Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2014

Không biết thì không trách, biết mà cố ý sai lạc cần phải xem lại:

Việt Nam " thuộc Trung Quốc" bao giờ?

Hoàng Tuấn Phổ
Ảnh bên:Quỷ môn quan (Chi Lăng) với giặc Tàu xâm lược-“Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn”
Báo Pháp luật Việt Nam số ra ngày 24-5-2014 đưa tin: Hãng thông tấn RIA Novosti ngày 19-5-2014 đăng bài của ông Dmitry Kosirev, một nhà bình luận về chính trị của Nga viết: “Việt Nam là vùng đất thuộc Trung Quốc từ cách đây 2.000 năm”, và nhiều điều bịa đặt, xuyên tạc chung quanh vụ Trung Quốc hạ đặt giàn khoan vào vùng biển Việt Nam, khiến dư luận Việt Nam phẫn nộ!
Chúng ta dễ hiểu ông Dmitry Kosirev chỉ là một nhà bình luận về chính trị mà chính trị lại không phải sử học, nhưng ông đã tỏ ra thông thái hạ đặt một câu hoàn toàn sai lầm như Trung Quốc hạ đặt giàn khoan tại vùng biển Việt Nam! Có lẽ vấn đề đặt ra phải ngược lại: Trung Quốc xâm lược Việt Nam từ bao giờ mới đúng tinh thần của bài bình luận.
Lịch sử Trung Quốc bắt đầu từ nhà Hạ 2140 năm trước Công nguyên (TCN) cùng thời với thời đại Hùng Vương nước ta được ghi chép rõ ràng trên những trang “sử đồng”, đó là nền văn hóa đồng thau Đông Sơn, sau khi phát hiện, thế giới phương Tây đã phải nghiêng mình về phương Đông, về Việt Nam! Nhà Hạ, trải qua nhà Thương, nhà Ân, nhà Chu (Tây Chu) rồi đến thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc, chia năm xẻ bảy, chư tử đua nói, quần hùng so gươm. Trong khi ấy, Việt Nam vẫn thống nhất một nhà, giang sơn một giải, lần lượt từ Hùng vương thứ nhất đến Hùng vương mười tám, gồm nhiều đời vua, cha truyền con nối, không cần đổi hiệu thay tên, vì chính trị nước ta buổi đầu lập quốc ưa giản dị, chuộng tiện lợi.
Sau thời đại Xuân Thu - Chiến Quốc, nước Tần vốn chỉ là một chư hầu yếu. Tần Trang Tương vương phải sang nước Triệu làm con tin. Tương vương thích người thiếp yêu của Lã Bất Vi xin lấy làm vợ, sinh ra Tần Doanh Chính. Khi Tương vương chết, Doanh Chính được lập làm Tần vương (-217 TCN) giao chức Thừa tướng cho Lã Bất Vi, mưu đồ bá chủ thiên hạ. Bấy giờ Việt Nam trước tình hình các cường quốc phương Bắc nổi lên đánh giết lẫn nhau, hai quốc gia nhỏ bé Lạc Việt và Âu Việt (Tây Âu) phải hợp nhất để chống ngoại xâm. Sự kiện chiến tranh Hùng - Thục không nói lên mâu thuẫn dân tộc, chỉ là cách giải quyết quyền lợi của hai tập đoàn lãnh đạo: Hùng vương 18 với An Dương vương Thục Phán. Họ Thục đại diện cho lực lượng mới trỗi dậy giành thắng lợi, xây dựng nhà nước Âu Lạc mới hùng mạnh với quốc đô Loa Thành độc đáo, kỳ vĩ, với vũ khí kỳ diệu “nỏ thần” mỗi phát bắn ra trăm mũi tên khiến kẻ địch vô cùng sợ hãi. Chuyện này không phải chỉ là truyền thuyết Việt Nam, chính sử sách xưa Trung Quốc thường nhắc tới một cách kính phục.
Tần vương xâm lược các nước chư hầu, tàn sát dã man, trải 25 năm núi xương sông máu để mở rộng đất đai, vơ vét vàng ngọc, tận thu gái đẹp, đem thân người xây trường thành Vạn Lý, dùng mỡ dân dựng hàng trăm cung điện tráng lệ… Tần vương xưng tôn hiệu Tần Thủy Hoàng đế, lấy “thủy” chế “hỏa”, vị hoàng đế con trời khởi đầu của đế chế phương Bắc, coi nước mình là trung tâm thế giới, văn minh, hùng mạnh không ai bằng!
Đặc biệt về văn hoá, Tần Thuỷ Hoàng cũng đạt tới đỉnh cao sự nghiệp tàn bạo là “phần thư khanh nho” (đốt sách chôn sống học trò). Tất cả sách sử của liệt quốc, các học thuyết của bách gia chư tử đều phải đốt hết ! Thậm chí Kinh thư,Kinh thi cũng không ngoại lệ. Đến nỗi hai người dám bàn nhau về nội dung của chúng thì bắt chém giữa chợ! Kẻ nào lấy việc đời xưa mà chê đời nay sẽ bị giết cả họ! Thuỷ Hoàng sai ngự sử xét tất cả các nhà Nho và chôn sống một lúc hơn trăm người ở Hàm Dương và đày nhiều người ra biên giới làm lính thú... Nói theo ngôn ngữ hiện đại, Tần Thuỷ Hoàng là nhà lãnh đạo đầu tiên của Trung Quốc làm “cách mạng tư tưởng văn hoá”, tiêu diệt tất cả những gì không phải của nhà Tần, không thuộc ý muốn Hoàng đế!
Tần Thuỷ Hoàng ở ngôi 37 năm, truyền cho Hồ Hợi (Tần Nhị thế) được 3 năm thì mất. Trung Quốc đại loạn. Mầm mống chiến tranh đã phát sinh từ lúc Thuỷ Hoàng đang ngất ngây chiến thắng. Bái Công khởi nghĩa, Hạng Vũ diệt Tần, chia đất Tần làm ba, làm chủ thiên hạ, phong vương các chư hầu. Rồi cả Trung Hoa thành biển lửa chiến tranh!...
Sử gia Trung Quốc ca ngợi Tần Thuỷ Hoàng có công thống nhát nước Trung Hoa vĩ đại. Nhưng nước Trung Quốc, sự thực, suốt hơn 2.000 năm phong kiến chưa bao giờ xứng danh giang sơn thống nhất. Tần Thuỷ Hoàng “thống nhất giang sơn” không dùng uy đức để thu phục, ân huệ để vỗ về, mà bằng lưỡi gươm bạo ngược, ngọn lửa hung tàn, đáng được tôn thờ làm ông tổ bành trướng xâm lược của các thiên triều Trung Quốc muôn đời sau.
Tư Mã Thiên, nhà sử học vĩ đại nhất của Trung Quốc, sống cùng thời với Hán Vũ đế, biết rõ hơn ai hết âm mưu bành trướng xuống phương Nam của nhà Hán. Ông viết trong Sử ký:
Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đầy đến ở lẫn với người Việt (Dương Việt)... Triệu Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, quận Nam Hải. Đến đời Tần Nhị thế, quan uý ở Nam Hải là Nhâm Ngao ốm sắp chết, khuyên Triệu Đà nhân lúc thiên hạ đại loạn chiếm lấy 3 quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải, tự lập làm vua.
Triệu Đà nghe lời Nhâm Ngao, giết trưởng lại nhà Tần, dùng đồng đảng thay thế.
Năm 206 TCN, Bái Công diệt Hạng Vũ, lập triều Hán, biết Triệu Đà cát cứ 3 quận phía Nam, nhưng còn bận nhiều việc, tạm để lại, hỏi tội sau. Triệu Đà đem binh lực, một mặt uy hiếp biên giới, mặt khác dùng thủ đoạn cướp chiếm hai nước láng giềng: Mân Việt và Âu Lạc. Nhà Thục An Dương vương lập quốc từ năm 306 TCN. Ông chủ quan, mất cảnh giác, tưởng có thể đánh bạn được với Triệu Đà để tạo phúc cho nhân dân, nào ngờ mắc mưu sâu kế hiểm bị mất nước trắng tay. Năm 179, Triệu Đà chia nước ta làm 2 quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sáp nhập với các quận khác thành quốc gia Nam Việt. Ông ta tự xưng Nam Việt Vũ vương.
