Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2014

Những người cuối đường đua


Mỗi khi có dịp tới xem một cuộc chạy marathon, tôi thường không quan tâm lắm tới người vô địch và liệu anh ta có phá được kỷ lục này nọ hay không. Tôi thấy những người về chót thú vị hơn nhiều. Lần nào cũng vậy, khi những người thắng cuộc đã lên bục nhận giải, chụp ảnh, trả lời TV, rồi đã về nhà tắm rửa xong, thì nhóm người này vẫn hì hục, nhẫn nại ở những cây số cuối cùng. Tôi đứng ở ven đường để ngắm lòng quyết tâm đầy đau đớn của họ.
Thường khi họ rẽ vào khúc ngoặt cuối cùng dẫn tới đích thì các băng rôn đã được tháo xuống từ lâu, cũng không còn ai đứng ở vạch đích để bấm thời gian cho họ, và người xem cũng đã ra về gần hết rồi. Bám sát gót những người đang lê lết này là các nhân viên vệ sinh khua chổi quét đường.
Tôi không để ý tới những người về đầu vì họ là dân chuyên nghiệp, họ sinh ra để dẫn đầu, họ có tố chất để làm điều siêu phàm.
Những người về cuối thì hiểu rằng họ không có vai trò gì trong cái cuộc thi thố này. Họ chẳng đem lại vinh quanh cho ai, mà thất bại của họ cũng không làm ai mảy may quan tâm. Động cơ để họ cắn răng lê bước tiếp không phải là những gửi gắm của một tập thể, chẳng phải là danh dự của một quốc gia, hay danh tiếng của bản thân mà họ cần phải bảo vệ. Họ đơn thuần bướng bỉnh và có thể là hơi điên rồ. Họ tiếp tục chỉ vì bỏ cuộc không phải là lựa chọn của họ.
Cái bướng bỉnh và điên rồ của những con người bình thường này có cái gì đó thật lôi cuốn tôi. Nó làm tôi liên tưởng tới câu chuyện mà tôi mới được biết về em bé 6 tuổi da đen Ruby Bridges - cũng là một cuộc chạy marathon, nhưng ở dạng khác.

Bao giờ rụng quả ơi?
Kẻ bướng bỉnh cô đơn
Vào cuối những năm 1950, bang New Orleans ở Mỹ đã xoá bỏ sự phân biệt mầu da ở các thư viện, trên xe buýt và ở các công viên công cộng, duy ở các trường học thì vẫn không. Năm 1960, một toà án liên bang ra quyết định bắt chính quyền bang này phải cho phép học sinh da đen tới các trường vốn dành cho da trắng. Ruby đăng ký học lớp Một ở một trường gần nhà. Em sẽ là học sinh da đen đầu tiên và duy nhất của trường vào năm đó.
Ngày nhập trường, bốn cảnh sát toà án liên bang hộ tống Ruby và mẹ em tới trường trong một chiếc xe limousine lớn. Đợi họ ở cổng trường là một đám đông da trắng giận dữ, gào thét, chửi rủa.
Xuống xe, hai cảnh sát đi trước, hai đi sau để bảo vệ, họ đi dọc những bức tường đầy vết cà chua và những dòng chữ thoá mạ. Một người đàn bà da trắng gào lên "Tao sẽ đầu độc mày, tao sẽ tìm được cách." Nhớ lại hành trình đi qua đám đông hung dữ đó, một cảnh sát liên bang nói về Ruby: "Em không khóc. Em không thút thít. Em chỉ xốc bước đi cùng, như một người lính bé nhỏ. Tất cả chúng tôi đều rất tự hào về em."
Cả ngày hôm đó, hai mẹ con không dám bước chân ra khỏi phòng hiệu trưởng. Qua vách kính, họ chứng kiến cảnh các phụ huynh da trắng xông vào trường và giận dữ kéo con mình ra ngoài.
Ngày hôm sau, cảnh sát lại hộ tống Ruby, đám đông da trắng lại gào thét ở cổng trường. Ám ảnh nhất với Ruby là hình ảnh một chiếc quan tài với một búp bê da đen nằm bên trong. Bên trong trường vắng tanh, không có một học sinh nào khác ngoài em. Toàn bộ các giáo viên cũng từ chối đứng lớp. Toàn bộ, trừ một cô giáo trẻ tên là Barbara Henry. Hôm đó, cô bắt đầu dạy bảng chữ cái, như trước một lớp học bình thường. Và trong một năm học đó, ngày này qua ngày khác, lớp chỉ có một thầy một trò.

Em Ruby Bridges, 6 tuổi, vào học lớp một năm 1960 dưới sự bảo vệ của cảnh sát liên bang Mỹ (Ảnh: Internet)

Đọc những dòng trên thật là dễ dàng, chỉ vài giây là xong. Nhưng chúng ta hãy dừng lại một chút để hình dung ra những gì mà Ruby và gia đình em đã trải qua. Một năm trời lủi thủi một mình, không có bạn chơi, một năm trời một đứa bé lớp một hứng chịu sự căm thù của người lớn.

Cái giá phải trả không phải chỉ là sự cô đơn và khủng bố tinh thần mà Ruby 6 tuổi phải trải qua hàng ngày. Bố Ruby bị đuổi việc vì sự cả gan của mình. Cửa hàng thực phẩm quen từ chối bán hàng cho mẹ em. Ngay cả ông bà của Ruby ở Mississipi cũng bị đuổi khỏi mảnh đất mà họ đã thuê để trồng trọt trong 25 năm qua, khi câu chuyện lan tới bang này.
Trong năm đó, mỗi ngày là một cơ hội để Ruby chuyển sang trường tiểu học khác, nơi các bạn da đen của em đang học với nhau, và cuộc sống sẽ trở lại bình thường, sẽ như cũ. Bố mẹ của Ruby không phải những người hoạt động xã hội hay tham gia chính trị gì. Với một đứa bé 6 tuổi, với một gia đình lao động nghèo và ít học, sự cám dỗ để bỏ cuộc lớn tới mức nào. Thật khó mà lý giải được sự bướng bỉnh và điên rồ của họ. Họ vẫn tiếp tục vì bỏ cuộc không phải là lựa chọn của họ. Vì "như cũ" không phải là điều họ muốn.
Chúng ta hay có xu hướng bám lấy những người siêu phàm, những người được cho rằng một tay thay đổi thế giới, mà bỏ qua câu chuyện của những kẻ người trần mắt thịt như chính bản thân chúng ta, những người lê lết đau đớn ở cuối đoàn marathon, những người như em Ruby.
Chúng ta bị thu hút bởi những người xuất chúng và nổi tiếng, chúng ta dễ rơi vào tâm lý chờ đợi, phó thác. "Cái thể chế này nó thế!," Chúng ta nói, và khoanh tay chờ đợi. Chúng ta đợi một Lý Quang Diệu mới xuất hiện để bộ máy công quyền trơn tru hơn, đợi một Mẹ Theresia mới để lòng tử tế nảy nở trong cộng đồng, đợi một Martin Luther King mới để sự bình đẳng được lan truyền trong xã hội.
Dạng tâm lý này không chỉ đặc trưng cho những việc ngoài xã hội. Với cuộc sống riêng của chúng ta, ta cũng xử sự như vậy.
Khi Ruby lên lớp hai, em không cần cảnh sát liên bang hộ tống nữa. Không còn đám đông la ó trước cổng trường nữa. Trẻ em da trắng lại tới trường, cùng với Ruby và thậm chí cả vài học sinh da đen khác nữa.
Điểm chung của cuộc vật lộn của những con người vô danh này là họ hành động vì họ cho rằng họcần làm như vậy, không phải vì có người khác nhìn vào họ, trông chờ vào họ, hay trao nhiệm vụ cho họ. Họ không đại diện cho ai cả, và có lẽ sự kiên cường của họ đến từ điểm này. Những cuộc marathon bướng bỉnh và điên rồ của những con người bé nhỏ, nếu may mắn như trong trường hợp của Ruby thì được nhắc tới trong một chú thích bé tí của lịch sử, nhưng phần lớn xảy ra âm thầm, không ai biết tới.
Nhưng tôi tin rằng không có họ thì cũng không có thay đổi trong xã hội.

Đặng Hoàng Giang
(Phó giám đốc CECODES - Trung tâm Hỗ trợ Cộng đồng và Nghiên cứu Phát triển)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

"Hai mặt" của kinh tế trí thức


Đây là bài viết góp ý cho Hội thảo “Phát triển kinh tế tri thức Việt Nam” đến năm 2020 và tầm nhìn tới 2030 do giáo sư – viện sĩ Đặng Hữu, nguyên Trưởng ban Khoa giáo, nguyên Bộ trưởng Bộ Khoa học & Công nghệ (Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu khoa học độc lập cấp nhà nước) chủ trì. 
Theo quy luật tiến hoá thì nhân loại tích luỹ tri thức. Chuyên gia Vũ Quang Việt cho rằng việc tìm hiểu về phát triển kinh tế trong bối cảnh thay đổi của lịch sử tư tưởng, chính trị và công nghệ là điều không những thú vị mà còn giúp thấy được sự ảnh hưởng qua lại giữa điều kiện phát triển kinh tế và tư tưởng.
Từ năm 1960, sau hội nghị giữa National Bureau of Economic Research và The Economic History Association ở Mỹ, việc phát triển và ứng dụng lý thuyết kinh tế và phương pháp lượng học vào nghiên cứu lịch sử được đặt ra.


Chính điều này đã dẫn Douglas C. North, giải Nobel kinh tế năm 1993, người tự coi là bị chủ nghĩa Marx ảnh hưởng, đã đi đến kết luận là lý thuyết kinh tế tân cổ điển không thôi không giải thích nổi lý do tại sao nhiều nền kinh tế tiếp tục đình đốn hoặc không phát triển được trong một thời gian lâu dài. Phải tìm đến vai trò của tư tưởng, ý thức hệ, thói quen suy nghĩ đối với việc tồn tại lâu dài của một thể chế không hữu hiệu. Sự kết hợp giữa nghiên cứu thể chế, tư tưởng và kinh tế đòi hỏi sự lượng hoá kinh tế.

Chúng tôi hiểu kinh tế tri thức không phải là vấn đề mới. Kinh tế tri thức bao gồm giáo dục, kỹ thuật, phương pháp quản lý (doanh nghiệp và xã hội). Kinh tế tri thức được biểu hiện trong cái gọi là multi-productivity, chỉ có thể đo được bằng cách loại trừ mọi ảnh hưởng khác như tăng lượng lao động, vốn (máy móc và tài nguyên thiên nhiên). Như vậy là nó có sai số. Trong thời gian IT ra đời người ta nói đầy rẫy về ảnh hưởng không lường được của cái gọi là kinh tế mới hay kinh tế trí thức. Nhiều nhà kinh tế thì thấy chúng cũng bình thường, không thấy sự nhảy vọt của năng suất nói trên. Thị trường chứng khoán của các công cụ này, sau đó sụp đổ.

Chính sách, giải pháp xây dựng bốn trụ cột của nền kinh tế tri thức ở Việt Nam là : thể chế môi trường kinh doanh, nguồn nhân lực chất lượng cao, hệ thống đổi mới, hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông. Trong 4 trụ cột phát triển kinh tế trí thức mà ban tổ chức hội thảo nêu ra ở trên, còn thiếu hẳn "trụ cột cái" là thể chế chính trị dân chủ. Chừng nào chưa chuyển đổi được từ toàn trị sang dân chủ thì mọi biện pháp phát triển kinh tế trí thức đều bị cản trở, cố gắng lắm cũng chỉ có những kết quả rất hạn chế.

