Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

Xuân Sách: “Chân dung biếm họa 100 nhà văn Việt Nam hiện đại”

Nhà xuất bản Văn học  in năm 1992
Bìa sách in lần đầu năm 1992, không phát hành rộng rãi.
Bìa sách in lần đầu năm 1992, không phát hành rộng rãi.
Tâm sự tác giả 
Những bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hồi ấy bước vào thập kỉ 60, tôi đang độ tuổi ba mươi, từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà Nội. Ngoài công việc của tòa soạn, thời gian chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối chỉ thị nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt… đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ. Các nhà văn, các họa sĩ, nhạc sĩ…thường ngồi tập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về “hai phe, bốn mâu thuẫn”, về “ba dòng thác cách mạng”, về “kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm…” mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao, hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuốt vội khói nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi, chuyển sang “bút đàm”.
            Vào năm 1962, có đợt học tập quan trọng, học Nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hòa bình chủ nghiã, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đốt. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh, đầy đủ cân đai bối tử, đi giày da, những đôi dày cao cổ nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giày đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi nói thêm về Vũ Cao, ông là người có biệt danh” quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Qui định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiên đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.
            Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ bằng chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán, và tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng võ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con đường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi vai”, tiểu thuyết “Chuyển vùng”viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự; đã sửa chữa nhiều lần; đưa qua vài ba nhà xuất bản, chưa “nhà” nào chịu.
Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất hay và tôi phiên âm, dịch:
            Văn nghiệp tiền trình khả điếu quân
            Mao đầu tận lạc tự mao luân
            Lưỡng kiên mai liễu phong trần lý
            Chuyển địa hà thời chuyển đắc ngân
   Dịch nghĩa:
Con đường văn nghiệp khá thương cho ông
Lông đầu ông đã rụng trụi như bánh xe
“Đôi vai” lầm lũi trên con đường gió bụi
“Chuyển vùng” đến bao giờ thì chuyển thành tiền được ?
 Dịch thơ:
            Con đường văn nghiệp thương ông
            Lông đầu rụng hết như lông cái đầu
            Đôi vai gánh mãi càng đau
            chuyển vùng nào nữa, làm sao thành tiền ?
 Dịch xong tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu, còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nỗi mặt đỏ bừng và nước mắt ràn rụa.
 Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung ! Trong bài thơ của Oánh phác họa một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm“Đôi vai”, “Chuyển vùng”. Và sau chốc lát, tiếp tục “trò đùa” của Oánh, tôi viết bài thơ về Hồ Phương đang ngồi cạnh tôi, bài thơ số 1 về chân dung nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện của anh “Trên biển lớn”, “Xóm mới”, “Cỏ non” và cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẩu giấy:
             Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
           Ngó trông về xóm mới khuất xa
            Cỏ non nay chắc đã già
               buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
         Tôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải. Anh đọc xong, trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đợi. Anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyền cho người khác. Đến giờ giải lao, chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh “Thằng này (chỉ XS) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi !”.
            Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường, bài thơ còn đụng chạm vào tính cách và sự đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm ?! Bài thơ ngụ ý rằng Hồ Phương viết nhiều chăng nữa vẫn không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ “buồn tênh lại giở thư nhà ra xem”.
            Trước kia, khi còn là lính địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt, rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến, dường như họ là một “siêu đẳng cấp” trong xã hội. Mỗi hành động, cử chỉ lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó  là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tập tễnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi về Hà Nội tôi được vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta, quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội, kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đấy là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh, và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa, nếu “vẽ”được chính xác những bức chân dung đó thì bộ mặt xã hội của thời đại họ đang sống đang viết cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài, khi những bài thơ chân dung lần lượt ra đời, được phổ biến không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt cả mong muốn của tôi.
            Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận xét về tính cách con người, tính cách nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét người rất sắc sảo chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ nhưng anh lại thích “thơ chân dung nhà văn”. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen đánh giá mọi lớp người trong xã hội thì cũng cần tự đánh giá giới mình, cũng có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ súy tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng toilet cũ khoảng ba mét vuông. Do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái phòng vệ sinh đó biến thành “phòng văn”, được ốp gạch men trắng bóng lau sạch ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói : “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có con quỉ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn với những bài thơ không thuộc loại “chân dung”. Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài thơ đó đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói bia hơi là “nhuận bút” đầu tiên nhưng không thuộc về người sáng tác mà về người phát hành.
            Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng rãi trong giới nhà văn. Lúc đầu còn kín đáo, dần dần thành công khai và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những buổi liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi khá đông đủ nhà văn, khi vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về các nhà văn có mặt lúc đó. Trong không khí như vậy, dù các anh các chị ấy có giận cũng cười xòa làm vui, riêng tôi thấy mình làm được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao nữa. Tôi nhớ sau buổi vui, anhNguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay lúc đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi “châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ”.
            Những bài thơ ấy cũng được lan truyền trong nhiều giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung. Thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ, ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú đó tuy có tính cách cá nhân  nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử, những tính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm của họ mà tôi hằng ngưỡng mộ, tôi cứ băn khoăn tự hỏi: Sao thế nhỉ ? với bề dày tác phẩm như thế, vị trí trong xã hội như thế, trong lòng người đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế, một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài. . . Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, dối trá, và nhất là phải sợ hãi. Một lần trên báo đăng bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo “thời tiết” chính trị, quay ngược lại những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi “Rất tiếc, một tài năng lỡ tàu”.
            Tôi không nghĩ mình đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắt thứ hai trong mỗi bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài tứ thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi, ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng, ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua tấm kính, và các con ông òa khóc, tôi bỗng thấy mình như người có tội.
            Một lần tôi gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia đến chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc “Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử”.
            Điều tôi không ngờ là cụ Đặng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy, ngồi đặt cằm lên đầu gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi “Thế còn Đặng Thai Mai ?”. Tôi lúng túng “ Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ, thưa bác”. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến “Anh viết về tôi rồi chứ ?”. Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hóa ra cụ quan tâm thật sự; khiến tôi vừa cảm động vừa thích thú. Nhưng biết sao được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.
            Còn cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách cao sang và thâm trầm, thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem, nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm !”.
            Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm”đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết, tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã đành khó ai vượt qua được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết, nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quì gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá lời cũng dễ hiểu, cái con “quỉ ám” nếu có thì cũng là sản phẩm của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như trong nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗi đau.
            Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của nó, không phải kì lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến nay đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị”, nhiều bài “ngoài luồng” cũng được gán cho tác giả, bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là “một cái gì đó” như có người đã nói nên mới tồn tại được, nếu nó có ích thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện”
Ngày xuân năm Nhâm Thân
Xuân Sách

