Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

“Ngoại giao văn hóa” với vấn đề gia tăng “sức mạnh mềm” của Việt Nam trong hội nhập và phát triển.

Giáo sư Song Thành

Sự ra đời của thuyết “sức mạnh mềm”
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới đã có những thay đột biến. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới từ đối đầu chuyển sang đối thoại hòa bình, hợp tác, cùng phát triển trong một thế giới toàn cầu hóa,…do đó mọi ứng xử quốc tế cũng cần có sự thay đổi cho phù hợp.
Tiếp theo là cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu Á 1997-98 làm cho kinh tế thế giới bước vào thời kỳ trì trệ kéo dài, kéo theo sự suy sụp của các nền kinh tế “bong bóng” ở một số nước, như Nhật Bản, Hàn Quốc,…buộc những nước này cũng phải đi tìm con đường mới để phát triển.
 Đây cũng là thời kỳ mà công nghệ thông tin và văn hóa đại chúng phát triển mạnh, mở ra một thị trường sản xuất và tiêu thụ văn hóa rộng lớn trên phạm vi toàn thế giới (ca nhạc, điện ảnh, truyền thông,…).
 Trong thời đại đối thoại thay cho đối đầu, vai trò của sức mạnh quân sự cũng đang thay đổi. Vũ khí hạt nhân với sức mạnh hủy diệt vô cùng tàn bạo, có vai trò răn đe không thể chối cãi, nhưng không phải lúc nào cũng có thể đem nó ra sử dụng khi có chiến tranh, bởi người ta buộc phải tính đến cái giá khủng khiếp mà nhân loại sẽ phải trả một khi chúng được cả hai bên đem ra sử dụng.
Mỹ là một cường quốc hạt nhân nhưng đã cam chịu thất bại trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Arhentina không ngần ngại tấn công quần đảo Malvinas do Anh chiếm đóng, mặc dù Anh có trong tay vũ khí hạt nhân.
Thất bại của chính quyền Bush trong việc đem quân vào Afganistan, vào Irak hay trong cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố hiện nay,…cũng chứng tỏ điều này. Vấn đề của các nước Hồi giáo Trung Đông là vấn đề tôn giáo, không thể giải quyết bằng quân sự mà phải bằng kinh tế và văn hóa, nhất là khi chủ nghĩa khủng bố đã trở thành một lực lượng xuyên quốc gia, đang bị chi phối bởi một giáo lý cực đoan có hàng tỷ người tin theo.
Hơn nữa, việc sử dụng sức mạnh quân sự ngày càng trở nên tốn kém hơn, vì vậy những nước tư bản công nghiệp phát triển nay thường tập trung vào tăng cường cho sự phồn vinh của đất nước, không còn ham muốn chinh phục nữa, không muốn phải chịu nhiều thương vong. Trừ phi sự tồn vong của chính quốc gia họ bị đe dọa, còn ở các nước dân chủ, việc huy động chiến binh vào cuộc chiến phải được biện minh về tính chính nghĩa-đạo đứccủa nó thì mới được dân chúng đồng tình, ủng hộ. Các quốc gia ở lục địa châu Âu vốn đã bị tàn phá bởi ba cuộc chiến tranh Pháp-Đức trong vòng một thế kỷ nên họ có khuynh hướng đi tìm các giải pháp hòa bình để giải quyết các mâu thuẫn, xung đột.
 Hoa Kỳ là một cường quốc quân sự nhưng nay cũng phải cân nhắc khi sử dụng vũ lực, vì nó có thể gây nguy hại cho những mục tiêu kinh tế. Sự tồn tại của các “ốc đảo hòa bình” (như các nước Bắc Âu, Thụy sĩ,…) cho thấy tầm quan trọng ngày càng lớn của sức mạnh mềm.
Ở thời đại hiện nay, các lợi thế hợp tác ngày càng trở nên quan trọng, ai cải thiện được khả năng hợp tác với bạn bè và đồng minh, người đó sẽ đạt được ưu thế cạnh tranh so với các đối thủ của mình.
 Vì vậy, trước bối cảnh mới, các nước đều đang có sự tìm tòi những phương thức ứng xử quốc tế mới, không phải đối đầu mà là đối thọai, không phải sử dụng quyền lực cứng(quân sự, kinh tế đơn thuần) mà phải tìm cách phát huy quyền lực mềm, tức là phát huy sức mạnh của hệ giá trị quốc gia: bao gồm các giá trị về văn hóa, về thể chế xã hội, về chính sách quốc gia (đối nội và đối ngoại),… để cạnh tranh với thế giới.
Đảng CS Việt Nam, trong các văn kiện chính thức từ sau Đại hội XI tuy chưa thấy đề cập đến khái niệm “sức mạnh mềm” nhưng đã nhấn mạnh nhiều đến vai trò của “ngoại giao văn hóa” như là một biện pháp quan trọng để phát huy sức mạnh mềm của quốc gia.
Vậy “sức mạnh mềm” (hay quyền lực mềm) là gì?
Quyền lực, hiểu một cách đơn giản, là quyền năng chỉ huy, sai khiến,  gây ảnh hưởng lên người khác để đạt được hiệu quả mình mong muốn. Có nhiều cách để tác động lên hành vi của người khác: như đe dọa, cưỡng ép  hay dụ dỗ, mua chuộc, hoặc là kết hợp cả hai.
 Theo GS Joseph Nye - giáo sư Đại học Harvard của Hoa kỳ-người được coi là cha đẻ của thuyết “sức mạnh mềm”, thì sức mạnh tổng hợp của một quốc gia gồm có “sức mạnh cứng” (hard power, gồm sức mạnh quân sự, kinh tế, khoa học- công nghệ,…) và “sức mạnh mềm” (soft power, gồm sức mạnh của văn hóa, thể chế xã hội và các chính sách  đối nội, đối ngoại của quốc gia đó).
Sức mạnh cứng chi phối, tác động, chinh phục các quốc gia khác bằng cây gậy hay củ cà rốtSức mạnh mềm là khả năng lôi cuốn, thu phục, cảm hóa người khác bằng sức hấp dẫncủa các giá trị về văn hóa, về thể chế , chính sách được thực thi hiệu quả ở nước mình, thông qua đó mà nhận được cảm tình, sự nể phục và hợp tác bền vững của các nước khác.
Ngoài ba yếu tố cơ bản nói trên (các giá trị văn hóa quốc gia, thể chế quốc gia và chính sách quốc gia), sức mạnh mềm còn có thể được tạo lập bởi một vài yếu tố khác nữa, ví như sự thành công kỳ diệu về kinh tế của Trung Quốc; như hải quân Mỹ tham gia cứu trợ nạn nhân sóng thần ở Ấn Độ Dương và động đất ở Nam Á; hoặc danh vọng, ảnh hưởng của những danh nhân quốc gia có tài năng, uy tín lớn…với nhân loại,… cũng có thể đem lại sức hấp dẫn cho đất nước ấy.
Ở thời đại hiện nay, sức mạnh mềm đang là nhân tố cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh quốc gia cũng như để mở rộng phạm vi ảnh hưởng của một nước trong khu vực và trên thế giới; nếu chỉ dựa vào sức mạnh cứng về quân sự để thực hiện đường lối đối ngoại, theo “chủ nghĩa đơn phương”, theo chính sách “ngoại giao pháo hạm” như trước đây thì dù sức mạnh cứng có ưu việt đến đâu, cũng sẽ không thể giải quyết được vấn đề mà có khi còn để lại những hậu quả phức tạp, khó lường. Vì vậy, để đạt thắng lợi trên bàn cờ liên quốc gia hiện nay, đòi hỏi các nước phải biết phát huy sức mạnh mềm của mình.
 Mối quan hệ giữa sức mạnh cứng và sức mạnh mềm là mối quan hệ giữa cái hữu hình và cái vô hình. Sức mạnh mềm là thể hiện sự nối dài và mở rộng của sức mạnh cứng. Một quốc gia đã yếu kém về kinh tế và quốc phòng sẽ khó có thể có sức mạnh mềm đáng kể; ngược lại, sức mạnh mềm sẽ làm tăng sức mạnh cứng, ví như tính thống nhất dân tộc, sự đồng thuận quốc gia, sự ổn định chính trị của đất nước, sức hấp dẫn về văn hóa và thể chế xã hội,…là những yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh mềm, nó sẽ góp phần làm tăng sức mạnh cứng, nhờ đó mà “bất chiến tự nhiên thành”.
Ngược lại, nếu sức mạnh cứng khỏe, nhưng sức mạnh mềm yếu kém, không có sức hấp dẫn về thể chế, chính sách và văn hóa,…thì cũng không gây được cảm tình, không cạnh tranh được với ai. Nói cách khác, sức mạnh cứng và sức mạnh mềm phải dựa vào nhau, thúc đẩy lẫn nhau để tạo ra sức mạnh tổng hợp quốc gia, nên cần phải tăng cường cả hai. Hiện nay, các nước lớn trong khi tăng cường sức mạnh cứng vẫn đang rất chú trọng phát huy sức mạnh mềm của mình, nhất là về văn hóa.
Singapore là một nước nhỏ, dân ít, lại là quốc gia đa dân tộc, đa văn hóa (Hoa, Ấn, Mã Lai và phương Tây), tài nguyên không có gì, đến nước ngọt cũng phải nhập khẩu,…nghĩa là không có sức mạnh cứng gì đáng kể mà biết vươn lên từ sức mạnh mềm để trở thành một quốc gia có vị trí nổi bật ở châu Á và thế giới.
Người ta thường nói đến 7 trụ cột mềm của Singapore: có một đội ngũ lãnh đạo xuất chúng (như Lý Quang Diệu, Ngô Khánh Thụy,…); có một nền quản lý nhà nước ưu việt với các yếu tố: trọng đãi nhân tài, tính thực dụng, lòng chân thành, tính tối thượng của pháp luật,…; tính đa văn hóa: Singapore là sự kết hợp 4 nền văn hóa lớn của thế giới; người Singapore nói tiếng Anh tốt nhất châu Á, tạo ra lợi thế cạnh tranh với các nước châu Á khác; có văn hóa ẩm thực đa dạng; có môi trường xanh, sạch, đẹp, v.v..
Nhật Bản cũng đất hẹp người đông, tài nguyên không có, thiên nhiên khắc nghiệt (động đất, sóng thần), lại không nằm trên trục giao thông đường biển như nước ta,…thế mà đã từng là một cường quốc quân sự, hiện đang là cường quốc kinh tế, vươn lên từ sức mạnh mềm: tinh thần võ sĩ đạo, ý chí mãnh liệt, tinh thần kỷ luật, tính cộng đồng cao, lòng trung thành, ý thức tôn trọng truyền thống, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc (là một quốc gia hiện đại kiểu phương Tây mà có  bản sắc dân tộc đậm nét phương Đông: từ nhà ở, y phục đến ẩm thực, trà đạo,…)
Để quảng bá sức mạnh mềm của mình, Nhật Bản đã có rất nhiều nỗ lực:
-Viện trợ kinh tế ODA cho các nước đang phát triển, như cho Việt Nam ta, mỗi lần hàng trăm tỷ Yên; viện trợ cho Quỹ tiền tệ IMF để giúp các nước đang gặp khó khăn.
- Nhật Bản tham gia tích cực vào các hoạt động giữ gìn hòa bình của LHQ, như ở Afganistan, ở Irak; vào các chương trình phát triển của LHQ, như đầu tư giúp các nước châu Phi về thay đổi khí hậu, đem tàu tuần dương hộ tống tàu buôn các nước chống lại bọn hải tặc Somalie,…
-Thực hiện chiến lược ngoại giao công chúng thông qua các hoạt động truyền thông, văn hóa đại chúng, qua các sản phẩm công nghệ văn hóa mang nhãn hiệu Japanese.
-Phát huy quyền lực mềm văn hóa: họ mở hàng trăm trung tâm dạy tiếng Nhật cho người nước ngoài, tài trợ cho sinh viên các nước sang du học tại Nhật Bản, tăng số sinh viên Nhật ra nước ngoài học, đưa sản phẩm văn hóa Nhật sang phương Tây: như truyện tranh Đôremôn, búp bê Hello Kitty,..
-Thực hiện đường lối ngoại giao đa cực, v.v..
Kết quả là Nhật Bản đã lột xác từ một tên quân phiệt trong thế chiến 2 trở thành nhà từ thiện, nhà buôn, nhà ngoại giao với hình ảnh đẹp đẽ, hấp dẫn, in dấu ấn sâu đậm trong tâm trí người nước ngoài.
Hàn Quốc vào những thập niên 50, 60 thế kỷ trước cũng là một nước nghèo như ta, nay đã vươn lên như một cường quốc châu Á, thông qua xuất khẩu văn hóa và các sản phẩm công nghiệp văn hóa, như:
-Điện ảnh Hollywood: họ tiếp thu tinh hoa điện ảnh thế giới để sáng tạo ra một phong cách làm phim riêng. Do nắm bắt được tâm lý giới trẻ trong nước đã chán ngán dòng phim xã hội đen, phim chính luận khô khan,…Hàn Quốc tung ra những bộ phim có nội dung nhẹ nhàng, lấy bối cảnh chính từ xã hội hiện đại, giải quyết những mâu thuẫn gần gũi với cuộc sống đời thường, xoay quanh chữ hiếu, tình yêu chung thủy và các giá trị gia đình châu Á, song họ lại rất chú trọng đến ngoại hình của diễn viên, cảnh quay đẹp, nhạc phim hay, có sức cạnh tranh với phim nước ngoài, đã biến Liên hoan phim Pusan trở thành một dạng Liên hoan phim Cannes của châu Á.
-Truyền thông: được coi là một phương tiện quảng bá hình ảnh Hàn Quốc ra toàn cầu, trở thành một ngành kinh tế truyền thông mũi nhọn. Hàn Quốc có rất nhiều hãng truyền hình tư nhân, cạnh tranh quyết liệt với Đài truyền hình TƯ KBS của Chính phủ. Các thông tin truyền tải trên các hãng này không bao giờ lấy lại của nhau, nhưng nội dung đều nhằm mục tiêu quảng bá ra thế giới hình ảnh văn hóa, đất nước và con người Hàn Quốc - vừa truyền thống, vừa hiện đại .
-Ngành công nghiệp giải trí rất phát triển, như âm nhạc, gam-show, talk-show,…với hình ảnh các ca sĩ, diễn viên đẹp - nhờ công nghệ lăng xê - tạo ra các thần tượng, góp phầnHàn hóa thanh thiếu niên nhiều nước, trong đó có cả Trung Quốc và Việt Nam.
-Thời trang và mỹ phẩm của Hàn Quốc đều có sức cạnh tranh mạnh mẽ, bỏ xa nhiều đối thủ, như Nhật Bản, mang lại lợi nhuận lớn với các thương hiệu như De Bon, E 100, Double Rich,…
-Du lịch: do ảnh hưởng của phim ảnh Hàn Quốc, du khách đổ sang Hàn Quốc ngày càng nhiều, để được thăm các cảnh đẹp trong phim, thăm các trường quay, các danh thắng,…Trong năm 2011, họ thu hút được 8,8 triệu du khách nước ngoài, nhất là từ Trung Quốc .
Điều đó cho thấy vai trò quan trọng của văn hóa trong chiến lược “ngoại giao sức mạnh mềm” trên thế giới hiện nay.

