi. Hai người làm quen, thân nhau từ độ ấy.

Chồng cũ cũng không phải người thường.
Ngoài cái nghề lấy lá cây chữa gãy xương, anh ta còn làm chân phó chủ nhiệm nữa. Đang cuối thời bao cấp, chủ nhiệm HTX nông nghiệp không còn kiếm được như xưa, nhưng so với xung quanh, gã còn hơn chán vạn người.
Điều này thì cán bộ thủ kho như hắn quá biết. Phàm là đi bất cứ làng nào xã nào, vào những nhà to lợp ngói, trong nhà có tủ chè, có xe có đài.. không chủ nhiệm cũng chủ tịch. Chẳng có ai ngạc nhiên về điều ấy cả.
Thì cán bộ có điều kiện ăn ở sinh hoạt tốt mới có điều kiện phục vụ nhân dân, phục vụ xã hội được tốt. Không ai phàn nàn, mà có phàn nàn chỉ ì xèo đâu đấy, cán bộ như hắn làm sao nghe thấy? Mà hắn chả quan tâm mấy cái chuyện đó làm gì.
Cùng cảnh cán bộ với nhau, tuy điều kiện mỗi người một khác, nhưng đều là những “nhân” quan trọng trong vùng. Thắm thiết giữa họ với nhau còn hơn anh em ruột.
Cứ chiều chiều dân làng lại thấy mấy anh kho lương thực xuống Soi Đủ. Họ ở đó chuyện trò rôm rả, đèn măng sông sáng tới khuya.
Tất nhiên không chỉ nói chuyện suông. Không gà thì cá, hoặc con cầy. Vui hết biết. Vợ chủ nhà hơi khô chân nhưng không gân mặt như bây giờ. Chị ta vào loại đẹp gái trong vùng lúc bấy giờ. Gã lương thực có khi quá chén, bông đùa hơi quá chủ nhà cũng không chấp. Cả hai vẫn mặn mà chơi.
Nhưng sự đời không có gì mãi mãi đã làm cho tình bạn đôi bên thay đổi.
Xóa bỏ bao cấp là niềm vui cuộc sống với nhiều người thì với hai “nhân” này lại là tai họa.

Không còn HTX nữa chồng cũ trở nên thất nghiệp. Gã buồn, lấy rượu làm vui rồi nát rượu.
Cán bộ lương thực như hắn cũng không gặp may. Khu kho giải thể theo cơ chế thị trường. Người ta san ủi nơi này làm chợ sát khu rừng lát giống của lâm trường. Hắn khăn gói về quê.

Bẵng đi thời gian, hắn mới quay trở lại. Cái chợ sơ sài năm nào giờ đã thành chốn đông vui. Hắn nảy ra ý định mở một tiệm hớt tóc. Cũng may cái nghề mọn này lúc ấy chưa có mấy cô chân dài cạnh tranh như bây giờ, vẫn còn kiếm được.

Bạn cũ dưới Soi Đủ cũng đã đổi nghề. Hai vợ chồng anh ta sắm cái thuyền máy chạy đò dọc. Từ sáng sớm hai vợ chồng đón khách từ đây xuôi về tỉnh, đến tối mới về. Vợ chồng chân giày chân dép, tay đeo nhẫn vàng to xù ra dáng người ngoài tỉnh chứ không giống người ở đây. Cái khoảng cách giàu nghèo được dựng lên. Thi thoảng có gặp nhau, chồng cũ, chồng mới bây giờ khi đó chỉ chào hỏi qua loa, không thắm thiết được như trước nữa.
Chợ được mở rộng dần, rừng lát cũng mất dần cây. Không có gì mãi mãi một cách tự nhiên, không ai để ý.
Một phần bởi xã hội ba đào. Nghe đâu bức tường Bẹc Lin sụp đổ. Không còn anh cả Liên Xô thành trì của hòa bình thế giới. Bột mì viện trợ khan hiếm rồi biến mất dần. Phía bắc biên giới cực kỳ căng thẳng. Chiến tranh dù to, dù nhỏ đều là ngọn lửa thiêu đốt, hủy diệt, cuộc sống trở nên khó khăn. Đám rừng lát cũng không còn được quan tâm như trước, vì thế cứ mất dần. Giá bây giờ có ai nhắc đến nó, những người chưa biết hẳn sẽ ngạc nhiên. Không ai tin được một cái chợ đông đúc lại chính là nơi có cái vườn lát xanh um của năm nào..
Chiến tranh thời bấy giờ kiểu như cuộc chiến quy ước, chỉ giằng co nơi biên ải. Chỉ có tin tức và tiếng súng vọng về, mãi cũng thành quen..
Phải nói dân Việt ta khả năng thích nghi với mọi hoàn cảnh vào bậc nhất thế giới. Kể cả thích nghi với mọi loại chiến tranh, trên bộ, trên không cũng”nâu” vấn đề. Có nhẽ bọn đế quốc và mọi thế lực thù địch đều ghê dân ta ở điểm này!