I. TRI THỨC VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI

Phạm trù kinh tế tri thức ra đời vào năm 1995, do tổ chức ODCP đưa ra. Tuy nhiên, nếu nhìn lại lịch sử loài người thì phải nhận biết rõ rệt hơn, con người là một sinh vật biết suy nghĩ nên phát triển vượt bậc khác với các sinh vật khác. Phương Tây đã có nhà triết học xác định con người là một cây sậy yếu ớt nhưng biết suy nghĩ (Un roseau pensant). Như vậy, quá trình phát triển của loài người cũng là quá trình phát triển của trí tuệ, của tri thức. Quá trình này đi từ bản năng, kinh nghiệm tích lũy được dần phát triển đến trình độ nhận biết và vận dụng được các quy luật của tự nhiên và xã hội để thực hiện quá trình tự tái sản xuất mở rộng, dẫn đến trình độ như hiện nay.

Phát triển tri thức trong lĩnh vực nhận biết và vận dụng các quy luật của tự nhiên, loài người đi từ biết sử dụng các gậy gộc để đi đến thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt, … tiến tới trình độ cơ giới hóa và tự động hóa như hiện nay. Trong lĩnh vực nhận biết và vận dụng các quy luật xã hội, loài người đã trải qua các phương thức sản xuất khác nhau, đi từ chế độ xã hội cộng đồng nguyên thủy, qua chế độ xã hội nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa để rồi tiếp tục phát triển sang một chế độ xã hội cao hơn mang tính chất vòng xoáy ốc.

Trong quá trình nhận biết và vận dụng các quy luật khách quan đó, đứng về mặt kinh tế, con người đã từng xác định thời gian cấm rừng, cấm đánh bắt cá vào các mùa sinh sản, đã biết lợi dụng năng lượng của nước, của gió, … để đi tới sử dụng máy hơi nước, rồi biết sử dụng điện năng và phát hiện nhiều nguồn năng lượng khác có thể chuyển hóa thành điện năng. Với các loại khoáng sản cũng có tình hình tương tự như vậy. Quá trình đi tới nền văn minh nông nghiệp cũng là quá trình chuyển từ kinh tế lượm hái sang kinh tế trồng trọt, từ kinh tế săn bắt sang kinh tế chăn nuôi. Quá trình này, tri thức của loài người đã từ bản năng và kinh nghiệm để đi tới nhận biệt các quy luật của di truyền để chọn lọc, lai tạo các loại giống cây trồng và vật nuôi (thậm chí cả đối với bản thân con người qua việc quy định cấm hôn nhân cận huyết thống) do đó công nghệ gien, được coi là một thành tựu mới của khoa học kỹ thuật sinh học cũng chỉ là bước phát triển của tri thức mà loài người đã tích lũy được.

Song trong quá trình nhận biết và vận dụng các quy luật của tự nhiên, loài người cũng phạm những sai lầm nghiêm trọng vào kéo dài đến ngày nay. Tuy nhận biết sai lầm đó nhưng vẫn chưa thống nhất được cách khắc phục. Có thể nêu một vài trường hợp cụ thể trong một lĩnh vực quan trọng sau đây :

Trong lĩnh vực năng lượng, việc phát minh máy hơi nước và chuyển lên thành máy phát điện đã dẫn đến hoàn thiện công nghệ này và được hiệu suất sử dụng ngày càng cao nên đem lại nhiều hiệu quả kinh tế. Thế nhưng con đường đó cũng đã dẫn đến nguy cơ cạn kiệt nguồn năng lượng khoáng sản, dầu khí, gây ô nhiễm môi trường, … Thế giới và Việt Nam đã đi vào con đường phát triển thủy điện nhưng bên cạnh mặt lợi ích, vẫn có những mặt hạn chế, tác hại và VN đã nếm mùi dẫn đến phải loại khỏi quy hoạch hàng trăm đề án thủy điện. Trong điều kiện đó, có thể nói là vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX, các nhà khoa học đã tìm kiếm và sáng tạo ra công nghệ sản xuất điện năng từ năng lượng thủy triều, năng lượng gió, năng lượng địa nhiệt, …. và nổi bật là năng lượng nguyên tử. Trong các nguồn năng lượng mới đó, năng lượng nguyên tử được nghiên cứu ứng dụng từ vào lĩnh vực ý tế sau đó được tập trung vào nhiệm vụ phục vụ chiến tranh dẫn đến việc sản xuất các loại bom nguyên tử, bom kinh khí, … Từ thành tựu của việc nghiên cứu sử dụng năng lượng nguyên tử đó, các nhà đầu tư đã chuyển sang lĩnh vực kinh tế với việc đầu tư phát triển các nhà máy điện nguyên tử, sử dụng uranium, nguyên liệu được dùng để chế tạo các vũ khí nguyên tử.

Ngày nay, các nhà khoa học đã nghiên cứu và khẳng định khả năng sử dụng plutonium vào sản xuất điện năng với độ an toàn hơn, thời gian tan rã các thanh nhiên liệu này ngắn hơn và đặc biệt là không thể dùng để sản xuất vũ khí nguyên tử. Thế nhưng để chuyển sang việc sử dụng nguyên liệu mới đó thì đỏi hòi vừa phải đầu tư để vừa tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiên công nghệ mới, vừa phải nghiên cứu chuyển đối các nhà máy hiện có sang sử dụng nhiên liệu mới nên các nhà đầu tư không sẵn sàng thực hiện việc chuyển đổi sang công nghệ mới và nhiều Chính phủ cũng không mặn mà đầu tư hỗ trợ việc chuyển đổi này. Đối với việc sử dụng năng lượng thủy triều cũng có tình hình tương tự. Mãi gần đây, nước Anh mới tiến hành đầu tư xây dựng nhà máy điện thủy triều lớn nhất thế giới và nếu thành công trong vận hành thì sẽ tiếp tục đầu tư vào phát triển nguồn năng lượng này, hạn chế sử dụng các nguồn năng lượng gây ô nhiễm và không có khả năng tái sinh.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, thế kỷ XX đã triển khai việc phát triển công nghệ hóa học để hóa học hóa nông nghiệp. Quá trình này cũng đã tạo bước phát triển vượt bậc của nông nghiệp song cũng để lại nhiều di hại như làm cho đất bị suy thoái vì không được bổ xung nguồn phân hữu cơ tạo độ phì của đất, dẫn đến việc ô nhiễm môi trường và tiêu diệt nhiều loại sinh vật cộng sinh, kể cả sinh vật có hại và có lợi. Phải hàng chục năm sau, chúng ta mới bắt đầu thấy và ngấm tác hại của con đường hóa học hóa nông nghiệp. Trong khi đang phải khắc phục tổn hại của con đường hóa học hóa nông nghiệp thì ngày nay lại đang rộ lên vấn đề công nghệ biến đổi gien, coi đây là một mũi nhọn của kinh tế trí thức trong nông nghiệp. Thế nhưng, cũng trên thế giới đã có nhiều cảnh báo về nguy cơ, tác hại của công nghệ biến đổi gien nhưng các tập đoàn đầu tư vào lĩnh vực này lại đang tích cực lobby để tác động đến đường lối hiện đại hóa nông nghiệp, bất chấp lời cảnh báo về tác hại của giống biến đổi gien.

Kinh tế tri thức không phải là vấn đề mới

Xuất phát từ nhận thức trên, có thể thấy vấn đề vận dụng tri thức vào lĩnh vực phát triển kinh tế là một tất yếu khách quan đã được thực hiện từ hàng ngàn năm nay (nếu không muốn nói từ lâu hơn nữa) nên không phải là một vấn đề mới. Song trong quá trình đó, chúng ta cũng đã phạm sai lầm nghiêm trọng kéo dài dẫn đến những tổn thất nghiêm trọng mà ngày nay thế giới đã phải công nhận và tìm cách khắc phục.

Do đã nhận thức được các mặt trái của quá trình vận dụng các quy luật khách quan nên đến nay, trên thế giới đã hình thành phong trào đổi mới mô hình tăng trưởng, gắn với phát triển kinh tế xanh, công nghệ sinh thái, … phù hợp với nhiệm vụ bảo vệ và phát triển môi trường.Phải chăng vì nhận biết được sự cần thiết cần phải điều chỉnh cách vận dụng các quy luật khách quan theo một chiều hướng mới để khắc phục những sai phạm nghiêm trọng kéo dài nên OPCD đề xuất khái niệm kinh tế tri thức? Do đó, phải chăng khi nói đến kinh tế tri thức là phải nói đến nhiệm vụ điều chỉnh cách vận dụng các quy luật khách quan để khắc phục vết xe đổ mà nhân loại đã mắc phải?

Xã hội nào cũng có tri thức

Xã hội nào cũng có tri thức, ngay cả xã hội ăn lông ở lỗ. Tri thức kiểu đó chỉ là kinh nghiệm được đúc kết lại. Người ta, sau đó có thể làm ra thuốc súng, làm ra giấy nhưng chỉ là những khám phá bất ngờ không hiểu nguyên lý. Những kinh nghiệm xã hội biến thành tôn giáo, tư tưởng cổ lỗ học ở khắp mọi nơi đã kìm tỏa sự phát triển của thế giới cả mấy nghìn năm.

Cho đến khi tri thức đạt được sự thay đổi đột biến. Đó là khi thoát khỏi vòng kìm tỏa của tôn giáo và tư tưởng cổ lỗ, thời đại khoa học đã mở ra đi tìm ra các nguyên lý hay các qui luật của khoa học (về đủ mọi ngành nghề) và trên cơ sở đó phát triển các sản phẩm, công cụ hay phương pháp sản xuất và quản lý nhằm tăng năng suất lao động phát triển kinh tế, đồng thời quản lý và điều hòa quyền lợi cũng như quyền lực của các nhóm quyền lợi khác nhau trong xã hội.

Như thế, trên cơ sở tinh thần khoa học, mọi vấn đề, mọi cái tưởng dù đã được coi là nguyên lý đều có thể bị đặt lại. Xã hội nào xây dựng được thể chế chấp nhận việc đặt lại vấn đề, cho phép tự do tư tưởng và học thuật, và có cơ hội phát triển sáng kiến thì xã hội đó sẽ tiến nhanh chóng. Xã hội nào đi ngược lại thì rốt cuộc bị buộc chân vào những huy hoàng của quá khứ và thoái hóa.

Kinh tế trí thức và chuyên chính vô sản

Theo GS Nguyễn Lang, không chỉ có chuyên chính vô sản mà chế độ xã hội nào, nhà nước nào cũng đểu thực hiện sự chuyên chính của giai cấp cầm quyền. Dưới chế độ nô lệ, đụng đến nhà nước nô lệ, đến chuyên chính của giai cấp chủ nô có được không? Dưới chế độ phong kiến, đụng đến nhà Vua thì đứng trước nguy cơ tru di tam tộc. Dưới chế độ tư bản chủ nghĩa đụng đến nhà nước của giai cấp tư sản  và lợi ích của giai cấp tư sản có được không ? Vấn đề nợ trần của Mỹ là một dẫn chứng cụ thể. Các cuộc cách mạng màu, cách mạng mùa xuân Ả rập, và các cuộc nội chiến ở Syrie, Ai cập, ... đều mang tính chất chuyên chính của một giai cấp, của một nhóm người cụ thể.

Mặt khác, nếu giai cấp cầm quyền không có chú trọng thỏa đáng đến lợi ích của nhân dân thì trước sau cũng bị nhân dân phế truất. Nhìn vào lịch sử Việt Nam (cũng như Trung Quốc) sẽ thấy nguyên nhân dẫn đến thay đổi triều đại trị vì. Cón nhìn vào Tây Âu thì cũng thấy chế độ chuyên chính của giai cấp phong kiến + áp đặt chế độ thần quyền là nguyên nhân dẫn đến thời đai phục hưng, cuộc cách mạng công nghiệp và cuộc cách mạng tư sản dân quyền. Điều đó liên quan đến việc chế độ chuyên chính bị tha hóa.