“Ngoại giao văn hóa”- một lợi thế của sức mạnh mềm Việt Nam, cần được đẩy mạnh và phát huy.
Cần nói ngay: sức mạnh mềm không phải là giải pháp cho tất cả mọi vấn đề. Nó cũng có những hạn chế nhất định. Là khả năng đạt được điều mình mong muốn thông qua sức hấp dẫn của các giá trị, chứ không phải bằng mua chuộc hay ép buộc, nên nó phải trải qua một quá trình, phải có thời gian. Hai nữa, chiến lược sức mạnh mềm chỉ được triển khai hiệu quả khi bản thân quốc gia đó tạo ra được những giá trị đích thực, nhất là về văn hóa, được nhiều người thừa nhận, mến mộ và chia sẻ.
          Việt Nam ta hiện nay, sức mạnh cứng chưa đủ mạnh, mà sức mạnh mềm cũng đang yếu, khả năng tác động quốc tế chưa nhiều, sức hấp dẫn về văn hóa cũng chưa đáng kể.
           Tuy nhiên, cạnh tranh “sức mạnh mềm” không phải là sân chơi dành riêng cho các “đại gia”. Các nước nhỏ hoàn toàn có thể tạo ra nguồn lực mềm của mình để xác lập vị thế quốc tế (như Na-uy, Singapore,…đang có). Văn hóa là một lợi thế của Việt Nam, chúng ta hoàn toàn có thể tăng cường và phát huy sức mạnh mềm của mình, bắt đầu từ văn hóa.
          Cứng tạo ra lực, mềm tạo ra thế. Nếu khéo làm, ta có thể chuyển thế thành lực. Lực ta hiện còn yếu (cả về kinh tế, quân sự, KH-CN), ta không thể dùng lực để đạt mục tiêu, nên phải sớm tạo ra thế bằng sức mạnh mềm của văn hóa.
          Dưới đây xin thử nêu lên một vài kiến giải sơ bộ.
1. Tiềm năng sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam dồi dào, nhưng hiện vẫn chưa được kế thừa và phát huy tốt.
Việt Nam ta có một nền văn hóa lâu đời, được thừa hưởng của cha ông những giá trị văn hóa tinh thần vô giá, có khả năng tạo ra sức mạnh mềm không thua kém quốc gia nào. Ví như, khi Tổ quốc lâm nguy, vua quan nhà Trần đã biết cùng các bô lão mở Hội nghị Diên Hồng, thống nhất ý chí “cả nước một lòng, toàn dân đánh giặc”, nêu cao tư tưởng “lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm nền”, “đem đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo”, “dĩ đoản binh chế trường trận”. “mưu phạt, tâm công, bất chiến tự khuất”,…Khi kẻ thù đã vẫy đuôi xin hàng, ta sẵn lòng mở đường hiếu sinh, cấp cho họ năm trăm chiến thuyền, vài nghìn cỗ ngựa để họ về nước, bởi ta chỉ cốt “dập tắt muôn đời chiến tranh, mở nền thái bình muôn thuở”.
Trong thời bình thì lo “an dân, trị quốc”, vì thế đã kiên quyết “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”, để sao cho khắp “thôn cùng, xóm vắng không còn tiếng hờn giận, oán sầu” như Nguyễn Trãi đã nói. Ở thời đại Hồ Chí Minh, đó là các tư tưởng “dân là chủ”,“phải dựa vào dân, lấy dân làm gốc”, “có dân là có tất cả”, cho nên “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”, vì dân bất tín thì vô lập… Đó là những tinh hoa muôn thưở của sức mạnh mềm, không thể để bị mai một, muốn thu phục lòng dân hay bạn bè, chúng ta phải tìm mọi cách kế thừa và phát huy nó lên, tạo ra sức mạnh mềm để bảo vệ Tổ quốc và hội nhập, phát triển thành công.
- Trở lại thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước trong thế kỷ vừa qua, nhân dân ta đã nêu một tấm gương sáng chói về tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tinh thần dũng cảm, trí tuệ sáng tạo,…trong chiến tranh, nhờ đó chúng ta đã thu phục được lòng yêu mến và cảm phục của nhân loại tiến bộ yêu hòa bình, công lý, dân chủ và nhân đạo trên toàn thế giới.
Ở thời điểm đó, chúng ta được coi là biểu tượng của lương tâm, vinh dự của thời đại, một dân tộc nhỏ dám kiên cường đương đầu, chống lại những đế quốc lớn, vì các mục tiêu cao cả: độc lập dân tộc, dân chủ, nhân quyền - mà cao nhất là quyền được sống trong độc lập, tự do, theo con đường lựa chọn của mình. Chính điều đó là sức mạnh mềm tạo nên lực hấp dẫn của Việt Nam, vì thế mới có người mơ ước sau một đêm ngủ dậy thành người Việt Nam; mới có những cuộc biểu tình rầm rộ trên thế giới phản đối chiến tranh xâm lược của Mỹ; mới có phong trào hiến máu cho Việt Nam , phong trào tình nguyện sang Việt Nam chiến đấu,… Sự ủng hộ vật chất và tinh thần to lớn đó đã góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của Việt Nam mùa xuân năm 1975.
Tiếc rằng ta đã không tranh thủ nắm lấy cơ hội ấy để phát triển lên thành một quốc gia độc lập, thống nhất, giàu mạnh, có vị thế quốc tế trong khu vực và thế giới. Trái lại, ngay sau đó chúng ta đã mắc phải một số sai lầm trong chính sách đối nội và đối ngoại, làm cho hình ảnh Việt Nam  đang huy hoàng, rực rỡ bỗng trở nên méo mó trong con mắt của loài người, đất nước lâm vào thế bị bao vây, cô lập, suy thoái, tụt hậu hàng mấy chục năm so với các nước xung quanh.
Lòng yêu nước, tinh thần xả thân vì nước là một giá trị vô cùng quý báu, nhưng “không phải để cất giấu trong rương, trong hòm” mà phải có cơ chế, chính sách, biện pháp biến nó thành động lực, khiến cho người dân sẵn sàng đem tài năng, sức lực, tiền của ra sản xuất, kinh doanh, góp phần vào xây dựng và phát triển đất nước. Muốn thế, Nhà nước phải là nhà nước của dân, phải tạo được niềm tin trong dân, khi đó dân sẽ sẵn sàng sẻ nhà, sẻ cửa để góp phần với nhà nước, như nhân dân ta đã từng đóng góp vào Tuần lễ Vàng và Quỹ đảm phụ quốc phòng sinh thời Hồ Chí Minh năm 1946.
- Sức mạnh mềm của Việt Nam còn được thể hiện ở tinh thần khoan dung  văn hóa. Con người Việt Nam không hề hẹp hòi, kỳ thị mà sẵn sàng thâu hóa những giá trị khác nhau của nhân loại, làm phong phú thêm cho văn hoá của mình (văn hóa Trung Hoa, Ấn Độ, Chămpa,…cũng như văn hóa phương Tây sau này).
 Ví như, về chữ viết, chúng ta chưa có, hoặc có nhưng sớm bị mai một, chúng ta đã học chữ Hán, rồi dựa vào nó mà chế tạo ra chữ Nôm; hay sau này sẵn sàng tiếp thu chữ cái latinh. Về văn hóa tâm linh, ta đã có đạo thờ cúng tổ tiên, nhưng vẫn tiếp thu Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành,...cũng như sau này tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm cách mạng của các nước anh em,…Đó là sức mạnh mềm của Việt Nam : khả năng dung hóa, thâu hóa cái hay, cái tốt, cái đúng, cái đẹp của văn hóa nhân loại, để nâng cao và làm giàu cho văn hóa của mình.
Người Mỹ rất khâm phục và ca ngợi tinh thần bao dung, nhân ái của người Việt Nam. Trong chiến tranh, họ đã gây ra cho đất nước và nhân dân ta bao tội ác trầm trọng (sự tàn phá, chết chóc, thương tật, trẻ mồ côi, di hại của chất độc da cam,…). Nhưng chỉ vài năm sau khi chiến tranh kết thúc, nhiều cựu binh Mỹ đã sang thăm Việt Nam , lúc đầu họ cũng sợ bị nhân dân ta lên án, xua đuổi, nhưng ngược lại, họ đã được đón tiếp tử tế. Chính các Tổng thống Mỹ Bill Clinton, G. W. Bush sang thăm Việt Nam cũng ngạc nhiên trước lòng khoan dung, hiếu khách của người Việt chúng ta, họ có được cảm giác thật sự an toàn, thoải mái khi đi dạo trên đường phố Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh , thăm Văn Miếu, vào lễ Nhà thờ Cửa Bắc, chơi Chợ Bến Thành, thưởng thức món phở nổi tiếng của Việt Nam ngay trong chợ, không chút e ngại. Đó là một hiện tượng khó diễn ra ở một quốc gia cựu thù nào khác của nước Mỹ.
- Sức mạnh mềm của Việt Nam còn thể hiện ở truyền thống đoàn kết, cộng đồng, sẵn sàng gạt bỏ mọi dị biệt và lợi ích riêng tư để tập trung cứu nước và dựng nước; là truyền thống lá lành đùm lá rách, cưu mang lẫn nhau trong hoạn nạn (thủy, hỏa, đạo, tặc). Lịch sử đã ghi lại không ít những trang viết cảm động, sâu sắc về truyền thống cao đẹp này. Ai cũng biết: sự thống nhất dân tộc, sự đồng thuận xã hội là nhân tố cơ bản tạo nên sự ổn định chính trị của quốc gia, tạo nên sức mạnh mềm, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư.
Tiếc thay, chúng ta rộng rãi với người ngoài, nhanh chóng xóa bỏ quá khứ, nhìn về tương lai, nhưng nhiều khi lại hẹp hòi giữa những người cùng chung dòng máu Hồng Lạc. Một dân tộc hơi nặng cảm tính. Chiến tranh kết thúc, giang sơn quy về một mối đã 40 năm mà thiên kiến “bên này, bên kia” vẫn còn đó. So với nước Đức cùng cảnh ngộ bị chia cắt thì giữa người Việt chúng ta cho đến nay vẫn chưa thể nói đã có hòa hợp dân tộc thực sự ! Điều này đang làm suy yếu sức mạnh mềm của đất nước - một cản trở lớn cho hội nhập và phát triển.
- Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, với hơn 3.200 km bờ biển, lại nằm ở ngã tư đường giao thông hàng hải từ bắc xuống nam, từ đông sang tây; tài nguyên thiên nhiên không đến nỗi nghèo nàn; nhân dân ta vốn có truyền thống lao động cần cù và sức mạnh vượt khóđáng ngạc nhiên. Với dân số 90 triệu, phần đông là lao động trẻ, năng động, có chí tiến thủ -một nguồn lao động đầy tiềm năng,…nhưng sao đất nước vẫn không vượt lên được để trở thành một quốc gia phát triển, trái lại, sau một số năm đổi mới thành công, nay lại đang rơi vào  trì trệ, suy thoái ?
Người Trung Quốc, hơn ba chục năm trước đây từng nêu ra câu hỏi: vì sao 20 triệu người Hoa ở khắp thế giới lại tạo ra được số của cải nhiều lần hơn 1 tỷ người Hoa ở lục địa? Lời giải đã được làm sáng tỏ bằng cuộc cải cách, chuyển đổi sang kinh tế thị trường mang đặc sắc Trung Quốc, theo tư duy thực dụng: “Mèo trắng, mèo đen không quan trọng, miễn là bắt được chuột”. Kết quả là sau vài chục năm phát triển ngoạn mục, Trung Quốc đã nổi lên như là một thị trường, một công xưởng lớn nhất thế giới, có sức mạnh kinh tế vượt xa Nhật Bản, chỉ còn thua nước Mỹ !
Vậy nguyên nhân giầu nghèo là ở đâu? - do tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, văn hóa, thể chế kinh tế-xã hội hay con người ? Nếu nghiên cứu kỹ hiện tượng thần kỳ của Nhật Bản vào thập niên 60-70 thế kỷ trước hay sự vươn lên của các con rồng châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore, ta có thể tự tìm được câu trả lời.
 Năm 2014 này, nhân dân ta đón xuân với thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng - một thông điệp chứa đựng nhiều quan điểm có tính đột phá - trong đó nhấn mạnh đến vấn đề cải cách thể chế: “tập trung nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa  và tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới”. Thông điệp đã đề cập đến một khái niệm mới: chức năng kiến tạo phát triển của nhà nước. Nhà nước không làm thay dân mà phải tập trung xây dựng khuôn khổ thể chế phù hợp và tạo điều kiện cần thiết để mọi người  phát huy năng lực và sức sáng tạo vì lợi ích của chính mình… Thông điệp đã phản ánh đúng nguyện vọng bấy lâu của người dân, nên được đa số nhân dân vui mừng đón nhận.
- Người Việt Nam vốn được tiếng là thông minh và hiếu học. Chỉ số IQ và EQ cùng những giải thưởng giành được trong các kỳ thi quốc tế đã chứng minh điều này. Đó là một lợi thế của chúng ta. Ngày nay, nhân loại đã đạt được những thành tựu lớn lao về khoa học-công nghệ, nhất là công nghệ thông tin. Nhiều quốc gia lân bang vào nửa cuối thế kỷ trước vốn có trình độ phát triển không mấy hơn ta, thậm chí có mặt còn thua ta, nhưng do biết tận dụng cơ hội thời đại mang đến, họ đã bứt lên trong cuộc cạnh tranh, đem lại phồn vinh và hạnh phúc cho dân tộc mình.
Lịch sử mỗi nước tùy thuộc rất nhiều vào sự lựa chọn định hướng của các nhà lãnh đạo nước đó. Ông Lý Quang Diệu trong cuốn “Bí quyết hóa rồng” đã cắt nghĩa rõ bài học thành công của Singapore. Từ khá sớm ông Lý từng phát biểu với các nhà lãnh đạo Việt Nam:“Thắng cuộc đua trong giáo dục thì mới thắng cuộc đua trong kinh tế”. Đến nay, chúng ta mới thật thấm thía bài học này. Kinh tế của chúng ta trì trệ, kém phát triển vì giáo dục của chúng ta quá lạc hậu, cũ kỹ cả về nội dung lẫn phương pháp, không nâng cao được chất lượng đào tạo con người, mà con người mới là nhân tố quyết định của phát triển.
Giáo dục Việt Nam xưa vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của giáo dục Nho giáo: hiếu cổ(sùng bái cái cũ, “xưa bày, nay làm”), chủ trương chỉ “thuật nhi bất tác, vô vi vô cải”, chuộng từ chương, háo danh hiệu, bằng cấp,  coi nhẹ thực nghiệp, khoa-kỹ,…cho nên các nhà nho xưa hầu như không có vai trò, tác dụng gì đối với sản xuất.
Khi đi vào xây dựng nền giáo dục mới, chúng ta đã phê phán những tàn dư này, đề cao vai trò của thực tiễn, xem thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của chân lý. Tuy nhiên trong thực tế nghiên cứu-giảng dạy, chúng ta vẫn chưa thoát khỏi căn bệnh kinh viện, giáo điều, mà chưa xuất phát từ đòi hỏi của đời sống thực tế. Vì vậy, trong nội dung và phương pháp giảng dạy, ta thường chỉ chú trọng truyền thụ, áp đặt một chiều, không khuyến khích tư duy độc lập, không cho phép nêu phản đề, tranh luận, phản biện,…để tìm ra cái mới. Tư duy triết học đã sơ cứng thì không những khoa học xã hội không tiến lên được, mà cả khoa học tự nhiên cũng không thể phát triển.
Bản chất của giáo dục không phải chỉ là lưu giữ, truyền bá tri thức cũ, rồi đóng khung lại, “vô vi vô cải”, mà cái chính là phải nghiên cứu, tìm tòi, thử nghiệm, phát minh,…để sản xuất ra tri thức mới (nhất là giáo dục ở bậc đại học), biến tri thức khoa học thành công nghệ, tạo ra năng suất cao hơn, sản phẩm nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, thúc đẩy kinh tế phát triển, tiến tới hình thành nền kinh tế tri thức. Đến lượt nó, sự phát triển của khoa học-công nghệ lại thúc đẩy cuộc đua tranh sản xuất tri thức mới lên một tầm cao hơn.
Khoa học ngày nay vừa kế thừa vừa phủ định lẫn nhau để không ngừng tiến lên, cái hôm nay được coi là đúng, hôm sau có thể không còn đúng nữa. Lý thuyết hố đen của A. Einstein vừa được nhà vật lý thiên tài tật nguyền người Anh Stephen Hawking chứng minh là không tồn tại, nghĩa là không có đường chân trời cho các sự kiện. Mọi tinh tú, vật thể và con người tồn tại, tương tác với nhau trong một vũ trụ bao la, không có giới hạn không gian và thời gian.