TƯ LIỆU CỦA N VĂN NHT TUN

Năm 1992 một sự kiện ầm ĩ nổ ra trong giới xuất bản. Chuyện bắt đầu từ tập thơ “Lên chùa” của nhà thơ Xuân Sách vốn được sáng tác lai rai từ 30 năm trước. Vào một dịp thăm Xuân Sách ở Vũng Tàu, trung tướng Trần Độ ghi âm Xuân Sách đọc gần 100 bài thơ này. Cuối năm 1992, nhà văn Hoàng Lại Giang lúc đó là Trướng Chi nhánh NXB Văn Học tại TP HCM được nghe cuốn băng này và đề nghị  Xuân Sách cho xuất bản với tên “ CHÂN DUNG NHÀ VĂN”.
 Nhưng khi sách in xong, chưa kịp phát hành, nhà văn Hoàng Lại Giang cho biết:
“Phản ứng của nhà văn rất lớn, và đấy là điều tôi không ngờ đến.Những nhà văn lớn có bản lĩnh, họ chịu đựng nổi, im lặng. Nhưng những nhà văn tầm tầm, lồng lộn, rất gay gắt yêu cầu Bộ Văn hóa kiểm điểm và thu hồi”.
  Một cuộc họp của Bộ Văn hóa diễn ra, với năm đại diện: Ba thứ trưởng (Phan Hiền, Huy Cận và Nông Quốc Chấn), đại diện Hội Nhà văn Vũ Tú Nam, cùng Giám đốc NXB Văn học Lữ Huy Nguyên quyết định không thu hồi nhưng niêm phong số bản in 3000 cuốn. 20 năm sau, cho tới tận bây giờ, số sách này vẫn bị chôn dưới hầm cầu thang chi nhánh NXB Văn Học tại 290/20 Nam kỳ Khới  nghĩa Q3 TP HCM, chắc đã làm mồi cho mối.
 Lúc đầu Xuân Sách đặt tên tập thơ là “Lên chùa”, hàm ý gặp 100 pho tượng tức 100 chân dung ở đó.  Sau mới đổi tên là «Chân dung 100 nhà văn» 
Lời người gõ vi tính và biên tập “Chân dung nhà văn» online
 Thuở nhỏ tôi cậu bé làng Đông Lao ngoại thành Hà Nội từng vùi đầu đọc cuốn truyện “Đội thiếu niên du kích Đình Bảng” của Xuân Sách. Đến tuổi thanh niên, hát mãi bài thơ “Đường chúng ta đi” của Xuân Sách theo nhạc Huy Du “Việt Nam trên đường chúng ta đi. Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó. Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời. Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước mà vui sao ta chẳng nói nên lời .  . . ”
Nhà thơ Ngô Xuân Sách quê xã Trường Giang huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Sau truyện đầu tay “Đội thiếu niên du kích Đình Bảng” ông còn viết tiểu thuyết “Mặt trời quê hương”,  “Rừng bên sông”, truyện ngắn “Cô giáo làng”  (trước 1975), hai tiểu thuyết “Phía núi bên kia”và “Cuộc hôn nhân bị đánh cắp” (sau 1975).
 Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, lúc này tinh thần nhiều người trở nên uể oải, bi quan vì cuộc kháng chiến đã kéo dài quá lâu. Mặt khác những cái tiêu cực của chế độ XHCN bộc lộ từng mảng từng mảng khiến lòng tin bao người rã rời, ngơ ngác… Đây là lúc truyện tiếu lâm hiện đại mọc mầm và lan tỏa rộng rãi ở vùng Hà Nội. Thỉnh thoảng tôi nghe những bài thơ “dân gian” vịnh các nhà văn nhà thơ mà bật cười, chẳng mấy ai biết đấy là sáng tác của Xuân Sách. Không ai ngờ Xuân Sách là bởi giọng điệu thơ  Chân dung rất lạ…
 Khi biết là sáng tác của Xuân Sách, người đọc cảm phục bản lĩnh và tài hoa của nhà thơ . Một phong cách nhà thơ kẻ sĩ vừa cổ điển vừa hiện đại trong thơ ông. Cây bút của ông đứng cao hơn thời đại, rất hiếm có trong giới văn sĩ thời ấy.
 Tôi thử đặt tên cho mỗi bài  theo hiểu biết của mình mà làm cái mục lục bút danh.
Nhà thơ  được vịnh  sẽ nghĩ  thế nào về chân dung của họ ?
 Họ biết họ vẫn được sự cảm thông sâu sắc của Xuân Sách đồng thời họ phải cam chịu làm cái cớ cho nhà thơ châm biếm những cái non kém của thời cuộc, của chế độ xã hội …Họ làm cái thớt cho nhà thơ giận cá chém vào… Cũng có những người “nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào” nhưng không cãi được ! Chỉ đọc mà chơi thôi. Cái thú vị của văn chương là thế chăng ?
 Với sách này, cái tên Xuân Sách xứng đáng ghi vào dòng văn học trào phúng hiện đại của lịch sử văn học nước nhà. 
 Xuân Sách sáng tạo một thể tài trào phúng hiện đại độc đáo sau khi kế thừa Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, tiếng cười dân gian, tiếng cười chèo cổ …Thơ trào phúng Xuân Sách phát tán nhanh trong khí hậu văn chương tiếu lâm chính trị đang nóng lên ở đất Thăng Long Hà Nội. Có cái gì đó mới mẻ hiện đại trong thơ trào phúng Xuân Sách. Chỉ những người cầm bút chân chính mới viết được những lời đắng cay mà pha chút thân thiết đùa vui trong tình đồng chí đồng nghiệp.
 Tuy nhiên đọc thơ trào phúng Xuân Sách, ta thấy có một cái gì hẫng hụt. “Chân dung” như vậy ư ? Nghiêm túc mà nói, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự nghiệp đấu tranh thống nhất đất nước, binh đoàn văn thơ với cây bút làm vũ khí đã đóng góp chiến công đáng kể ! Vậy nên chăng đặt tên tập thơ là 100 chân dung biếm hoạ ? Những nét tươi sáng tốt đẹp của chân dung thì mọi người đã biết, Xuân Sách không vẽ lại trong tập thơ này. Nếu chỉ đặt hai chữ “chân dung” thì không được công bằng toàn diện khi đánh giá 100 nhà thơ nhà văn Việt Nam ấy.
 Trước hết Xuân Sách là một người nghiên cứu văn học độc đáo, đọc mỗi nhà văn, ông bắt ngay được cái nét tầm thường tiêu cực của họ. Ông vẽ  kí họa  chứ không vẽ  được “chân dung” nhà văn.
 Bên cạnh cảm hứng trào phúng còn có cảm hứng bi kịch. Những nỗi đau không thể nói ra của nhà văn nhà thơ Việt Nam. Những hi sinh thầm lặng cắn răng chịu đựng cho sự nghiệp lớn của dân tộc. Bi thương chung và riêng biến thành cái cười cay đắng trong lời thơ Xuân Sách.
 Căn cứ Lời nói đầu của tác giả, năm Nhâm Thân là 1992. Đó là những năm tháng tưng bừng không khí Đổi Mới ở Việt Nam. Nghe nói tác phẩm sắp in, ông nghe bạn hữu can ngăn mà bản thảo phải đình lại. Tác giả bèn phát hành theo kiểu photocopy bản viết tay, truyền tay cho bạn bè photo tiếp sức. Thứ tự 100 bài có lẽ do tác giả đánh số tự nhiên theo thời gian viết ra chứ không có ý nào khác. Tôi nhận được tập bản thảo photo lần thứ “n” mờ mịt của thạc sĩ Phạm Xuân Đại một người bạn văn Hà Nội gửi cho,  rồi đánh máy lại, viết phần mở đầu bày tỏ mấy ý kiến riêng. Tôi in nghiêng những gì biết khá chắc đó là tên tác phẩm và ý thơ văn của nhà văn mà Xuân Sách đã  “mượn”, “tập”, “nhại” theo.
 Nỗi đau nhà văn không phải của riêng họ mà là nỗi đau chung của người trí thức Việt Nam một thời.
 Tôi in ra đây bài thơ nổi tiếng “Đường chúng ta đi” của Xuân Sách để bạn đọc đối chiếu sự khác biệt lạ lùng, sự đổi thay phong cách giọng điệu của nhà thơ độc đáo này.
 Đường chúng ta đi
Thơ Xuân Sách – nhạc Huy Du
 Việt Nam
trên đường chúng ta đi
Nghe gió thổi đồng xanh quê ta đó
Nghe sóng biển ầm vang xa tận tới chân trời
Nghe ấm lòng những khi đang dồn bước
mà vui sao ta chẳng nói nên lời
Dặm đường xa ta đi giữa mùa xuân
ta đi giữa tình thương của Đảng
tiếng Bác Hồ rung động mãi trong tim
Đường ta đi ánh lửa soi đêm dài
đường ta về trong nắng ấm ban mai .
Việt Nam Việt Nam
qua từng bước gian nan lớn lên rồi đẹp những mùa xuân
 *
Ta đi qua phố qua làng ngọn đèn sáng giục lòng ta đó
Lời mẹ nói ấm lành ngọn gió, đàn em vui ríu rít mái trường
Ta đi đường rợp bóng hàng dương, đất bom đào đã lên màu cỏ mới
Những cặp mắt đêm đêm trông đợi
chiến trường xa dồn dập những chiến công
Miền Nam ơi miền Nam
Hỡi những dòng sông soi bóng dừa xanh
những đỉnh núi khuất mây mù xa tắp
Ta sẽ đến nơi đâu còn giặc
Ta chưa về khi tổ quốc chưa yên
Miền Nam, miền Nam, nghe từng tiếng vang vang .
 Danh mục 100 bài thơ tôi tạo ra là 100 bút danh nhà văn
 Trong bản chép tay, nhà thơ Xuân Sách chỉ đánh số từ 1 đến 100. Giang Nam lãng tử đọc thơ và doán tên tác giả , ghi làm tựa đề mỗi bài.
 Bến Tầm Dương
  Đại học An Giang
  ngày 12 tháng 6 năm 2003.
 Phùng Hoài Ngọc cẩn bút
 Danh mục 100 nhà thơ, nhà văn:
1. Nguyễn Đình Thi
2. Hồ Phương
3. Tô Hoài
4.  Nguyên Hồng
5.  Nguyễn Công Hoan
6.  Nguyễn Tuân
7.   Huy Cận
8.   Xuân Diệu
9.  Tế Hanh
10.  Chế Lan Viên
11.  Nguyễn Thi (Nguyễn Ngọc Tấn)
12.  Kim Lân
13.  Tú Mỡ
14.  Đồ Phồn (Bùi Huy Phồn)
15. Hoài Thanh
16.  Vũ TúNam
17.  Hữu Mai
18.  Đỗ Chu
19.  Xuân Quỳnh
20.  Phạm Tiến Duật
21. Nguyễn Thành Long
22.  Đào Vũ
23.  Nguyễn Bính
24. Nguyễn Văn Bổng (Trần Hiếu Minh)
25. NguyênNgọc (NguyễnTrung Thành)
26.  Vũ Thị Thường
27.  Quang Dũng
28.  Mai Ngữ
29.  Nguyễn Khải
30.  Hoàng Trung Thông
31.  Chính Hữu
32. Thanh Tịnh
33. Chu Văn
34.  Ngô Tất Tố
35. NamCao
36.  Xuân Thuỷ
37.  Lưu Trọng Lư
38.  Nguyễn Khoa Điềm
 39.  Nguyễn Kiên
 40. Anh Thơ
 41.  Xuân Thiều
 42.  Nguyễn Thị Như Trang
43.  Anh Đức (Bùi  Đức Ái)
44.  Thế Phương
45.  Vũ Trọng Phụng
46.   Xuân Thiêm
47.   Đào Hồng Cẩm
48.   Nguyễn Quang Sáng
49.   Trần Thanh Giao
50.   Phù Thăng
51.  Nguyễn Thị Ngọc Tú
52.  Vũ Cao
53. Phan Tứ
54.  Nguyễn Huy Tưởng
55. Thu Bồn
56. Bùi Hiển
57.  Võ Huy Tâm
58.  Nông Quốc Chấn
59. Thế Lữ
60.  Nguyễn Minh Châu
61. .Phạm Huy Thông
62.  Giang Nam
63.  Bằng Việt
64.  Nguyễn Trọng Oánh
65.  Nguyễn Xuân Sanh
66.  Thâm Tâm
67. Nguyễn Huy Thiệp
68.  Phùng Quán
69. Tố Hữu
70. Dương Thu Hương
71. Hữu Thỉnh
72. Trần Bạch Đằng
73.  Nguyễn Duy
74.  Nguyễn Mạnh Tuấn
75. Trần Mạnh Hảo
76.  Hoàng Cầm
77.  Lê Lựu
78.  Vũ Quần Phương
79.  Hữu Loan
80.  Lí Văn Sâm
81. Tản Đà
82.  Lưu Quang Vũ
83.  Hà Minh Tuân
84.  Minh Huệ
85.  Văn Cao
86.  Ma Văn Kháng
87.  Vũ Bão
88.  Hồ Dzếnh
89.  Hoàng Phủ Ngọc Tường
90. Phạm Thị Hoài
91. Thanh Thảo
92. Trần Dần
93. Khương Hữu Dụng
94. Bùi Minh Quốc
95. Ý Nhi
96. Yến Lan
97. Phan Thị Thanh Nhàn
98. Trần Đăng Khoa
99. Hòang Lại Giang            
100. Tự  hoạ (Xuân Sách)
(Lưu ý: những chữ in nghiêng là tên tác phẩm hoặc câu thơ, câu văn của nhà thơ, nhà văn).
1. Hồ Phương
Trên biển lớn lênh đênh sóng nước
Ngó trông về xóm mới khuất xa
Cỏ non nay chắc đã già
buồn tênh lại giở thư nhà ra xem
2. Nguyễn Đình Thi
Xung kích tràn lên nước vỡ bờ
Đã vào lửa đỏ hãy còn mơ
Bay chi mặt trận trên cao ấy
Quên chú nai đen vẫn đứng chờ.
3 . Tô Hoài
Dế mèn lưu lạc mười năm
để O chuột phải ôm cầm thuyền ai
Miền Tây sen đã tàn phai
Giăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.
                                  (chú thích: Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen)
4. Nguyên Hồng
Bỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉ
Sóng gầm sông Lấp mấy ai hay
Cơn bão đến động rừng Yên Thế
Con hổ già uống rượu giả vờ say .
 5. Nguyễn Công Hoan
Bác Kép Tư Bền rõ đến vui
Bởi còn tranh tối bác nhầm thôi
bới tung đống rác nên trời phạt
trời phạt chưa xong bác đã cười.
6. Nguyễn Tuân
Vang bóng một thời đâu dễ quên
Sông Đà cũng muốn đẩy thuyền lên
Chén rượu tình rừng cay đắng lắm
Tờ hoa lại trút lệ ưu phiền .
7. Huy Cận
Các vị La Hán chùa Tây Phương
Các vị gầy quá tôi thì béo
Năm xưa tôi hát vũ trụ ca
Bây giờ tôi hát đất nở hoa.
Tôi hát chiến tranh như trảy hội .
Đừng nên xấu hổ khi nói dối
Việc gì mặt ủ với mày chau
Trời mỗi ngày lại sáng có sao đâu !
8.  Xuân Diệu
Hai đợt sóng dâng một khối hồng
Không làm trôi được chút phấn thông
Chao ôi ngói mới nhà không mới
Riêng còn chẳng có, có gì chung !
9. Tế Hanh
Quá tuổi hoa niên đã bạc đầu
Tình còn dang dở tận Hàng Châu
Khúc ca mới hát sao buồn thế
Hai nửa yêu thương một nửa sầu
10. Chế Lan Viên
Điêu tàn ư ? Đâu chỉ có điêu tàn
Ta nghĩ tới vàng sao từ thuở ấy
Chim báo bão, lựa chiều cơn gió dậy,
lựa ánh sáng trên đầu mà thay đổi sắc phù sa
Thay đổi cả cơn mơ
Ai dám bảo con tàu không mộng tưởng
mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng .
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
mặt anh em trong suối cạn Hội nhà văn .
11Nguyễn Thi
Trăng sáng soi riêng một mặt người
Chia ly đôi bạn cách phương trời
Ước mơ của đất anh về đất
Im lặng mà không cứu nổi đời
 12. Kim Lân
Nên danh nên giá ở làng
Chết vì ông lão bên hàng xóm kia
Làm thân con chó sá gì
Phận đành xấu xí cũng vì miếng ăn
13. Tú Mỡ
Một nắm xương khô cũng gọi mỡ
Quanh năm múa bút để mua cười
Tưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngược
Nào ngờ trở gió lại trôi xuôi .
14. Đồ Phồn
Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn ông đồ vôi
Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng .
15. Hoài Thanh
Vị nghệ thuật nửa cuộc đời
Nửa đời sau lại vị người ngồi trên
Thi nhân còn một chút duyên
Lại vò cho nát lại lèn cho đau
Bình thơ tới thuở bạc đầu
Vẫn chưa thể tất nổi câu nhân tình
Giật mình mình lại thương mình
Tàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan .
16. Vũ Tú Nam
Vốn cùng nhân dân tiến lên
Mùa đông năm ấy bỏ quên cờ đào
Quay về nấp bóng ca dao
Giật mình nghe một tiếng chào: Văn Ngan !