Kinh nghiệm lịch sử cũng cho thấy là có mối liên kết giữa các giới giang hồ với một số chính giới làm rối loạn quan hệ giữa nhà nước và người dân. Thông tin mới nhất từ EU cho thấy tham nhũng đã làm nền kinh tế EU bị thiệt hại với khối lượng tương tự ngân sách EU..

Cũng phải nói thêm là khi đã có một khối đông cá thể cùng sinh sống thì cần có chế độ mà F. Ăng ghen gọi là quyền uy và đã dẫn chứng là trên một con tàu vượt đại dương, mọi người trên tàu phải phục tùng lệnh chỉ huy của thuyền trưởng... Còn Mác thì nói một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng. Điều đó không phủ định hoạt động có sáng tạo, chủ động của mọi người dưới quyền. Bản thân chúng ta, khi thực hiện giao thông thì đều phải đi bên phải và tuân thủ luật giao thông. Do đó F.Ăng ghen kết luận là nếu xóa bỏ quyền uy trong công nghiệp thì chẳng khác nào xóa bỏ nhà máy sợi để quay về cái xa quay tơ.

Thể nhưng tập trung quyền lực, thực hiện quyền uy phải bảo đảm thực hiện theo nguyên tắc tập trung dân chủ (tập trung một cách dân chủ chứ không phải là vừa tập trung, vừa dân chủ).

Do đó, đề nghị xem xét lại vấn đề chuyên chính vô sản, đặt trong thực trạng chuyên chính chung trong lịch sử và trong vấn đề tha hóa chuyên chính đó vì tập trung vào phục vụ lợi ích của một nhóm người, bất chấp quyền lợi của đa số nhân dân.

Bất cứ sự phát triển nào cũng cần có cơ chế hãm để không đi quá đã. Rõ nhất là các soupape của nồi hơi, các relais trên đường dây điện. Do đó, khi giao quyền lực cho một người (hoặc nhóm người) thì cũng cần có cơ chế hãm để không dẫn đến việc làm dụng quyền lực. Một số trong những cơ chế hãm đó là việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện cơ chế giám sát và phản biện xã hội.

Trí thức là người có khả năng nhận biết các quy luật của tự nhiên, xã hội để từ đó vận dụng quy luật đó để đảm bảo nhu cầu, lợi ích của người (hoặc nhóm người) cụ thể.Vì thế nên cũng cần thấy là người trí thức cũng còn là người mang bản chất giai cấp cụ thể. Ngay từ dưới chế độ nô lệ đã có những nhà trí thức và nhận thức về thế giới quan trong chừng mực nhất định bị chi phối bởi điều kiện lịch sử xã hội đương thời. Dưới sự áp bức, đè nén của chế độ phong kiến và chế độ thần quyền của giáo hôi, tại các nước châu Âu, xuất hiện vai trò của lớp người trí thức dẫn đến thời kỳ phục hưng, đến cách mạng công nghiệp và cách mạng xã hội. ..

Từ đó có thể đặt câu hỏi :

- Đội ngũ cán bộ chiến lược của chúng ta còn đứng trên lập trường của giai cấp công nhân không hay đã bị tha hóa ở những mức độ nhất định?

- Các nhà trí thức là bộ phận cấu thành chủ yếu của đội ngũ cán bộ chiến lược này, trên thực chất, là đứng trên lập trường của giai cấp nào để tham gia vào quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, quy hoạch..

Theo chúng tôi hiểu, quan điểm ban đầu của Mác coi Nhà nước là công cụ thống trị của giai cấp cầm quyền, do đó giai cấp vô sản phải dùng bạo lực lật đổ nhà nước tư sản và thực hành chuyên chính vô sản. Lênin từng nói : Chuyên chính vô sản là hòn đá thử vàng xem ai thực sự là mác-xít. Đến cuối đời (1883), Mác nói trong lần góp ý về cương lĩnh của Đảng công nhân Pháp: phổ thông đầu phiếu từ chỗ là thủ đoạn của giai cấp tư sản cầm quyền nay có thể là phương thức mà giai cấp lao động sử dụng để giành chính quyền.

Trong quá trình phát triển của xã hội loài người, dân trí ngày càng được nâng cao, đặc biệt là tinh thần sáng tạo (kinh tế tri thức) của tầng lớp trí thức, không chỉ về khoa học-công nghệ (tự nhiên, ký thuật) mà cả về kinh tế-xã hội mà tư tưởng chủ đạo là thực thi dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân. Quan điểm về "Khế ước xã hội", về "Tam quyền phân lập" vv... ngày càng được nhiều người ủng hộ và phát triển thêm, đẩy lùi lý thuyết coi Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của giai cấp thống trị. Lập trường của Engels khi thành lập Quốc tế thứ hai theo chủ nghĩa xã hội-dân chủ (đúng ra phải gọi là dân chủ xã hội, với dân chủ là chủ ngữ) có sức sống cho đến ngày nay với phong trào Quốc tế xã hội gồm gần 150 Đảng, trong đó khoảng 50 đảng có vai trò cầm quyền hoặc tham gia cầm quyền. Một thực tế được thế giới công nhận là những nước thực hành chủ nghĩa xã hội-dân chủ (khác hẳn chủ nghĩa xã hội toàn trị mang danh chuyên chính vô sản), điển hình là mấy nước Bắc Âu, được coi là những nước mà xã hội phát triển cao và người dân thực sự được tự do hạnh phúc nhất

Một số nước không đi theo chủ nghĩa xã hội dân chủ, kể cả một số nước còn duy trì vai trò của vương quyền (Nhật, Anh, Thái Lan, Malaysia..) nhưng thiết lập và không ngừng hoàn thiện thể chế dân chủ, bảo đảm nhân quyền thì vẫn là những nước phát triển, chăm lo an sinh xã hôị hơn hẳn mấy nước theo chế độ toàn trị, đặc biệt là những nước do Đảng cộng sản cầm quyền.

Thực tế ở nước ta cho thấy rõ "chế độ toàn trị của Đảng cộng sản" (thực chất là của giới cầm quyền nhân danh Đảng cộng sản và giai cấp công nhân) là nguyên nhân cơ bản khiến cho đất nước bị tụt hậu, xuống cấp về mọi mặt như ngày nay. Vì vây, nguyện vọng của "kẻ sĩ" cùng với đông đảo nhân dân là phải làm sao chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa, không dùng bạo lực, tránh đổ máu. Muốn vậy, phải gạt bỏ trở ngại đầu tiên về tư duy coi "chuyên chính của một giai cấp" là tất yếu.

II. NHIỆM VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC VIỆT NAM

Trong quá trình phát triển kinh tế VIệt Nam, nhất là từ khi bước vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế (mở đầu từ sau khi giải phóng miền Bắc), chúng ta tuy đã có những bước phát triển, đưa nước ta ra khỏi nhóm các nước kém phát triển nhưng trong quá trình đó, đã đi vào “vết xe đổ” mà thế giới đã mắc phải. Do đó, phải chăng nhiệm vụ phát triển kinh tế trí thức Việt Nam mang nội hàm điều chỉnh lại chiến lược, quy hoạch chính sách phát triển, ứng dụng khoa học công nghệ để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nề kinh tế nói chung? 

Cơ hội và thách thức đối với VN

- Cơ hội đối với chúng ta thể hiện trên hai bình diện chủ yếu. Về phương diện khách quan, nước ta đã phá thế cấm vận của đế quốc Mỹ và trên thế giới việc nghiên cứu triển khai những công nghệ mới và điều chỉnh cơ chế vận hành nền kinh tế cũng đã có nhiều tiến bộ. Trong hoàn cảnh đó, chúng ta có thể thực hiện phương châm đi tắt, đón đầu để tiếp cận với những công nghệ mới và cơ chế quản lý mới. Về phương diện chủ quan, Đường lối của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ tăng trưởng nhanh sang tăng trưởng bền vững, tăng trưởng xanh tạo điều kiện cho chúng ta thoát khỏi vết xe đổ của quá trình phát triển trước đây để tiếp cận và vận dụng các công nghệ mới, cơ chế quản lý mới ở cả tàm vi mô và vĩ mô.

- Thách thức đối với Việt nam cũng thể hiện trên hai bình diện đó. Cụ thể là các nước có xu hướng chuyển giao công nghệ cũ cho Việt nam (và các nước chậm phát triển khác) để thay thế bằng công nghệ mới. Do đó đã có lời cảnh báo là Việt Nam có thể trở thành bãi rác công nghệ phế thải của thế giới. Thực tế là trình độ công nghệ của nền kinh tế nước ta đã lạc hậu hàng vài ba thế hệ so với các nước trong khu vực. Mặt khác, với một số công nghệ hiện đại tuy đã phát triển nhưng chưa có điều kiện đánh giá đúng mức mặt tích cực và mặt tiêu cực, chẳng hạn như công nghệ biến đổi gien, các tập đoàn kinh tế nước ngoài đang lobby để đưa vào sản xuất rộng rãi ở nước ta. Mặt khác là các tệ nạn tiêu cực xã hội trong lĩnh vực đầu tư cũng là một trong nhứng nguyên nhân tạo sự thách thức nghiêm trọng đối với việc đầu tư đi đón đầu trong việc phát triển kinh tế tri thức.

Về phương diện này, chỉ xin nhắc lại kết luận của Hội nghị TƯ 3, Khóa XI (Văn kiện trang 41) là “Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không bị “tư duy nhiệm kỳ”, tư tưởng cục bộ, bệnh thành tích, chủ quan duy ý chí hay “lợi ích nhóm” chi phối.”

Đây là vấn đề liên quan đến phẩm chất và năng lực của đội ngũ quản lý (các CEO) và bộ máy giúp việc. Ngoài ra, còn phải thấy rõ hơn một thách thức chủ quan bắt nguồn từ việc ngân sách cũng như vốn của các doanh nghiệp VN còn nhỏ bé, lại không có sự liên kết với nhau một cách thích hợp nên không đủ nguồn vốn đầu tư cần thiết để tiếp nhận các công nghệ mới, thay thế công nghệ cũ và hiện đại hóa cơ chế vận hành, quản lý từ cấp vi mô đến cấp vĩ mô của nền kinh tế.

Ngoài ra, thách thức đối với Việt Nam là không có bất cứ 1 công ty hay một nhóm đứng ra tổ chức để làm cầu nối giữa các venture capitalist (người có tiền) và người có sáng kiến. Israel là một đất nước có tỷ lệ công ty khởi nghiệp được thành lập trên dân số cao nhất so với các quốc gia khác. Trung bình có 1 công ty khởi nghiệp/2.000 dân.

Trung tâm khởi nghiệp quốc gia Israel cho biết: 3 yếu tố trực tiếp dẫn đến khởi nghiệp thành công là chính sách của chính phủ, sự năng động của công dân (trong đó có dân nhập cư) và sự đóng góp của môi trường quân đội. Theo nghiên cứu của nhà báo Kim Hạnhhttp://www.thanhnien.com.vn/pages/20140209/bi-quyet-thanh-cong-cua-cong-ty-khoi-nghiep-israel.aspx thì yếu tố đóng góp sâu sắc, căn cơ nhất chính là do nền giáo dục, do quá trình tạo dựng “gien cơ bản” cho tinh thần khởi nghiệp trong mỗi công dân nước này.