Nhà Hán sai sứ Lục Giả sang Nam Việt hỏi tội Triệu Đà. Triệu Đà búi tóc, đầu không đội mũ, áo không đai, chân đất, ngồi xổm tiếp sứ Hán. Lục Giả trách Triệu Đà tại sao quên hết lễ nghĩa? Triệu Đà giật mình thưa: “Tôi ở xứ Man đã lâu nên quên hết lễ nghĩa!” Rồi cúi đầu xin lỗi. Tiếp theo, sứ Hán hạch tội Đà tự lập làm “đế” mà không hề phái người sang báo tin. Triệu Đà lựa lời chống chế: “Phương Nam đất thấp, ẩm, ở giữa là dân man-di. Phía đông là đất Mân Việt, chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”. Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự mua vui nơi xa xôi hẻo lánh, đâu dám để thiên tử bệ hạ phải nhàm tai!”
Triệu Đà dập đầu xuống đất tạ tội, xin mãi mãi làm phiên thần nhà Hán, đời đời dâng lễ cống.
Trước đây nhân dân Mân Việt và Âu Lạc lầm tưởng Triệu Đà lập nước riêng nên theo ông ta để chống lại âm mưu bành trướng xâm lược của nhà Hán, nay mới biết ông ta xảo trá, hèn hạ. Năm 137 TCN, Triệu Đà mất. Con trai là Trọng Thuỷ tự biết tội đánh lừa Mỵ Châu, giết hại An Dương vương để cướp nước Âu Lạc, đã nhảy xuống giếng chết theo vợ. Cháu Triệu Đà (con Trọng Thuỷ) là Hồ làm Nam Việt vương. Nhân cơ hội họ Triệu suy yếu, vua cũ của nước Mân Việt bị Đà xâm chiếm là Dĩnh đem binh đánh phá các huyện ấp: Hồ vương dâng thư lên vua Hán nói: Mân Việt đem binh xâm lấn đất của thần, xin thiên tử đưa quân đến giúp! Nhà Hán tiêu diệt xong Mân Việt, muốn lấy luôn Âu Lạc, sai sứ giả thuyết phục Anh Tề (mới thay Hồ vương). Mẹ Anh Tề là người Hán muốn đem nước nội thuộc Hán. Thừa tướng Lữ Gia không đồng ý, giết cả Anh Tề và Cù thái hậu cùng các sứ giả của nhà Hán, lập Kiến Đức lấy vợ người Việt lên thay.
Năm 111 TCN, nhà Hán sai Lâu Thuyền tướng quân và Phục Ba tướng quân đem binh đáng Lữ Gia. Ông tuổi cao sức yếu, quân ít, đánh không lại kẻ địch quá mạnh nên bị bắt và bị giết.
Về cuộc kháng chiến của quân dân Âu Lạc (Việt Nam) vô cùng anh dũng chống lại đến cùng đại binh xâm lược nhà Hán. Thái sử công (Tư Mã Thiên) nhận xét trong tác phẩm Sử ký vĩ đại: “Âu Lạc đánh nhau làm rung động nước Nam Việt”.
Tần Thuỷ Hoàng đánh chiếm cả Trung Quốc nhưng chưa bao giờ dám sai quân tiến vào Âu Lạc. Một số sách sử, địa chí viết “Thời Tần nước ta thuộc Tượng Quận” là sự nhầm lẫn đáng trách. Kẻ xâm lược đầu tiên nước ta là Triệu Đà. Nhưng kể từ năm 111 TCN, nước ta mới chính thức “nội thuộc” Trung Quốc.
Các nhà chép sử thường dùng danh từ “nội thuộc” với “nghìn năm Bắc thuộc” là xét về phương diện hành chính. Thực tế, trong khoảng nghìn năm ấy, nước Việt Nam chưa bao giờ “thuộc” Trung Quốc. Ngọn lửa yêu nước luôn luôn cháy âm ỉ trong lòng dân tộc, để chờ cơ hội lại bùng lên thành những cuộc bạo động giết giặc, những phong trào khởi nghĩa lớn đánh đuổi chính quyền đô hộ, giành quyền độc lập, tự chủ. Bà Trưng năm 40 SCN. Bà Triệu năm 248. Lý Nam đế 571-603 (32 năm). Triều vua Tiền Lý đến Hậu Lý, cộng 59 năm, thời gian tồn tại dài hơn rất nhiều triều đại Trung Quốc, như Tiền Nguỵ 45 năm (220-265), nhà Thục thời Tam Quốc 43 năm (221-264), Đông Ngô 58 năm (222-280), Tây Tấn 52 năm (265-317), Tiền Tống 59 năm (220-279), Nam Tề 23 năm (479-502), Nam Lương 55 năm (502-557), Hậu Lương 30 năm (557-587), Trần 33 năm (557-589), Đông Nguỵ 16 năm (534-558), Tây Nguỵ 21 năm (535-556), Bắc Tề 28 năm (550-578), Bắc Chu 24 năm (557-581), Tuỳ 37 năm (581-618), Hậu Lương 16 năm (907-923), Hậu Đường 13 năm (923-936), Hậu Tấn 11 năm (936-947), Hậu Hán 4 năm (947-951), Hậu Chu 9 năm (951-960)... Các cuộc khởi nghĩa xây dựng nền tự chủ: Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766-789), Phùng An (789-791), Dương Thanh (819-820), Họ Khúc (907-930), Dương Đình Nghệ (931-937)... cộng 215 năm liên tục đấu tranh giành thắng lợi vẻ vang, cuối cùng năm 939, Ngô Quyền kết thúc “nghìn năm Bắc thuộc”, trừ đi thời gian Việt Nam độc lập tự chủ, chỉ còn hơn 700 năm dưới ách đô hộ tàn bạo của phương Bắc. Cho nên, “nghìn năm Bắc thuộc” chỉ là con số phiếm chỉ.
Trong khoảng thời gian hơn 700 năm, thực tế Trung Quốc đặt ách thống trị hà khắc lên đất nước Việt Nam, chính quyền đô hộ không một ngày ăn ngon ngủ yên. Chính sách cai trị của chúng càng bạo ngược càng đào sâu mồ chôn lũ cướp nước.
Trung Quốc và Việt Nam tuy lớn nhỏ khác nhau, cùng thời gian lịch sử hơn 4.000 năm. Nước Trung Quốc chưa bao giờ được thống nhất. Những danh xưng Tàu, Trung Hoa, Trung Quốc,... chỉ là đại diện. Đất nước luôn luôn chiến tranh, thành trì luôn luôn bị làm cỏ, nhân dân lầm than đói khổ, các tập đoàn phong kiến xâu xé lẫn nhau, xưng hùng xưng bá. Trong khoảng thời gian từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX, Trung Quốc bị nước Liêu cai trị 305 năm, nước Kim đô hộ 122 năm, nước Mông Cổ chiếm đoạt 162 năm, người Mãn Thanh thống trị tới 329 năm, tổng cộng 921 năm, chiếm 1/4 lịch sử Trung Quốc. Thời gian này, trên cơ sở đã lấy lại hoàn toàn độc lập, tự chủ, Việt Nam vùng dậy như con rồng vàng Thăng Long tung cánh bay lên, bay lên, khiến mọi kẻ thù xâm lược (Tống, Nguyên, Minh, Thanh) đều kinh hồn khiếp vía!
Câu chuyện “Việt Nam là vùng đất thuộc Trung Quốc từ cách đây 2.000 năm” là hoàn toàn bịa đặt, khả năng hư cấu hạng bét!
Không cần nói 4.000 năm, chỉ nhìn 2.000 năm trở lại đây, chúng ta thấy rõ nhất một nước Trung Quốc đầy tham vọng to lớn nhưng không vượt nổi cửa ải Quỷ môn quan (Chi Lăng) “Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn”. Lý tưởng đế chế phong kiến phương Bắc là xâm lược bành trướng để đất đai rộng tới chân trời. Cái dạ dày vĩ đại không biết no này luôn luôn nghĩ đến đất, đất và đất, chưa bao giờ hướng ra biển Đông, một thế giới khác chỉ có sóng gió, nhấp nhô mấy hòn đảo sỏi đá hoang vu không một bóng người!
Giấc mơ bá chủ địa đầu chợt tỉnh giấc! Thời đại biển đảo quý hơn vàng ngọc, kim cương. Ông khổng lồ Trung Quốc chợt nhận ra người tý hon Việt Nam “bé mà bé hạt tiêu”, từ cách đây mấy trăm năm đã nắm lấy chủ quyền suốt dải Hoàng Sa - Trường Sa dài dằng dặc. May quá, ông nhanh tay cướp được Hoàng Sa (1974) rồi vẽ ra cái “đường lưỡi bò” có thể thè ra thè mãi... Mới đây ông đặt giàn khoan, vẽ mới bản đồ, viết lại lịch sử, những bài học của bạo chúa Tần Thuỷ Hoàng đã thuộc làu làu./.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tiếp tục đưa ra những lập luận cũ kỹ và thiếu tính lập luận khi nói về tình hình căng thẳng hiện nay ở Biển Đông, xuất phát từ việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan trong vùng biển của Việt Nam.