17. Hữu Mai
Hỏng đôi mắt phải đâu là mất hết
Trong cặp còn hồ sơ điệp viên
Ông cố vấn chẳng sợ gì cái chết
Cao điểm cuối cùng quyết chí xông lên .

18. Đỗ Chu
 Đám cháy ở sau lưng
 Đám cháy ở trước mặt
 Than ôi mày chạy đâu
 Dưới vòm trời quen thuộc
  Đốt bao nhiêu cỏ mật
  không bay mùi thơm tho .
  Càng hun càng đỏ mắt
  quay về thung lũng cò .
19. Xuân Quỳnh
Mải hái hoa dọc chiến hào
Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay
Thói quen cũng lạ lùng thay
Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn .
20. Phạm Tiến Duật
Trường Sơn đông em đi hái măng
Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính
 Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy ! Giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh .
21. Nguyễn Thành Long
Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy .
Để mối đùn lên cái gốc già .
22. Đào Vũ
Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc lâu rồi mất cả tên .
23.  Nguyễn Bính
Hai lần lỡ bước sang ngang
Thương con bướm đậu trên giàn mồng tơi
Trăm hoa thân rã cánh rời
Thôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ .
24. Nguyễn Văn Bổng
Nhọc nhằn theo bước con trâu
Hỡi người áo trắng nông sâu đã từng
mỗi bước đi một bước dừng 
mà sao vẫn lạc giữa rừng U minh .
25. Nguyên Ngọc
Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng xà nu .
26. Vũ Thị Thường
Từ trong hom giỏ chui ra
Đã toan gánh vác sơn hà chị ơi
Định đem cái lạt buộc người
Khổ thân ông lão vịt trời phải chăn .
27. Quang Dũng
Sông Mã  xa rồi Tây tiến ơi
Về làm xiếc khỉ với đời thôi
 Nhà đồi một nóc chênh vênh lắm
 Sống tạm cho qua một kiếp người
 Áo sờn thay chiếu anh về đất
Mây đầu ô trắng, Ba Vì xanh
Gửi hồn theo mộng về Tây tiến
 Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
28. Mai Ngữ
Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật
 Biết ông sòng phẳng tự bao giờ
 Cái con thò lò quay sáu mặt
 Vỗ  hụt mấy lần ông vẫn trơ
29. Nguyễn Khải
Cha và con và . . . họ hàng và …
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại nhát!
30Hoàng Trung Thông
 Đường chúng ta đi trong gió lửa
 Còn mơ chi tới những cánh buồm
 Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất
 đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm .
31.  Chính Hữu
Tấm áo hào hoa bạc gió mưa
Anh thành đồng chí tự bao giờ ?
Trăng còn một mảnh treo đầu súng
Cái ghế quan trường giết chết thơ .
32. Thanh Tịnh
Bao năm ngậm ngải tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa dòng Hương Giang
Bạc đầu mới biết lạc đường
Taykhông nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió bay .
33. Chu Văn
Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển  thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
quay về đất mặn kéo cày cho xong
34.  Ngô Tất  T ố
Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
chia xôi chia thịt lại chia quyền .
Việc làng việc nước là như vậy
 Lộn xộn cho nên phải tắt đèn .
35Nam Cao
Anh còn đôi mắt ngây thơ
sống mòn mà vẫn đợi chờ tương lai
Thương cho thị Nở ngày nay
kiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo .
36. Xuân Thủy
Xoắn mãi dây tình thơ bật ra
Paristhì thích hơn ở nhà
Đông y ắt hẳn hơn tây dược
Xe tải không bằng xe von ga
Trên đời kim cương là quí nhất
thứ đến tình thương dân nghèo ta
Em chớ chê anh già lẩm cẩm
Còn hơn thằng trẻ lượn honda .
37. Lưu Trọng  Lư
Em không nghe mùa thu
Mùa thu chỉ có lá .
Em không nghe rừng thu
rừng mưa to gió cả .
Em thích nghe mùa xuân
Con nai vờ ngơ ngác
Nó ca bài cải lương .
38. Nguyễn Khoa Điềm
 Một mặt đường khát vọng
cuộc chiến tranh đi qua
rồi trở lại ngôi nhà
đốt lên ngọn lửa ấm
Ngủ ngoan a kai ơi
 ngủ ngoan a kai à . . .
39. Nguyễn Kiên
Anh Keng cưới vợ tháng mười
những đứa con lại ra đời tháng năm .
Trong làng kháo chuyện rì rầm
vụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đầy kho .