Theo chúng tôi hiểu, cái cầu nối này cần có:

- Kinh nghiệm đánh giá dự án hay ý tưởng, gạt ra những gì viển vông, như vậy cũng cần những người chuyên môn, hiểu thị trường.

- Hiểu biết về luật pháp (hoặc cần có luật sư) thảo ra các hợp đồng bảo vệ người sáng tạo, vừa bảo vệ sáng kiến, vừa bảo về quyền hưởng thụ của họ. Người có tiền chủ yếu muốn làm giầu và đồng thời muốn vắt chanh người sáng tạo. Có ý kiến cho rằng venture capitalist được hưởng khoảng 5% cổ phần gì đó thôi. Thời gian thử nghiệm có hạn, sau đó chia tay nếu không thành công (vì nhiều lý do, một trong hai lý do quan trọng là người venture capitalist không chịu tiếp tục bỏ thêm tiền, còn lý do khác là sáng kiến tồi), nhưng khi đó quyền sáng kiến được bảo vệ đến lúc nào, mức nào. 

- Phân biệt rõ ràng giữa phát triển sáng kiến thành sản phẩm và việc mua sản phẩm đã làm rồi . Đây là 2 hướng tác nghiệp khác nhau. Hướng sau không thể gọi là cầu nối sáng tạo, mà là các hành động take-over những công ty đã có sản phẩm nhưng không biết quản lý, không biết marketing.

- Về vấn đề khởi nghiệp, chúng tôi nghĩ một nhóm tư nhân hoàn toàn có thể đứng ra tổ chức làm cầu nối giữa người có ý tưởng sáng tạo và người có tiền muốn đầu tư rủi ro.  Nhóm phải tổ chức những cuộc gặp gỡ thường xuyên. Nhóm có thể đánh giá sơ bộ ý tưởng của người sáng tạo và chọn lựa các dự án được trình bày trong các cuộc gặp gỡ, hướng dẫn việc sửa soạn ý tưởng dự án và thử nghiệm ban đầu (ngân sách), thiết lập các nguyên tắc cơ bản trong việc hưởng cổ phần của người bỏ tiền đầu tư và quyền của người sáng tạo.  Một tổ chức như thế có thể là một công ty phi vụ lợi được chính phủ tài trợ, hoặc là một công ty vụ lợi ăn hoa hồng (%) trên số vốn bỏ ra, hay được trả bằng cổ phần trong công ty khởi nghiệp.

- Theo thông tin http://www.theatlantic.com/international/archive/2014/02/can-vietnam-create-the-next-silicon-valley/283760/ được biết đã có người bắt đầu khởi động hoạt động sáng tạo và có sự đóng góp của Bộ Khoa học và Công nghệ.

According to Linh, the Ministry of Science and Technology has earmarked $3 million for the project, as well as $50 million per year for “the application of technology through startups” and $100 million to develop the tech industry through a joint project with the World Bank. Đây là dự án của Bộ, chỉ tập trung vào IT,  huấn luyện, giúp làm đề án, tạo cơ hội gặp gỡ vv...

Theo tài liệu http://siliconvalley.com.vn cho thấy họ đi đúng hướng, chứ không nhằm xây các khu công nghệ cao như hồi xưa.

Bài học kinh nghiệm

Nhiều bài viết trước đây, tôi đã đề cập đến kinh thế tri thức liên quan đến tài nguyên nước , môi trường và nông nghiệp. Thảo luận với GS Phạm Gia Khai, tôi lĩnh hội về kinh tế tri thức trong ngành y rất đáng suy ngẫm. Một bộ phận của khoa học kỹ thuật trong y học, không thể thiếu vắng, mà nếu bị ngưng trệ sẽ kéo theo sự ngưng trệ to lớn hơn trong y học và nhiều ngành có liên quan.

Phương pháp tiếp cận khoa học: Ở đây có sự giao thoa giữa phương pháp luận hiện đại với khoa học chuyên ngành. Cách học ở Liên xô cũ có điểm tốt là giúp học viên tích lũy nhiều nguyên lý. Học ở Hoa Kỳ có điểm tốt là trình bày một vấn đề có thảo luận tự do, không bị gò bó trong bất kỳ một khuôn khổ nào, nhưng đồng ý hay phản bác bất cứ một vấn đề gì cũng phải có chứng cứ cho lập luận của mình.

Các đồng nghiệp Hoa Kỳ cho biết là theo họ nhận xét, các trường Đại học ở Mỹ khác nhau chủ yếu là ở "phần mềm", và phần mềm là ở đây, người thầy có vai trò quan trọng là phát triển và giúp đỡ học viên phát triển phần mềm đó. Một chi tiết nên chú ý: Phương pháp thống kê của mỗi chuyên ngành là quan trọng, có một bạn Pháp kể lại truyện: Một bác sĩ trình bày một vấn đề ở Montreal, Canada, không nói tới giá trị của công trình qua kiểm nghiệm thống kê, kết quả: Thính giả bỏ ra về.

Học những vấn đề giúp giải quyết những yêu cầu của thực tế cuộc sống

Theo GS Phạm Gia Khai với kỹ thuật thích hợp trong điều kiện của nước ta, ví dụ trong y học lâm sàng, thấy chẩn đoán các tổn thương tim mạch bằng siêu âm là có lợi, không những cho tim mạch, mà cho nhiều chuyên khoa khác, và cuối cùng, kỹ thuật siêu âm đã được áp dụng thường qui trong tất cả các bệnh viện của nước ta, trở thành tiếng nói chung cho các thầy thuốc lâm sàng không những của VN, mà cả với thế giới nữa.

Tim mạch can thiệp cũng vậy (interventional cardiology). Gs Phạm Gia Khai đã giúp nong rộng, đặt giá đỡ (stent) cho động mạch vành bị hẹp, nong rộng van hai lá bằng bóng qua da, triệt phá các ổ phát sinh loạn nhịp tim với năng lượng radio, bít các luồng thông bất thường giữa các buồng tim. Toàn quốc đã phát triển ngành này, giúp VN có vị trí trong khu vực.

Kết hợp các chuyên ngành với nhau

Trong tim mạch: lâm sàng nội khoa kết hợp với tim mạch can thiệp, phẫu thuật tim mạch với tuần hoàn ngoài cơ thể, đã đưa ngành tim mạch VN lên vị trí xứng đáng trong nước và khu vực, tạo điều kiện cho chúng ta hòa nhập thế giới, tiến bộ không ngừng.

Cần có sự liên thông giữa các ngành khoa học, vật lý, hóa học, sinh vật học, cho nên, người cán bộ khoa học, một mặt phải có chuyên sâu, mặt khác, phải có kiến thức chung, giúp đỡ nhiều cho chuyên ngành của mình, và cuối cùng, cho đối tượng phục vụ là xã hội.

Vì không hiểu rõ về sự nguy hiểm của cộng hưởng từ hạt nhân (Magnetic resonance imaging) khi tiếp xúc với kim loại, nên đã có trường hợp thầy thuốc chỉ định thăm dò tim mạch với cộng hưởng từ hạt nhân trên một người đã đặt stent động mạch vành, kết quả: Stent bị di lệch, gây tai biến cho người bệnh, đó là kinh nghiệm của VN, còn theo y văn gần đây: Tại Trung Quốc ở một bệnh viện phẫu thuật, bỗng phát ra một tiếng nổ lớn ngay trên bàn mổ một nữ bệnh nhân chướng bụng do ăn uống nhiều quá, trong hơi dạ dày của người bệnh này có rượu, khi tiếp xúc với dao điện, tia lửa điện gây tiếng nổ và hỏa hoạn ngay tại phòng mổ.

Cần thiết phát triển mạng lưới

Công việc này giúp xác định các nhóm, các cá nhân, thực sự có khả năng làm được một số việc có lợi cho sự hợp tác đa chiều: Việc này giúp các nhà khoa học tiết kiệm được nhiều công sức, nhưng ta phải có cách phát triển được tinh thần hợp tác nhóm (team work), mà chúng ta còn rất kém, tư tưởng giữ tủ, không ai chịu ai, vẫn còn nặng nề ở VN. Dùng biện pháp nào để khắc phục, khẩu hiệu xuông không đủ, ở đây, quyền tác giả phải được đề cao (intellectual property). Hiện nay, sự đãi ngộ đối với khoa học kỹ thuật còn quá thấp, chứng tỏ cách suy nghĩ của một số người quản lý còn bất cập với tình hình trong và ngoài nước.

III. LIÊN HỆ GIỮA KINH TẾ TRI THỨC VÀ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ

Lỗ hổng lớn nhất của bản chiến lược phát triển KHCN giai đoạn 2011-2020 được Thủ tướng phê duyệt chính là khi bàn về khoa học xã hội và Nhân văn. Chúng ta chưa mạnh dạn, đánh giá cho đúng sự lạc hậu, thậm chí là lạc điệu so với khoa học xã hội của thế giới. Vì trong một thời gian quá dài, cho đến hiện nay vẫn vậy, khoa học xã hội chỉ là một công cụ minh họa cho đường lối chính sách của Đảng, nó không đáng được gọi là một NGÀNH KHOA HỌC theo nghĩa đích thực của nó. Bởi thế, các nhà khoa học Việt Nam dù có tài giỏi, trí tuệ cũng không thể hòa đồng hay tiếp cận với khoa học xã hội của thế giới vì tư duy về phương pháp luận hoàn toàn khác nhau.

Muốn xây dựng một ngành khoa học xã hội đúng với vai trò và chức năng, nhiệm vụ đích thực của nó phải thay đổi tận gốc tư duy về khoa học xã hội, gần như phải xóa đi làm lại từ đầu, trả về cho nó chức năng khoa học đích thực. Thực tế cuộc sống đòi hỏi đào tạo và tuyển chọn lại  đội ngũ người làm khoa học xã hội. bao gồm những người được đào tạo tại các trường đại học danh tiếng ở nước ngoài, mời những chuyên gia giỏi người Việt ở nước ngoài về nước tham gia đào tạo đội ngũ khoa học trẻ được thanh lọc và tuyển chọn trong nước đồng thời, biết cách mời gọi những nhà khoa học xã hội đã có quá trình đào tạo và nghiên cứu tốt, có công trình xuất bản được giới khoa học trong và ngoài nước thừa nhận trở lại giúp thêm vào công cuộc đào tạo các cán bộ nghiên cứu trẻ.

Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ của một nước thường gồm 6 thành tố sau đây : (i)  Đánh giá đúng thực trạng và các vấn đề nổi cộm của nền khoa học và công nghệ nước nhà; (ii) Xác định đúng đòi hỏi về khoa học và công nghệ của nước nhà (thí dụ trong 10 năm tới); (iii) Lựa chọn một cách thông minh những ngành khoa học công nghệ mũi nhọn, những khâu đột phá; Con đường, các nguồn lực và các biện pháp phát triển khoa học và công nghệ của nước nhà, trong đó mấy điều rất quan trọng là từ chỗ học hỏi, du nhập, làm theo khoa học và công nghệ của thế giới đến chỗ tạo ra khoa học và công nghệ của nước mình ; (iv) Thiết lập các điều kiện thuận lợi cho các nhà khoa học,  nhà công nghệ của nước mình hoạt động và giao lưu, hội nhập quốc tế; (v) Xây dựng đội ngũ các nhà khoa học và công nghệ. (vi) Tổ chức các cơ quan khoa học và công nghệ của nước nhà.