(Dân trí) 
 >>  Đại sứ Việt Nam đăng đàn, phản pháo luận điệu xuyên tạc của Trung Quốc 
 >> Trung Quốc đối đáp vô lý về phát biểu của Tổng thống Obama

Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Malaysia Najib Razak họp báo chung sau hội đàm.
Chủ tịch Tập Cận Bình và Thủ tướng Malaysia Najib Razak họp báo chung sau hội đàm.
Tại cuộc gặp với Thủ tướng Malaysia Najib Razak ngày hôm qua ở Bắc Kinh, ông Tập Cận Bình khẳng định Trung Quốc trân trọng hòa bình và ổn định ở Biển Đông.
Ông cũng nói rằng Trung Quốc sẽ có những phản ứng “ở mức độ cần thiết” đối với tình hình hiện nay ở vùng biển này và tái khẳng định quan điểm của Bắc Kinh phản đối quốc tế hóa các tranh chấp trong khu vực.
Đây là lần đầu tiên Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình trao đổi trực tiếp về vấn đề Biển Đông với Thủ tướng Malaysia Najib Razak, một trong 4 nước thành viên Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có tranh chấp tại Biển Đông với Trung Quốc.
Tuy nhiên, trong các phát biểu đưa ra, ông Tập Cận Bình không đưa ra được các lập luận sắc bén, mà chỉ lập lại những quan điểm phi lý cố hữu của Trung Quốc tại vùng biển có ý nghĩa chiến lược quốc tế này.
"Tình hình hiện tại Biển Đông nói chung ổn định, song các dấu hiệu đáng để lưu ý cũng bắt đầu xuất hiện... Chúng tôi sẽ không bao giờ gây rối, song sẽ phản ứng ở mức độ cần thiết đối với những hành động gây hấn của các nước hữu quan", ông Tập nói.
Với những căng thẳng ở Biển Đông hiện nay, với các vụ tàu Trung Quốc đâm va và bắn vòi rồng gần như hàng ngày vào các tàu chấp pháp của Việt Nam, và gần đây nhất là vụ đâm chìm tàu cá của ngư dân Việt Nam, thì việc Chủ tịch Tập Cận Bình nói rằng “tình hình tại Biển Đông nói chung ổn định” và Trung Quốc “không bao giờ gây rối” chẳng khác nào hành động lảng tránh sự thật. Sự lảng tránh đó xuất phát từ việc Bắc Kinh không thể giải thích được về những hành vi ngang ngược này cũng như việc nước này ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng biển của Việt Nam.
Không chỉ chối bỏ sự thật, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình còn lảng tránh các cuộc đàm phán đa phương về căng thẳng tại Biển Đông khi kiên quyết phản đối việc phức tạp hóa, mở rộng và quốc tế hóa các tranh chấp khu vực về chủ quyền.
Lâu nay, Trung Quốc vẫn kiên trì quan điểm chỉ đối thoại về tranh chấp Biển Đông với từng quốc gia liên quan hòng tận dụng lợi thế nước lớn để gây ảnh hưởng và sức ép lên các nước này.
Trong cuộc gặp với Thủ tướng Malaysia Najib Razak cũng vậy, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tranh thủ kêu gọi tăng cường đối thoại song phương nhằm duy trì ổn định ở Biển Đông. Tuy nhiên, Thủ tướng Najib Razak khẳng định việc đối thoại cần được thực hiện giữa các bên có tuyên bố chủ quyền.
“Các bên tuyên bố chủ quyền sẽ giải quyết bất đồng một cách phù hợp thông qua trao đổi thông tin và đối thoại trực tiếp”, Thủ tướng Najib nhấn mạnh.
Thủ tướng Najib đang có chuyến thăm chính thức 6 ngày tới Trung Quốc. Chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh tình hình Biển Đông hết sức căng thẳng sau khi Trung Quốc đơn phương hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương-981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Đây là chuyến thăm Trung Quốc đầu tiên của Thủ tướng Najib kể từ sau vụ mất tích máy bay mang số hiệu MH-370 chở 239 người, trong đó phần lớn là hành khách Trung Quốc.
Vũ Anh 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhật thách ra tòa, Trung Quốc tái mặt


Đăng Bởi  - 
Thủ tướng Abe muốn cảnh báo với thế giới vì thái độ độc đoán của Trung Quốc
Thủ tướng Abe muốn cảnh báo với thế giới vì thái độ độc đoán của Trung Quốc
Trong bài phát biểu tại Hội nghị đối thoại Shangri-La, Thủ tướng Nhật Shinzo Abe đã dùng những lời lẽ đanh thép nhắm vào phía Trung Quốc. Ngoài việc bóc trần các hành động gây hấn của Trung Quốc trên biển Đông trong thời gian qua, ông Abe còn có một nước cờ khiến Trung Quốc phải tái mặt.
Thủ tướng Abe lặp đi lặp lại nhiều lần, rằng tất cả các quốc gia phải tôn trọng "luật pháp" trong những lời chỉ trích hầu như không che đậy đối với hành vi của Trung Quốc trên quần đảo Senkaku và các vùng lãnh thổ khác. Nhưng không chỉ kêu gọi chung chung, Thủ tướng Abe đã đưa ra lời  “tuyên chiến pháp lý” với Trung Quốc ngay trước đông đảo phóng viên.
Senkaku là một "phần lãnh thổ của Nhật Bản", và có lẽ Trung Quốc nên nộp đơn khiếu nại lên tòa án nếu họ tin theo cách khác, ông nói. "Trung Quốc là một trong những thách thức hiện trạng", ông Abe nói. "Nhật Bản đang kiểm soát hiệu quả Senkaku".
Khi ông Abe thách Trung Quốc ra tòa, ông Abe đã cho thấy Nhật rất tự tin về phương diện luật pháp trong việc khẳng định chủ quyền lãnh thổ. Đây là lần đầu tiên, người đứng đầu Chính phủ Nhật thách Trung Quốc theo đuổi một biện pháp mang tính pháp lý để giải quyết vấn đề trong khu vực.
Ngược lại, Trung Quốc từ xưa đến giờ luôn tuyên bố lãnh thổ, lãnh hải theo kiểu tùy ngôn, bất chấp luật pháp quốc tế và quyền lợi của láng giềng. Tuy nhiên, Trung Quốc chưa bao giờ dám theo đuổi những biện pháp mang tính tôn trọng pháp lý như đưa ra tòa án quốc tế.
Bối cảnh Thủ tướng Nhật Abe đưa ra lời thách thức pháp lý với Trung Quốc là ngay sau khi Philippines đưa ra những yêu cầu tương tự. Philippines đã đệ đơn ra tòa án quốc tế đòi phân xử về chủ quyền trên bãi Scarborough ngay sát bờ biển Philipppines. Trung Quốc dù nói họ có quyền lịch sử với khu vực này nhưng không dám cùng Philippines ra tòa để đấu pháp lý mà dùng "cơ bắp" để thách thức tại bãi Scarborough.
Vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào hoạt động phi pháp trên vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, gần quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam. Sau nhiều lần kêu gọi tôn trọng luật pháp quốc tế nhưng Trung Quốc tỏ ý bất hợp tác, Việt Nam đang xem xét khả năng đưa vụ việc ra tòa án quốc tế để làm rõ chủ quyền hợp pháp của Việt Nam. 
Cũng như với Philippines, Trung Quốc tìm những cách để từ chối biện pháp này vì Trung Quốc rất "sợ hãi"  khi không đủ chứng lý.
Nhật và ASEAN đang thắt chặt quan hệ trên nhiều lĩnh vực 
Khi Philippines lên tiếng ra tòa, Trung Quốc không dám đáp ứng thì quốc tế có thể chưa thấy hết được sự đuối lý của Trung Quốc trong tranh chấp với láng giềng. Nhưng nếu Việt Nam và Nhật đồng loạt đòi Trung Quốc giải quyết bất đồng bằng việc ra tòa thì quốc tế sẽ phải đặt nghi ngờ về những tuyên bố vô lý của Trung Quốc và thái độ bất tuân thủ luật pháp quốc tế của nước này.
Trung Quốc từ bỏ phương thức giải quyết bất đồng bằng con đường luật pháp quốc tế, thế giới sẽ càng hiểu vì sao các nước trong khu vực phải liên kết pháp lý với nhau để đối phó với thái độ hung hăng của Bắc Kinh. 
Không phải ngẫu nhiên mà ông Abe tuyên bố Nhật đồng ý viện trợ cho Philippines 10 tàu tuần tra phục vụ ở biển Đông, cho Indonesia 3 tàu và thúc đẩy việc cung cấp cho Việt Nam tàu tuần tra. Nhật đang bước đầu hình thành “liên minh pháp lý” để chống lại thái độ hung hăng bất chấp luật pháp của Bắc Kinh trên biển.
Trong tương lai gần, nếu Nhật và các nước ASEAN đồng khởi kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế mà Bắc Kinh vẫn không dám ra tòa thì e rằng họ khó ngẩng mặt trên trường quốc tế.
Anh Tú (theo Stripes)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 30 tháng 5, 2014

Biển Đông với mánh 'đục nước béo cò'

Trước đây, vì quan tâm vấn đề không phận - hải phận - biên giới lãnh thổ nên Lana đã tìm đọc ít nhiều thông tin về Trường Sa, Hoàng Sa ở nhiều thời điểm: Về Hải chiến Trường Sa 1988, Hoàng Sa 1974, về 'Công hàm 1958' TQ thâm nho diễn bài anh-em lừa cậu hàng xóm ngây ngố đang lục đục trong nhà để rồi lấy đó làm cớ vẽ đường lưỡi bò bao bọc 2 quần đảo này gom làm của mình. Vì những thông tin đọc được đều kiểu chắp nối, không có nguồn chính thống nào nên đành mình biết cho mình, nay đọc được bài này khá đầy đủ xin trích về đây chia sẻ. Người Việt nam yêu đất nước mình cần được biết mọi sự thật trong lịch sử của mảnh đất ấy, biết để thương hơn và nếu tình yêu còn đó thì sâu hơn, không để bắt lỗi, đơn giản thế thôi.