Suốt mười năm ì ùng nơi biên ải, cuộc sống các nơi khác vẫn diễn ra bình thường như không. Vẫn cấy hái, lấy vợ làm nhà như không có gì xảy ra. Nếu đời sống không thiếu thốn khó khăn người ta gần như ít nghĩ cuộc chiến ấy đang tồn tại, nó chưa xảy ra, hoặc đã chấm dứt rồi..

Hắn vẫn ngày ngày cắt tóc, cạo râu, lấy dáy tai như không có chuyện gì.
Mà chuyện gì có mở đầu đều có kết thúc. Chỉ có điều dài hay ngắn, tốt hay xấu, lợi hay hại mà thôi.
Hắn cứ sống như thế, bảo là ba vạ cũng được, vô lo cũng được. Không còn vị trí, nghề nghiệp thì sự lựa chọn này hợp lý hơn cả. Hắn dự định gom góp chút tiền, làm cái nhà nho nhỏ, đón vợ con lên, thì đùng một cái, xảy ra một việc.
Đúng là không có gì mãi mãi..

Lúc này hắn ngồi nghĩ lại mọi chuyện như nó vừa xảy ra. Hồi đó hắn đâu có nghĩ có ngày mình lại ăn ở như vợ chồng với người bạn thân như bây giờ? Có đầu óc tưởng tượng giàu đến mấy cũng không thể nghĩ ra chuyện đó.
Không ai tin một gia đình vào hàng sung túc lúc bấy giờ lại có ngày tan vỡ. Cũng không thể hình dung được ông cựu chủ nhiệm, từng là “dũng sĩ diệt xe cơ giới”, võ nghệ đầy mình lại có ngày chở theo chậu quần áo đằng sau pốc ba ga xe đạp như bây giờ..
Tất cả như biến mất, như khu rừng lát ngày xưa, như chưa từng tồn tại, chỉ vì những duyên cớ hết sức vớ vẩn!

***


( Còn nữa..)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Rồi cũng quen!



Cái lày anh quen mờ, có gì sợ chứ, đừng nhát ma nhá, các tồng chí bất đắc dĩ!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nước cờ hiểm của Trung Quốc trên biển Đông !

Lê Thanh Phong

Giàn khoan Hải Dương 981 như cục nam châm khổng lồ hút hết mọi sự chú ý của dư luận trong nước và quốc tế từ đầu tháng năm cho đến nay. Nhiều nhà phân tích vò đầu tìm kiếm lời giải cho câu hỏi Trung Quốc đang có ý đồ gì đây?


Đã có nhiều lời giải và đáp số chung nhất là Trung Quốc đang thực hiện từng bước trong chiến lược độc chiếm biển Đông. Giàn khoan Hải Dương 981 là phép thử để đo lường phản ứng của Việt Nam và dư luận quốc tế.

Cũng có ý kiến phân tích Trung Quốc phạm sai lầm và sa lầy khi đưa giàn khoan Hải Dương 981 đến hạ đặt trên vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam. Những gì diễn ra trên các diễn đàn ngoại giao và truyền thông quốc tế hiện nay cho thấy nhận định này không sai. 
 