 Việt Nam ta hầu như hiện vẫn đang đứng bên ngoài của sự đua tranh quyết liệt về phát triển tri thức khoa học. Vì vậy, để tiến cùng thời đại, chúng ta phải bắt đầu lại từ giáo dục, phải thay đổi triết lý giáo dục, trên nền tảng đó mà xác định lại mục tiêu, cơ cấu lại nội dung, chương trình, sách giáo khoa, đổi mới phương châm, phương pháp dạy và học, có chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với vai trò, vị trí của người thầy giáo,…chỉ có như vậy mới nhanh chóng đưa giáo dục của ta  thoát ra khỏi khủng hoảng, tạo ra động lực mới, sức mạnh mới làm thay đổi vị thế của đất nước.
Nêu ra một số điều như trên để muốn nói rằng sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam tuy dồi dào, nhưng hiện nay chủ yếu vẫn đang tồn tại ở thế tiềm năng, ta phải tìm cách làm cho nó trở thành hiện hữu. Mong rằng các nhà hoạch định chính sách sẽ có những phương án khơi dậy, nâng cao, phát huy những giá trị đó song song với việc ra sức học hỏi, trau giồi những giá trị văn hóa-tinh thần tiên tiến  của thời đại, để Việt Nam có thể sớm cất cánh trong một tương lai gần.
2. “Ngoại giao văn hóa” trước mắt có thể làm gì để góp phần phát huy sức mạnh mềm của đất nước.
          2.1. Đẩy mạnh quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam ra thế giới.
           Sức mạnh mềm của một quốc gia được thể hiện trước hết ở sức thu hút, hấp dẫn, tỏa ra từ các giá trị văn hóa của quốc gia đó, bao gồm các giá trị vật chất (hay giá trị tự nhiên, như phong cảnh, tài nguyên, môi trường…), giá trị tinh thần (hay giá trị nhân văn, như văn hóa, đạo đức, tôn giáo…) và giá trị con người (phẩm chất và năng lực của người dân, đặc biệt là vai trò của các vĩ nhân, anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa tiêu biểu của đất nước,… ). Những lợi thế này nếu biết phát huy tốt sẽ tạo nên thương hiệu quốc gia, có sức mời gọi đối với thế giới. Ví như, nói đến Ai Cập người ta nhắc tới Kim tự tháp; nói đến nước Pháp người ta nhắc đến tháp Eiffel, bảo tàng Louvre; nói đến nước Anh người ta nhắc đến Tháp chuông đồng hồ Big-beng, Công viên Hoàng gia…; nói đến nước Nga người ta nhắc đến Điện Kremli với những tháp chuông dát vàng, những đêm tháng sáu sáng hồng bên dòng sông Nêva, những cánh rừng bạch dương và thảo nguyên mênh mông của nước Nga; nói đến Úc, người ta nhớ ngay đến nhà hát vỏ sò Xitni, chuột túi kăngguru; nói đến nước Nhật ta nhắc đến núi Phú sĩ, hoa anh đào và trà đạo Nhật Bản; nói đến Trung Quốc là nhắc đến Vạn lý trường thành, Cố cung, Di hòa viên, và những cảnh đẹp đã đi vào văn chương như: sương bến Phong Kiều, trăng sông Xích Bích, tuyết rơi Tây Hồ,…
          Về di sản thiên nhiên:Việt Nam đã có nhiều phong cảnh và danh thắng được Unesco công nhận là di sản thiên nhiên hàng đầu của nhân loại như Vịnh Hạ Long, Động Phong Nha-Kẻ Bàng, bãi đá cổ Sapa; nước ta có nhiều bãi biển đẹp (như Ngũ Hành Sơn, NhaTrang), có du lịch sinh thái sông rạch, miệt vườn Nam bộ độc đáo…
          Về văn hóa, chúng ta được thừa hưởng của cha ông một nền văn hóa đa dân tộc, phong phú về thể loại (cả dân gian lẫn bác học, cả văn chương, hội họa, kiến trúc, lẫn ca múa nhạc) trong đó một số đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của nhân loại (như kiến trúc cố đô Huế, Tháp Chàm, di tích thánh địa Mỹ Sơn, nhã nhạc, cồng chiêng, rối nước, quan họ,…). Nhưng được công nhận rồi không phải để cất vào kho, mà cần tiếp tục được nâng cao, phát triển, đem ra quảng bá với thế giới, làm cho bạn bè hiểu biết và tìm đến với nền văn hóa độc đáo của Việt Nam.
          Văn hóa ẩm thực Việt Nam vốn có sức hấp dẫn với du khách do khẩu vị Việt Nam  gắn liền với sản vật nông nghiệp nhiệt đới, giúp cho các món ăn Việt Nam bổ dưỡng mà nhẹ nhàng, thanh lịch, có hương vị và màu sắc riêng, khác với châu Âu mà cũng không giống với Trung Quốc, như món phở, nem rán cua bể, bún thang, bánh cuốn, bánh xèo Huế,…vốn từ lâu đã quen thuộc với du khách nước ngoài. Cây cỏ nhiệt đới Việt Nam tiềm ẩn nhiều vị thuốc quý, như sâm Ngọc Linh, nấm lim xanh và nhiều cây thuốc khác có thể nuôi trồng, tạo ra những vị thuốc riêng mang thương hiệu Việt Nam, để du khách có thể mua về làm quà tặng.
          Sức mạnh mềm của văn hóa Việt Nam, chủ yếu được thể hiện ở con người Việt Namvới truyền thống yêu nước, quật cường chống ngoại xâm, ở sự hài hòa cá nhân-gia đình-Tổ quốc, ở sự thân thiện, cởi mở, có tinh thần bao dung hòa hợp, không hẹp hòi, kỳ thị với những cái còn xa lạ đối với mình,…
Những giá trị đó được kết tinh ở những người con ưu tú của dân tộc qua các thời kỳ lịch sử như Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh , Võ Nguyên Giáp,…cùng bao nhà văn hóa và nhân vật lịch sử lỗi lạc khác. Do cách quảng bá còn có phần thiên lệch của ta, hiện còn nhiều tấm gương của các vĩ nhân khác trong lịch sử Việt Nam vẫn chưa được giới thiệu rộng rãi với thế giới.
 Vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành “Chiến lược ngoại giao văn hóa đến năm 2020”, yêu cầu các bộ, ngành, địa phương phải xây dựng các chương trình, kế hoạch cụ thể  nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động ngoại giao văn hóa của đơn vị mình. Theo tôi, đây không phải là vấn đề của các bộ, các ngành và địa phương. Cái mà chúng ta đang thiếu hiện nay là một chiến lược tổng thể mang tầm quốc gia về quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, nghĩa là hiện vẫn chưa có một cơ quan, hay tổ chức nào được giao trách nhiệm đứng ra tập hợp những nhà nghiên cứu, nhà hoạt động văn hóa, khoa học, nghệ thuật,…của cả nước để xây dựng nên một chiến lược toàn diện, có tầm ngắn, tầm  dài trong cuộc đua tranh về sức mạnh mềm của văn hóa ở thời kỳ hiện nay.
Ví như về du lịch, hiện nay vẫn do từng địa phương đảm nhiệm, chủ yếu như một ngành kinh tế, một nguồn thu cho ngân sách địa phương, chứ chưa thực sự coi du lịch như một ngành văn hóa, có chức năng hàng đầu là quảng bá những giá trị của đất nước, văn hóa và con người Việt Nam ra thế giới; vì vậy nó vẫn đang diễn ra một cách manh mún, sơ sài, nghèo nàn, thiếu một sự phối hợp, liên thông giữa các ngành với nhau. Du lịch, bản chất nó là văn hóa, gắn liền với vẻ đẹp cảnh quan, di tích lịch sử, với các lễ hội, festival ca múa nhạc mang màu sắc địa phương, du lịch làng nghề với các sản phẩm văn hóa biểu tượng cho mỗi vùng miền,…nên cần được liên kết thành các “tua”, với sự phối hợp của nhiều ngành, nhiều địa phương mới thu hút được du khách đến và ở lại trong nhiều ngày.
Quan trọng hơn là cần chú trọng xây dựng hình ảnh con người Việt Nam hiện đại - với tư cách là “sứ giả” của văn hóa - để họ biết nên có, cần có thái độ như thế nào khi tiếp xúc với du khách nước ngoài (nụ cười thân thiện, lòng hiếu khách, sự giúp đỡ vô tư không vụ lợi, rồi ngôn ngữ, y phục, cách ứng xử, giao tiếp,…phải tỏ ra là người dân của một nước văn hóa). Còn nếu chỉ biết đeo bám, xin xỏ, gian lận, lừa lọc, chặt chém,…thì họ chỉ làm cái việc đuổi khách “một đi không trở lại” chứ nói gì đến phát huy sức mạnh mềm! Nói cách khác, muốn hấp dẫn được người ta, trước tiên phải làm cho mình trở nên hấp dẫn đã, nghĩa là phải nhanh chóng khắc phục được những nhược điểm, khuyết tật tự thân về văn hóa, lối sống của mỗi người dân chúng ta, bắt đầu từ trong gia đình, học đường rồi ra đến ngoài xã hội.
2.2. Tăng cường sức mạnh mềm của “ngoại giao công chúng” để giúp họ cập nhật những thông tin đúng đắn về Việt Nam.
Ngoại giao công chúng khác với ngoại giao nhà nước ở chỗ nó không nhằm tác động đến các chính phủ; đối tượng mà nó hướng đến là công chúng, là các tổ chức phi chính phủ, tiếng nói của nó thể hiện sự đa dạng các quan điểm của cá nhân, như là một sự bổ sung vào quan điểm của chính phủ.
-Ngoại giao công chúng có thể được tiến hành bằng nhiều con đường, nhưng trước hết cần tận dụng con đường truyền thông.
Trong cuộc xung đột Biển Đông, trước đây cũng như hiện nay, chính nghĩa thuộc về Việt Nam, nhưng chính nghĩa đó chưa được chúng ta diễn giải rõ ràng cho nhân dân Trung Quốc hiểu, do sự tuyên truyền bóp méo của truyền thông phía họ, đại bộ phận nhân dân Trung Quốc vẫn có cái nhìn sai lầm về Việt Nam, bởi các nhà cầm quyền Trung Quốc luôn luôn tuyên truyền ngụy tạo rằng các cuộc chiến 1974, 1979, 1988 là do phía Việt Nam gây ra, nên có đến 85 % người dân Trung Quốc đồng tình phải tiến đánh Việt Nam.
Trên Biển Đông hiện nay, Trung Quốc đang làm những việc ngang ngược, thô bạo, cư xử vô nhân đạo với ngư dân Việt Nam, như các vụ Bình Minh 02, Viking II, Cỏ Rong,…rồi bằng sức mạnh truyền thông áp đảo, họ đã đánh đồng kẻ gây hấn với người bị gây hấn.
Ngược lại, các hành động nhân đạo của Việt Nam đã cứu hộ ngư dân Trung Quốc mắc nạn do thời tiết, lại chỉ được đưa tin trên báo chí Việt Nam, người dân Trung Quốc không hề  biết đến, do sức mạnh của truyền thông Việt Nam chưa được phát huy tốt. Chúng ta hiện có hơn 700 ấn phẩm báo chí, gần trăm đài phát thanh-truyền hình, trong đó có không ít được xuất bản và truyền hình bằng tiếng Anh, tiếng Trung,…ta cần xúc tiến liên tục, bền bỉ các chương trình truyền thông (về văn hóa Việt Nam, về thực trạng Biển Đông, về chủ quyền biển đảo của Việt Nam trong lịch sử,…) hướng về phía nhân dân Trung Quốc và các nước Asean, thông tin cho công chúng nước họ biết, đòi hỏi chính phủ họ phải tôn trọng luật pháp quốc tế. Đó chính là một sức mạnh mềm để cải thiện hình ảnh và tìm kiếm sự ủng hộ của công chúng các nước trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền đất nước và biển đảo của ta.
Cần nhớ lại rằng bức tường Berlin sụp đổ không phải bằng bom đạn quân sự mà chủ yếu bằng sức mạnh của thông tin-truyền thông. Trong chiến tranh lạnh, ngoài sức mạnh của ngoại giao văn hóa như nghệ thuật, sách báo, phim ảnh,… Mỹ và các nước phương Tây đã sử dụng sức mạnh của truyền thông, liên tục phát đi các chương trình của Đài phát thanh Tự do và Đài phát thanh Châu Âu Tự do, hướng vào công chúng các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, bào mòn dần lòng tin của họ vào tương lai của chủ nghĩa xã hội. Do đó, người ta cũng gọi thông tin- truyền thông là một hình thức “ngoại giao công chúng” (public diplomacy).
-Thông tin là sức mạnh. Nhưng ở thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, thông tin trở nên bội thực, trong đống hỗn độn ấy, người ta không biết tin vào cái gì, cái nào là giả, cái nào là thật? Cách đưa tin của thời chiến tranh lạnh đã mất chỗ đứng trong lòng tin người nghe.Chân thật, chính xác, đáng tin cậy phải trở thành tiêu chí quan trọng hàng đầu của sức mạnh mềm truyền thông, bởi chính trị là địa hạt giành giật lòng tin, các thông tin nếu quá thiên về tuyên truyền, thiếu sự khả tín quốc gia, không thể biến thành sức mạnh mềm. Người nghe ngày nay thường không quá tin vào các nguồn tin chính thức của nhà nước, nên họ đã tranh thủ đi tìm thông tin từ nhiều con đường khác nhau.
Vì vậy, nội dung của “ngoại giao công chúng” còn được thực hiện thông qua  hoạt động của các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn kinh tế, các hội thảo khoa học, các khóa tập huấn, các chươg trình tài trợ cho du học sinh, các cuộc trao đổi, giao lưu văn hóa - nghệ thuật,… với sự tham gia của các nhà hoạt động xã hội, nghệ sĩ, nhà văn, nhà báo có tên tuổi,…Trong các cuộc giao lưu, tiếp xúc với công chúng ở các nước sở tại thường diễn ra các cuộc phỏng vấn, tọa đàm, đối thoại hai chiều, trao đổi trong phạm vi hẹp, những thông tin công chúng họ thu được tại đây sẽ có tính thuyết phục hơn, trở nên đáng tin cậy hơn.
-Ngoại giao công chúng sẽ đạt hiệu quả tốt nhất nếu nó được thuyết phục bằng hành động, bởi hành động bao giờ cũng mạnh hơn mọi lời nói. Một thí dụ điển hình là Na-uy, một nước chỉ có 5 triệu dân, không có ngôn ngữ quốc tế, văn hóa xuyên quốc gia, không nằm ở trung tâm châu Âu, cũng không phải là thành viên của EU,…nhưng lại là một quốc gia có vị thế, có tiếng nói vượt ra ngoài kích thước và tài nguyên khiêm tốn của mình, đó là vì họ đã có những hoạt động đóng góp tích cực vào nền  hòa bình trên thế giới: hòa giải cho các xung đột tại Trung Đông, Sri Lanka, Columbia; đóng góp đáng kể vào các quỹ viện trợ cho nhiều nước; là thường trực của các lực lượng giữ gìn hòa bình trên thế giới,…Dĩ nhiên trong ứng xử quốc nội, Na-uy cũng có vấn đề của họ, nhưng xét về tổng thể, Na-uy là một nước nhỏ nhưng đã biết cách khai thác một thế mạnh trong hoạt động ngoại giao để khuếch trương hình ảnh và vị thế quốc gia nhỏ bé của mình.
Việt Nam, tùy theo khả năng hiện nay, có thể từng bước tham gia vào  hoạt động của các tổ chức quốc tế, vào giải quyết các vấn đề như biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường sinh thái, cho quân đội tham gia cứu trợ, cứu nạn trên Biển Đông hay tham gia các lực lượng bảo vệ hòa bình của LHQ, v.v..Thông qua những hoạt động đó, hình ảnh Việt Nam sẽ được cải thiện rất nhiều trong con mắt của thế giới.
                                                    *
Việt Nam sẽ triển khai sức mạnh “ngoại giao văn hóa” của mình như thế nào? Ở thế kỷ trước, chúng ta đã một thời là trung tâm thu hút được sự yêu mến và kính trọng của loài người tiến bộ vì đã đi tiên phong và giành được thắng lợi trong cuộc đấu tranh cho độc lập tự do và phẩm giá con người - một chàng David bé nhỏ đã quật ngã được gã khổng lồ Goliath - làm cho chính đối thủ cũng phải nể phục. Tiếc thay, sức mạnh mềm ấy nay đã là chuyện của quá khứ, ta không thể cứ mãi “ăn mày dĩ vãng”.
Để tạo ra sức mạnh mềm mới, có lẽ ta cần tỉnh táo, sáng suốt định vị lại mình là ai, đang ở vị thế nào trong thế giới hiện đại, cần phải thay đổi những gì để có thể tái thu hút được sự yêu mến và cảm phục của nhân loại như một thời ta đã có ? Những câu hỏi ấy thật không dễ trả lời. Vậy xin tạm ngừng tại đây để được nghe  kiến giải của các bậc cao minh.
 