(Nguồn: ĐƠN ĐỘC - Huy Đức, Quechoa Blog)
... Hơn 300 năm trước, các Chúa Nguyễn đã đưa người đến Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1816, Gia Long chính thức thiết lập chủ quyền Việt Nam đối với cả hai quần đảo. Đại Nam Nhất Thống Toàn Đồ, bản vẽ năm 1838 của Nhà Nguyễn đã thể hiện hai quần đảo này với tên gọi là Hoàng Sa và Vạn Lý Trường Sa. Năm 1920, Chính quyền Pháp, với tư cách là nhà nước bảo hộ ở Đông Dương đã ra tuyên bố khẳng định chủ quyền và từ đó người Pháp hiện diện ở đây liên tục. Tháng 11-1946, khi người Pháp bắt đầu chiến tranh trở lại với Việt Minh, chỉ có thể đưa quân kiểm soát cụm phía Tây Hoàng Sa, Tưởng Giới Thạch đã cho đổ bộ lên đảo Phú Lâm thuộc Hoàng Sa và tháng 12-1946, đổ bộ lên Itu Aba, thuộc Trường Sa. Sau khi bị Mao đuổi khỏi lục địa Trung Hoa, năm 1950, quân Tưởng rút khỏi hai hòn đảo mà họ giữ gần 4 năm trước đó.

Năm 1954, theo Hiệp định Geneve, Hoàng Sa ở phía Nam Vĩ tuyến 17 sẽ thuộc về chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng, tháng 4-1956, khi lực lượng Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa ra tiếp quản, hai đảo lớn nhất đã bị "Quân giải phóng Trung Quốc" chiếm mất. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa trên thực tế, cai quản liên tục bốn đảo chính: Pattle (Hoàng Sa); Robert (Cam Tuyền); Duncan (Quang Hòa Đông) và Drummond (Duy Mộng). Riêng đảo Pattle, Việt Nam còn có một đài khí tượng thuộc hệ thống quốc tế. Từ năm 1956, Việt Nam Cộng hòa, về mặt pháp lý, vẫn khẳng định chủ quyền trên phần bị Bắc Kinh chiếm đóng.

Tháng 4-1972, khi miền Bắc dồn lực trong một chiến dịch thảm khốc ở Quảng Trị. Người Mỹ cần Bắc Kinh làm ngơ để họ dội bom ra vĩ tuyến 20. Ngày 4-4-1972, Kissinger đã phái Winston Lord tới New York gặp Hoàng Hoa, đại sứ Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, để "trao một bức điện bằng lời", nhắn Trung Quốc: "Hải quân Mỹ sẽ được lệnh ở lại tại khoảng cách 12 dặm". Người Trung Quốc hiểu, nếu họ đánh Hoàng Sa, người Mỹ sẽ án binh bất động. Từ ngày 16-1-1974, Trung Quốc bắt đầu cho tàu ép sát Hoàng Sa. Theo Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại: "Các chiến hạm thuộc Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ ở rất gần các vị trí chiến hạm Việt Nam". Nhưng, Hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã phải đơn độc chống lại Trung Quốc xâm lăng. Theo tướng Thoại: "Hạm Đội Bảy của Mỹ đã không làm gì kể cứu vớt các đồng minh lâm nạn". Kể từ ngày 19-1-1974, phần còn lại của Hoàng Sa Việt Nam bắt đầu bị Bắc Kinh chiếm đóng.

Tướng Giáp nhận được tin mất Hoàng Sa khi ông đang điều trị bệnh sỏi mật ở Liên Xô. Năm 1975, sau "chiến thắng Buôn Ma Thuột", Tướng Giáp kiến nghị Bộ Chính trị "tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo" mà miền Nam đang chiếm giữ. Ngày 2-4-1975, Tướng Giáp trực tiếp chỉ thị cho Tướng Lê Trọng Tấn lúc bấy giờ đang ở Đà Nẵng: "Tổ chức tiến công giải phóng các đảo, đặc biệt là quần đảo Trường Sa". Trước đó, ngày 30-3, Quân ủy cũng điện cho Võ Chí Công và Chu Huy Mân yêu cầu thực hiện. Chiều 4-4-1975, Quân ủy điện tiếp cho Quân khu V: "Kịp thời đánh chiếm các hòn đảo vùng Nam Hải, đặc biệt là các đảo Nam Sa. Việc này phải chuẩn bị gấp và bí mật, chỉ để cán bộ có trách nhiệm biết". Ngày 9-4-1975, Cục Quân báo có tin quân đội Sài Gòn rút khỏi các đảo, Quân ủy gửi điện "tối khẩn" cho Võ Chí Công, Chu Huy Mân và Phó Tư lệnh Hải quân Hoàng Hữu Thái: "Các anh cho kiểm tra và hành động kịp thời... Nếu để chậm, có thể quân nước ngoài chiếm trước, vì hiện này một số nước ngoài đang có ý đồ xâm chiếm". Từ ngày 14-4-1975 đến ngày 28-4-1975, Quân Đội Nhân dân Việt Nam đã tiếp quản tất cả những hòn đảo do quân đội Sài Gòn chiếm giữ.

Cho dù, theo lệnh ngày 13-4-1975 của Tướng Giáp, Quân đội miền Bắc đã không đụng vào các hòn đảo do Trung Quốc khi ấy đang chiếm giữ. Nhưng, ngày 5-5-1975, khi Đài Tiếng nói Việt Nam công bố, "Hải quân Việt Nam đã giải phóng quần đảo Trường Sa", một phóng viên Tân Hoa Xã tên là Ling Dequan đang thường trú tại Hà Nội đã thấy "đắng chát ở trong miệng". Ling Dequan, sau đó, nói Nayan Chanda: "Tin Việt Nam chiếm các hòn đảo đến như một cú shock vì trước đó họ đã công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên những hòn đảo ấy". Mân Lực, tác giả cuốn sách "Mười năm chiến tranh Trung-Việt", cũng gọi hành động tiếp quản Trường Sa của Hải Quân Việt Nam là "ngang nhiên chiếm đóng 4 đảo trong quần đảo Nam Sa của Trung Quốc". Vì theo Mân Lực: "Từ năm 1958, Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng đã thông báo cho Thủ tướng Chu Ân Lai, rõ ràng xác nhận hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhưng hiện nay họ tiền hậu bất nhất ngang nhiên tuyên truyền đây là lãnh thổ của họ, sửa đổi bản đồ vẽ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa vào bản đồ Việt Nam".

Ngày 4-9-1958, Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố: "Hải phận 12 hải lý kể từ đất liền là của Hoa Lục". Ngày 14-9-1958, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai công hàm mà đời sau có thể đọc được toàn văn trên báo Nhân Dân số ra ngày 22-9-1958: "Thưa đồng chí Tổng lý/ Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc. Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trên mặt bể. Chúng tôi xin gửi đồng chí Tổng lý lời chào trân trọng".

Cho dù, theo Mân Lực, Tuyên bố của Chu Ân Lai "có đính kèm bản đồ về đường ranh giới lãnh hải rất rõ ràng (trong đó bao gồm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa)". Cho dù, theo ông Trần Việt Phương, người có 25 năm làm thư ký riêng cho Phạm Văn Đồng: "Lúc bấy giờ quan hệ Việt-Trung đang rất tốt. Về phía Việt Nam, đang có quan niệm ngây thơ về chủ nghĩa quốc tế vô sản; quan niệm ngây thơ từ người cao nhất của Ta chứ không phải ở cấp độ vừa. Về phía Trung Quốc hiểu ra sự ngây thơ đó và đã có ý đồ không tốt. Tuy nhiên, dân tộc Việt Nam có trong máu hàng nghìn năm kinh nghiệm với Trung Quốc để, cho dù có sự 'ngây thơ quốc tế vô sản' cũng không đến mức có thể dẫn tới sự nhầm lẫn hoàn toàn".
"Công hàm 1958" là tuyên bố của một đồng minh, được đưa ra khi Mỹ đưa Hạm đội 7 hoạt động trên eo biển Đài Loan và đe dọa chủ quyền của "đồng minh" Trung Quốc. Cho dù, "Công hàm 1958" tuyên bố những gì thì nó cũng hoàn toàn không có giá trị công nhận Hoàng Sa là của Bắc Kinh. Từ năm 1954 đến trước ngày 30-4-1975, theo Hiệp định Geneve được ký bởi các bên trong đó có Hà Nội và Bắc Kinh, thì Hoàng Sa và Trường Sa – ở thời điểm 1958 – không phải là phần thuộc về miền Bắc mà đang là lãnh thổ hợp pháp của Việt Nam Cộng hòa, một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc.