40. Anh Thơ
Ấy bức tranh quê đẹp một thời
Má hồng đến quá nửa pha phôi
Bên sông vải chín mùa tu hú
 khắc khoải kêu chi suốt một đời  .
41. Xuân Thiều
Đôi vai thì gánh lập trường
Đôi tay sờ soạng ven đường cuối thôn
Nghe anh kể chuyện đầu nguồn
về nhà thấy mất cái hồn của em .
42. Nguyễn Thị  Như  Trang
Nhá nhem khoảng sáng trong rừng
để cho cuộc thế xoay vần hơn thua .
Xác xơ màu tím hoa mua
Lửa chân sóng hoá mây mưa suốt ngày .
43. Anh Đức
Chị Tư Hậu đẻ ra anh
Ví như hòn đất nặn thành đứa con
Biển xa gió dập sóng dồn
Đất tan thành đất chỉ còn giấc mơ .
44. Nguyễn Thế  Phương
 Đi bước nữa rồi đi bước nữa
Phấn son mưa nắng đã tàn phai
Cái kiếp đào chèo là vậy đó
Đêm tàn bạn cũ chẳng còn ai .
45. Vũ Trọng Phụng
  Đã đi qua một thời giông tố
Qua một thời cơm thầy cơm cô
còn để lại những thằng Xuân tóc đỏ
vẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ .
 46. Xuân Thiêm
Thơ ông tang tính tang tình
Cây đa bến nước mái đình vườn dâu
Thân ông mấy lựơt lấm đầu
miếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm .
47.   Đào Hồng  Cẩm
Bắt đầu từ lão nghị hụt
Cầm dao giết một mạng người
Chị Nhàn phải đi bước nữa
lấy đại đội trưởng của tôi .
Cuộc đời mấy phen nổi gió
phải đem tổ quốc thề bồi .
Lần này ông ra ứng cử
chắc là trúng nghị viên thôi
48. Nguyễn Quang Sáng
Ông Năm Hạng trở về đất lửa
với chiếc lược ngà vượt Trường sơn
Bỗng mùa gió chướng vừa nổi dậy
ông biến thành thằng nộm hình rơm .
49. Hoàng Văn Bổn (*)
Có những lớp người đi vỡ đất
Mùa mưa không trồng lúa trồng ngô
lại gieo hạt bông hường bông cúc
Trên mảnh đất này hoa héo khô .
50.  Phù Thăng
  Chuyện kể cho người mẹ nghe
biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang
Đứa con nuôi của trung đoàn
Phá vây xong lại chết mòn trong vây  .
51.  Nguyễn Thị Ngọc Tú
  Đất làng vừa một tấc
Bao nhiêu người đến cày
Thóc giống còn mấy hạt
đợi mùa sau sẽ hay .
52.  Vũ Cao
Sớm nay nhấp một chén khà
Bâng khuâng tự hỏi đâu là  núi Đôi
những người cùng làng với tôi
muốn sang đèo trúc, muộn rồi đừng sang .
53. Phan Tứ (Lê Khâm)
Bên kia biên giới anh sang
Trước giờ nổ súng về làng làm chi .
Mẫn và tôi  tính chi li
Gia đình má Bảy lấy gì nuôi anh ?

54. Nguyễn Huy Tưởng
Anh chẳng còn sống mãi
 với thủ đô, luỹ hoa .
 Để những người ở lại
 bốn năm sau khóc oà .
55. Thu Bồn
  Chim Chơ rao cất cánh ngang trời
Tình như chớp trắng nháy liên hồi
Đám mây cánh vạc tan thành nước
Mà đất ba dan vẫn khát hoài .
56. Bùi Hiển
Sinh ra trong gió cát
Đất Nghệ  An khô cằn
Bao nhiêu năm nằm vạ
trước cửa Hội nhà văn .
57. Võ Huy Tâm
Đem than từ vùng mỏ
về bán tại thủ đô
Bị đập chiếc cán búa
hoá ra thằng ngẩn ngơ .
58. Nông Quốc Chấn
 Tưởng anh dọn về làng xưa
 ngờ đâu về tận thủ đô nhận nhà.
 Sướng cái bụng lắm lắm à
 Đêm là đèo gió, ngày là hồ Tây .
59Thế Lữ
Với tiếng sáo thiên thai dìu dặt
mở ra dòng Thơ Mới cho đời .
Bỏ rừng già về vườn bách thú
Con hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi . 
60Nguyễn Minh Châu
Cửa sông cất tiếng chào đời
rồi đi ra những vùng trời khác nhau
Dấu chân người lính in mau
Qua miền cháy với cỏ lau bời bời .
 Đọc lời ai điếu một thời
Tan phiên chợ Giát hồn người về đâu ?
61. Phạm Huy Thông
Nếu Trương Lương không thổi địch sông Ô
liệu Hạng Võ có lên ngôi hoàng đế  ?
Nhưng buồn thay đã đánh mất Ngu cơ
đời chẳng còn gì,  thơ cũng thế .
62. Bằng Việt
Nhen lên một bếp lửa
Mong soi gương mặt người
bỗng cơn giông nổi dậy
mây che một khung trời
Đất sau mưa hỡi đất
Màu mỡ trôi về đâu ?
Còn trơ chiếc guốc võng
Trăng mài mòn canh thâu .
63. Giang Nam
Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những ngày trốn học bị đòn roi
Nay tôi yêu quê hương vì có ô che nắng
Có ghế ngồi viết những điệu thơ vui .
64.  Nguyễn Trọng Oánh ( ?)
 Một chút hương thơm trải bốn mùa
mười năm lăn lóc chốn rừng già
Quay về khứng chịu ơn mưa móc
Đất trắng mưa rồi đất lại khô .
  65. Nguyễn Xuân Sanh
 Xưa thơ anh viết không người hiểu
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nay anh chưa viết, người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà .
66. Thâm Tâm
        Người đi, ừ nhỉ, người đi thật  
       Đi thật nhưng rồi lại trở về
       Nhẹ như hạt bụi, như hơi rượu
       Mà đắm hồn người trong tái tê  .
67.  Nguyễn Huy Thiệp
Không có vua thì làm sao có tướng
Nên về hưu vẫn phải chết ở chiến trường .
Kiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặc
để vàng tôi trong lửa chịu đau thương .
68. Phùng Quán
 Hồn đã vượt Côn đảo
thân xác còn trong lao
Bởi nghe lời mẹ dặn
Nên suốt đời lao đao

69. Tố Hữu
Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng
Mắt trông về tám hướng phía trời xa .
Chân dép lốp bay vào vũ trụ
Khi trở về ta lại là ta .
              Từ ấy  tim tôi ngừng tiếng hát
               Trông về Việt Bắc tít mù mây
               Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt
               Máu ở chiến trường , hoa ở đây .
70Dương Thu Hương
Tay em cầm bông bần li
Bờ cây đỏ thắm làm chi não lòng
Chuyện tình kể trước rạng đông
Hoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờ
Thiên đường thì quá mù mờ
Vĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng ma .
Hành trình thơ ấu đă qua
Hỡi người hàng xóm còn ta với mình .
71. Hữu Thỉnh
Cùng đoàn quân anh đi tới thành phố
bị lạc đường, về Hội nhà văn.
Ừ nhỉ bao giờ quay trở lại
với năm anh em trên một chiếc xe tăng  .
72. Trần Bạch Đằng
(Hưởng Triều, Hiểu Trường, Ng.Trương Thiên Lý)
  Ván bài lật ngửa tênh hênh
Con đường thiên lý gập ghềnh mãi thôi
Thay tên đổi họ mấy hồi
vẫn chưa tới được chân trời mộng mơ .

73. Nguyễn Duy
 Mẹ và em đang ở đâu
giữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùa ?
Ổ rơm teo tóp ngày mùa
xác xơ thân lúa vật vờ thân tôi
Bờ tre kẽo kẹt liên hồi
Bầu trời vuông với một ngôi sao trời
Đánh thức tiềm lực suốt đời
Ai ? – Chẳng ai đáp lại lời của tôi .

74. Nguyễn Mạnh Tuấn
Anh đã đứng trước biển
Cù Lao Tràm  kia rồi
Những khoảng cách còn lại
Xa  vời  lắm  anh  ơi .
75. Trần Mạnh Hảo
Ôi thằng Trần Mạnh Hảo
đi phỏng vấn Chí Phèo.
Lão chết từ tám hoánh
đời mày vẫn gieo neo .
Còn cái lão Bá Kiến
đục bản in thơ mày.
Bao giờ mày say rượu
Bao giờ mày ra tay  ?
76Hoàng Cầm
Em ơi buồn làm chi
Em không buồn sao được
Quan họ đã vào hợp tác
Đông Hồ gà lợn nuôi chung
Bên kia sông Đuống em trông
Tìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng ?
                   77.  Lê Lựu
Người về đồng cói  người ơi
Phía ấy mặt trời mọc lại
Một thời xa vắng xa rồi
Phủ Khoái xin tương oai oái
Ở đời gặp may hơn khôn
Nào ai dám ghen dám cãi
Người đã đi Mỹ hai lần
Biết rồi khổ lắm nói mãi .
                 78. Vũ Quần Phương
Anh đứng thành tro . . . em có biết
Hôm qua lại gặp chuyến xe bò
Vẫn anh đi với vầng trăng cũ
Áo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ .
                              79. Hữu Loan
Ôi màu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
                                còn bận làm người       
Ngoảnh lại ba mươi năm
          tím mấy nghìn
                                 chiều hoang
                                               biền biệt .
80. Lí Văn Sâm
Kòn Trô dấn bước đường chinh chiến
Nửa gánh giang hồ nửa ái ân
Ngàn sau sông Dịch còn tê lạnh
Tráng sĩ có về  với   bến xuân .
81. Tản Đà
Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã tốn hơi
Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.
                       
82. Lưu Quang Vũ
Cũng muốn tin ở hoa hồng
Tin vào điều không thể mất
Cả tôi và cả chúng ta
đứng trong đầm lầy mà hát :
Ông không phải là bố tôi ,
Con chim sâm cầm đã chết”
 Ông không phải là bố tôi
Con chim sâm cầm ai giết ?
 83. Hà Minh Tuân
Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà Nội, bây giờ ở đâu  ?
84. Minh Huệ
Vỡ lòng câu thơ viết
Mời Bác ngủ Bác ơi
Đêm nay Bác không ngủ
Nhà  thơ ngủ lâu  rồi .
85. Văn Cao
Thiên Thai  từ giã về dương thế
Nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta
Sân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉ
Uống rượu say rồi hát quốc ca .

86.  Ma Văn Kháng
Khi về xuôi anh mang theo
đồng bạc trắng hoa xoè
với một mối tình sơn cước
Mùa lá rụng trong vườn
              năm này qua năm khác
Đám cưới vẫn không thành
              giấy giá thú chửa làm xong .
                   