                                                                     Hà Nội, tháng  2 - 2014
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tuyên bố Vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam


Sau năm 1975, kết thúc một thời kỳ lịch sử kéo dài hơn trăm năm, đất nước cần một cuộc phục hưng dân tộc căn bản, mà nền tảng là phục hưng văn hóa. Tiếc thay công cuộc cần thiết và nghiêm trang ấy đã không diễn ra như mong đợi. Trái lại văn hóa Việt Nam ngày càng suy thoái nghiêm trọng, lộ rõ nguy cơ đánh mất những giá trị nhân bản căn cốt nhất, uy hiếp đến cả sự tồn vong của dân tộc.
Những người viết văn tiếng Việt không thể nói rằng mình hoàn toàn không có phần trách nhiệm về thực trạng đó. Một trong những chức năng quan trọng nhất của văn học là thức tỉnh lương tri và bồi đắp đạo đức xã hội. Trong bước ngoặt lớn này của lịch sử, văn học Việt Nam đã không làm đúng được vai trò của mình.
Văn chương Việt Nam yếu kém có nguyên nhân chủ quan trước tiên thuộc chính người cầm bút là sự thờ ơ đối với trách nhiệm xã hội, vô cảm trước thời cuộc, quan trọng hơn nữa là thiếu độc lập tư duy, từ đó mà tự hạn chế năng lực sáng tạo.
Về mặt khách quan, một xã hội như chúng ta đang có, trong đó các quyền tự do cơ bản của con người thực tế bị vi phạm trầm trọng, đương nhiên đè nặng lên tâm lý sáng tạo của người cầm bút, làm mờ nhạt và tắt lụi các tài năng. Quyền tự do sáng tác và tự do công bố tác phẩm đang là đòi hỏi sống còn của từng nhà văn và của cả nền văn học. Không có những quyền tự do tối thiểu đó thì không thể có một nền văn học đàng hoàng.
Một thể chế tổ chức đời sống văn học nặng tính quan liêu và bao cấp càng làm nặng nề thêm tình hình, đồng thời lại không tạo được mối liên kết lành mạnh giữa những người viết để nâng đỡ và thúc đẩy nhau trong công việc, hỗ trợ nhau trong khó khăn.
Trước tình cảnh kéo dài và nay đã trở nên cấp bách đó, chúng tôi, những người cầm bút ký tên dưới đây, quyết định vận động thành lập một tổ chức độc lập của các nhà văn viết bằng tiếng Việt ở trong nước và ngoài nước, lấy tên là Văn đoàn độc lập Việt Nam, với mong muốn góp phần tích cực xây dựng và phát triển một nền văn học Việt Nam đích thực, nhân bản, dân chủ, hiện đại, hội nhập với thế giới, có thể đóng vai trò tiền phong đúng như nó phải có trong sự nghiệp phục hưng văn hóa, phục hưng dân tộc mà lịch sử đang đòi hỏi.
Hoạt động của Văn đoàn độc lập Việt Nam nhằm vào những nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Đoàn kết tương trợ giữa những người viết văn tiếng Việt trong và ngoài nước;
- Tạo điều kiện nâng cao về nghề nghiệp, thúc đẩy sáng tạo cá nhân, khuyến khích đổi mới trong sáng tác và nghiên cứu phê bình văn học và ngôn ngữ;
- Bảo vệ mọi quyền lợi vật chất và tinh thần chính đáng, hợp pháp của hội viên, đặc biệt là quyền tự do sáng tác và công bố tác phẩm, cũng như quyền tự do tiếp cận tác phẩm văn học của mọi người.
Văn đoàn độc lập Việt Nam là một tổ chức của xã hội dân sự, ái hữu nghề nghiệp, hoàn toàn độc lập đối với mọi hệ thống tổ chức và thiết chế trong và ngoài nước.
Điều lệ và Chương trình hành động cụ thể của Văn đoàn sẽ được hình thành và công bố trong quá trình vận động. Mọi liên lạc xin gửi về email: nhavandoclap@gmail.com
Hà Nội ngày 3 tháng 3 năm 2014
TM Ban vận động
Nguyên Ngọc
BAN VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP VĐĐLVN