Nhưng chuyện cái giàn khoan không đơn giản như là phép thử hay đi kiếm dầu, mà là một kế sách rất thâm độc của Trung Quốc. Đã có vài ý kiến tỉnh táo, đề nghị cảnh giác Trung Quốc dùng kế “dương đông kích tây” trong vụ này. Trung Quốc đã triển khai xây dựng các căn cứ quân sự trên bãi đá ngầm Gạc Ma và Chữ Thập thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam mà Trung Quốc đã chiếm năm 1988. Trong khi cái giàn khoan to đùng đương tự đắc thu hút mọi sự quan sát thì họ ráo riết hoàn thành các công trình như sân bay, cảng biển ngay trên các đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam.
 
Giữa cái giàn khoan trôi nổi trên biển với các công trình quân sự được xây dựng kiên cố và cố định trên đảo, cái nào nguy hiểm hơn thì ai cũng biết. 
 
Để kiểm soát và đi đến độc chiếm biển Đông, Trung Quốc cần chuẩn bị các căn cứ quân sự chiến lược trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Căn cứ trên đảo Phú Lâm tại Hoàng Sa cùng với các căn cứ khác tại hai bãi đá Gạc Ma, Chữ Thập của Trường Sa là mối đe dọa lớn không chỉ với Việt Nam. Và sau đó Trung Quốc còn làm những gì nữa thì chưa ai lường được. Đến khi đó thì tình hình sẽ rất phức tạp và Việt Nam phải đối diện với những mối hiểm nguy không thể lường hết được.
 
Giàn khoan Hải Dương 981 chỉ đóng vai trò con tốt đã sang sông làm nhiệm vụ nghi binh với chút ít đe dọa, còn những căn cứ quân sự trên Gạc Ma, Chữ Thập mới là con pháo, con xe đang giữ đúng các vị trí trọng yếu có sức kiểm soát toàn bộ bàn cờ.
 
Cần phải có đối sách đúng đắn, kịp thời và dứt khoát trước nước cờ trên biển Đông của Trung Quốc. Trước mắt, những hoạt động của giàn khoan Hải Dương 981 và việc xây dựng trên đảo Gạc Ma, Chữ Thập là vi phạm pháp luật quốc tế một cách trắng trợn, cho nên cần phải kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế.
 
Người Việt Nam thông minh cơ trí trong chống giặc ngoại xâm. Đây chính là lúc huy động tối đa sức lực, trí lực của toàn dân. Chần chừ hoặc đi sai nước là đại họa.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Tư, 11 tháng 6, 2014

KHÔNG GÌ LÃI BẰNG!