Sở dĩ những nhà văn, nhà báo như Ling Dequan, Mân Lực, bị shock khi nghe tin Việt Nam lấy lại Trường Sa, theo nhà nghiên cứu Dương Danh Di, với chính sách bưng bít thông tin, người dân Trung Quốc không hề biết Hoàng Sa, Trường Sa là lãnh thổ mà Việt Nam đã có chủ quyền liên tục hàng trăm năm, là phần lãnh thổ mà Chính quyền của họ mới "dùng vũ lực để cưỡng đoạt" trong thế kỷ 20 như những tên xâm lược.

Báo chí chính thống của Việt Nam, từ năm 1958, chưa bao giờ nhắc lại "Công hàm" của Phạm Văn Đồng, chưa giải thích "nội hàm" của tuyên bố ấy. Chính quyền, đã tới lúc nên tuyên bố về giới hạn pháp lý của Công hàm này, nên thừa nhận bản hiệp định (Geneve) mà mình đã đặt bút ký vào theo đó, Hoàng Sa và Trường Sa từ trước 30-4-1975 là phần lãnh thổ thuộc về Chính quyền Sài Gòn, nên dẫu Hà Nội có đưa ra tuyên bố gì thì cũng phải bị coi là "vô giá trị".
Đây không còn là chuyện "ăn-thua" với người anh em miền Nam mà là "mất-còn" với ngoại xâm. Đây cũng là lúc mà người dân tạm gác các bức xúc thường nhật để tập trung vào mối đe dọa đến từ phương Bắc.

*** Đọc thêm:
CHO MÌNH
MÌNH NÊN BIẾT

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ý kiến của Jonathan ( Bài đọc tham khảo )

Vài giải pháp cho Việt Nam

china's attacks, fishing vessesl, east sea, hoang sa
Viet Nam News
Những hỗn loạn và bạo lực bùng nổ ở Việt Nam cách đây hai tuần đã hút sự quan tâm của thế giới khỏi các nguyên nhân căn bản của căng thẳng giữa Trung Quốc và Việt Nam, và thật ra là giữa Trung Quốc và khu vực. Về bản chất, chúng xuất phát từ yêu sách vô căn cứ pháp lý của Bắc Kinh, đòi chủ quyền đối với hơn 80% biển của khu vực, và từ ý đồ của Bắc Kinh nhằm áp đặt tính chính đáng cho các yêu sách đó thông qua các biện pháp vũ lực.
Trên bình diện quốc tế, việc Bắc Kinh cho quân đội canh giữ giàn khoan dầu khổng lồ của họ trong vùng biển tranh chấp được hiểu là một hoạt động mang tính chính trị, nhằm thay đổi hiện trạng ở Đông Á. Còn đối với Việt Nam, hành động của Bắc Kinh buộc giới lãnh đạo Việt Nam phải suy nghĩ lại một cách cơ bản về tầm nhìn chiến lược của họ – một công việc vừa nguy hiểm vừa mang lại cơ hội. Hiện tại, lãnh đạo Việt Nam đối mặt với ba thách thức.
Thách thức thứ nhất là dọn dẹp và tái thiết, để giải quyết và vượt qua những hậu quả còn tồn đọng của các cuộc bạo loạn hai tuần trước. Rất cần phải nhấn mạnh rằng nguyên nhân chính xác của vụ hỗn loạn vẫn chưa được xác định, và trên thực tế, nguyên nhân đó có vẻ khác nhau tùy theo ba nơi xảy ra biến cố. Cũng cần phải lưu ý rằng bạo loạn xảy ra ở ba tỉnh chứ không phải 21, như nhiều nơi đã đưa tin sai. Chết chóc, thương tật, và thiệt hại như xảy ra đã không có lợi chút nào cho hình ảnh Việt Nam. Và những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm gia tăng áp lực, thông qua các biện pháp chính trị, kinh tế và quân sự, cũng vậy.
Liên quan đến các vụ bạo loạn, khó khăn lớn nhất của Hà Nội là mở rộng điều tra và đưa ra được một cách giải thích rõ ràng về nguyên nhân gây bạo loạn, tiến hành bồi thường nhanh chóng, và bằng mọi cách cần thiết, thể hiện cho toàn thế giới thấy tại Việt Nam vẫn sẽ là một môi trường đầu tư hấp dẫn. Người ta có thể hy vọng là những việc làm cụ thể theo hướng này đang được tiến hành.
Căn bản hơn, người dân Việt Nam đang đối diện với những quyết định về tương lai của đất nước. Trên thực tế, có hai nhóm câu hỏi khác nhau nhưng có liên quan đến nhau. Thứ nhất là nhóm các câu hỏi về những chiến thuật mà Việt Nam nên sử dụng để đáp lại lối hành xử của Bắc Kinh. Thứ hai là nhóm các câu hỏi về tầm nhìn chiến lược xa hơn của Việt Nam, các mối quan hệ và các điều kiện mà nước này cần để có thể sống trong hòa bình, thịnh vượng, và an ninh trong những năm tới và thập kỷ tới.
Việc Hà Nội phản ứng với Bắc Kinh một cách thận trọng và thăm dò là điều có thể thấy trước, khi mà sức mạnh của hai bên không cân xứng và thực tế là Việt Nam hiện tại không có đồng minh. Có quá ít lựa chọn, lãnh đạo Việt Nam cho thấy – ngày càng rõ ràng hơn – rằng họ không chấp nhận các yêu sách của Trung Quốc, và họ sẽ phản ứng chỉ bằng các biện pháp ngoại giao và pháp lý. Mặc dù mọi nước đều có quyền tự vệ, nhưng Việt Nam đã đúng khi nhấn mạnh yêu cầu phải tránh đối đầu quân sự. Quân sự hóa xung đột sẽ chỉ gây ra thất bại.
Nếu không có một đột phá về mặt ngoại giao thì theo quan điểm của chúng tôi, Hà Nội nên tiến hành ba bước sau đây:
1. Trước tiên, Hà Nội nên đề nghị Tòa án Quốc tế về UNCLOS ra một phán quyết rằng mọi cấu trúc tự nhiên trên biển Hoa Nam đều là đá và như vậy thì chỉ được hưởng 12 hải lý lãnh hải. Trong trường hợp đó, phần biển còn lại trong khu vực (trừ các vùng đặc quyền kinh tế – EEZ – của các nước) sẽ đều có quy chế của biển quốc tế. Yêu sách của Bắc Kinh, cho rằng quần đảo Paracel [tức là Hoàng Sa trong tiếng Việt] (mà họ chiếm đóng trái phép) xứng đáng có vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý chắc chắn sẽ bị tuyên vô hiệu lực. Điều đó có nghĩa là, các đảo thuộc quần đảo Paracel mà hiện tại đang bị Bắc Kinh kiểm soát sẽ đều chỉ có lãnh hải 12 hải lý, và việc triển khai giàn khoan dầu tuần trước và tuần này sẽ là bất hợp pháp.
2. Thứ hai, Việt Nam nên tham gia vụ kiện của Philippines, kiện đường 9 đoạn, dựa trên căn cứ rằng không thể có vùng nước lịch sử nào cả, trừ phi đó là một cái vịnh; mọi yêu sách về chủ quyền trên biển đều phải đặt cơ sở trên đất.
3. Thứ ba, Hà Nội nên xem xét hủy bỏ tất cả các yêu sách đối với những cấu trúc đá nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của Philippines và Malaysia, và ngồi vào bàn đàm phán, thỏa thuận với các quốc gia ASEAN khác cũng có yêu sách chủ quyền, để công nhận chủ quyền đối với những cấu trúc đá mà hiện tại các nước đó đang nắm giữ. Căng thẳng trên biển Hoa Nam chưa hề có dấu hiệu giảm bớt. Hà Nội và Manila có thể hiện ra rằng họ muốn hữu nghị với Trung Quốc đặt trên cơ sở tôn trọng, hợp tác, tuân thủ các điều ước quốc tế và thông lệ quốc tế. Hà Nội và Manila nên đi trước để làm gương, và nên ngay lập tức giải quyết tranh chấp giữa chính họ với nhau, đồng thời tìm cách kết nối với Malaysia, Indonesia và các đối tác khác.
Quay trở lại với chuyện tương lai của Việt Nam. Việc căng thẳng gia tăng trên Biển Đông của Việt Nam đã gây ra một loạt diễn biến, buộc Hà Nội và thật ra là toàn thể người dân Việt Nam phải đánh giá lại tầm nhìn chiến lược của nước mình. Rất nhiều người ở Việt Nam tin rằng cách bảo vệ đất nước tốt nhất là thoát Trung, bằng cách tiến hành những cải cách thể chế “thay đổi cục diện” – vốn dĩ cần thiết để giành được sự ủng hộ của khu vực và quốc tế. Những cải cách đó bao gồm cả cam kết thực thi nhà nước pháp quyền, thực thi các sửa đổi hiến pháp căn bản, và làm cho Việt Nam phù hợp một cách nhanh chóng và thực chất với các tiêu chuẩn quốc tế về nhân quyền mà chính Nhà nước Việt Nam đã cam kết.
Mặc dù các bước đi táo bạo đó có thể bị nhiều người cho là bất khả thi về chính trị, hay nói đơn giản là không thể thực hiện được, nhưng các bạn hãy dành một phút để nhớ lại rằng, Việt Nam hiện đang đối đầu Trung Hoa một cách cô độc. Tuy Việt Nam vẫn phải theo đuổi quan hệ hữu nghị với Trung Quốc, nhưng họ chỉ có thể sống trong an toàn, an ninh, được thế giới tôn trọng và ủng hộ, mà điều đó chỉ có thể có được nếu các lãnh đạo và nhân dân của họ xây dựng một tương lai trong đó Việt Nam được độc lập, tự do, và có một trật tự xã hội dân chủ hơn, minh bạch hơn. Cũng giống như với Myanmar, thế giới có thể ủng hộ Việt Nam ngay lập tức.
Điều mà Trung Quốc, Việt Nam, và toàn thể khu vực cần là năng lực lãnh đạo tốt hơn và có trách nhiệm hơn. Từ Đông Bắc Á cho đến Đông Nam Á, các nhà lãnh đạo của Đông Á phải phối hợp thúc đẩy hòa bình và trật tự trong khu vực trên cơ sở hợp tác thay vì hăm dọa.
Giới lãnh đạo chính trị Trung Hoa đã liên tục nói về sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc. Nhưng chỉ có chính họ phải chịu trách nhiệm về việc Trung Quốc nhanh chóng bị các nước láng giềng trong khu vực căm ghét và làm cho Mỹ cũng như các siêu cường khác trên thế giới lo ngại. Nếu muốn có hòa bình và trật tự ở châu Á Thái Bình Dương, Bắc Kinh phải áp dụng các chuẩn mực quốc tế, phải từ bỏ đường 9 đoạn vô căn cứ pháp lý, và phải bắt đầu công việc đàm phán, thương lượng một cách chính trực hơn. Khi đó và chỉ khi đó, Trung Quốc mới giành được sự tin tưởng và tôn trọng của khu vực và thế giới.
Người viết: Jonathan Đ. London và Vũ Quang Việt