Trong 6 thành tối liệt kê ở trên thì chiến lược phát triển KHCN ở Việt Nam đã trả lời 3 vấn đề nhất là vấn đề thứ 3 còn thiếu ý nói tới vấn đề cuối cùng. Hay nói cụ thể hơn, với thành tố (ii), trong các lĩnh vực, luôn có cây mục tiêu nên việc xác định này liên quan đến yêu cầu chọn đúng đoạn nào của cây mục tiêu đó. Nói cách khác, phải xác định và đi từ gốc của vấn đề để rồi tiếp tục đi đến các vấn đề phát sinh. Hiện nay, trong lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn đã tích tụ quá nhiều vấn đề bất cập. Vấn đề không phải là ở chỗ chưa có sự thống nhất ý kiến mà là ở chỗ để sự không thống nhất này kéo dài, dẫn đến sự phân liệt về tư tưởng quan điểm, phân liệt trong hành động để khi phát triển đến mức cao thì thành phân liệt về tổ chức.Minh chứng là những ý kiến khác nhau về dự thảo Hiến pháp 2013 thể hiện rõ thực trạng này.

Với thành tố (iv) và (v), tôi vẫn băn băn khoăn ở khía cạnh cần làm rõ chủ trương, chính sách sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học. Đó là chưa kể đến việc chảy máu chất xám do chính sách đãi ngộ, do chính sách tuyển dụng (gắn với tệ nạn mua quan, bán chức). Ngoài ra, còn phải tính đến nhiệm vụ phòng ngừa tệ nạn “Khoa học phiệt” có thể đã chớm xuất hiện ở Việt Nam , có thể liên quan đến vấn đề bè phái được hình thành dưới tác động của nhóm lợi ích.

IV. KẾT LUẬN

Mầy mò trên con đường phát triển kinh tế thị trường, khi đất nước đổi mới cơ chế quản lý, nhưng sự thiếu lý luận về hình thái và mô hình kinh tế mới, cộng với tư duy sản xuất thời bao cấp còn rơi rớt nặng, và sức ì của ý thức hệ tư tưởng, đã dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng trên lĩnh vực này. Kinh tế và thể chế là cặp song sinh, là lĩnh vực yếu nhất của Việt Nam. Cùng xuất phát điểm gần tương tự như Việt Nam nhưng Hàn Quốc đã hoàn thành công nghiệp hóa từ năm 1990. Thái Lan là nước phát triển trung bình nhưng Việt Nam còn phải phấn đấu khoảng 30 năm nữa mới đạt được như Thái Lan ngày nay. Các giải pháp để chấn hưng đất nước, trong đó có vai trò của kinh tế tri thức đã được nhiều chuyên gia, nhà khoa học phân tích đề xuất, “quả bóng” đang nằm trong chân những người có trách nhiệm điều hành quản lý đất nước.

Ở Việt Nam, sai sót rất nghiêm trọng, yếu kém, thậm chí lạc hậu về lĩnh khoa học xã hội nhân văn dẫn đến các tiêu cực trong xã hội, không tiếp thu được một cách có chọn lọc các thành tựu nghiên cứu khoa học. Ngay tại các nước phương tây, đã có nhận định là nhiều phát minh sáng kiến đã bị các nhà đầu tư mua rồi cất ngăn kéo vì nếu khai thác, ứng dụng thì sẽ phải điều chỉnh, thậm chí hủy bỏ các công nghệ hiện đang đem lại cho họ lợi nhuận lớn. Đây cũng là vấn đề mà ta đang gánh chịu một cách âm thầm mà ít người lên tiếng.

Kinh tế tri thức có hai mặt như đồng xu. Trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, chỉ riêng về lĩnh vực nông nghiệp, một số tổ chức/người có thể sử dụng Học thuyết kinh tế tri thức mới để đặt ra vấn đề bản quyền và làm hại nông dân (ví dụ các loại giống cây trồng biến đổi gen), sử dụng kiến thức bản địa của nông dân mà không trả tiền. Khi các doanh nghiệp tạo ra tri thức thì họ tính tiền rất đắt nhưng tri thức của nông dân thì luôn bị lạm dụng mà không có ai bảo vệ. Nếu Chính phủ vì dân thì họ sẽ có những biện pháp bảo vệ nông dân như tạo ra hành lang pháp lý để bảo vệ nông dân, đẩy mạnh chi tiêu công cho công tác nghiên cứu phục vụ nông dân, phát triển các nhãn hiệu chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu cộng đồng, v.v. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần phải giúp đỡ và phát triển các tổ chức của nông dân để họ tự bảo vệ họ.
 
 Tô Văn
 
-------------------------
Tài liệu tham khảo
http://www.angelcapitalassociation.org/entrepreneurs/faqs/
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140209/bi-quyet-thanh-cong-cua-cong-ty-khoi-nghiep-israel.aspx
http://www.alliancetechventures.com/dynamic/road_to_venture.php5
http://inventors.about.com/od/fundinglicensingmarketing/a/inventionfunds.htm
http://www.angelcapitalassociation.org/entrepreneurs/faqs/
http://www.theatlantic.com/international/archive/2014/02/can-vietnam-create-the-next-silicon-valley/283760/
Trích dẫn một số ý kiến thảo luận với các nhà khoa học như Trần Đức Nguyên, Vũ Quang Việt, Nguyễn Lang.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bấm link dưới ảnh mà xem chuyện xứ người ta:

Có bạn nào tắm như thế này chưa

Phần nhận xét hiển thị trên trang

bọn điên mừng gì mà múa may quay cuồng trước tượng đài Lý Thái Tổ

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhà văn Hoàng Quốc Hải trả lời nhà văn Nhật Tuấn về cuộc kháng chiến chống quân bành trướng Trung Hoa 17-2-1979


Hoàng Quốc Hải -Nhật Tuấn
.
Nhà văn Nhật Tuấn
                 Lại sắp tới ngày 17 tháng 2, ngày kỷ niệm chiến tranh chống Trung Quốc xâm lược. Khác với những ngày kỷ niệm chống Pháp, chống Mỹ được tổ chức rầm rộ, suốt 34 năm qua, ngày 17 tháng 2 bị Nhà nước Việt Nam làm lơ, thậm chí còn cấm đoán những hoạt động kỷ niệm. Chẳng hạn ngày 17 tháng 2 năm 2013, phái đoàn nhân sĩ trí thức đến viếng các anh hùng, liệt sĩ chống quân bành trướng Bắc Kinh nhưng đã bị cản trở không được vào đài liệt sĩ. Tuy nhiên, tình hình có vẻ đã khác, ngày 30 tháng 12 năm 2013 báo Thanh Niên online đã chạy tít lớn: “ Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng cho biết, hiện Bộ Ngoại giao đang lên kế hoạch kỷ niệm 40 năm sự kiện (1974) Trung Quốc đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam và 35 năm sự kiện tháng 2 năm 1979- chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc”. Ngay sau đó bài báo bị gỡ xuống và ai cũng biết chỉ có ban tuyên giáo mới có “gan” giỡn mặt Thủ tướng như vậy.
              Vậy phải chăng đã có sự vênh nhau giữa Đảng và Chính phủ trong quan điểm đối với Trung Quốc?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Điều mà anh hỏi, với sự thật hiển nhiên đó, đã là một câu trả lời đầy đủ, bất tất phải bình luận gì thêm nữa.
Nhà văn Nhật Tuấn
                    Giả sử ý kiến của Thủ tướng là có thật, vậy trong kỷ niệm chống quân xâm lược Trung Quốc, liệu người ta có nhắc và vinh danh 72 chiến sĩ quân đội VNCH trong đó có tướng Ngụy Văn Thà đã anh dũng hy sinh bảo vệ Tổ quốc?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Quan niệm của riêng tôi, và có lẽ cũng là quan niệm của số đông những con dân đất Việt còn ý thức được về lương tri, thì bất cứ ai hy sinh xương máu để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc, thì đích thị là người yêu nước. Không có sự cống hiến nào cao hơn là cống hiến cả mạng sống của mình để gìn giữ non sông đất nước. Họ là người anh hùng chân chính, tuyệt đối không có gì phải bàn cãi về sự hy sinh cao cả ấy.
Điều anh muốn hỏi về thái độ của Nhà nước thông qua ý kiến của ông Thủ tướng, thì ông Lê Phú Nguyên chánh văn phòng huyện đảo Hoàng Sa đã trả lời BBC trong việc hủy bỏ cuộc dự kiến làm lễ thắp nến tưởng niệm các liệt sĩ Hoàng Sa nhân kỷ niệm 40 năm sự kiện quân xâm lược Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm lãnh thổ Hoàng Sa của Việt Nam. Và ông Lê Phú Nguyên  còn thanh minh nhiều lần, là bởi lý do khách quan phải hủy bỏ lễ tưởng niệm đó, chứ không hề có sự chỉ đạo của cấp trên nào cả.
Thưa anh, ngạn ngữ có câu: “Thanh minh có nghĩa là tự thú”. Anh nên nhớ cái sự hoãn vào phút chót này ở nước ta nó là chuyện cơm bữa. Chắc anh biết vài năm trước, Báo Thanh Niên cùng với Công đoàn tỉnh Khánh Hòa đã phối hợp làm việc tri ân các gia đình chiến sĩ hy sinh trong cuộc chiến chống quân xâm lược Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma ở Trường Sa năm 1988. Tiền nong huy động được rồi, khách mời đều vui vẻ nhận lời. Nhưng đến phút chót Khánh Hòa từ chối.
Việc Nhà nước bỏ qua hoặc phớt lờ sự kiện Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974, là bởi họ chưa vượt thoát được tư duy giai cấp, và tư duy thể chế. Còn với nhân dân, bao giờ nhân dân cũng rất công bằng và không bao giờ bội bạc, cũng như nhân dân không bao giờ phản bội dân tộc. Vì vậy, từ lâu nay họ vẫn âm thầm kỷ niệm ngày thất thủ Hoàng Sa ( 19.1. 1974) như một ngày quốc hận. Hơn thế nữa, họ còn âm thầm chăm sóc các gia đình liệt sĩ Hoàng Sa.
Và như thế, 72 chiến sĩ hy sinh bảo vệ Hoàng Sa, trong đó có liệt sĩ Ngụy Văn Thà đã được nhân dân thừa nhận. Một khi nhân dân thừa nhận, thì các chiến sĩ hy sinh vì nước ấy sẽ đi vào bất tử.
Tôi xin kể một ví dụ trong trận đánh lịch sử trên sông Bạch Đằng vào tháng 3 năm 1288, Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trong khi đi điều tra tình hình thủy chế của sông Bạch Đằng có gặp bà hàng nước. Bà đã cung cấp cho vị thống soái nhiều tư liệu đáng quí, do bà quan sát trong nhiều năm sinh sống cạnh sông. Trận ấy quân ta thắng tuyệt đối. Tiêu diệt hơn 600 chiến thuyền cùng hơn mười vạn binh tướng giặc vừa bị bắt vừa bị giết. Không một chiến thuyền nào, không một tên lính giặc nào chạy thoát. Các danh tướng lẫy lững từng bách chiến bách thắng của Hốt –tất –liệt như Ô-mã-nhi, Phàn Tiếp, Tích-lệ-cơ vương… thẩy thẩy đều bị bắt hoặc bị giết. Dường như sau chiến thắng, triều đình chỉ nhớ đến Trần Hưng Đạo và đoàn quân chiến thắng mà quên mất vai trò nhân dân. Đây là tôi nói dường như thôi, bởi quan sát cách thờ tự và danh xưng đối với thần linh cho ta quyền ức đoán như vậy. Vì rằng ở xã Yên Giang thị trấn Quảng Yên, Quảng Ninh hiện có đền thờ Trần Hưng Đạo khá bề thế. Và sắc phong qua các thời đại, danh xưng đến cực phẩm cũng chỉ là thượng đẳng tối linh thần và Hưng Đạo đại vương. Nhưng ngay chỗ bến đò xưa, cận kề đền thờ Trần Hưng Đạo, dân cũng tôn lập đền thờ bà hàng nước và hào phóng tôn vinh  là “Đền Vua Bà”.
Qua đó, ta thấy thái độ của nhân dân trước lịch sử là rất công bằng và minh bạch.
Nhà văn Nhật Tuấn