  1. Nguyên Ngọc – nhà văn (Trưởng ban)
  2. Bùi Chát – nhà thơ
  3. Bùi Minh Quốc – nhà thơ
  4. Bùi Ngọc Tấn – nhà văn
  5. Chân Phương – nhà thơ, dịch giả (Hoa Kỳ)
  6. Châu Diên – nhà văn, dịch giả
  7. Dạ Ngân – nhà văn
  8. Dư Thị Hoàn – nhà thơ
  9. Dương Thuấn – nhà thơ
  10. Dương Tường – nhà thơ, dịch giả
  11. Đặng Tiến – nhà nghiên cứu phê bình (Pháp)
  12. Đặng Văn Sinh – nhà văn
  13. Đoàn Lê – nhà văn
  14. Đoàn Thị Tảo – nhà thơ
  15. Đỗ Lai Thúy – nhà nghiên cứu phê bình văn học
  16. Đỗ Trung Quân – nhà thơ
  17. Giáng Vân – nhà thơ
  18. Hà Sĩ Phu – nhà văn
  19. Hiền Phương – nhà văn
  20. Hoàng Dũng – nhà nghiên cứu ngôn ngữ
  21. Hoàng Hưng – nhà thơ, dịch giả
  22. Hoàng Minh Tường – nhà văn
  23. Lê Hoài Nguyên – nhà thơ
  24. Lê Minh Hà – nhà văn (CHLB Đức)
  25. Lê Phú Khải – nhà văn
  26. Lưu Trọng Văn – nhà văn
  27. Mai Sơn – nhà văn, dịch giả
  28. Mai Thái Lĩnh – nhà nghiên cứu triết học, văn hóa
  29. Nam Dao – nhà văn (Canada)
  30. Ngô Thị Kim Cúc – nhà văn
  31. Nguyễn Bá Chung – nhà thơ (Hoa Kỳ)
  32. Nguyễn Duy – nhà thơ
  33. Nguyễn Đức Dương – nhà nghiên cứu ngôn ngữ
  34. Nguyễn Đức Tùng – nhà thơ, nhà phê bình văn học (Canada)
  35. Nguyễn Huệ Chi – nhà nghiên cứu văn học
  36. Nguyễn Quang Lập – nhà văn
  37. Nguyễn Quang Thân – nhà văn
  38. Nguyễn Quốc Thái – nhà thơ
  39. Nguyễn Thị Hoàng Bắc – nhà thơ (Hoa Kỳ)
  40. Nguyễn Thị Thanh Bình – nhà văn (Hoa Kỳ)
  41. Phạm Đình Trọng – nhà văn
  42. Phạm Nguyên Trường – dịch giả
  43. Phạm Vĩnh Cư – nhà nghiên cứu văn học, dịch giả
  44. Phạm Xuân Nguyên – nhà phê bình văn học, dịch giả
  45. Phan Đắc Lữ – nhà thơ
  46. Phan Tấn Hải – nhà văn (Hoa Kỳ)
  47. Quốc Trọng – tác giả kịch bản điện ảnh
  48. Thùy Linh – nhà văn
  49. Tiêu Dao Bảo Cự – nhà văn
  50. Trang Hạ – nhà văn, dịch giả
  51. Trần Đồng Minh – nhà nghiên cứu văn học
  52. Trần Huy Quang – nhà văn
  53. Trần Kỳ Trung – nhà văn
  54. Trần Thùy Mai – nhà văn
  55. Trịnh Hoài Giang – nhà thơ
  56. Trương Anh Thụy – nhà văn (Hoa Kỳ)
  57. Võ Thị Hảo – nhà văn
  58. Vũ Biện Điền – nhà văn (Nhật Bản)
  59. Vũ Thế Khôi – nhà nghiên cứu văn học, dịch giả
  60. Vũ Thư Hiên – nhà văn (Pháp)
  61. Ý Nhi – nhà thơ