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc ta ( Tiêu đề do Ngố đặt )

Mộng trở thành quốc gia biển khiến Trung Quốc liên tục gây hấn, tạo nên những bất ổn trên biển Đông thời gian qua.

GS. Trần Ngọc Vương từng có thời gian giảng dạy tại đại học Bắc Kinh và đang tổ chức nhiều hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu văn hoá Trung Quốc. Học giả này đã có cuộc trò chuyện thẳng thắn và cởi mở với Người Đô Thị.

Hiểu về Trung Quốc
Giáo sư Trần Ngọc Vương
Thưa ông, ngoài việc nghiên cứu, bấy lâu nay giới hàn lâm còn biết ông dịch khá nhiều sách Trung Quốc sang tiếng Việt. Vì sao ông làm công việc này?
Tôi phải nói rất rõ ràng rằng mấy chục năm nay, từ sau khi thống nhất đất nước đến giờ, thế lực duy nhất đe doạ, xâm phạm độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, can thiệp sâu vào nền chính trị Việt Nam chính là Trung Quốc. Cho nên khi đối kháng với Trung Quốc cần khẩn trương hiểu biết về họ, cần khẩn trương nghiên cứu, tìm hiểu và học tập họ nữa. Tôi đang tổ chức dịch những bộ sách hết sức quan trọng của Trung Quốc về phương diện học thuật, từ lịch sử Phật giáo đến văn học, những bộ sách về Đạo giáo, Nho giáo Trung Quốc.
Hiện nay tôi đang tổ chức dịch bộ Quan huấn tập thành (những lời dạy, chỉ dẫn, khuyên bảo cho tầng lớp quan lại, từ anh mới học việc cho đến tể tướng); trong đó tổng kết toàn bộ danh tác của Trung Quốc từ xưa đến nay, văn hoá quan trường Trung Quốc trong 5.000 năm. Bộ sách này rất khổng lồ. Tôi đề nghị một loạt các cơ quan mà tôi cho là có trách nhiệm của nhà nước, nhưng chẳng đâu muốn làm và chẳng ai muốn dịch. Hiện nay có một doanh nhân bỏ tiền cá nhân tài trợ cho người của tôi dịch.
Cuốn thứ hai tôi cũng đang dịch mang tiêu đề Phản kinh, tức là cẩm nang, bí kíp của những thủ đoạn chính trị và người ta quảng cáo cuốn sách là: Lịch đại thống trị giả/ Mật như bất ngôn/ Dụng như bất tuyên bất kỳ thư (tạm dịch: Bộ kỳ thư mà kẻ thống trị ở tất cả các nơi phải giữ bí mật, làm theo nhưng không nói ra, không công bố). Bộ sách này được một nhân vật đỗ tiến sĩ đời Đường viết ra, sau đó tìm cách dâng cho vua rồi trốn biệt, về sau không ai biết ra làm sao. Ngay đến cái tên của tác giả cũng là điều kỳ bí. Tôi mua bộ sách này lần đầu vào năm 1998, lúc tôi dạy ở đại học Bắc Kinh. Đọc tên tác giả, tôi hơi ngỡ ngàng vì chưa biết chữ ấy bao giờ. Nghĩ mình người nước ngoài, học tiếng Hán có hạn chế, ai dè về hỏi các giáo sư Trung Quốc cũng không ai biết. Hai ba hôm sau nữa kỷ niệm 100 năm đại học Bắc Kinh, gần 10 xe chở các chuyên gia đại học Bắc Kinh ra đại lễ đường Nhân dân, giáo sư Phó Thành Cật cầm chữ trên tay đi hỏi cũng không ai biết. Cuối cùng, ông về tra Trung Quốc đại từ điển, ra tên này nằm ở phần đuôi của từ ghép. Phiên âm Hán Việt phải đọc là Nhuy. Cái tên này còn chưa có trong thư tịch Việt Nam, chỉ đọc theo nguyên lý thôi. Thật lạ!
Bộ sách được cất trong kho chứa sách của triều đình, nhưng thi thoảng lại lọt một phần nào đó ra ngoài nên đời Minh, Thanh đều có chỉ dụ cấm tàng trữ, đọc cuốn sách đó. Mãi tới năm 1998, lần đầu tiên nó được in ra, mà lại in ở nhà xuất bản Nội Mông Cổ, theo kiểu in để thăm dò. Nói vậy để biết đó cũng là loại bí kíp kỳ thư. Kiểu bí kíp ấy, Trung Quốc rất có truyền thống nên tôi muốn giới thiệu để chúng ta, nhất là giới chính trị, hiểu họ hơn.
Hiểu được văn hoá chính trị có lẽ sẽ giúp ta bình tĩnh và khôn khéo hơn khi phải sống cạnh một nước lớn và nhiều chiêu trò như Trung Quốc?
Đọc một số đoạn, chúng ta sẽ hiểu dần cách Trung Quốc làm chính trị. Vì họ làm đúng theo bài bản ấy thật. Song các nhà chính trị của ta có vẻ không mấy người quan tâm. Thủ đoạn của chính trị gia Trung Quốc kinh khủng lắm. Nên nhớ rằng chỉ ở Trung Quốc, những lợi ích mang màu sắc chính trị mới có thể khiến người ta thực hiện những hành vi mà trong các hoàn cảnh khác ít ai có thể làm được. 
Đông Chu Liệt Quốc còn chép lại câu chuyện: có một anh đầu bếp nấu cho chủ, một ông vua chư hầu. Có lần ông vua đùa than thở: Cao lương mỹ vị trên đời ăn hết rồi chỉ còn mỗi một thứ chưa ăn là… thịt người. Hôm sau, anh đầu bếp dâng cho chủ một món thật thơm, chế biến rất tinh xảo. Tay đầu bếp cứ nhìn xem chủ ăn, gặng hỏi chúa công ăn ngon không, thấy thế nào. Ông vua bảo: Thấy lạ, cũng ngon đấy. Rồi hỏi món gì thì đầu bếp quỳ xuống lạy: “Tâu chúa công, thần đắc tội! Hôm qua chúa công nói còn món thịt người chưa ăn, nay thần cho chúa công ăn thịt người. Thần không dám giết người ngoài, chỉ giết con của thần để nấu”. 
Cái đó là gì vậy? Người Việt Nam có dám làm chuyện đó không? Tôi nghĩ chắc không mấy ai làm được vì nó quá trái với tự nhiên. Vậy thì một khi họ đã dám làm đến những việc như vậy thì ta phải đặt ra câu hỏi: có điều gì họ không dám làm không? Hỏi để nhận ra một điều: nếu chỉ so với lương tri của người bình thường, có khi ta không đo lường hết được họ.
Thủ đoạn của chính trị gia Trung Quốc kinh khủng lắm. Nên nhớ rằng chỉ ở Trung Quốc, những lợi ích mang màu sắc chính trị mới có thể khiến người ta thực hiện những hành vi mà trong các hoàn cảnh khác ít ai có thể làm được.
Trong cuốn tiểu thuyết viết theo lối khảo cứu, đề xuất luận điểm, có tên Lang Đồ Đằng (dịch sang tiếng Việt là Tô Tem Sói), tác giả Khương Nhung của Trung Quốc xác định thuộc tính có tính chất căn tính của người Trung Quốc là sói tính. Sói là con vật ranh mãnh thủ đoạn, độc ác, thâm hiểm nhất của thảo nguyên, của bình nguyên và cao nguyên. Người Trung Quốc đặt căn cước của mình khởi đi từ đó. Mấy năm liền, người Trung Quốc in đi in lại cuốn tiểu thuyết này, cổ vũ “tính chiến đấu”, tinh thần “quật cường” của đồng bào họ.
“Trung Quốc mộng”
Ông nghĩ gì về tham vọng “Trung Quốc mộng” (Chinese Dream) mà gần đây đang được đề cập nhiều?
Người thể hiện tập trung nhất, cao nhất cái gọi là “Trung Quốc mộng” là Mao Trạch Đông. Muốn hiểu “Trung Quốc mộng” thì phải hiểu mô hình hoàng đế Trung Hoa.
Nhà cầm quyền Trung Quốc đang nỗ lực để hiện thực hoá giấc mộng đó. Chúng ta cần tỉnh táo ở tình huống này: từ thế kỷ 15 - 16 trở lại đây, thậm chí cho đến hết thế kỷ 20, kinh nghiệm lịch sử cho thấy các cường quốc tư bản chủ nghĩa trở thành đế quốc chủ nghĩa lớn lên được là nhờ biển. Các đế chế hình thành được trong thời đại tư bản chủ nghĩa, đế quốc chủ nghĩa đều là đế chế biển. Nhưng truyền thống của Trung Quốc mấy nghìn năm qua là đế chế lục địa.