87.  Vũ Bão
 Sắp cưới bỗng có thằng phá đám
Nên ông chửi bố chúng mày lên
Đầu chày đít thớt đâu còn ngán
Không viết văn thì ông viết phim .
88.  Hồ Dzếnh
Biết mấy mươi chiều khói thuốc bay
Quê nhà vạn dặm khuất trùng mây
Lui về kí ức chân trời cũ
Uống chén ruợu buồn không dám say  .
       
89. Hoàng Phủ Ngọc Tường
Trăm năm ông phủ . .  Ngọc Tường ôi
Cái nợ lên xanh giũ sạch rồi
Cửa Việt tung hoành con sóng vỗ
Sông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôi
Sử thi thành cổ buồn nao dạ
Chuyện mới Đông Hà tái nhợt môi
Từ biệt chốn xưa nhiều ánh lửa
Trăm năm ông phủ . . .Ngọc Tường ôi !
   
90. Phạm Thị Hoài
Dẫu chín bỏ làm mười
Hay mười hai cũng mặc
Chẳng ai dung thiên sứ đất này
Dụ đồng đội vào trong mê lộ
rồi bỏ đi du hí đến năm ngày .
91. Thanh Thảo
Giặc dã yên rồi
             về xoay khối vuông rubich
Đoán hậu vận rủi may,
                      thưa quí vị xin mời !
Xanh tím trắng đỏ vàng, đều đủ hết
Ta cùng vào cuộc chơi
Không gian bốn năm chiều
                   thời gian xin tuỳ thích
Đảo lộn tùng phèo thật giả trắng đen .
“Tôi như cục xà bông thứ thiệt”
Cứ đổ rượu vào
                    hình quí vị sẽ hiện lên.
         
92. Trần Dần
Người người lớp lớp    
xông ra trận       
Cờ đỏ
             mưa sa
                     suốt dặm dài
Mở đột phá khẩu
             tiến lên
                              nhất định thắng
Lô cốt mấy tầng  đè nát vai
Dẫu sông núi cỏ cây làm chứng
Hồn vẫn treo trên
                         vọng hải đài .
93.  Khương Hữu Dụng
Ba lô lên vai từ đêm Mười chín
“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”
Thì cứ khắc đi rồi khắc đến
Sao còn ngồi đấy cụ già Khương  ?
94. Dương Hương Li  (Bùi Minh Quốc)
  Tuổi hai mươi xung phong lên Tây bắc
 Nguyện hi sinh chiến đấu dưới cờ
 Lại xung phong vàoNamđánh giặc
 với bà mẹ đào hầm đầu bạc phơ phơ .
Hoà bình rồi tiến lên đổi mới

BẤT NGỜ NGÃ NGỰA CHỐN NON CAO

Dẫu thân thể mang đầy thương tích
thì cuộc đời vẫn đẹp sao

TÌNH YÊU VẪN ĐẸP SAO !

95. Ý Nhi
 Trái tim với nỗi nhớ ai
Như cây trong phố đứng hoài chờ trăng
Như người đàn bà ngồi đan
sợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng .
96. Yến Lan
Ra đi từ bến My Lăng
Bao năm dấu kín ánh trăng trong lòng
Tuổi già về lại bến sông
Trăng xưa đã lặn, phải chong đèn dầu .
97. Phan Thị Thanh Nhàn
Giấu một chùm thơ trong chiếc khăn tay
Em hăm hở đi tìm người trao tặng ,
Những kẻ phong lưu, những tên du đãng ,
mấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê  .
98. Trần Đăng Khoa
Chú dế góc sân hồn nhiên ca hát
hát thành thơ như nước triều lên
Khi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa
Biển một bên và em một bên  .
99. Hoàng Lại Giang
 Người đàn bà mà tôi ao ước
Trên vành đai Mỹ những năm xưa
Tình yêu đã lụi tàn cùng ký ức
 Nhưng còn đây tội lỗi, đến bao giờ  ?
100.  Tự hoạ (Xuân Sách)
Cô giáo làng tôi đã chết rồi
một đêm ra trận đất bom vùi
Xót xa Đình Bảng người du kích
Đau đớn Bạch Đằng lũ trẻ côi
Đường tới chiến công gân cốt mỏi
Lối vào lửa đạn tóc da mồi
Mặt trời ảm đạm quê hương 
ở một cung đường rách tả tơi.

Nhà xuất bản Văn học
 Lời cuối sách
Tiếp theo cuốn sách THƯƠNG NHỚ TÀI HOA của Nguyễn Vũ Tiềm phác thảo chân dung của 50 nhà thơ nhà văn đã quá cố, những cây bút có những đóng góp đặc sắc cho nền văn học của đất nước, hôm nay Nhà xuất bản Văn học gửi tới bạn đọc một tập hợp khác về chân dung nhà văn .
Đây là những kí hoạ có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua.Tác giả không nêu đích danh một ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả quan tâm tới văn học và người làm văn học vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to những đặc điểm và khi nhìn vào nét đặc tả ấy có mất cân đối và đôi khi phiến diện vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo cốt cách từng nhân vật .
Chất vui hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó . . .
Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên các chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước .
Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung. Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người đã có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình. Bạn đọc và thời gian đã là người đánh giá chính thức và công bằng nhất đối với họ.
 Rất mong độc giả và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết .
Chịu trách nhiệm xuất bản: Lữ Huy Nguyên 
Biên tập: Phan Nguyễn

Phần nhận xét hiển thị trên trang

SƯ TỬ VỀ GIÀ




ĐỖ NGỌC THỐNG: Không biết có phải “đất lành chim đậu” hay không mà khu tôi ở rất nhiều người nổi tiếng. Văn nghệ sĩ có, nhà khoa học có, thương gia nhiều, và đặc biệt là lắm quan chức. Nhiều ông làm to lắm, sơ sơ đã có đến mấy ông bộ trưởng, vụ trưởng, cục trưởng, giám đốc các sở,… nhưng phần lớn lại đã về hưu.
Sư tử - Chúa sơn lâm
Thỉnh thoảng tôi đi dạo vào buổi sáng hay buổi chiều quanh các vườn hoa, công viên, sân tập thể dục,… thường vẫn gặp họ. Người thì biết tên, kẻ chỉ biết mặt, trông rất quen mà không nhớ nổi tên. Phần lớn họ ăn mặc rất giản dị, nhiều ông còn luộm thuộm, thậm chí nhếch nhác là đằng khác. Nhưng có điểm chung trông ông nào cũng rất hiền lành, ít nói và lúc nào cũng có vẻ trầm tư như đang nung nấu, nghĩ ngợi một điều gì đó rất ghê…

Có hôm, tình cờ tôi ngồi uống trà ở một quán bán rong trong công viên cạnh một đôi bạn già. Nói là già nhưng cũng mới về hưu cả thôi. Một ông béo tốt đẫy đà, tươi tắn, còn ông kia trông héo hắt, khô gầy, khắc khổ. Ông béo oang oang như súng liên thanh, còn ông gầy nhỏ nhẹ, nhát gừng, nhiều lúc tôi không nghe được ông nói gì. Tôi ngồi uống nước và lặng lẽ quan sát. Ông gầy hỏi:

– Hôm nay cậu không ra cơ quan nữa à?

– Thôi, thôi từ hôm qua rồi. 3 tháng rồi còn gì nữa ông. Tôi đã nhận sổ hưu hơn 3 tháng và trong thời gian ấy, mặc dù đã có người thay, tôi vẫn không sao quen được. Sáng nào cũng vậy, đúng giờ ấy, tôi vẫn đến chỗ chiếc bàn tôi ngồi hơn hai chục năm nay, xin phép người mới thay mình ngồi vào đó một lúc cho nó đỡ nhớ ông ạ. Ngồi khoảng 30 - 40 phút rồi tôi mới rời bàn đi về nhà coi như một ngày làm việc đã qua.

Ông béo nói một thôi một thồi, nhưng khác cái là giọng ông lúc này như trầm xuống, nhất là khi nói tới cái bàn mà ông đã gắn bó hai chục năm nay.

Khi nghe ông béo nói, tôi để ý thấy ông gầy mặt buồn rười rượi, ủ ê, mắt đăm đăm nhìn về một phía… hình như ông cũng đang nhớ lại một thời. Đúng lúc cả hai ông đứng dậy, ông gầy chỉ nói: “Cậu mà cũng buồn bực thế à?”, rồi hai ông đi bộ tiếp con đường mà họ vẫn thường đi.

Tôi cũng vừa định đứng dậy, thì bà bán nước lẩm bẩm: “Rõ khổ ! Khi đang còn làm to không biết có nghĩ đến lúc này không?”.

Tôi lân la hỏi mới biết ông béo vốn chỉ là một người biên tập, sửa morat cho một nhà xuất bản. Nhưng ông gầy thì làm chức gì to lắm. Bà ở gần nhà ông này nên biết rất nhiều chuyện. Bà kể khi còn đương chức, vào những dịp lễ tết, người ra kẻ vào nhà ông tấp nập; chen chúc như đi hội, đi chùa; xe ô tô xếp hàng dài. Nhiều người chỉ vào bên trong được ba bốn phút, thế là lại phải ra ngay để người khác, đoàn khác còn vào. Vợ ông ấy tiếp khách nhiều quá, có hôm tụt cả huyết áp.