    Proclamation
    of the Committee to Promote the Founding of the
    League of Independent Vietnamese Writers
    After 1975, the end of a hundred-year history of war, our country was in need of a substantial cultural renaissance. Unluckily, this grave and urgent rebirth did not happen as expected. On the contrary, Vietnamese culture has evolved from bad to worse, and appears to be in danger of losing the most basic humanistic values. This shortcoming threatens the survival of our nation.
    Vietnamese writers must admit that they are partly responsible for this state of affairs. Among literature’s many important functions is to awaken the conscience and to raise the morale of the nation. At this great turning point of history, Vietnamese literature is not realising its true role.
    The weakness of Vietnamese literature is rooted in the indifference of its writers to their social responsibilities, their insensitivity concerning daily events, and, most importantly, their lack of independent thinking, which has also limited their creative capabilities.
    In a society like ours, where basic freedoms have been severely limited, it is difficult for writers to speak clearly and forcefully about the conditions of life in society. This limitation blurs and confuses expression; ultimately, it extinguishes art entirely. The freedom to create and publish literary works is a life-or-death necessity, not only for writers as individuals but also for the health of Vietnamese literature. Without minimal rights to free expression, our literary lives will never be adequate.
    Literary institutions ruled by bureaucracy and mendacity suffocate the literature they presume to support. They also suppress healthy communication between writers and their ability of offer mutual assistance, both in their private lives and their artistic production.
    In response to this longstanding but urgent situation, we, the undersigned writers, resolve to organise a committee for the founding of an independent institution of Vietnamese writers, both inside and outside the country. To be called The League of Independent Vietnamese Writers, this new institution seeks to promote a true, humanistic, and democratic literature, modern and responsive to globalisation. As demanded by history, we must act as pioneers in the creation of a national cultural renaissance.
    Activities of The League of Independent Vietnamese Writers will focus on following:
    - To improve solidarity and assistance among writers inside and outside the country;
    - To bring forth conditions for professional amelioration, to advance and promote individual creation, and to encourage innovation in creative writing as well as literary criticism and linguistic studies;
    - To defend all legitimate materialistic and spiritual interests of its members, especially the freedom to write and publish, as well as the promotions of easy and complete access to literature by the reading public.
    - The League of Independent Vietnamese Writers is an organisation belonging to civil society. Dedicated to professional solidarity, it is completely independent of any other organisations existing inside and outside the country.
    The detailed statutes and programme of the League will be set up and made public in the process of establishing of the league. Our email is: nhavandoclap@gmail.com
    Hà Nội, March 3rd, 2014
    On behalf of the Promotion Committee
    Nguyên Ngọc
    The Committee to Promote
    THE LEAGUE OF INDEPENDENT VIETNAMESE WRITERS

  1. Nguyên Ngọc – writer (Chief of the Committee)
  2. Bùi Chát – poet
  3. Bùi Minh Quốc – poet
  4. Bùi Ngọc Tấn – writer
  5. Chân Phương – poet, translator (USA)
  6. Châu Diên – writer, translator
  7. Dạ Ngân – writer
  8. Dư Thị Hoàn – poet
  9. Dương Thuấn – poet
  10. Dương Tường – poet, translator
  11. Đặng Tiến – literary critic and researcher (France)
  12. Đặng Văn Sinh – writer
  13. Đoàn Lê – writer
  14. Đoàn Thị Tảo – poet
  15. Đỗ Lai Thúy – literary critic and researcher
  16. Đỗ Trung Quân – poet
  17. Giáng Vân – poet
  18. Hà Sĩ Phu – writer
  19. Hiền Phương – writer
  20. Hoàng Dũng – linguist
  21. Hoàng Hưng – poet, translator
  22. Hoàng Minh Tường – writer
  23. Lê Hoài Nguyên – poet
  24. Lê Minh Hà – writer (Germany)
  25. Lê Phú Khải – writer
  26. Lưu Trọng Văn – writer
  27. Mai Sơn – writer, translator
  28. Mai Thái Lĩnh – philosophy and culture researcher
  29. Nam Dao – writer (Canada)
  30. Ngô Thị Kim Cúc – writer
  31. Nguyễn Bá Chung – poet (USA)
  32. Nguyễn Duy – poet
  33. Nguyễn Đức Dương – linguist
  34. Nguyễn Đức Tùng – poet, literary critic (Canada)
  35. Nguyễn Huệ Chi – literature researcher
  36. Nguyễn Quang Lập – writer
  37. Nguyễn Quang Thân – nhà văn
  38. Nguyễn Quốc Thái – poet
  39. Nguyễn Thị Hoàng Bắc – poet (USA)
  40. Nguyễn Thị Thanh Bình – writer (USA)
  41. Phạm Đình Trọng – writer
  42. Phạm Nguyên Trường – translator
  43. Phạm Vĩnh Cư – literature researcher, translator
  44. Phạm Xuân Nguyên – literary critic and translator
  45. Phan Đắc Lữ – poet
  46. Phan Tấn Hải – writer (Hoa Kỳ)
  47. Quốc Trọng – screenplay writer
  48. Thùy Linh – writer
  49. Tiêu Dao Bảo Cự – writer
  50. Trang Hạ – writer, translator
  51. Trần Đồng Minh – literature researcher
  52. Trần Huy Quang – writer
  53. Trần Kỳ Trung – writer
  54. Trần Thùy Mai – writer
  55. Trịnh Hoài Giang – poet
  56. Trương Anh Thụy – writer (USA)
  57. Võ Thị Hảo – writer
  58. Vũ Biện Điền – writer (Japan)
  59. Vũ Thế Khôi – literature researcher, translator
  60. Vũ Thư Hiên – writer (France)
  61. Ý Nhi – poet

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phạm Xuân Nguyên và bè bạn tường trình từ TP Đà Nãng:

TƯỜNG TRÌNH TỪ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ĐÊM TRƯỚC PHIÊN TÒA


Phạm Xuân Nguyên: Tại toà án Đà Nẵng sáng 3/3/2014. Mình và luật sư Trần Vũ Hải xuống sân bay ĐN lúc 8h45 và đến thẳng toà để ls nộp các giấy tờ cho phiên bào chữa TDN ngày mai. Quyết định xét xử là công khai nhưng ls lên phòng gặp thẩm phán chủ phiên toà thì không thấy đâu, nghe bảo là bận họp, kiểu này là có ý tránh mặt. Hải đành xuống văn phòng nộp tài liệu. Quanh toà đã thấy có bóng an ninh và xe cộ biển xanh. Chưa biết ngày mai thế nào.

 


LS. Trần Vũ Hải tại VP tòa án Đà Nẵng
13h30 ngày 3/3/2014, ls Hải và vợ TDN đến Toà án nhân dân Đà Nẵng. Ls cần gặp thẩm án để xin giấy phép vào trại giam gặp TDN trước phiên xử. Vợ TDN đưa đơn xếp toà xin phép ngày mai được dự phiên xử. Bảo vệ cổng toà ngăn lại, nói chiều nay cơ quan bận họp không tiếp khách, không giải quyết công việc. Ls bực tức lớn tiếng hỏi họp sao không có biển báo, ai cấm ls vào gặp toà để chuẩn bị cho phiên xử ngày mai. Mình chụp hình bị ngăn lại, bị sửng cồ. Hiện ls và vợ TDN đang ở trong trụ sở toà, mình ngồi ngoài chờ. Khẩu hiệu "thủ pháp" là thế này sao?


Cùng trò chuyện về phiên tòa ngày 4.3.2014
Lâm Khang: Hôm nay, LS, Trần Vũ Hải đã vào trại tạm giam thăm Blogger Trương Duy Nhất. LS cho biết sức khỏe và tinh thần của ông Nhất rất tốt và đã sẵn sàng cho phiên tòa ngày mai. 
LS Hải cũng thông báo cho ông Nhất biết dư luận trong và ngoài nước đặc biệt theo dõi phiên tòa ngày 4.3.2014. Giới blogger trong nước cũng đang hướng về ông và phiên tòa ngày mai. Ông Trương Duy Nhất gửi lời cảm ơn sự quan tâm của các hãng tin quốc tế, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, đặc biệt là giới blogger trong nước. 
Một cuộc gặp nho nhỏ của các văn nghệ sỹ xứ Quảng và các bạn bè của ông Trương Duy Nhất cũng đã được tổ chức vào buổi tối nay. Một số người trong số họ đã bị nhân viên an ninh đeo bám. 
Thành phố Đà Nẵng, lúc 20h00, tối 3.3.2014:

Phạm Xuân Nguyên và bè bạn tường trình từ TP Đà Nãng

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chọn điểm nóng thí điểm lập ‘phố đèn đỏ’?