- Một khi kỷ niệm ngày 17 tháng 2 được tổ chức ở cấp Nhà nước, liệu những cấm đoán từ trước tới nay trong sáng tác văn học nghệ thuật về đề tài có được rỡ bỏ? Cho đến nay những cấm kỵ  đó vẫn rất nặng nề. Cụ thể phim truyền hình nhiều tập viết về Thái sư Trần Thủ Độ đang chiếu những tập cuối nhưng tinh thần chống Nguyên – Mông của ông qua câu nói nổi tiếng: “ Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ chớ lo” vẫn chưa thấy xuất hiện, từ đầu tới cuối phim vẫn chỉ là những đấu đá cung đình. Phải chăng văn học nghệ thuật của ta mấy chục năm qua bị  “thiến” mất tinh thần chống ngoại xâm Phương Bắc thì từ nay sẽ khởi sắc trở lại?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Tôi hơi ngạc nhiên về điều anh hỏi. Bởi cho tới lúc này tôi chưa thấy một văn bản nào của nhà nước được phổ biến công khai, về việc cấm các nhà văn không được sáng tác về đề tài chống quân xâm lược bành trướng Trung Hoa đánh vào lãnh thổ nước ta ngày 17 tháng 2 năm 1979. Chỉ có điều rằng, nếu anh viết thì Cục xuất bản không cấp giấy phép, và tất cả các nhà xuất bản đều từ chối nhận bản thảo chứ đừng nói in ra. Điều đó có nghĩa là đã có “lệnh ngầm”, “lệnh miệng”, những thứ lệnh không thể truy cứu nguồn gốc, do đó nó không có bằng chứng để truy cứu trách nhiệm, nhưng lại được răm rắp chấp hành như một thứ quân lệnh. Chính tôi cũng là nạn nhân kiểu đó với tác phẩm “Bão táp cung đình” long đong mãi mới in được.
Về việc anh than phiền phim Thái sư Trần Thủ Độ chiếu gần đến tập cuối, mà vẫn chưa thấy xuất hiện câu nói nổi tiếng khí phách của một bậc anh hùng cân quắc trước thế giặc mạnh: “ Nếu đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ chớ lo” . Tôi thấy nhiều người khen phim hấp dẫn, bởi có nhiều pha các tay võ hiệp thi thố… Và còn khen thêm: “ Trần Thủ Độ trong phim đúng là một tay hiệp khách”. Thế thì cái câu nói của bậc anh hùng cân quắc, một bậc chính khách lừng danh, được lắp vào miệng một tay hiệp khách loại xoàng kia hỏi có ích gì? Nếu không cho tay hiệp khách kia nói một lời thiêng liêng để làm vững thế nước của chính khách Trần Thủ Độ, có nghĩa là đạo diễn cao tay đấy; bởi anh ta đã không biến một chính khách đích thực thành một hiệp khách giả cầy. Vậy có gì mà phải than phiền. Vả lại thị trường phim ảnh nước ta trong mấy chục năm nay đang vững vàng tụt giốc, anh còn đòi hỏi cái gì hơn thế nữa?
Nhà văn Nhật Tuấn
- Nhưng còn ý cuối cùng của câu hỏi này anh vẫn chưa trả lời.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Thì tôi còn đang trả lời anh đã vội ngắt. Tôi không nghĩ rằng “ văn học nghệ thuật của ta trong mấy chục năm qua bị “thiến” mất tinh thần chống ngoại xâm , kể cả ngoại xâm truyền kiếp phương Bắc. Bằng chứng là trong mấy chục năm qua tôi thấy khá nhiều tiểu thuyết lịch sử ra đời như “ Vằng vặc sao khuê” của nhà văn Hoàng Công Khanh viết về cuộc kháng chiến chống quân xâm lược man rợ nhà Minh, trong đó có vai trò của quân sư Nguyễn Trãi. Cũng đề tài này, ta còn dịch tác phẩm “Vạn xuân” (Dix Mille Printemps ) của Yveline Feray, nữ văn sĩ Pháp, sách dầy tới cả ngàn trang. Rồi” Hồ Qúy Ly” của Nguyễn Xuân Khánh. Hai tác phẩm của Hoàng Công Khanh và Nguyễn Xuân Khánh được trao nhiều giải thưởng của các Hội Nhà văn Hà Nội và Nhà văn Việt Nam.
Đặc biệt trong dịp kỷ niệm 1000 Thăng Long, tiểu thuyết “Hội thề của nhà văn  Nguyễn Quang Thân còn được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải nhất văn chương. Ngoài ra còn các phim có nội dung lịch sử cũng làm vào dịp này như “Lý Công Uẩn đường tới thành Thăng Long”, “Thái sư Trần Thủ Độ”v.v…
          Gần đây hơn nữa còn có bộ tiểu thuyết đồ sộ “Đại gia” của nhà văn trẻ Thiên Sơn. Tiểu thuyết này chưa phải là lịch sử, nhưng nó chứa đựng các sự kiện được coi như bộ ký sự lịch sử. Cùng với thời gian, sẽ đến lượt nó trở thành lịch sử. Theo tôi, ta hãy cứ tạm bằng lòng như thế đã. Đúng sai, hay dở thì công chúng và thời gian là vị quan tòa công minh nhất. Còn như anh mong mỏi  “tinh thần chống ngoại xâm phương Bắc từ nay sẽ khởi sắc trở lại”, chắc có hy vọng đấy. Vì từ cuối năm 2012 và cả năm 2013 Hội đồng lý luận phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương chỉ đạo khâu sáng tác văn học nghệ thuật theo chủ đề lịch sử sôi động lắm. Bản thân tôi cũng được mời tham dự và có tham luận hẳn hoi. Các tham luận đã được in thành sách, dầy gần 700 trang do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành.
Bởi vậy ta có quyền hy vọng, các sáng tác văn học , nghệ thuật về đề tài lịch sử sẽ khởi sắc.
Nhà văn Nhật Tuấn

- Hội Nhà văn Việt Nam liệu có tham gia kỷ niệm Hoàng Sa và ngày 17 tháng Hai bằng các hoạt động như phát động cuộc thi viết về “ Những kỷ niệm sâu sắc chống quân xâm lược Trung Quốc” hoặc mở trại sáng tác về đề tài này?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Câu hỏi này anh phải hỏi Chủ tịch hội Nhà văn Việt Nam, tức là hỏi nhà thơ Hữu Thỉnh. Còn với tư cách hội viên, tôi chưa thấy Hội ta có động thái gì. Hoặc Hội đã có chủ trương nhưng chưa chọn được thời gian thích hợp để triển khai, tôi cũng không rõ.
Nhà văn Nhật Tuấn

- Mới đây có hai sự kiện: Một là tầu Kilo Hà Nội cập cảng Cam  Ranh gây nhiều phấn khích cho người dân trong việc bảo vệ biển Đông, hai là có hai người Trung Quốc đóng xe tự chế chạy nghênh ngang suốt từ Bắc vào Nam vi phạm Luật giao thông cấm lưu hành xe tự chế mà vẫn không bị thổi còi.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Đã là dân Việt Nam ai mà chẳng vui mừng vì sự kiện quân đội ta có phương tiện khí tài hiện đại ( tầu ngầm Kilo ) để bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Song kinh nghiệm rút ra từ lịch sử, tôi thấy sức mạnh là ở lòng dân. Lòng dân mới là sức mạnh tuyệt đối để giữ nước. Tôi lấy ví dụ triều đình của nhà nước Đại Ngu do cha con Hồ Quý Ly thống lĩnh. Ông triệt để huy động sức dân trong việc xây đắp thành trì, lập chiến lũy, ngăn cửa biển, rào lấp sông, chặn đường thủy bộ của giặc. Cả nước như một công trường. Cả nước như một trại lính. Hồ Quý Ly xây tòa thành bằng đá khổng lồ để làm kinh đô, mà bây giờ UNNESCO công nhận là di sản văn hóa. Công trình ấy hoàn thành chỉ trong ba năm. Kể có hàng vạn người chết do đá đè, gỗ lăn hoặc chết đói, chết rét, chết vì bị đánh đập trong quá trình lao động.
Sức dân đã kiệt quệ trong mấy chục năm suy thoái về cuối nhà Trần. Nhà Hồ lên chưa hề có một cải thiện nào, nhưng lại bóc lột và đàn áp dân chúng đến cùng cực, để lấy của và sức dân xây đắp chế độ mới. Do vậy, dân với bộ máy triều đình là hai thế lực đối kháng. Tới khi triều đình nhà Minh uy hiếp nghiêm trọng, Hồ Quý Ly phải than: “ Ước gì ta có 100 vạn binh để kháng giặc.” Hồ Nguyên Trừng là con cả của Hồ Quý Ly liền đáp: “ Thưa cha, 100 vạn binh có thể bắt được, nhưng con chỉ sợ lòng dân không theo”.
Quả đúng như điều Hồ Nguyên Trừng lo lắng, nhân dân Việt Nam đầu thế kỷ 15 vì căm giận vua nước Đại Ngu ( quốc hiệu do Hồ Quý Ly tự đặt) tàn bạo nên đã bỏ mặc ông ta kình chống lũ giặc phương Bắc. và sau khi thất thủ thành Đa Bang, cha con ông không gượng nổi. Vừa kháng cự yếu ớt vừa bị giặc dồn về phương nam. Hồ Quý Ly chạy một mạch về ẩn nấp tại vùng biển Tĩnh Gia ( Thanh Hóa ), rồi giông tuốt vào Nghệ An. Hồ Quý Ly bị giặc Minh bắt tại núi Thiên Cầm, Hồ Nguyên Trừng, Hồ Hán Thương cùng các con và cháu Hồ Quý Ly bị bắt tại cửa biển Kỳ La( Hà Tĩnh ngày nay). Và ngôi thành đá kiên cố nhất do Hồ Quý Ly dầy công kiến tạo, lại không bắn nổi một mũi tên, một phát đạn về phía quân thù. Giặc Minh chiếm ngôi thành đá kiên cố nhất của họ Hồ, dễ như thò tay vào túi lấy chiếc hộp quẹt.
So số lượng quân binh hai bên thì giặc không hơn và cũng không có ưu thế gì vượt trội, kể cả khí tài quân sự.
Về chiến thuật quân sự và cách bố phòng cũng không có thể chê trách được Hồ Nguyên Trừng. Kể cả chiến thuật “vườn không nhà trống” Hồ Quý Ly cũng cưỡng bức dân chúng phải thực hiện. Ấy thế mà vẫn thất bại thảm hại. Chỉ vì dân không theo.
Đúng như Nguyễn Trãi nói: “ Thế dân như thế nước. Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”. Và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nói: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Cứ xem như cuộc kháng chiến chống giặc Minh do Lê Lợi phất cao cờ nghĩa, gian nan suốt 10 năm cùng toàn dân đuổi giặc mà giành thắng lợi huy hoàng. Hoặc cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp từ 1946 đến 1954 biết bao gian nan, nhưng toàn dân giốc sức cùng chính quyền cách mạng, cũng đi đến kết thúc vẻ vang.
Thưa anh Nhật Tuấn, trở lại chuyện chiếc tầu ngầm Kilo đầu tiên đã về bến Việt. Dù cả 6 chiếc Kilo đã về đủ, và ta kiến lập được cả một hạm đội mạnh cùng với các máy bay cường kích, máy bay ném bom đông tới cả trăm phi đội, theo tôi cũng mới chỉ là phương tiện phòng thủ rất mỏng manh. Cái chính là vũ khí lòng dân. Nếu cả nước triệu người như một, chín mươi triệu người cùng chung một ý chí giữ nước thì không một kẻ thù nào, không một sức mạnh nào có thể thôn tính được nước ta. Nhà Trần kháng giặc thế kỷ 13 là một kho báu kinh nghiệm giữ nước không gì so sánh nổi. Trong ba năm, hai lần giặc xâm lược, mỗi lần tới 50 vạn quân, lực lượng hoàn toàn áp đảo. Vậy mà chúng phải ôm đầu máu tháo chạy, bị thua nhục nhã. Vả lại quân Nguyên ngày ấy đánh khắp bốn phương, không nơi nào kháng cự nổi. Nước Nga và cả Trung Hoa lần lượt quỳ gối và chịu để cho quân Mông cổ thống trị. Nhưng Đại Việt thì không, một tấc đất của giang sơn Tổ quốc đều được bảo vệ vẹn toàn. Cho nên thưa anh Nhật Tuấn, theo tôi, vũ khí căn bản nhất để giữ nước chỉ có lòng dân là tối thượng. Vả lại, suy cho cùng, dân tộc nào học hỏi được kinh nghiệm lịch sử của chính dân tộc mình thì sẽ có trí khôn và sức mạnh được nhân lên gấp nhiều lần. Nhưng qua thực tế cho thấy, bài học lớn nhất của lịch sử là người ta ( vì ngạo mạn) mà không chịu rút ra từ lịch sử những bài học.
Nhà văn Nhật Tuấn
- Thế còn chuyện người Trung Quốc đóng xe tự chế nghênh ngang trên đất nước ta bất chấp luật lệ giao thông thì sao?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Thưa anh, lực lượng cảnh sát giao thông kể cả thanh tra giao thông của ta phải nói là dày đặc, tôi không hiểu tại sao lại để xảy ra tình trạng quản lý đất nước như thế này,khiến người dân có mặc cảm như lũ Đaguratri thời Hốt-tất-liệt nghênh ngang hống hách.Và không khỏi liên tưởng đến lời Hịch của Trần Hưng Đạo: Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường.Uốn lưỡi cú diều…Trong khi đó, nhiều trường hợp người tham gia giao thông chỉ không đội mũ bảo hiểm bị cảnh sát giao thông truy đuổi gây nhiều tai nạn thương vong rất đau lòng.
Tôi nhớ cách đây mấy năm có vụ mấy “anh hai lúa” chế tạo trực thăng, đang thời gian thể nghiệm đã bị cấm. Thật đáng tiếc, nếu chính quyền địa phương không thù ghét sự sáng tạo kỹ thuật, ắt phải cấp thêm kinh phí, cử thêm kỹ sư có nghề để cộng tác, giúp họ thực hiện sáng kiến đến cùng, biết đâu từ đó chẳng nảy sinh một cái gì đáng trân trọng. Tôi thú vị, nước Mỹ, hàng năm họ trao giải cho cả những phát minh quái đản.
Nhà văn Nhật Tuấn