– Chẳng biết ông ấy có nhớ hết mọi người đến không nữa – bà bán nước tiếp – nhưng thấy ai ra khỏi nhà ông ấy cũng mặt mày phấn khởi, rạng rỡ lắm, cứ như vừa xong một việc lớn…

Rồi cũng theo lời bà, những ngày sau khi ông về hưu, tết nhất không một bóng người. Cửa khóa im ỉm. Sân nhà đầy lá. Lớp lớp không thấy ai quét. Ông ra vào lặng lẽ như một cái bóng. Ban đầu ông ít ra khỏi nhà, gần đây có “ông béo biên tập” rủ nên thường đi dạo hơn…

*
Tôi ngồi lặng trong bóng buổi chiều buồn. Xung quanh lá vàng rơi lộp bộp mỗi khi có cơn gió nổi lên. Vòm cây xạc xào như chia sẻ nỗi vơi đầy, vui buồn, sướng khổ của cuộc đời này. Tôi bỗng thấm hiểu những gì đang diễn ra trong tâm hồn 2 ông bạn già đã nghỉ hưu, nhất là với ông gầy. 

Cứ thử tưởng tượng, khi ông còn đương chức; từ mờ sáng đến tận đêm khuya, lúc nào cũng có kẻ chực người chờ, đón rước linh đình. Một bước là xe, hai bước là máy bay. Mở mắt ra đã thấy nỉ non toàn những tiếng thưa lời bẩm, tiếng dạ lời vâng…ăn thì toàn cao lương mĩ vị, uống thì sâm nhung đủ thứ trên đời…

Giờ thì hình như có gì khác lắm. Chắc không phải do ông thiếu tiền, thiếu miếng ăn, thức uống. Già rồi ăn uống đáng là bao. Nhà cửa không phải lo, đi lại không thành vấn đề. Thế sao mặt ông lúc nào cũng ủ ê, buồn bã ? Tôi nghĩ, chắc chắn ông buồn vì thấy mình không còn quyền lực, mất hết quyền lực; “Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu !”; nói bây giờ không ai nghe, quát cũng chẳng ai sợ…Suốt ngày chẳng thấy ai đến xin ý kiến hay kí cót gì… Nghĩa là thấy mình cứ như người thừa, tồn tại một cách vô nghĩa, vô duyên. Ông bị bệnh say đắm quyền lực. Một thứ bệnh rất dễ mắc phải và khó chữa lắm. Nhất là ở xứ ta. 

Cứ nghĩ mà xem, như cái ông béo kia làm biên tập viên thì có gì to tát, thế mà khi “mất việc”, 3 tháng trời vẫn chưa quen, vẫn nhớ da diết cái công việc mà nhiều người cho là “khổ sai” ấy. Thế mới hiểu nỗi đau của những ông to như cái ông gầy này đến mức nào? 

Hèn gì có ông lớn khi đã về hưu, đến sinh hoạt tổ dân phố, vừa bước vào phòng đã giơ cao tay hua hua chào; người ta mời phát biểu, vừa đứng lên ông đã tự vỗ tay,… trong khi chẳng ai vỗ tay cả. Chắc ông phải thấy rất ngượng ngùng vì những thói quen quyền lực đã hằn sâu trong nếp sống. 

Rất nhiều ông to khác, về hưu rồi, lúc gặp gỡ, khi bắt tay vẫn cứ theo thói quen xưa: giơ bàn tay buông thõng cho người khác sờ vào. Mỗi khi gặp những bàn tay béo tròn, mũm mĩm mà lạnh lùng, nhạt nhẽo, vô cảm ấy tôi không khỏi rùng mình. Rồi sau đó cứ thấy buồn cười, buồn bực, buồn nôn cho cái kiểu bắt tay ấy. Cũng là hệ quả của bệnh quyền lực đấy. 

Tôi có quen thân với vợ chồng một anh bạn, có thời gian đi học cùng nhau… cùng đói khổ, cơ hàn… Thương lắm! Sau hơn chục năm phấn đấu, đùng một cái anh ấy được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng một trường đại học lớn. Nghĩ mà mừng cho bạn. Bèn hăm hở đến thăm và chúc mừng. Gọi điện đến nhà, mấy lần, lần nào người giúp việc cũng trả lời: “Thầy ấy đi vắng!”. Đến hôm gặp cả vợ chồng tại một tiệc nhậu, vợ cậu ấy cứ như không quen biết gì mình. Lạ quá! Hình như khi chồng đã làm to thì bà vợ phải thay đổi sao cho tương xứng với chức của chồng, để tạo thế oai phong, và trên hết để tỏ ra có quyền lực thì phải. Quyền lực ghê lắm. Nó là một thứ ma túy khủng khiếp. Nó vô hình nhưng làm tha hóa con người rất nhanh. 

Tôi biết rõ hai người bạn chơi với nhau rất thân, bình thường vẫn cậu cậu, tớ tớ. Rồi một ngày đẹp trời, ông bạn kia ngồi vào ghế Thứ trưởng. Tình thế thay đổi hẳn. Ngay hôm sau, tôi đã thấy anh này rối rít “em em- anh anh” rất nhún nhường, lễ phép với ông Thứ trưởng mà mới hôm qua còn cậu cậu, tớ tớ. Mà có phải ở cuộc họp hay mít tinh, lễ lạt gì đâu. Khi chỉ còn lại hai người, tôi hỏi cậu ấy: “Sao mày thay đổi nhanh thế? Hay thằng kia bắt mày xưng hô thế ? Cậu ấy rất thành thực: “không thay đổi sao được! Từ khi ông ấy được bổ nhiệm tao thấy mình nhỏ bé quá nên phải thay đổi chứ sao”. 

Hóa ra trong nhiều trường hợp sự tha hóa lại không bắt đầu từ người có quyền lực. Mà là từ tâm lí hèn đớn, tự ti của những người xung quanh họ. Chính tâm lí ấy khơi dậy ngọn lửa đam mê quyền lực của người cầm quyền và dần dần làm hỏng họ. Quyền lực đã làm cho rất nhiều người phải tự nhiên quỳ xuống và thấy mình thấp bé đi, trong khi chính họ nếu đứng dậy thì chẳng có gì thấp hơn kẻ nắm quyền lực cả! Thế mới thấm thía lời kêu gọi của Marat[1]: “Người ta lớn bởi vì ta quỳ xống / Hỡi nhân dân hãy đứng thẳng lên”.

Tuy nhiên trong lịch sử, thực tiễn cuộc sống cũng đã chứng minh có rất nhiều bậc tài trí hơn người, những đấng minh quân, những tướng lĩnh giỏi, những tổng thống tài ba… bản thân họ là sự hiện thân của quyền lực, biểu tượng của quyền lực một cách tự nhiên, chân chính. Có cúi đầu trước họ, ta cũng chẳng xấu hổ là mấy... Cho dù thế, đã là con người không ai có thể chống lại được tuổi già. Sẽ có một ngày ai cũng thế thôi, ai rồi cũng rơi vào bi kịch của sự bất lực cả thể chất lẫn tinh thần. Răng sẽ rụng dần, tai không còn thính, tóc bạc hơn lên, và chân chậm, mắt mờ… Sự bất lực về thể chất ai rồi cũng như nhau. Nhưng nỗi đau tinh thần sẽ là rất khác ở những người có vị trí khác nhau khi họ đã về già.

*
Có lẽ vì thế, tôi thường vẫn nghĩ, Sư tử về già buồn bã hơn nhiều các loài khác như cầy, cáo chẳng hạn. Cầy, cáo vốn bị khinh bỉ và bị coi thường từ nhỏ, nên đến lúc già có bị khinh bỉ tiếp cũng chẳng có gì lạ cả và do vậy chẳng có gì xấu hổ, nhục nhã hơn. Nhưng Sư Tử đã từng hiểu, từng nếm trải thế nào là sang trọng, thế nào là đớn hèn, thế nào là uy vũ, thế nào là vinh quang… thì khi đã về già “mắt mờ, chân chậm” mới thấm thía nỗi đau đớn ê chề trong tâm hồn mà các loài khác không thể nào hiểu được. Nhất là loài cầy, cáo.

[1]Ma-rat (1743 - 1793) – một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc của Cách mạng tư sản Pháp.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Năng lực bí ẩn của các thiền sư nhà Lý