Vấn đề bây giờ không phải bàn đến chuyện có nên chấp nhận mại dâm hay không, mà phải làm, phải hành động”, TS. Đỗ Văn Quân, Viện Xã hội học, cho hayVấn đề bây giờ không phải bàn đến chuyện có nên chấp nhận mại dâm hay không, mà phải làm, phải hành động”, TS. Đỗ Văn Quân, Viện Xã hội học, cho hay.



Thuần túy coi mại dâm là tệ nạn: Không ổn
- Gần đây, một số ý kiến cho rằng, sở dĩ mại dâm gia tăng, khó kiểm soát, diễn biến phức tạp… là do hoạt động mại dâm ở nước ta không được công nhận. Vì vậy, cần phải chấp nhận nó bằng cách đưa vào những khu vực nhất định, gọi nôm na là để dễ bề quản lý. Quan điểm của ông thế nào?
- Thực ra, quan điểm này không có gì mới lạ vì từ hàng chục năm nay trong giới khoa học xã hội học cũng đã bàn đến vấn đề này rồi. Đặt trong bối cảnh khi mà chúng ta càng chống thì hoạt động mại dâm lại càng gia tăng, gây ra những hệ quả rất lớn cho xã hội - cả về mặt đạo đức, hạnh phúc gia đình, văn hóa truyền thống, nhân phẩm, sức khỏe, an ninh trật tự, tội phạm… thì đã đến lúc cần phải có cái nhìn tích cực hơn, biết chấp nhận thực tế để giải quyết vấn đề.
- Nhưng tại sao cái nhìn tích cực ấy đã được đặt ra từ cả chục năm trước rồi nhưng đến giờ vẫn chưa được triển khai?
- Là bởi vì ảnh hưởng của đạo đức, văn hóa truyền thống, chính sách pháp luật… khiến cho mại dâm là một vấn đề xã hội rất xấu, hết sức nhạy cảm và phức tạp. Do đó, người ta thường có tâm lý muốn nhanh chóng loại bỏ nó ra khỏi đời sống.
Nguyên nhân nữa là các nhà quản lý đang có cái nhìn chưa đầy đủ về mại dâm. Họ chỉ thuần tuý coi đó là tệ nạn xã hội, từ đó thường nhấn mạnh các biện pháp hành chính để mong triệt tiêu nó. Nhưng kết quả thì ngược lại.
- Vậy phải nhìn nhận mại dâm như thế nào mới là đầy đủ?
- Khoa học xã hội học nhìn nhận mại dâm đầy đủ trên cả hai khía cạnh. Thứ nhất, nó đúng là tệ nạn xã hội, để lại nhiều hệ quả tiêu cực. Nhưng đi kèm với đó còn là vấn đề quyền con người. Bởi những người hành nghề mại dâm cũng là con người, họ cũng có quyền được bảo vệ sức khỏe, tính mạng, tài sản, nhân phẩm…
Thứ hai, mại dâm là một vấn đề liên quan đến sức khỏe cộng đồng, bởi khi sức khỏe của những người hành nghề mại dâm được bảo đảm thì đồng thời cũng bảo vệ được sức khỏe của người mua dâm.  
Cảnh chèo kéo khách mua dâm trên đường Phạm Văn Đồng (Hà Nội)
Ảnh minh họa
Thà để mại dâm hơn là trộm cắp, lừa đảo
- Ông đang đứng ở góc độ xã hội học và thực tiễn để ủng hộ việc chấp nhận mại dâm. Nhưng với rất nhiều người khác đứng dưới góc độ văn hóa, đạo đức,... họ cũng có lăng kính của riêng mình để phản đối chứ?
- Đúng. Nhưng đứng từ góc độ khoa học và thực tiễn mà nói thì cần phải xem xét lại. Vì cơ sở xã hội nảy sinh vấn đề mại dâm là rất đa dạng và phức tạp. Đó là nhu cầu của một bộ phận xã hội khi vợ/chồng họ không đáp ứng được nhu cầu sinh hoạt tình dục; nó cũng liên quan đến nhiều người không có khả năng lấy vợ/lấy chồng nhưng vẫn có quyền được hưởng nhu cầu tình dục an toàn, lành mạnh, chính đáng… 
Cảnh chèo kéo khách mua dâm trên đường Phạm Văn Đồng (Hà Nội)
Việt Nam nói cấm mại dâm nhưng ở đâu cũng có mại dâm, ngay cổng trường cũng có quán karaoke và cô gái hoạt động mại dâm.
Xã hội cũng luôn có một bộ phận gặp khó khăn, bi kịch trong cuộc đời và không còn con đường nào khác. Trong số đó, nhiều người chấp nhận bán thân nuôi miệng, kinh doanh vốn tự có để đảm bảo nhu cầu sống, thu nhập hỗ trợ gia đình… Khi đó, thà chấp nhận để họ hành nghề mại dâm còn hơn là để họ trộm cắp, buôn bán ma túy, lừa đảo...
Chọn điểm nóng thực hiện thí điểm
- Nhiều người tỏ ý băn khoăn rằng, hiện chúng ta cấm đoán mại dâm mà còn không kiểm soát nổi thì khi chấp nhận nó, liệu có làm cho xã hội bất ổn hơn, liệu có “vẽ đường cho hươu chạy”?
- Tôi cho rằng những nỗi lo ấy là có cơ sở, vì những vấn đề xã hội bình thường còn bất cập, khó khăn trong quản lý, huống hồ vấn đề nhạy cảm, phức tạp như thế này. Do đó phải tổ chức thí điểm ở một địa bàn nào đó trước đã.
Nguyên tắc là chúng ta buộc chấp nhận mại dâm chứ không khuyến khích nó, thực hiện biện pháp quản lý để hướng đến mục tiêu phòng chống mại dâm. Do vậy, khi đã thực hiện thí điểm thì phải đánh thuế hoạt động này, phải có đăng ký hành nghề (về độ tuổi, về sự tự nguyện, an ninh trật tự, đảm bảo các quyền con người, về khám chữa bệnh, phòng ngừa không bị lây nhiễm bệnh liên quan đến đường tình dục…).
- Chấp nhận mại dâm, chúng ta sẽ được gì, theo ông?
- Nhiều chứ, với điều kiện phải làm thật sự khoa học, trách nhiệm và đồng bộ. Đó là bảo vệ được quyền con người; đảm bảo an ninh trật tự xã hội hơn, góp phần hạn chế được các loại tội phạm có liên quan như: hiếp dâm, nô lệ tình dục, ma túy, buôn bán phụ nữ…
Chon diem nong thi diem lap pho den do
"Quy hoạch thí điểm một “khu đèn đỏ” để quản lý nhưng không chính thức công nhận mại dâm như một nghề", đó là đề xuất được nêu ra tại TP.HCM gần đây. 
- Bây giờ, vẫn có những luồng ý kiến trái chiều trong quản lý mại dâm. Có vẻ như, để chấp nhận nó là một điều không dễ và… chưa phải lúc này?
- Tôi nghĩ, vấn đề bây giờ không phải bàn đến chuyện có nên chấp nhận mại dâm hay không, mà phải làm, phải hành động. Cũng giống như việc muốn bơi thì có thể phải uống nước, việc chấp nhận mại dâm sẽ gặp phải những phản đối gay gắt từ phía dư luận xã hội vì những tác động của nó. Tuy nhiên, nếu không làm để có sự so sánh xem chấp nhận hơn hay cấm đoán hơn thì sẽ chẳng bao giờ chúng ta có được cách ứng xử phù hợp, sẽ càng rơi vào vòng luẩn quẩn, bất cập.
- Vậy theo ông, cần phải làm gì để tiến tới việc chấp nhận mại dâm?
- Tôi muốn nhấn mạnh là buộc phải chấp nhận mại dâm trong khi chúng ta chưa thể tiến tới mục tiêu xóa bỏ nó hoàn toàn. Trước hết, cần phải thay đổi nhận thức, thái độ trong xã hội về vấn đề này, đặc biệt là của các nhà quản lý, cơ quan có liên quan. Muốn vậy, phải tăng cường công tác truyền thông. Đi kèm với đó thì phải có lộ trình thay đổi hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan; cũng như hàng loạt các giải pháp mang tính tổng thể về phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Chúng ta chọn địa phương là điểm nóng về mại dâm để thực hiện thí điểm, nếu thành công thì sẽ làm đại trà; ngược lại, khi đó nói đến chuyện cấm đoán cũng chưa muộn.
VietBao.vn (Theo Giao thông Vận tải)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Tuyến phố cột điện" kì dị ở Hà Nội


Hàng chục chiếc cột điện án ngữ giữa đường gây cản trở giao thông, mất mỹ quan đô thị là những hình ảnh xấu xí, kì dị trên "tuyến phố cột điện" ở Hà Nội. Đi kèm với việc mở rộng, nâng cấp nhiều con đường là một thực trạng tồn tại đáng lo ngại: bỗng dưng "mọc" lên những cột điện ở giữa đường, vừa làm mất mỹ quan đô thị, vừa đe dọa an toàn giao thông.
Đoạn phố Tân Mai (quận Hoàng Mai - Hà Nội) được mở rộng đã đi vào hoạt động từ cuối năm 2013. Thế nhưng, dãy cột điện chằng chịt dây vẫn án ngữ giữa đường, gây cản trở giao thông suốt thời gian qua.

Theo ghi nhận của chúng tôi, có đến hàng chục chiếc cột điện "mọc" giữa đường, chiếm hết lối đi của tuyến phố vừa được mở rộng. Tuyến phố mở rộng với mục đích phục vụ người dân đi lại, giảm thiểu ùn tắc giao thông, thế nhưng những chiếc cột điện "kì dị" đã làm cho tuyến phố không được thông thoáng như người dân vẫn mong đợi.

Anh Nguyễn Văn Thành (ở Mai Động, Hà Nội) nói: "Tôi luôn phải dè chừng khi đi làm qua phố Tân Mai. Những chiếc cột điện nằm giữa đường luôn gây bất ngờ cho những người tham gia giao thông, phải cố gắng quan sát, giảm tốc độ và luồn lách qua những chiếc cột đó".

"Những chiếc cột điện ở giữa đường như một cái bẫy đối với người tham gia giao thông. Tuyến phố được mở rộng, nâng cấp nhưng lại nguy hiểm cho người dân hơn so với ban đầu", chị Tuyết (ở Linh Đàm, Hà Nội) thường xuyên đi qua tuyến đường này chia sẻ.

Hình ảnh những cột điện "kì dị" tại tuyến phố Tân Mai:

Dãy cột điện án ngữ giữa đường Tân Mai

Chiếc cột điện "mọc" ở lối rẽ từ đường Trương Định vào phố Tân Mai

Những chiếc cột điện chen giữa dòng phương tiện trên đường


Hình ảnh kì dị, xấu xí ở tuyến phố vừa được nâng cấp, mở rộng

Ở điểm quay đầu xe cũng có chiếc cột điện "che chắn"

Hệ thống dây điện chằng chịt, gây nguy hiểm cho người đi đường

Những chiếc cột điện xiêu vẹo, có an toàn đối với người tham gia giao thông?