Tại sao gọi Trung Quốc là đế chế lục địa? Từ đời Hán, Trung Quốc bắt đầu đi dần xuống phía Nam, chiếm những vùng đất sát biển, thế nhưng biển với người Trung Quốc chưa thành một thứ thế năng sống. Những sản vật biển nhiều khi bình thường, với họ vẫn là khó khăn, hiếm hoi, và đều xếp vào hàng quý hiếm, đặc sản, trong đó có muối. Người Trung Quốc bị ám ảnh bởi muối, thậm chí ứng xử với nó bằng quốc sách. Đời Hán có một cuốn sách cực kỳ nổi tiếng, đó là cuốn Diêm Thiết Luận (tạm dịch: Bàn về sắt và muối). Cho tới tận thời Quốc Dân đảng, buôn muối là một nghề mang tính đặc quyền và độc quyền ở Trung Quốc. Người Trung Quốc quản lý rất chặt môn bài buôn muối, và người buôn muối thường rất giàu. Đối với cư dân miền núi, vùng sâu của Trung Quốc thì muối trở thành vấn đề lớn. Người ta buôn muối như buôn thuốc phiện. Trung Quốc đến bây giờ có 9,6 triệu cây số vuông về mặt diện tích, nhưng chỉ có hơn 18.000 cây số bờ biển, tỉ lệ bờ biển trên lãnh thổ là thấp nên chưa bao giờ Trung Quốc được xem là một quốc gia biển cả.
Vậy người Trung Quốc ý thức về biển tự bao giờ, thưa ông?
Khi người Trung Quốc đẩy hạt nhân của mình lùi dần xuống phương Nam, tiến sâu thêm xuống phía nam vùng sông Dương Tử, (từ vùng Giang Nam cũ, bây giờ là Triều Châu, Phúc Kiến, Thượng Hải, Quảng Châu…). Từ cửa sông Dương Tử mới có lối ra của Trung Quốc với biển. Đấy là xứ mở ra với biển của nền văn hoá Bách Việt, bộ phận thứ hai của văn hoá Trung Hoa. 
Tôi phải nhấn mạnh họ không phải là người Hán, không có cùng cái vô thức lịch sử với bộ phận cư dân phương Bắc. Thế nên họ thường xuyên bị coi là khu vực ngoại vi, bị gọi là dân Nam Man, và bị kỳ thị bởi người Hán. Trong thập đại đế vương (10 bậc đế vương) được ghi danh của Trung Quốc, chỉ có một người gốc phương Nam là Chu Nguyên Chương, còn lại là người phương Bắc. Nhà Minh có gắn bó với phương Nam, nên không hề ngẫu nhiên mà trong hơn nửa thế kỷ đầu của triều đại nhà Minh, tầm nhìn biển bắt đầu được mở ra. Và chính thời đó mới xuất hiện Trịnh Hoà. 
Trịnh Hoà là người gốc Hồi giáo Ả Rập, mang toàn bộ tri thức, kinh nghiệm buôn bán Địa Trung Hải của tổ tiên ông để phục vụ Minh triều. Khi nhà Minh lập ra Nam Kinh, ông ta là tổng thái giám (hoạn quan), đề nghị và được chấp nhận đóng những đoàn tàu lớn đi ra biển. Ông có cả thảy bảy chuyến đi biển và đấy có thể coi là một trong những người sớm nhất đi vòng quanh thế giới. Tuy nhiên, ông cũng chỉ có khoảng trên dưới 30 năm thực hiện những công việc đó. Ghi chép về biển của Trung Quốc thời đó chỉ như vậy. Sau năm 1432 là được cho vào kho. Vài chục năm sau, các vua chúa thế hệ sau của nhà Minh cũng bị xâm nhập cái tâm thế lục địa Bắc phương hoá, coi lục địa quan trọng hơn, quay lưng lại với biển, trọng nông.
Không phải ngẫu nhiên mà ngay sau Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc vừa qua, Tập Cận Bình đi xuống hạm đội Nam Hải và đứng trên hạm đội này công bố về khát vọng thực hiện giấc mộng Trung Hoa, cái khát vọng trở thành đế chế biển muộn màng từ kinh nghiệm cay đắng không theo được với các đế chế biển trước đây. Trung Quốc bây giờ cảm thấy mình đủ nội lực, cảm thấy mình cần phải trở thành như vậy: một đế chế biển. Thậm chí giờ tham vọng lớn hơn, đòi chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ chẳng hạn. Rõ ràng cái cách đặt vấn đề vẫn là một thứ chủ nghĩa nước lớn, coi tất cả các nước khác chỉ là “gia vị” trên bàn đàm phán.
Bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc ta. Vì trong cái vành đai văn hoá Hán truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc có bị thế đâu?
Trong bối cảnh đó, chúng ta có thoát ra được không, theo ông?
Tôi cho rằng, bị ràng buộc và lệ thuộc vào Trung Quốc không phải là định mệnh của dân tộc ta. Vì trong cái vành đai văn hoá Hán truyền thống thì Nhật Bản, Hàn Quốc có bị thế đâu? Ngay Triều Tiên bây giờ cũng đang vùng vằng thoát ra khỏi Trung Quốc. Những nước thoát ra được gần như đều trở thành nước công nghiệp lớn.
Việt Nam từ hàng nghìn năm nay rõ ràng vẫn độc lập với Trung Quốc, và khi bắt đầu có chủ nghĩa đế quốc, thực dân thì thế giới bị đa cực hoá, do đó việc gắn, trói vào một cực càng không phải là định mệnh. Tuy nhiên, Trung Quốc thì rõ ràng không muốn nhìn thấy một Việt Nam mạnh, càng không muốn nhìn thấy một Việt Nam độc lập hoàn toàn với Trung Quốc mà chỉ muốn Việt Nam lệ thuộc, là chư hầu. Vấn đề còn lại ở đây là bản lĩnh, thái độ, trách nhiệm của người lãnh đạo với dân tộc. Chúng ta có làm được điều đấy không? Tôi nghĩ làm được.
Địa chính trị của ta ở cạnh một nước “lớn mà chơi không đẹp” thì cách ứng xử nên như thế nào, thưa ông?
Một điều phải thuộc nằm lòng là chúng ta cần học tập họ và hữu nghị với họ, đấy là những mệnh đề không thể khác được. Nền văn minh Trung Hoa là một nền văn minh vĩ đại, rực rỡ, rất nhiều thành tựu. Cha ông ta từng làm học trò của nền văn minh ấy. Và ngày nay không thiếu phương diện chúng ta vẫn tiếp tục là học trò. 
Về quan hệ quốc tế, hai nước có chung một đường biên giới dài như vậy, không muốn hữu nghị cũng không được. Nhưng mà luôn luôn nhớ rằng đấy là một nước lớn vô trách nhiệm và cư xử bẩn tính. Cộng sinh với họ rất mệt mỏi nhưng vẫn phải kiên trì vì đó là điều tất yếu, không thể khác. Chúng ta phải khẩn trương củng cố nội lực, kiện toàn tư chất, phẩm giá dân tộc… mới có đủ sức mạnh đối đầu cạnh tranh với họ. Với Trung Quốc, không bao giờ được ảo tưởng, cũng không bao giờ được mỏi gối chùn chân. Người Trung Quốc buộc ta luôn phải cảnh giác.
Lê Vũ Quý Linh (thực hiện)
(Bài đăng trên báo Người Đô Thị số 18, phát hành ngày 28/5/2014)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Học giả Trung Quốc viết:

Lý Lệnh Hoa: Trung Quốc rất vô trách nhiệm khi vẽ đường lưỡi bò

  

Đường lưỡi bò tham lam và phi lý của Trung Quốc
 "Ở nước ta có rất nhiều thứ được-gọi-là chuyên gia và học giả về Luật Biển. Trong một thời gian dài, truyền thông Trung Quốc đã đăng tải quá nhiều phát biểu vô trách nhiệm về những vấn đề về liên quan đến biển Đông".