Buôn vua

 Truyện ngắn củaThái Doãn Hiểu


Sau này, mỗi lần đi qua quán Trung Tân của Trạng, tôi lại lặng lẽ mỉm cười trước cái bả lợi danh mà người đời thời nào cũng ham hố. Xưa, Lã Bất Vi từng rấm hạt giống của mình để buôn một ông vua và thừa tướng họ Lã đã chết bất đắc kỳ tử vì ông vua con do mình lai ghép đó.
Trong các hàng hóa bán mua ở trên chính trường, có lẽ món béo bở có lãi thượng thặng  là món kinh doanh quyền lực. Món này dễ mất đầu như bỡn nhưng không ai ngán mà từ bỏ nó cả. (TDH)
Những ngày còn dạy học trên quê hương Trạng Trình, chiều chiều tôi (Thái Doãn Hiểu) thường thơ thẩn một mình dạo chơi ngắm cảnh mặt trời tà đỏ ối trên sông Tuyết mà chạnh nhớ đến Phu Tử người hiền.
Có lần đi qua nền cũ quán Trung Tân, tôi bật cười vì một sấm ngôn do một bà tuổi sồn sồn bất chợt xướng lên oang oang cho một bà bạn đi chợ hôm về cùng nghe:
Bao giờ ngựa đá sang sông
Thì dân Vĩnh Lại quận công suốt làng!
Ngựa đá thì làm sao lội qua sông được nhỉ ? Lỳ khôi quá ! Vĩnh Lại là làng của Trạng Trình  rồi, nhưng ai làm quận công mà nhiều rứa ? Cả một làng quận công chứ chẳng chơi ở một xó làng quê nghèo kiết, hiền khô ở mé bể xa tít kinh kỳ này ! Ái chà ! Làng Cổ Am xưa kia đã từng  hiển hách xài sang đến nhiều thế ư cái danh tước hiếm hoi thông thường cả nước may lắm chỉ có độ vài ông.
Tôi đem chuyện này ra hỏi anh Nguyễn Văn Khoảng – hậu duệ xa đời của Trạng. Nhiều sấm ký của Tổ, anh Khoảng rất rành nhưng chuyện này thì ông chánh văn phòng trường cấp III Vĩnh Bảo nghểnh ngãng bảo là không hay. Tôi lại đem hỏi một vài vị cao niên, họ cũng lắc đầu không biết nốt, Và rồi sự tích ngựa nghẽo, quận công đầy quyến rũ trong tâm trí tôi cứ chìm dần vào lãng quên giữa công việc dạy dỗ với chuyện áo cơm ì xèo thường nhật.
Bẵng đi lâu lắm, một dịp tình cờ tôi sang Ninh Giang chấm thi, gặp ở bến đò Chanh một bô lão đầu quấn thủ rìu, quần nâu áo chằng nhưng có cặp mắt tinh lạ không phải mắt người thường, làm nghề chở đò trên sông giải mã cho nghe câu sấm ấy. Ông lão ngoắt cây sào dài khua vào be lộp cộp, đẩy con thuyền nát bơi ngược dòng, ngoặt cái mũi thuyền đã quay sang ngang.