Ngoài tài năng về võ học, các thiền sư thuộc thiền phái Diệt Hỷ còn được biết đến bởi khả năng tiên tri lạ kỳ.
thien-su-van-hanh
Khả năng tiên tri linh nghiệm
Nhiều câu chuyện cho thấy, các thiền sư thuộc thiền phái này đã tiên liệu được sự xuất hiện của nhà Lý trong lịch sử và có sự chuẩn bị trước cho việc Lý Công Uẩn lên ngôi vua từ hàng trăm năm trước.
Gắn liền với sự ra đời của nhà Lý trong lịch sử dân tộc, đến nay vẫn còn lưu truyền nhiều câu chuyện mang màu sắc tâm linh, kỳ bí khó lý giải. Điều đặc biệt, những câu chuyện kỳ lạ trên lại gắn liền tên tuổi của những vị thiền sư nổi danh thuộc thiền phái Diệt Hỷ.
Người được cho là có dự cảm sớm nhất đối với sự ra đời của nhà Lý trong lịch sử là thiền sư Định Không – đệ tử đời thứ 7 của thiền phái Diệt Hỷ. Được biết, thiền sư Định Không là người họ Nguyễn, ở làng Cổ Pháp, phủ Thiên Đức (hiện nay là phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh).
Ông nổi tiếng là người am hiểu thế, số. Tuy cái duyên cửa thiền đến với ông rất muộn, khi ông đã về già nhưng tài năng và đức hạnh của vị thiền sư này đến nay vẫn còn lưu truyền. Trong đó, ông được ca ngợi là người có khả năng tiên tri và để lại nhiều lời sấm truyền mà sau này được nhiều thế hệ ghi nhận là ứng nghiệm.
Trong sách Thiền Uyển tập Anh cho rằng, ngay từ thời điểm năm 785 đến 804, tức hơn 200 năm trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, thiền sư Định Không đã dự cảm được việc nhà Lý xuất hiện trong lịch sử. Câu chuyện mang màu sắc huyền bí này lại gắn liền với ngôi chùa Quỳnh Lâm (tức chùa Đài hay còn gọi là chùa Lục Tổ, ở Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh) nổi tiếng đất Kinh Bắc.
Tương truyền, khi tiến hành xây chùa Quỳnh Lâm, lúc mới đào đất đắp nền đã phát hiện 1 cái ly hương và 10 cái khánh. Sau đó, sư sai người đem xuống sông rửa.
Một cái khánh bị rơi xuống tận đáy sông. Thiền sư Định Không cho rằng đây là điềm báo tốt, liền nói với mọi người: “Chữ Thập, chữ Khẩu hợp thành chữ Cổ. Chữ Thuỷ, chữ Khứ hợp thành chữ Pháp. Chữ Thổ chỉ làng ta ở nên sư quyết định đặt tên làng mình từ Diên Uẩn thành Cổ Pháp”. Sau đó, sư tụng rằng: “Hiện ra pháp khí/ 12 chuông đồng/ Họ lý làm vua/ Ba phẩm thành công”.
Bản thân vị thiền sư này không chỉ có dự cảm về sự xuất hiện của triều Lý, mà còn đoán định trước việc vùng đất Cổ Pháp có thể bị yểm bởi một người ngoại quốc. Do đó, thiền sư Định Không đã căn dặn đệ tử của mình trước khi viên tịch.
Chuyện xưa kể rằng, trước khi sắp tịch, sư gọi đệ tử Thông Thiện, nói: “Ta muốn mở rộng làng xóm nhưng e nửa chừng gặp tai hoạ, chắc có kẻ muốn phá hoại nước ta. Sau khi ta mất, con cố giữ đất Cổ Pháp này, rồi gặp người họ Đinh thì truyền”.
Lời nhắn nhủ của thiền sư Định Không với đệ tử Thông Thiện sau này được cho là đúng sự thực. Người ngoại quốc mà vị thiền sư này nhắc đến chính là Cao Biền – Tiết độ sứ ở Tĩnh Hải Quân (tên gọi Việt Nam thời gian 866 – 968) của một nhân vật được người đời sau nhắc đến nhiều lần trong những câu chuyện liên quan đến việc phá long mạch nước ta vào thời điểm ông làm Tiết độ sứ ở nước ta.
Dùng cây gạo để hàn long mạch
Không chỉ thiền sư Định Không mà nhiều thiền sư các đời kế tiếp của thiền phái này đến nay vẫn được hậu thế lưu truyền là có biệt tài về phong thuỷ và có khả năng dự đoán được tương lai. Nhiều huyền sử đến nay vẫn còn nhắc đến tên tuổi của nhiều vị thiền sư như Trưởng lão La Quý, thiền sư Vạn Hạnh. Họ đều là những bậc thầy về phong thuỷ và những người có khả năng tiên tri.
Được biết, sau khi thiền sư Định Không viên tịch, đệ tử là thiền sư Thông Thiện đã nghe theo lời dặn của thầy, suốt ngày tu luyện để giữ Cổ Pháp. Lời truyền dạy của thiền sư Định Không đã ứng nghiệm khi thiền sư Thông Thiện đã gặp được một người học trò họ Đinh và truyền pháp lại cho người này, người đời sau gọi người học trò này là Trưởng lão La Quý.
Theo sử chép, Trưởng lão La Quý người An Chân (Thái Bình ngày nay), ông tu tại chùa Song Lâm, làng Phù Ninh, phủ Thiên Đức (Từ Sơn, Bắc Ninh). Thuở nhỏ, Trưởng lão La thường chu du khắp các phương, hỏi thăm các bậc thiền sư. Trải qua nhiều năm không gặp đạo duyên, Trưởng lão La sắp thối chí.
May mắn sau này, Trưởng lão gặp được pháp hội của Thông Thiện, nghe một lời, lòng thiền khai ngộ, bèn chịu phục thờ làm thầy. Được thiền sư Thông Thiện truyền pháp, Trưởng lão ra sức tu luyện đến khi đắc pháp sư tuỳ phương diễn hoá, tài phép vô biên. Tương truyền, mỗi khi ngài nói ra lời nào, tất là phù sấm.
Cuộc đời của vị thiền sư này gắn liền với giai thoại hàn long mạch, phá yểm của Cao Biền. Theo sách Thiền Uyển tập Anh, khi Cao Biền sang nước ta, xây thành bên sông Tô Lịch, biết đất Cổ Pháp có khí đế vương, nên đã đào đứt con sông Điềm và những ao Phù Chẩn đến 19 chỗ để trấn yểm. Việc Cao Biền tìm cách trấn yểm, để nước Nam mãi là vùng đất thuộc phương Bắc là một hành động rất nham hiểm nhưng cũng rất vi diệu mà người thường không dễ nhận ra.
Chính Trưởng lão La Quý, khi đã “đắc pháp”, ông đã phát hiện được điều này và chính ông là người cho tiến hành lấp lại các điểm Cao Biền sai người đào, phá long mạch trước đây. Để long mạch được trở về như xưa, Trưởng lão La Quý đã trồng một cây bông gạo ở chùa Châu Minh để hàn long mạch nhằm trấn chỗ đứt. Cây gạo mà Trưởng lão La Quý trồng sau này gắn liền với giai thoại, sét đánh thành bài sấm truyền cho sự lên ngôi của Lý Công Uẩn.
Chuyện xưa kể rằng, khi trồng cây gạo này, Trưởng lão La Quý đã làm bài thơ, “Đại sơn đầu rồng ngửng/ Đuôi cù chẩn Châu Minh/ Thập bát tử định thành/ Bông gạo hiện long hình/ Thỏ gà trong tháng chuột/ Nhất định thấy trời lên”. Người đời sau cho rằng, bài thơ này là lời sâm truyền báo hiệu ngày, tháng, sự ra đời của vua Lý Công Uẩn. Bởi nội dung bài thơ có ý dự báo cho sự ra đời của nhà Lý vào tháng 10 năm Dậu. Sau này, nhà Lý sau này ra đời vào tháng 10 năm Đinh Dậu.
Biệt tài “dung ba cõi”
Cũng liên quan đến sự ra đời của vương triều Lý trong lịch sử, một vị thiền sư nổi danh khác của thiền phái Diệt Hỷ được nhắc đến đó chính là thiền sư Vạn Hạnh, đời thứ 12 của thiền phái Diệt Hỷ.
Đến nay, tên tuổi của vị thiền sư này được người đời sau ca ngợi: “Sư nói lời nào, thiên hạ cho là phù sấm”. Vua Lý Nhân Tông đã làm kệ (thể thơ phổ biến thời Lý Trần), ca ngợi tài năng của vị thiền sư này: “Vạn Hạnh dung ba cõi/ Thật hiệp lời sấm xưa/ Quê hương tên Cổ Pháp/ Chống gậy trấn kinh đô”. Bài thơ ý nói Vạn Hạnh thấu suốt tất cả sự việc của quá khứ, hiện tại và thời vị lai.
Được biết, sư Vạn Hạnh vốn là thầy của Lý Công Uẩn. Người có công rất lớn trong việc giáo dục và giúp đỡ Lý Công Uẩn lên ngôi vua. Tương truyền, ngày vua Lý Thái Tổ lên ngôi (sự kiện diễn ra tại Ninh Bình), sư Vạn Hạnh ở mãi tận chùa Quỳnh Lâm, đã biết trước mọi việc, bảo với người bác và chú của vua rằng: “Thiên tử đã băng, Lý Thân vệ (Lý Công Uẩn) hiện đang ở nhà. Trong trưa nay, Thân vệ ắt được lên ngôi”. Rồi nhà sư cho yết bảng ở đường cái nói rằng: “Tật lên chìm bể Bắc/ Hạt Lý mọc trời Nam/ Bốn phương gươm giáo dẹp/ Tám cõi mừng bình an”, ý thơ nói nhà Lý thay nhà Lê.
Xung quanh những câu chuyện về biệt tài võ học, phong thuỷ và khả năng tiên tri của những thiền sư thuộc thiền phái Diệt Hỷ, võ sư Nguyễn Văn Thắng, Trưởng môn phái Thăng Long võ đạo cho rằng, những câu chuyện huyền sử trên có cơ sở.
Vị võ sư này cho rằng, trong các câu chuyện về các vị thiền sư, có người được nhắc tới như một bậc thầy về võ học, người được nhắc đến với vai trò là người có tầm hiểu biết phong thuỷ và khả năng tiên tri đoán định. Nhưng thực tế, khi đạt đến đỉnh cao của thiền học, tất yếu đạt đến đỉnh cao của võ và có hiểu biết sâu sắc về phong thuỷ.
Theo ĐỜI SỐNG & PHÁP LUẬT

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đi Tìm Sự Thật Về Nỗi Hàm Oan Của PGS.TS Nhà Giáo Ưu Tú Nguyễn Thị Bình: Từ Lá Đơn Kêu Cứu




PGS. TS. Nhà giáo Ưu tú Nguyễn Thị Bình bị cho về hưu, dù theo quy định thì đến năm 2018 mới đến tuổi nghỉ. Bà Bình làm đơn kêu cứu trên báo Kinh doanh và Pháp luật. Bài đã được đăng lên ngày 5/3/2104 (kinhdoanhvaphapluat.com.vn) nhưng sau đó bị gỡ xuống, tuy nhiên vẫn có thể đọc được qua Google’s cache.

PGS. TS. Nguyễn Thị Bình là người hướng dẫn cô Đỗ Thị Thoan làm luận văn về nhóm Mở Miệng. Cô Đỗ Thị Thoan sau đó mất việc, bà Nguyễn Thị Bình bị cho về hưu sớm. 