 "Họ chẳng hiểu gì Công ước 1982 hay UNCLOS, họ bỏ qua lý lẽ và thậm chí coi thường Công ước đã ký.


 Những gì họ nói, họ biết về “đường lưỡi bò” là vô cùng cẩu thả. Tất cả các đường ranh giới trên đất liền và hải phận trên thế giới đều là những đường liền mạch, rõ ràng, còn đường lưỡi bò chỉ là một vệt 9 đoạn đứt quãng quá mơ hồ".

Đó là những dòng mở đầu một bài viết trên trang blog cá nhân của học giả Lý Lệnh Hoa, một chuyên gia của Trung tâm Thông tin Hải dương Trung Quốc.

"Hooper, một học giả từ Trung tâm Nghiên cứu Hải dương học của Đại học Bắc Kinh, đã có bài viết khoa học, trong đó khẳng định 'Đường lưỡi bò của Trung Quốc là hợp pháp'. Đây là một văn bản cẩu thả, không chịu xem xét kỹ lưỡng các quy định pháp lý, luật pháp quốc tế.

Nếu cứ khăng khăng theo đuổi lối suy diễn, hành xử như vậy trong vấn đề Biển Đông, Trung Quốc sẽ đuối lý hơn các quốc gia láng giềng, một mặt sẽ bị lên án về khía cạnh đạo đức bởi cộng đồng quốc tế, mặt khác, Trung Quốc sẽ thành đối tượng của những lời chỉ trích", ông Lý Lệnh Hoa nhận xét trong một bài viết đăng trên blog cá nhân của mình.

Bài viết được đăng lên ngày 21/5/2014, trong bối cảnh tình trên Biển Đông ngày càng căng thẳng, Trung Quốc có nhiều phát ngôn ngang ngược, hiếu chiến và coi thường luật pháp quốc tế.

"Những phát ngôn của các “chuyên gia” này về Biển Đông đã gây nên những ảnh hưởng tiêu cực ở trong nước và đáng ra nên phải bị chỉ trích nghiêm khắc", học giả Lý Lệnh Hoa nhận định. 

Trong bài viết rất dài của mình, ông Lý Lệnh Hoa đã dẫn một bài nghiên cứu chi tiết và sắc sảo, chỉ ra những lỗi ngụy biện và vô lý của Trung Quốc trong việc đưa ra yêu sách đường lưỡi bò tham lam và phi pháp và lối hành xử vô lối của nhà cầm quyền Trung Quốc trên biển hiện nay.

"Trên thực tế, Trung Quốc chưa từng có bất cứ một văn bản chính thức nào chứng minh được mình có chủ quyền lịch sử với đường chữ U mà Trung Quốc đang đòi hỏi. 

...Nói về tính lịch sử của "chủ quyền trên biển của Trung Quốc", chúng ta nên nhớ rằng, Trung Quốc là một quốc gia lục địa. Từ xa xưa cho đến tận đời nhà Minh, nhà Thanh, Trung Quốc vốn không quan tâm nhiều đến biển.

Làm sao lại có thể dám nói rằng, người Trung Quốc từ xa xưa đã vươn ra hoạt động trên một vùng biển rộng đến hơn 200 vạn km2 mà Trung Quốc đang đòi hỏi hiện nay? Đấy là một sự ngụy tạo, bóp méo sự thật lịch sử", ông Lý Lệnh Hoa căn vặn về cái mà học giả gọi là "chủ quyền lịch sử của Trung Quốc trên biển Đông".

Nói về thứ lý luận vô lý được nhà cầm quyền và nhiều học giả Trung Quốc gọi là "lợi ích quốc gia của Trung Quốc ở biển Đông", ông Lý Lệnh Hoa đã chỉ trích rất gay gắt, “Các chuyên gia hàng hải Trung Quốc gần đây thường cao giọng nói về thứ gọi là “lợi ích quốc gia của Trung Quốc” trên biển Đông, vậy các quốc gia khác trong khu vực thì không có “lợi ích quốc gia” của họ trên vùng biển này sao? 

Việt Nam có 1/3 GDP từ nguồn lợi biển, vậy Trung Quốc có nên cân nhắc đến lợi ích của họ?

Nếu nước nào cũng chỉ nhắm đến lợi ích cho riêng mình mà không tôn trọng luật pháp quốc tế, không nghĩ đến lợi ích của nước láng giềng, không xem xét, tôn trọng thái độ và khả năng chịu đựng của nhau thì Biển Đông sẽ mãi mãi là tâm bão tranh cãi, thậm chí dẫn đến chiến tranh.

"Đối với những tranh chấp trên Biển Đông, không thể chỉ nhìn từ cái lợi của mình, mà phải nhìn vào thực tế, nhìn từ quan điểm của nước khác, nhìn vào lẽ phải và công lý", ông nhấn mạnh.

"Nếu đã không biết đặt mình vào vị trí của người khác, thì tại sao Trung Quốc còn giãy nảy lên phản đối chỉ vì ông Abe đến thăm đền chiến tranh Yasukuni?”, ông Lý Lệnh Hoa phản bác mạnh mẽ lối hành xử ngang ngược của Trung Quốc trên biển.

Ngoài bài viết trên, gần đây học giả Lý Lệnh Hoa cũng nhận được lời đề nghị phỏng vấn của "một phóng viên Việt Nam". Nhưng sau khi cân nhắc đến những hệ lụy có thể xảy đến, vị học giả này đã viết một "Thư ngỏ gửi truyền thông Việt Nam".

Tiếp theo, Lý Lệnh Hoa viện dẫn một phần bài viết hồi tháng 3/2014 về thái độ và những cơ sở luật pháp của Việt Nam đối với vùng lãnh hải trên biển Đông.

"Năm 1994, Quốc hội Việt Nam đã bày tỏ sẵn sàng sửa đổi luật biển ở trong nước và chấp hành các điều khoản của Luật Biển quốc tế.

Việt Nam đã phê duyệt Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 (UNCLOS). Theo đó, Quốc hội Việt Nam cho phép Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chính phủ đánh giá lại tất cả các luật pháp quốc gia, và xem xét thực hiện những thay đổi cần thiết cho phù hợp với tinh thần của Công ước 1982.  

Ngày 21/6/2012, Quốc hội Việt Nam thông qua "Luật Biển Việt Nam", tuyên bố rõ Hoàng Sa và Trường Sa  thuộc chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam vào trong điều luật cụ thể. 

Khi đó, chính phủ Trung Quốc lên tiếng gay gắt, cho rằng hai quần đảo trên thuộc lãnh thổ Trung Quốc với tên gọi Nam Sa và Tây Sa (Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam). Hai bên đều tuyên bố chủ quyền “không tranh cãi” với vùng biển này. 

Giờ đây, Trung Quốc và Việt Nam hãy dùng trí tuệ để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ thay vì các hành vi khiêu khích", Lý Lệnh Hoa nêu quan điểm.

"Như chúng ta đều biết, vào thế kỷ 21, với sự phát triển nhanh chóng của hội nhập kinh tế toàn cầu, chủ quyền lãnh thổ không còn tuyệt đối, nếu nhất quyết theo đuổi thái độ cực đoan này, mọi chuyện sẽ rơi vào bế tắc", học giả Trung Quốc nhận định và kêu gọi các giải pháp hòa bình trong tranh chấp giữa hai nước Việt - Trung.

Trong đoạn cuối bức thư ngỏ gửi truyền thông Việt Nam, một lần nữa, ông lại kêu gọi các học giả Trung Quốc và truyền thông phải có trách nhiệm hơn với phát ngôn và việc đưa tin của mình về những tranh chấp trên Biển Đông và Việt Nam.

Đồng thời, ông mong đợi truyền thông Việt Nam cũng sẽ giữ một thái độ thân thiện, khách quan với Trung Quốc.

“Cả hai bên Trung Quốc và Việt Nam đều cần phải bình tĩnh đàm phán để giải quyết những tranh chấp về biên giới lãnh thổ và hàng hải. 

Tôi, một học giả bình thường ở Trung Quốc, hy vọng rằng chính phủ hai nước và các dân tộc sẽ sống trong tình bạn và có một tương lai tốt đẹp hơn”, ông Lý Lệnh Hoa viết, thay lời kết cho lá thư ngỏ của mình.

Bích Chi  
lược dịch
Theo Infonet 

Phần nhận xét hiển thị trên trang