Lão kể:
Khi hồi hương ẩn cư lập ra quán Trung Tân, Phu Tử có sai gia nhân tạc một con ngựa đá đặt ở xế của quán ven bờ sông Tuyết. Con ngựa đá tầm thước sống động nhong nhong tưởng nôn nóng muốn tế vó nhưng nó sợ tấm bia đá đứng cạnh với hàng chữ Nho khắc rất bay bướm như đùa nên bồn chồn đứng yên, bức bối “Hà thời thạch mã độ giang – Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu”. Ngựa đá và bia đá sấm tạc từ năm 1557, trở thành kỳ quan của làng thu hút không biết bao nhiêu kẻ hiếu kỳ tứ phương. Tấm bia và ngựa đá kiên gan đứng đó tắm mưa nắng, gội thời gian như một câu đố bí hiểm sừng sững  suốt hơn hai thế kỷ. Những đầu óc thông thái thời kỳ ấy đoán già đoán non mò không ra lời đáp.
Tới năm 1777, trời làm một cơn đại hồng thủy, đê vỡ, nước ngập lai láng, ngựa và bia đá biến đâu  mất tăm. Dân làng cũng chẳng còn hơi sức đâu để ý đến nó. Họ lo hàn đê, dựng lại nhà cửa, tổ chức lại cuộc sống sau cơn thủy tai. Ba năm sau, một gã nông phu đi thả ống trúm bắt lươn moi được con ngựa đá vùi trong bùn cát bên hữu ngạn Tuyết giang. Đó chính là con ngựa đá của Trạng bị dòng xoáy lũ ném từ tả ngạn quán Trung Tân sang đây.
Chắc có điềm trời báo mộng chi đó, dân làng sợ động đến oai trời nên lập miếu thờ, dựng ngựa đá dậy ngay chỗ huyệt ngựa vừa đào được.
Cái năm “Ngựa đá sang sông” cũng là năm đất nước khốn khổ này xảy ra nhiều thác loạn. Tại Kinh kỳ, ông chúa Trịnh Sâm vì mê đắm bà Chúa Chè Tuyên phi Đặng Thị Huệ, mà bỏ trưởng Trịnh Tông lập thứ đưa đứa con nít ba tuổi đầy sài đẹn con ả (Trịnh Cán) lên ngai làm bọn lính Tam phủ nổi giận. Sâm vừa băng hà là chúng làm binh biến giết Cán, giết luôn cả quận Huy Hoàng Đình Bảo phò Khải lên giá ngay. Cậy công cậy quyền, bọn kiêu binh lộng hành làm đủ trò ngược ngạo. Chúng tỉa dần bọn cận thần tay chân của Khải, con khinh Khải không khác gì đứa nặc nô.
Lúc ấy, ở Đàng Trong, thanh thế Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lẫy lừng sét vang sấm nổ. Chỉ sau mấy trận giao tranh, Nguyễn Huệ diệt tan Chúa Nguyễn. Thừa thắng quân Tây Sơn có Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn đường rầm rộ kéo binh mã ra bắc quét sạch Chúa Trịnh cùng đám kiêu binh bọt bèo làm cho ông vua trẻ Lê Chiêu Thống chạy bạt vía. Quân Tây Sơn thu đất nước về một cõi.
Ông Huệ bấy giờ trong mắt dân chúng, sĩ phu và nhất là cựu thần nhà Lê ở Bắc Hà chỉ là một gã bạch đinh áo vải ấp Tây Sơn, nhờ thời thế ngả nghiêng, chỉ chưa đầy năm đã đạp đổ một vua hai chúa, lên ngôi chúa tể hùng cứ  sơn hà nên vừa sợ, vừa phục, lại vừa khinh. Họ nổi lên như ong như kiến khắp nơi để phù Lê.
Nghe tin tướng Hoàng Phùng Cơ dấy binh ở Sơn Tây, Chiêu Thống lẻn theo họ Hoàng. Vua vừa tới nơi thì Cơ đã bị thượng tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm giết, quân doanh tan hoang. Hoảng hồn, vua khóc như bò con lạc mẹ, trốn chạy về cửa sông Luộc, mong được nương tựa quận công Đinh Tích Nhưỡng. Nửa đêm tới Sơn Nam có tin dữ: ngài Đinh tướng quân, dòng dõi Đinh Văn Tả  tập ấm 18 đời quận công này đã bị đô đốc Ngô Văn Sở đánh tan, phải cuốn cờ  bươn xuống Hải Đông (Hải Dương), Chiêu Thống lại đổi hướng lần mò về phía ấy. Khi sang đò bến Đầm, đức vua bị bọn lái đò họ Trần lột hết cả long bào lẫn bọc hành trang cùng vàng  ngọc quý giá, tống cho một đạp lộn cổ xuống sông, xong chèo đò cút thẳng. May có cận thần Lê Quýnh lén dấu được quả ấn “Truyền quốc bảo”, đang khi chộn rộn nhảy ào xuống sông trốn thoát. Vớt được ngài ngự lên, ông chú họ của đức vua lấy lời yên ủi, dặn dò “Tâu bệ hạ, thế giặc giờ đang cường như con nước lớn. Chúng là hùm beo lang sói. Muốn khôi phục lại giang sơn, bệ hạ không thể cậy trông vào lũ mạt dân Bắc Hà được. Quân tướng triều đình giờ chỉ còn là một đám ô hợp khốn nạn, bám vào chúng chết chìm cả lũ.  Muốn trục được giặc dữ ra khỏi xứ, hạ thần phải lặn lội sang Tàu một chuyến mới xong”.
Lê Chiêu Thống ngoi ngóp trong bụi dứa gai ướt lướt thướt mừng rơn, mếu máo “Phải ! Phải ! Hoàng thúc hãy nên vì sự nghiệp nhà Lê ta mau mau bôn tẩu sang Thanh triều cứu cấp, trẫm sẽ lưu lại trong nước hô hào dân chúng lập một đội nghĩa cử cần vương làm hậu thuẫn cho quan quân Thiên triều”. Lê Quýnh cung kính trả quả ấn vàng cho vua  “Đúng quá ! Hay lắm ! Thần cũng nghĩ vậy. Muốn chính danh phải có quả ấn vàng này trong tay. Bệ hạ nên giữ vật báu cẩn thận để hiệu triệu đắc lực và phong thưởng cho những ai tận trung báo quốc”. Vua ngượng ngùng lận quả ấn vào lưng cải trang giả làm thường dân. Vua tôi sụt sùi chia tay, kẻ ngược lên mạn bắc, người lần mò xuôi về phương nam.
Mờ sáng hôm sau, Lê Chiêu Thống vừa từ một tòa miếu đổ nát nơi ngài nghỉ qua đêm bước ra thì thình lình đã nghe thậm thịch những bước chân người chạy sấn sổ đến trước mặt, hò hét chỉ trỏ om sòm “A ha, đây rồi, anh em ơi, tìm mãi đức vua đây rồi!”. Đầu óc Chiêu Thống nổ đôm đốp, môi  líu ríu chối “Bậy nào ! Vua… Ai vua?! Các bác chớ nói nhảm mà mang tội cả lũ chứ chả chơi đâu !”. Một bọn chục người hò nhau xông vào cõng vua băng xuống thuyền, mặc cho đức ngài khiếp hãi gân cổ lên hết sức cãi. Định thần lại, trời ! Vua nhận ra cái chính bọn cướp ngày hôm qua đã trấn lột mình, tống mình xuống thăm hà bá đây mà.