Vậy là ở Việt Nam, giới khoa học – kể cả tự nhiên và xã hội – không được phép xem xét một số hiện tượng tự nhiên hay xã hội nào đấy đang tự nó phát sinh trong đời sống như những quy luật khó cưỡng là đối tượng khoa học để mình nghiên cứu; những hiện tượng khách quan ấy phải lờ đi, coi như không có, hoặc dành riêng cho một số cơ quan chức năng hoàn toàn không hiểu gì về khoa học xử trí theo lối... dùng lửa để dập, hoặc chôn vùi xuống đất (vụ hóa chất độc hại chẳng hạn). Điều này ẩn chứa những nguy cơ chết người, báo hiệu một thảm họa lớn chắc chắn không sớm thì muộn sẽ xảy ra mà những kẻ ngu tối, không cần đến giới trí thức cảnh báo bằng những tìm tòi khảo sát nghiêm chỉnh, cứ tưởng quay lưng lại với những hiện tượng đang xuất hiện lừng lững trước mắt mình là tha hồ yên ổn, sẽ là đối tượng phải hứng lấy trước tiên...
BXVN

(KD&PL) Báo Kinh doanh & Pháp luật xin chuyển nội dung lá đơn này của Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Thị Bình đến lãnh đạo Bộ Giáo dục và các ngành chức năng quan tâm xem xét và giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi, sự công bằng cũng như làm rõ sự thật đằng sau vụ việc này.

Chiều Chủ nhật ngày 2-2-2014, tôi đến thăm gia đình cậu em là một bác sỹ ở một bệnh viện lớn tại Hà Nội thì tình cờ gặp một người phụ nữ đến khám và nhờ tư vấn phương pháp điều trị căn bệnh quái ác mà chị đang gặp phải.

Sau khi khám xong, cậu em tôi trả lời: Người phụ nữ này đang bị stress nặng, thêm vào đó là căn bệnh tiền đình cần phải điều trị. Hỏi ra mới biết! Người phụ nữ ấy là Phó Giáo sư, Tiến sĩ - một đảng viên, một Giảng viên chính bộ môn Văn học Việt Nam hiện đại thuộc khoa Ngữ văn, Đại học Sư phạm Hà Nội.

Các căn bệnh trên không phải thời gian đây mới hành hạ chị mà đã xuất hiện từ trước đó cả năm trời bắt đầu từ một nỗi hàm oan mà chị và gia đình của mình đang phải gánh chịu. Kết quả là một người có học vị như chị đáng ra theo qui định của Chính phủ phải đến năm 2018 mới nghỉ hưu, nay bỗng nhiên đã phải nhận quyết định nghỉ hưu từ Ban Giám hiệu trường Đại học Sư phạm; Mặc dù, chị đã 4 lần gửi đơn kiến nghị lên lãnh đạo nhà trường, song không hề nhận được hồi âm!

Để rộng đường dư luận và góp phần làm rõ sự thật về vụ việc này, tại số báo này, báo Kinh doanh & Pháp luật xin đăng nội dung lá đơn kêu cứu của Phó giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Thị Bình.
Phó giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Thị Bình

"Năm 1978, tốt nghiệp ĐHSP, ngành Ngữ văn, do thành tích học tập và tu dưỡng, tôi được giữ lại làm Cán bộ giảng dạy, được học tiếp chương trình đào tạo Sau đại học tại trường. Từ 1980 đến nay, tôi là giảng viên Bộ môn Văn học Việt Nam hiện đai, khoa Ngữ văn, trường ĐHSPHN. Năm 1996 tôi đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ.

Là một người làm công tác giảng dạy, trong suốt gần 35 năm qua,với lòng yêu văn chương, với tình yêu thương học trò và trách nhiệm của một nhà giáo; tôi đã không ngừng nỗ lực phấn đấu để nâng cao năng lực chuyên môn, trau dồi phẩm chất nhà sư phạm mẫu mực, tận tụy cống hiến cho sự nghiệp đào tạo và nghiên cứu khoa học của trường, góp phần tạo dựng uy tín cho đơn vị mình công tác.

Tôi đã giảng dạy cho nhiều thế hệ sinh viên các hệ chính quy, tại chức, đã hướng dẫn hơn 60 học viên Cao học bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ, đã tham gia đào tạo và hướng dẫn hàng chục Nghiên cứu sinh, tham gia viết các bộ Giáo trình, Tư liệu tham khảo cho hệ Cử nhân, Cao đẳng sư phạm, sách giáo khoa THPT…

Về nghiên cứu khoa học, tôi cũng đã công bố sách chuyên luận, chuyên khảo, các bài báo trên tạp chí ngành, chủ trì và tham gia nhiều đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước…

Lá đơn kêu cứu của bà Nguyễn Thị Bình gửi đến báo KD&PL

Nói chung, trong công việc chuyên môn, tôi được học trò và đồng nghiệp tin cậy, đánh giá tốt, trong quan hệ xã hội, tôi sống giản dị, chân thành nên được đồng nghiệp, cư dân nơi cư trú quý mến.

Quá trình nỗ lực phấn đấu và sự tận tụy cống hiến của tôi đã được ghi nhận bằng nhiều danh hiệu cao quý: năm 2004 được phong PGS, năm 2003 nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cấp Bộ, năm 2010 nhận Bằng khen Thủ tướng, năm 2012 được phong Nhà giáo ưu tú, nhiều năm được Đảng ủy, Công đoàn trường ĐHSP HN tặng giấy khen, bằng khen…

Là một đảng viên không vi phạm điều lệ Đảng, là một cán bộ, một công dân không vi phạm hiến pháp và pháp luật, không vi phạm đạo đức nghề nghiệp, tôi chưa bao giờ bị xử lý kỷ luật vì bất cứ vi phạm gì.

Bất ngờ, ngày 17 tháng 12 năm 2013, Trường ĐHSPHN gửi công văn số 517/CV-ĐHSPHN-TCCB thông báo về việc tôi sẽ nghỉ hưu từ 01/04/2014. Sau đó, ngày 27/12/2013 Trường đã gửi Quyết định số 8364/QĐ-ĐHSPHN do PGS.TS Hiệu trưởng Nguyễn Văn Minh ký, về việc nghỉ hưu của tôi từ ngày 01/04/2014.

Sự việc này là một cú sốc khiến tôi choáng váng và suy sụp cả tinh thần và thể chất, luôn luôn cảm thấy bất an đến mức suy sụp sức khỏe phải điều trị thường xuyên.

Tôi đã 4 lần gửi đơn kiến nghị lên các cấp lãnh đạo trường ĐHSPHN đề nghị giải thích lý do tôi bị nghỉ hưu

Lần 1: Ngày 28/12/2013, Đơn gửi Đảng ủy, Ban Giám hiệu, Ban chấp hành Công đoàn trường ĐHSP HN.

Lần 2: Ngày 20/01/2014, Đơn gửi Đảng ủy, Đơn gửi Ban chấp hành Công đoàn trường ĐHSP HN.

Lần 3: Ngày 27/01/2014, Đơn gửi Đảng ủy, Đơn gửi Ban Giám hiệu, Ban chấp hành công đoàn trường ĐHSPHN.

Tuy nhiên, 3 đơn này của tôi không được trả lời thỏa đáng theo đúng thủ tục hành chính.

Theo Quy định hiện hành của Nhà nước, thời gian nghỉ hưu của PGS.TS như tôi sẽ vào năm 2018. Như vậy, tôi bị buộc phải nghỉ hưu sớm 5 năm mà không có lý do xác đáng. Càng bất thường khi tôi là PGS.TS đầu tiên ở ĐHSPHN bị buộc phải về hưu sớm như vậy.

Ngày 28/02/2014, tức sau 2 tháng nhà trường vẫn không trả lời, tôi đã gửi tiếp đơn lần thứ 4 đến Ban Giám hiệu đề nghị nhà trường sớm có văn bản trả lời để tôi có thể ổn định tinh thần và sức khỏe, nhưng đến nay vẫn chưa thấy có hồi âm.

Tôi chỉ là một người phụ nữ yếu ớt, sức chịu đựng có hạn. Sự việc này đã làm tổn thương sâu sắc đến danh dự cá nhân và sự an lành của gia đình tôi.

Tôi phải che giấu bố tôi để ông ra đi được thanh thản trước tết Nguyên đán, nhưng tôi bị giày vò vì ý nghĩ u ám: tôi – con gái một ông bố gần 50 năm tuổi Đảng, bị Pháp bỏ tù vì hoạt động du kích, người đã khích lệ ở tôi tình yêu với văn chương và với nghề dạy học – lại bị đối xử bất công bởi chính nơi tôi đã gắn bó hết mình mà không biết lý do vì sao, không thể giải thích với cha mẹ, bè bạn, học trò rằng mình bị oan uổng không có lý do.

Sự căng thẳng tinh thần, cảm giác oan khuất đè nặng khiến tôi suy sụp, rơi vào trạng thái khủng hoảng, bất an. Lòng yêu nghề của tôi như bị phản bội, tôi không trọn chữ hiếu với mẹ cha. Đồng nghiệp nhìn tôi hoang mang, ái ngại. Tôi không biết tìm lại niềm tin ở đâu nếu tiếng kêu cứu của mình không ai nghe thấy.

Sau thời gian điều trị ở các bệnh viện, tôi phần nào tĩnh trí và nghĩ là cần tìm sự bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình từ công luận. Tôi thiết tha mong Quý báo luôn vì quyền lợi của người dân hãy giúp tôi, chỉ cho tôi biết tôi phải làm gì, làm như thế nào.

Tôi xin chân thành cám ơn".

Báo Kinh doanh & Pháp luật xin chuyển nội dung lá đơn này của Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo ưu tú Nguyễn Thị Bình đến lãnh đạo Bộ Giáo dục và các ngành chức năng quan tâm xem xét và giải quyết nhằm đảm bảo quyền lợi, sự công bằng cũng như làm rõ sự thật đằng sau vụ việc này. Báo tiếp tục cử phóng viên theo dõi và phản ánh tiếp đến bạn đọc vào các số báo sau.


BBĐ
 http://thanhnienconggiao.blogspot.com.au/2014/03/i-tim-su-that-ve-noi-ham-oan-cua-pgsts.html#more

Phần nhận xét hiển thị trên trang