Ô tô phải luồn lách qua cột điện

Đường dây điện chằng chịt

Nhiều đoạn dây rơi xuống đường, phải dùng cọc tre chống đỡ


Xe máy cũng phải rất vất vả mới né được các cột điện giữa đường

Nguy cơ xảy ra tai nạn giao thông rất cao ở con phố này khi người dân phải đối mặt với hàng loạt chiếc cột điện giữa đường

Những chiếc cột điện đổ nghiêng đầy nguy hiểm

Hàng cột điện tua tủa giữa một chiều đường mới mở của phố Tân mai. 
Đoạn đường này bắt đầu từ phố Trương Định và kéo dài khoảng gần 1km.

Có đến hàng chục cột mọc lên thành kiểu hàng rào trên phố Tân Mai

Nguồn: kenh 14

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lại một kiểu sính ngoại:


Phụ nữ Việt thua xa phụ nữ Tây về mọi khoản!


Trần Quang Huy - Theo Tri Thức Trẻ
Trước khi đòi hỏi đàn ông Việt, chê bai đàn ông Việt để chạy theo đàn ông Tây, chị em Việt cũng nên nhìn lại bản thân mình. Thực ra, nồi nào thì úp vung nấy. Cũng chỉ có đàn ông Việt mới chịu được tính khí khó chịu của phụ nữ Việt. Chứ đàn ông Tây mà nhìn thấu bản chất, chắc họ cũng chạy mất dép!


Đàn ông Việt dạo này bị xuống giá quá thể. Cứ lên internet là thấy nhan nhản các chị em kêu lấy chồng Tây sướng, rồi chỉ có chồng Tây mới xứng với phụ nữ Việt. 

Là một người sinh sống ở cả Việt Nam và Mỹ một thời gian dài, tôi cảm thấy hình như các chị em Việt đang quá nâng tầm bản thân thì phải. Các chị em nghĩ chồng Tây dễ lấy thế sao? Thực tế, phụ nữ Việt so với phụ nữ Tây còn thua nhiều điểm lắm.

Thứ nhất, so về ngoại hình. Công bằng mà nói, tôi thấy từ cái dáng đến khuôn mặt đều thua bét. Mắt một mí, mũi tẹt sao so được với mắt to, mũi cao. Người Việt ta phụ nữ có dáng nhỏ thó, ngực nhỏ, nhìn làm sao cuốn hút và hấp dẫn như các phụ nữ Tây nảy nở.

Thứ hai, so về tính cách, tôi càng có thể kể ra cả rổ những thứ chị em ta thua xa chị em Tây.

Phụ nữ Việt vẫn vỗ ngực tự hào là họ đảm đang, hiền dịu, giàu đức hy sinh. Chuyện này chỉ đúng với đời các bà, các mẹ ngày xưa mà thôi. Còn chị em bây giờ vụng về thấy ớn, đã thế còn hay kêu ca, đòi hỏi.

Sang Tây mới biết phụ nữ Tây đảm đang gấp ngàn lần phụ nữ Việt. Người nước ngoài được sống tự lập, cho nên việc nhà họ rất rành, nấu ăn ngon kinh khủng luôn. Mà món ăn Tây lằng nhằng, rắc rối, công phu lắm chứ không đơn giản như đồ ăn Việt, cứ xào, đổ mắm, đổ nước vào là xong. Nhiều cô còn làm bánh mì, bánh ngọt nhoay nhoáy ấy.

Mà phụ nữ Tây không có chuyện vừa làm vừa kêu ca như chị em Việt đâu. Tôi có vài người bạn Việt Nam đã lấy vợ, nghe các cậu ấy than thở về vợ cũng thấy ớn. Lúc nào các cậu đó cũng bị vợ lấy lý do làm việc nhà hầu hạ chồng ra để làm cao, để chất vấn. Phụ nữ Tây không như vậy, họ rất vui vẻ khi nấu nướng cho những người mà mình yêu thương. Đã kêu ca thì họ không làm.

Họ không bao giờ quản chuyện tiền nong của chồng như các chị em Việt hay làm. Chỉ cần góp đủ sinh hoạt phí và lo được cho con cái là ổn. Còn đâu tiền ai nấy giữ, muốn làm gì thì làm. Đâu có khổ sở như đàn ông Việt, tiền mình làm ra mà lại phải giấu giếm như là tiền đi ăn cắp, phải quỹ đen quỹ đỏ khắp mọi nơi.

Riêng về điểm này, tôi thấy phụ nữ Việt rất vô lý. Họ không có sự tôn trọng tối thiểu đối với chồng. Nên nhớ vợ chỉ là người bạn đời chứ không phải là mẹ mà o ép, quản thúc chồng trắng trợn. Có nhiều chị em còn khùng điên tới mức tịch thu hết tiền lương của chồng rồi hàng ngày phát tiền cho chồng như kiểu mẹ phát tiền quà sáng cho con trước khi đi học. Tôi thấy thật dấm dớ hết chỗ nói.

Về đức hy sinh, tôi thấy phụ nữ Tây đầy người hy sinh còn hơn phụ nữ Việt. Bạn bè Tây của tôi có mẹ ở nhà nội trợ rất nhiều, hy sinh toàn bộ sự nghiệp cho chồng con. Mà cái quý là họ không cho đó là hy sinh, họ tự nguyện và coi công việc ở nhà chăm sóc con cái, gia đình là một công việc cao cả.

Các bà mẹ Tây rất giỏi. Một nách 3, 4 con vẫn nuôi con khôn lớn, đẹp đẽ, giỏi giang, không một lời than thở kêu ca như bà mẹ Việt. Chứ như mấy bà mẹ trẻ người Việt á, nuôi con mình mà làm như đang đi trả nợ, kêu than ầm ĩ, rồi gắn cho mình một hình tượng vĩ đại.

Mà tôi ghét nhất cái kiểu phụ nữ Việt cứ lấy cái cớ sinh con vất vả, sinh con đau đớn ra để hành hạ và đòi hỏi đàn ông. Cứ làm như đứa con ấy chỉ là con của bọn đàn ông chứ không phải là con của các chị. Đẻ con ra, được làm mẹ thì phải lấy đó làm điều hạnh phúc thiêng liêng. Cớ sao lại dùng đứa con đứt ruột đẻ ra làm lý do uy hiếp chồng thế?

Phụ nữ Tây cũng đáng yêu hơn phụ nữ Việt. Họ vui vẻ, thân thiện, xởi lởi, cư xử thật lòng. Chứ phụ nữ Việt cáo già lắm. Bên ngoài tươi cười như hoa nhưng bên trong tính toán.

Phụ nữ Việt luôn nghi ngờ, luôn đề phòng tất cả những người xung quanh, đặc biệt đối với chồng và gia đình chồng. Một điểm nữa là phụ nữ Tây không biết nói khích, nói xéo như phụ nữ Việt. Có gì không vừa lòng thì họ bảo thẳng, bàn bạc cách giải quyết sao cho hợp lý, fairplay. Đâu có như các chị em phụ nữ ở đây, nếu không được như ý mình là y như rằng sẽ đá thúng đụng nia, sưng xỉa cả ngày. Nhìn cảnh ấy tôi thấy ớn lắm.

Đi chơi với phụ nữ nước ngoài sướng một cái là họ rất hiểu chuyện. Không hiểu người Việt ta lấy đâu ra quan niệm là đàn ông phải lo kinh tế, đàn ông đi đâu cũng phải trả tiền dù chỉ là bạn bè, đồng nghiệp bình thường. Nếu không trả sẽ bị quy vào dạng ki bo, thậm chí còn bị bảo là đàn bà. 

Vô hình chung, gánh nặng tiền bạc đặt lên vai đàn ông rất nhiều. Nhưng chị em Tây không như vậy. Họ share tiền, bình đẳng. Phụ nữ bên đó không có thói quen đào mỏ, ỷ lại như phụ nữ Việt Nam.

Mặt thứ ba mà tôi muốn nói tới là khía cạnh tế nhị. Đó là "chuyện ấy".

Phụ nữ Việt còn nhiều quan niệm bảo thủ trong sex và không giỏi bằng phụ nữ nước ngoài. Mặt khác, họ cũng hay lười tập thể dục nên thường sức khỏe rất yếu và thiếu sự chủ động chốn phòng the.

Nhiều chị em Việt khen đàn ông Tây thoáng, không để ý chuyện trinh tiết. Tuy nhiên, người nước ngoài rất coi trọng sự chung thủy trong tình yêu. Đối với họ, sự đồng điệu về tinh thần rất quan trọng, người yêu phải là tri kỷ của họ.

Phụ nữ Việt không thế. Cái mà người Việt quan trọng lại là sự chung thủy về thể xác, còn tinh thần thì lại rất hay phản bội. Biểu hiện là họ thường xuyên đứng núi này trông núi nọ, so sánh người đàn ông của mình với người khác. Điều này tôi đánh giá là tệ hơn nhiều so với ngoại tình thể xác.

Yêu phụ nữ Việt cũng rất mệt mỏi. Một là yêu mà không được đụng đến, yêu chay, tình yêu chẳng khác gì tình bạn. Còn nếu lỡ đụng đến họ rồi thì họ lại bắt đàn ông phải chịu trách nhiệm, biến chuyện tình yêu trở nên nặng nề, trở thành gông cùm trói chân, rất nhàm chán.

Tôi thích cách yêu của phụ nữ Tây. Họ thoải mái, thậm chí có thể sống chung với người yêu. Thật ra họ không hề buông thả chút nào, mà là họ rất cẩn thận. Họ muốn xem xét mọi khía cạnh xem có phù hợp hay không rồi mới tiến đến hôn nhân, một việc đại sự cả đời, mới ký vào bản cam kết ràng buộc nhau về pháp luật.

Nói tóm lại, trong cảm nhận của tôi, phụ nữ Tây tốt hơn phụ nữ Việt rất nhiều. Bạn gái hiện tại của tôi cũng là người Mỹ. Ở bên cô ấy thoải mái, vui vẻ hơn nhiều so với bạn gái người Việt trước đây của tôi.

Tôi nghĩ trước khi đòi hỏi đàn ông Việt, chê bai đàn ông Việt để chạy theo đàn ông Tây, chị em Việt cũng nên nhìn lại bản thân mình. Thực ra, nồi nào thì úp vung ấy. Cũng chỉ có đàn ông Việt mới chịu được tính khí khó chịu của phụ nữ Việt. Chứ đàn ông Tây mà nhìn thấu bản chất của chị em Việt Nam, chắc họ cũng chạy mất dép!
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hứa rồi ???

8-3-2014.... MÌNH HỨA SẼ TẶNG EM NÓ CĂN NHÀ....THẾ MÀ BÂY GIỜ MỚI CHUẨN BỊ ĐƯỢC MỖI........VIÊN GẠCH...!!!

Phần nhận xét hiển thị trên trang