Thì ra, sau khi khoắng được một mẻ bẫm, chủ thuyền Trần Sinh cho thủ hạ mời Trần Thành – cha hắn đang đỗ thuyền gần đó tới.  Nghe thủng chuyện, lão Trần Thành như kẻ động kinh, trợn tròn mắt, giẫm chân đấm ngực thùm thụp, thét “Cả một lũ chó lợn, ăn phải giống gì ngu độn thế. Tụi bay đã bỏ lỡ một cơ hội nghìn đời có một!”. Bọn thuyền chài quần quày áo cụt nghe chửi mặt thộn cán tàn. Lão Trần tức tối ném phịch cái áo long bào ra trước bấy nhiêu khuôn mặt ngơ ngác, gắt như mắm ruốc “Cướp lấy cái vật gở này làm chi hở trời, lợi lộc gì cho cam ! Bán không ai dám mua, cho không ma nào dám lấy, giữ thì có phải mình mày bị chém bay đầu thôi đâu mà có khi cả tam tộc mồ tổ nhà mày sẽ làm quỷ không đầu”. Bọn thuyền chài thấm sợ, co mình lại trước câu đe rùng rợn.
Vợ Trần Sinh láu táu chen vô “ Hay là bố mày vứt mẹ nó xuống sông ngay đi, rước chi của nợ này trong nhà để chuốc họa vào thân ?” Lão già được thể vểnh râu, quắc mắt “Làm thế mà chạy tội được à?”. “Biết xoay xở làm sao hở trời” – Trần Sinh thở dài than. Chờ cho những lời bàn tán lắng xuống, buông một tràng cười tinh quái, lão Trần vuốt râu tủm tỉm “Xưa nay, chúng  mày chỉ biết chài chài lưới lưới, thả câu bắt cá đem ra chợ đổi gạo. Nay, chúng bay có dám cả gan đi buôn không nào ?” “Buôn gì cơ ?” – “Buôn một ông vua !”. Chúng trố mắt kinh dị. Lão ra lệnh “Chúng bay hãy chia nhau sục tìm cho ra cái ông vua mất ngai mà chúng bay đã lột trần như nhộng ấy đem về đây hết lòng phụng dưỡng rồi phò tá ông ta đến chỗ ông ta muốn đi. Khi sóng yên bể lặng, chúng bay tha hồ mà lãnh ơn đền nghĩa đáp, thỏa sức hưởng phú quý vinh hoa. Tao đồ rằng chủ nhân của chiếc áo này phải là thiên đế chân mệnh đâu phải tay tẹp nhẹp, chẳng qua gặp bước lưu ly, khuất khúc nhất thời đó thôi !”. Thật là qủy kế, lão già quả đa mưu túc trí. Bọn chúng hí hửng, đang đêm đỏ đuốc táo tác chia nhau túa ra lùng sục khắp bãi bờ tầm ông vua.
Tìm được Lê Chiêu Thống, chúng dong thuyền áp thẳng về làng Vĩnh Lại, cung kính rước vua lên từ đường thờ tổ, mật báo cho cả họ đến lạy mừng sì sụp. Lê Chiêu Thống mừng sợ ngổn ngang. Ngay trước thiên nhan, cả họ bàn  kế sách ứng phó. Chúng bàn: “Đinh Tích Nhưỡng đang đóng đại bản doanh ở Kim Thành cách xa ta không bao lăm, chỉ độ vài ba chục dặm đường. Nếu ta đưa đức vua về đó, bao nhiêu công lênh họ Đinh phỗng trọn, còn nước mẹ gì cho bọn đánh cá họ Trần ta nữa !”. Một tôn ông ra dáng kên kên bàn góp “Ai bảo đánh cá là nghề hèn mọn ? Gã Trần Lý (Trần Thủ Độ) xưa kia chẳng hành nghề chài lưới đấy sao? Hắn ta chạy kiếm ăn lần hồi từ Yên Sinh (Đông Triều) đến vùng nước Hiển Khánh, Tức Mặc ven sông Hồng (Hà Nam), qua Bát Xá, Nông (cạnh sông Luộc). Phúc bảy mươi đời nhà gã có đứa con gái nhan sắc Trần Thị Dung gả cho hoàng thái tử Sảm (sau này là Lý Huệ Tông) mà cả họ vớ bở, nhất loạt được phong hầu. Về sau gã ma mãnh tiếm luôn ngai vua họ Lý, khuynh loát bá chủ thiên hạ. Nay, họ Trần chúng ta cũng chẳng thiếu gì tay kiệt hiệt như Trần Thủ Độ. Vận trời đã đổi dun dủi trao đấng quân vương này vào tay bọn ta, lẽ nào bọn ta lại không bắt chước Trần Thủ Độ dốc toàn toàn tâm toàn lực phò vua giúp nước, dại chi cờ đến tay không phất lại đem vào tay cho họ Đinh hưởng ? Mà cái ông tổ họ Đinh tên Văn Tả kia xưa cũng chỉ là một gã khố dây cù bất cù bơ kiến ăn quẩn ven hồ Tây, may nhờ kéo hộ chiếc thuyền rồng vua đi du xuân mắc cạn  được vênh vang võng lọng chứ có hiển hách cái quái gì !”. Nói đoạn, đám họ Trần xếp hàng nhí nhố trước mặt rồng, sụp mọp xuống lạy năm lạy thề sống thề chết phò vua dẹp giặc đền ơn nước.
Trong khi quỳ lạy, một gã chợt trông thấy kim ấn thòi ra ở thắt lưng gần rốn thiên tử. Ông trưởng họ Trần ra dáng khúm núm trịnh trọng xin đức vua trước hãy giáng chiếu phong tước cho mình đã. Có phẩm trật cao sang rồi thì mới mưu bá đồ vương lo chuyện đại sự được, chứ không có cái khoản này thì nói ai người thèm nghe theo ?
Như ngồi trên lưng cọp, hoàng thượng rầu rầu len lét đem các chức “lãnh binh”, “đô đốc” ra biếu tặng. “Lãnh binh”, “đô đốc” là cái thá gì, phải “quận công” cơ, “quận công” mới vẻ vang, mới oai ?”. Chúng  huơ chân múa tay nhất loạt bức bách vua. Cá đã nằm trên trốc thớt, phật ý chúng là bỏ bu, vả đã đến nước này thì “quận công”, “đô đốc”, “tể tướng” hay “thái sư” cũng thế cả thôi, bất quá chỉ tốn công in phẹt cái ấn quẹt son lên tờ giấy bản bọn họ đã thảo sẵn, chứ có mất mát gì. Vị hoàng đế trẻ chậc lưỡi, nuốt vội tiếng thở dài đắng họng, dụ “Phẩm hàm sắc phong là vật báu của triều đình xưa nay chỉ dành ân thưởng cho kẻ có công với nước. Nay, không nỡ phụ lòng trung trinh chí cốt và công cứu mạng quả nhân trong cơn hoạn nạn, trẫm bằng lòng ban thưởng cho các khanh. Nhưng khi được hưởng lộc nước rồi, các khanh phải gắng lập công chớ phụ lòng trông cậy của trẫm”. Roẹt một cái, năm bảy tờ giấy bản đã được vua tự tay áp triệt quốc bảo đỏ lòm. Mấy vị tôn trưởng họ Trần từ phận khố rách áo tải nhảy phốc một cái lên hàng nhất phẩm triều đình.
Thấy thang công danh mấy vị tôn huynh leo dễ ợt, mấy bác nhàng nhàng trong họ đâm ghen, kỳ kèo đòi vua ban cho mình những tước hiệu cao quý hệt như thế. Chiều Thống thành phải ngậm bồ hòn làm ngọt, lại phải nai lưng ra đóng luôn cho mấy “đạo sắc” nữa.
Tin tức nhanh chóng lan truyền khắp họ. Bọn trai đinh họ Trần thấy cha chú mần ăn ngon ơ, chẳng tốn mấy tí nước bọt  mà kiếm chác được sộp, liền lục tục kéo đến. Chúng quay ra công khích phỉ báng các tôn huynh ích kỷ chỉ biết vun quén cho riêng mình quên béng cả con em. Các tôn huynh ngồi thin thít ngậm tăm. Chúng nhâu nhâu bâu lấy đức vua, đứa lôi trước, thằng giật sau đòi thiên tử thấm nhuần ơn  đã mưa  thì phải tưới cho khắp.

Trót phải trét, Chiêu Thống đành run rẩy mở hầu bao lôi kim ấn ra in la in liệt cho mỗi đứa một đạo sắc “quận công”. Chỉ tước “quận công” thôi, chúng không ưng những thứ khác.
Mặt trời đội bể nhô lên. Công việc in ấn mới hoàn tất. Hoàng đế mệt phờ, mồ hôi ướt sũng lưng. Ngài gượng cười.. Hơn một trăm “quận công” nữa đã sản xuất xong.
Cái làng vạn chài Vĩnh Lại bé xíu, nghèo kiết với những ngư phủ chân đất đầu trần, chữ “nhất” cắn đôi tịt mít, qua một đêm bỗng trở thành “quận công” hết thảy ! Tuyết Giang Phu Tử thánh thật !
Hay tin, hai ông tướng họ Bùi họ Đinh cười gằn nhổ toẹt xuống cái lò quận công láo nháo rơm rác này. Các bác công khanh họ trần nhà ta đành phải đơn thương độc mã cứu nước ! Lê Chiêu Thống chọn đúng lúc sơ hở vuột khỏi tay các vị quý tộc cấp tiến gốc vạn chài, trốn thoát.
Nửa tháng sau, trong  một trận tử chiến ác liệt với quân Tây Sơn trên cánh đồng phía tả sông Luộc, tất cả các vị nhất phẩm của triều đình đó đã bị lưỡi gươm dũng mãnh nhà nghề của thượng tướng Vũ Văn Nhậm khuơ ráo không sót một mống.
Câu chuyện lão lái đò kể chỉ có thế. Cái lối kể mới khúc chiết, hoành tráng và thông thái làm sao. Dân vùng này từ già chí trẻ ai cũng yêu lão, trìu mến gọi lão là Nam Thông. Thế gian quả thực không hiếm người tài ẩn danh. Mười tám năm qua rồi, tôi vẫn nhớ như in cặp mắt trong suốt lem lém như mắt mèo hoang, cùng giọng kể chuyện rỉ rả tan ra trong tiếng mái chèo rơi lõm đõm. Không biết con sông Luộc xanh biếc ấy chảy về đâu ?
___

Phần nhận xét hiển thị trên trang