- Nhiều năm qua người Trung Quốc xâm lấn vào xã hội Việt Nam gây nhiều tổn hại. Nào người Trung Quốc tràn sang tranh việc của công nhân Việt Nam, nào các lang băm Trung Quốc mở phòng mạch lừa đảo, nào thu mua “hàng đểu” như lá điều khô… thuê đất trồng cây gây hại, nào các mặt hàng độc hại tràn lan khắp nước. Những sự việc nhức nhối nhãn tiền như vậy mà các cơ quan chức năng nhắm mắt làm ngơ. Liệu sang năm 2014 trong khí thế kỷ niệm Hoàng Sa và 17 tháng Hai, nhà cầm quyền Việt Nam có dám mạnh tay ngăn chặn những hành động tổn hại cho kinh tế và xã hội Việt Nam của người Trung Quốc?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Những hiện tượng anh nêu chưa thấm vào đâu với thực tế đã diễn ra rất lưu manh và đểu cáng của đám  gian  thương  Trung Quốc nhằm phá hoại nền kinh tế và thương hiệu hàng hóa của nước ta. Có điều lạ lùng chưa một vụ lừa đảo phá hoại kinh tế Việt Nam nào của con buôn Trung Quốc mà ta tìm ra thủ phạm, ấy thế nhưng gần đây báo chí lại nói an ninh ta phá án nhanh nhất thế giới.
Về các vụ buôn bán hoặc đầu tư thuê mướn đất đai có quan hệ sống còn đến sinh mệnh quốc gia, các bậc lão thành cách mạng, các nhà kinh tế, quân sự lỗi lạc và giới trí thức đều có biểu tấu can ngăn, hoặc nói trực tiếp đối với tổ chức và cá nhân những người nắm vận mệnh quốc gia, nhưng hầu hết đều như gió thoảng ngoài tai. Thậm chí một nhóm trí thức đã lập hẳn một trang mạng Bauxit để giới khoa học và các nhà văn hóa đánh giá về nhiều mặt văn hóa, kinh tế, an ninh quốc phòng nhằm làm sáng tỏ thông tin nhiều mặt giúp các nhà quản lý đất nước có nhận thức đúng đắn về tác hại, nếu để Trung Quốc khai thác Bauxit ở Tây Nguyên. Đại tướng Võ Nguyên Giáp, trung tướng Đồng Sĩ Nguyên đều có thư can hoặc trực tiếp đề nghị. Nhưng tất cả những lời lẽ, những thư từ được nói hoặc viết thống thiết tựa như trích từ máu của trái tim mình gởi lên thượng cấp, đều như gió thổi vào khoảng trống.
Về tổng diện tích đất cho thuê khoảng 305.354 ha bằng 3.050 km2, tương đương với diện tích toàn tỉnh Hà Nam, thời hạn thuê 50 năm, 87% nằm ở các vị trí xung yếu thuộc các tỉnh xung yếu như: Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, KonTum… Trong tổng số hơn ba trăm ngàn hecta thì Trung Quốc, Đài Loan chiếm 264.000 ha bằng 87% ở các tỉnh xung yếu vùng biên giới.
Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên tư lệnh binh đoàn vận tải 559 từng cảnh báo việc cho nước ngoài thuê đất, bài in trên VNnet ngày 27 tháng 2 năm 2010 có đoạn: “ Sao không tự hỏi vì sao các doanh nghiệp nước ngoài lại chọn thuê đất chủ yếu ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Quảng Ninh, đặc biệt ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình nơi có trục đường 7, đường 8 sang Lào, đường đi lên Tây Nguyên. Rõ ràng đó là những tỉnh xung yếu biên giới, có những vị trí chiến lược mang tính cốt tử”.
Nhà văn Nhật Tuấn:
- Nhưng liệu sang năm 2014 với nhận thức mới như thông điệp dầu năm của Thủ tướng, tình hình này có sớm được cải thiện hoặc chấm dứt sự bất lợi cho nền kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh của Việt Nam?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Thưa anh, câu hỏi này nên dành cho Thủ tướng hoặc Tổng bí thư thì thích hợp hơn.
Nhà văn Nhật Tuấn

- Tình hình biển Đông có vẻ lắng dịu, đột nhiên ngày 6/1 mới đây, lực lượng kiểm ngư Trung Quốc đã tấn công cướp tài sản của ngư dân Lý Sơn hoạt động tại vùng biển thuộc quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Báo chí cũng như Bộ ngoại giao không hề đưa tin và lên tiếng. Liệu đây có phải là tín hiệu của một thời kỳ gây hấn mới của Trung Quốc?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Tôi coi hành động của cái gọi là lực lượng kiểm ngư Trung quốc đối với ngư dân Việt Nam không hơn bọn cướp biển. Nào là bắt người đòi tiền chuộc, nào là cướp sản phẩm ( tôm, cá) , nào phá tài sản ( thuyền, máy) kể cả giết người.
Còn như việc họ có dám mạo hiểm cướp đảo mang tính nhỏ lẻ hoặc dùng tổng lực hất toàn bộ lực lượng của ta để độc chiếm Trường Sa hay không là tùy thuộc ở sự vận động chính trị của ta trong nội khối Asean và vận động quốc tế, liên kết thành một mặt trận giữ gìn cho trật tự và an ninh trên biển Đông, cũng tức là giữ gìn an ninh thế giới, đồng thời phải gấp rút võ trang đủ mạnh cho công cuộc phòng thủ đất nước. Nhưng hơn hết là phải mở rộng dân chủ, đoàn kết toàn dân thành một khối, khiến kẻ cướp không dám manh động. Vấn đề an ninh biển Đông thực chất là vấn đề của quốc tế, vì vậy ta phải quốc tế hóa càng rộng lớn bao nhiêu, càng sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Kể cả việc khởi kiện Trung Quốc trước các tòa án Liên Hợp quốc.
Nhà văn Nhật Tuấn                       
  Thông điệp đầu năm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề cập nhiều vấn đề quan trọng: “ Đổi mới thể chế- xóa bỏ độc quyền- nắm vững ngọn cờ dân chủ” nhất là khái niệm mới “nhà nước kiến tạo”. Vậy nhưng tuyệt nhiên không nhắc tới biển Đông, chẳng lẽ không quan trọng bằng những vấn đề kia sao?”
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Thực tình tôi đã nghe khá nhiều thông điệp đầu năm cũng như thông điệp nhậm chức của các chính trị gia. Nó tựa như một thứ ma-két-tinh nhằm đánh bóng thương hiệu, vận động tranh cử hoặc một cái gì na ná như vậy thôi. Do đó thưa anh, độ tin cậy ở những phát ngôn này thường không cao. Sở dĩ thông điệp không gây sự chú ý của tôi, là bởi tôi không thấy Thủ tướng đưa ra các giải pháp và lộ trình thực hiện các vấn đề hệ trọng như cải cách hành chính, cải cách thể chế, cải cách kinh tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền v.v…Tôi nhớ hồi nhậm chức Thủ tướng lần đầu,ông Dũng cũng cam kết mạnh mẽ về chống tham nhũng.Nhưng tham nhũng ngày càng giăng mắc  như lũ bạch tuộc…Tuy nhiên,phải thừa nhận những vấn đề trong Thông điệp đầu năm đều  là những giải pháp cấp bách cứu nguy cho dân tộc ta lúc này. Rất mong Thủ tướng nỗ lực thực hiện cho bằng được các nội dung đó.Được như vậy, công ông đối với đất nước thật không nhỏ.   
Nhà văn Nhật Tuấn
- Nhưng còn vấn đề biển Đông, tôi không thấy Thủ tướng đề cập đến trong thông điệp đầu năm. Vậy anh hiểu vấn đề này thế nào?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Cái ông nhà văn Nhật Tuấn này sao cứ quan tâm hoài đến chính trị làm vậy.
Nhà văn Nhật Tuấn:
- Đó là sinh mệnh quốc gia. Quốc gia hưng vong thất phu hữu trách. Người xưa nói vậy. Và nay ta cũng không thể nói khác. Tôi vẫn muốn biét ý anh.

Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
Lẽ ra anh nên gửi phần câu hỏi này đến chính ông Thủ tướng. Nhưng thưa anh, các nhà chính trị họ có nhiều kỹ năng ,kỹ xảo lắm. Chúng ta là mấy anh văn sĩ can dự vào làm gì. Nhưng với Thủ tướng Dũng, tôi thấy ông ấy đôi khi có những việc làm hoặc phát ngôn, ngay đến cánh nhà báo sừng sỏ cũng không lường trước được. Anh có nhớ kỳ họp Quốc hội mấy năm trước, đến lượt Thủ tướng báo cáo về tình hình kinh tế, thì ông ấy nói vo rất chính xác về Hoàng Sa, Trường Sa và chủ quyền không thể tranh cãi của Việt Nam, khiến không chỉ Quốc hội mà cả nước ấm lòng. Biét đâu, bất ngờ ông Thủ tướng lại tung chưởng Hoàng Sa thì sao?
Nhà văn Nhật Tuấn

- Lịch sử quan hệ Việt Nam – Trung Quốc là lịch sử phòng, chống xâm lược. Ngày xưa đã thế, ngày nay vẫn thế. Vậy những tiểu thuyết Việt Nam mấy chục năm gần đây né tránh đề tài này- Vắng hẳn những tác phẩm đau đáu nỗi niềm chống ngoại xâm như Hận Nam quan của Hoàng Cầm. là nhà tiểu thuyết lịch sử, anh có cho rằng đã mở ra thời vận mới cho cảm hứng yêu nước chống ngoại xâm tất nhiên là ngoại xâm Trung Quốc hay chưa?
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:
- Thưa anh Nhật Tuấn, trước khi đi vào trả lời câu hỏi này, tôi thuật lại cuộc trao đổi bất ngờ giữa nhà văn Nguyễn Tuân, nhà văn Vũ Bão và tôi là người chứng kiến.
Năm 1973, khi ta và Hoa Kỳ sắp ký Hiệp định Paris, dân Hà Nội hy vọng lắm, đặc biệt là giới văn chương mong hòa bình lập lại, chắc sẽ có sự cởi mở dễ thở hơn cho văn học nghệ thuật. Sớm ấy, tôi và nhà văn Vũ Bão dắt tay nhau dạo phố.Khi tới gần Đại sứ quán Pháp, thấy nhà văn Nguyễn Tuân thủng thẳng bước từ nhà số 49 Trần Hưng Đạo ra hè phố.
Chúng tôi dừng lại chào và hỏi cụ đi đâu về.  Nguyễn Tuân nhếch mép cười khẩy:
- Như Phong ( Giám đốc nhà xuất bản Văn học bấy giờ)  mời đến chữa cái Tờ Hoa ( tên bài bút ký cũng là tên tập sách).
- Bác sửa xong rồi chứ ạ? Vũ Bão hỏi.
- Vớ vẩn. Sửa, sửa cái gì.
Chúng tôi đều biết. Khi nói thế có nghĩa là Nguyễn Tuân không sửa, không hợp tác. Vũ Bão lảng sang chuyện khác, anh hỏi:- Thưa bác, hình như ta với Mỹ sắp ký Hiệp định Paris.
- Ký tắt rồi, còn sắp, sắp cái gì nữa.
Lại hỏi:
- Thưa bác, nếu hòa bình lập lại, chắc văn chương sẽ khởi sắc, vì vòng kim cô sẽ được nới.
Nguyễn Tuân cau vầng trán, vẻ không hài lòng. Ông sùy một tiếng rồi nói:
- Nới, nới cái gì? Thì ra thế, các anh sợ như mấy anh thợ săn nhút nhát sợ cả cái bóng của con hổ đất người ta đặt dưới gầm các điện thờ Mẫu. Anh tư duy ở trong đầu, ai chui vào trong đầu anh mà kiểm soát được tư duy. Không ai cấm được nhà văn tư duy và viết, chỉ có nhà văn hèn mới
không dám suy nghĩ tới cùng và không dám viết điều mình suy nghĩ.
Nói xong Nguyễn tuân lại thủng thẳng bước đi như chẳng có điều gì xẩy ra.
Thưa anh Nhật Tuấn, chắc anh biết tôi đã viết và tái bản nhiều lần những tiểu thuyết lịch sử, trong đó gộp lại thành hai bộ. Bão táp triều Trần ( 6 tập 3000 trang) và Tám triều vua Lý ( 4 tập 3600 trang).
Trong đó thời nhà Lý có cuộc chiến tranh lớn, đánh tan gần 20 vạn quân xâm lược nhà Tống vào năm 1076. Sử Tống chép: “Mười phần quân ra đi, lúc về không còn vài ba phần, may mà An Nam chịu bàn hòa, nếu không thì không biết sẽ ra sao”.
Còn về bộ Bão táp triều Trần, tôi phản ánh trọn vẹn cả ba cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Mông- Nguyên vào các năm 1258, 1285 và 1288 trong ba tập “ Đuổi quân Mông –Thát”, “Thăng Long nổi giận” và “ Huyết chiến Bạch Đằng”.
Thời điểm lịch sử đó, đặt dân tộc ta trước nguy cơ tồn tại hay không tồn tại. Thế nhưng tổ tiên ta vừa khôn ngoan vừa đảm lược, không chỉ “Thoát Nguyên’ mà còn “Diệt Nguyên”toàn thắng .      . Nên nhớ thời đó, quân Mông- Nguyên đã chinh phục gần hết châu Á, quá nửa châu Âu, từ bờ Hắc Hải đến Thái Bình Dương không một đội quân nào, không một quốc gia nào là địch thủ của chúng. Các nước khổng lồ như Nga và Trung Hoa cũng đều trở thành kẻ bị trị với thân phận nô lệ. Tiểu thuyết của tôi không có ý gây hận thù, không nhằm hạ nhục đối phương mà chỉ phản ánh tinh thần tự trọng của cả một dân tộc, và lòng vị tha trước kẻ bại trận. Có nhẽ tinh thần tự trọng là một trong những yếu tố quan trọng nhất của một dân tộc đã làm nên chiến thắng. Và tôi viết hai bộ tiểu thuyết đó cũng với tinh thần tự trọng của một nhà văn. Tuyệt nhiên khi viết, tôi không hỏi ý kiến ai và cũng không lo lắng có in được hay không in được, mà chỉ có một ý chí cần phải viết. Điều tôi sợ nhất là mình thoái chí. Ngoài ra không có điều gì làm tôi sợ hãi. Và thưa anh Nhật Tuấn, theo tôi, đã là nhà văn thì cứ làm đúng thiên chức của mình, không nên trông chờ vào bất cứ điều may rủi nào hết. Và nếu mục tiêu phục vụ của ta là Tổ quốc và Nhân dân thì đó không chỉ là điểm tựa mà còn là bức trường thành che chắn ta vững chắc nhất. Thử hỏi, còn điều gì khiến ta phải băn khoăn lo lắng, thậm chí chờ đợi.
Nhà văn Nhật Tuấn
- Điều cuối cùng tôi muốn biết cảm nhận của anh về ngày 17 tháng 2 này, sau 35 năm quân Trung Quốc xâm lược dã man 6 tỉnh biên giới nước ta.
Nhà văn Hoàng Quốc Hải:    Ngày nay hai nước đã bình thường hóa, lãnh đạo hai nước đã xây dựng với nhau được mối quan hệ mà họ đúc kết thành 16 chữ. Và họ gọi là 16 chữ vàng gồm:
                                      Láng giềng hữu nghị
                                      Hợp tác toàn diện
                                      Ổn định lâu dài
                                      Hướng tới tương lai
Tuy nhiên, tôi rất thất vọng với nhà cầm quyền Trung Hoa. Hằng năm vào ngày này họ vẫn làm lễ kỷ niệm và tôn vinh những kẻ đã tàn sát đồng bào ta, chiến sĩ ta. Nhưng họ lại cứ lải nhải nói đây là: “Cuộc tự vệ đánh trả”.
Hãy xem ngày 17 tháng 2 quân xâm lược Trung Hoa đã tràn vào lãnh thổ ta như thế nào.
Họ đã sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập tổng cộng 32 sư đoàn. Sáu trung đoàn xe tăng. Bốn sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Tổng số quân họ huy động vào cuộc chiến tranh xâm lược này khoảng gần  600.000 tên. Khí tài hạng nặng gồm có: 550 xe tăng, 480 khẩu pháo lớn các loại, 1260 súng cối và dàn hỏa tiễn, chưa kể 200 tầu chiến của hạm đội Nam Hải và 1700 máy bay sẵn sàng trợ chiến ở phía sau.
Tướng Hứa Thế Hữu tư lệnh đại quân khu Quảng Châu chỉ huy hướng tấn công vào vùng Đông Bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn- Cao Bằng.
Viên tướng Dương Đắc Chí tư lệnh quân khu Côn Minh đảm nhận hướng tiến quân vào vùng Tây Bắc Việt Nam với trọng điểm là tỉnh Hoàng Liên Sơn ( chủ yếu là Lào Cai ).
Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc: “ Quân đội có vũ trang của một nước, tiến qua biên giới để vào lãnh thổ  của nước khác, thì  đó là hành vi xâm lược”. Thế mà người Trung Hoa từ giới chóp bu tới báo chí đứng đầu là Nhân dân nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng sản Trung Quốc đều ra rả nói là “Cuộc tự vệ đánh trả”, thử hỏi đó có phải là thói vừa ăn cướp vừa la làng quen thuộc của Trung Hoa từ xưa tới nay. Đó là chưa kể tội ác trời không dung đất không tha của quân xâm lược bành trướng Trung Hoa tàn sát đồng bào ta, đốt nhà, cướp của, phá hoại và lấy đi từ chiếc cuốc chiếc cày đến trâu bò gà lợn. Đường sá, cầu cống, cả từ chiếc cống thoát nước đường kính 20cm tới cây cột điện, chúng cũng dùng mìn đánh cho tan nát. Không những thế, họ còn làm tới gần chục bộ phim và nhiều tiểu thuyết,bút ký vu cáo phía Việt Nam gây hấn.
Cuộc xâm lược man rợ đã trải 35 năm, cả dân tộc ta đang chờ một lời xin lỗi từ phía họ. Nhưng điều đó tuyệt nhiên không xẩy ra. Tôi có cảm giác, giới chóp bu nước này đã bị tê liệt dây thần kinh xấu hổ, nên họ không biết hối hận. Trong lịch sử Việt Nam ,Trung Hoa suốt mấy ngàn năm lịch sử duy nhất có một lần, Chủ tịch Mao Trạch Đông nói với đội ngũ chuyên gia khi sắp sang giúp Việt Nam vào khoảng năm 1954 rằng: “Các đồng chí phải tận tình giúp đỡ nhân dân Việt Nam, và nên nhớ rằng tổ tiên ta đã gây nhiều đau khổ cho người Việt Nam đấy”.
Trong khi đó, suốt mấy chục năm qua, dường như ta không đả động gì tới cả vạn liệt sĩ đã nằm lại nơi chiến trường biên giới. Họ là ai? Họ là các quân nhân đã từng tham gia chiến tranh chống Mỹ, tham gia mặt trận biên giới Tây nam Tổ quốc. Tôi đã từng đến nghĩa trang liệt sĩ Vị Xuyên từ sau hồi xây dựng và qui tập. Thật đắng lòng khi đọc tên tuổi và quê quán họ, nhiều người còn chưa đến tuổi hai mươi. Nhưng cũng tạm yên tâm vì họ được đất nước nhớ ơn. Vậy mà mười năm sau tôi trở lại nghĩa trang này, không chỉ tên nghĩa trang không còn đầy đủ, mà cả ngàn bia mộ đều ghi dòng chữ: “Liệt sĩ chưa biết tên”.
-Xót xa thay, họ cống hiến sinh mệnh mình vì ai? Phải chăng máu họ chỉ là nước lã?!
Kỷ niệm 30 năm cuộc xâm lược tàn bạo của quân bành trướng Trung Hoa, một nhà thơ vốn là cựu quân nhân đã viết bài thơ khá ấn tượng. Tôi thấy cần phải chép lại để mọi người cùng đọc.

Lời mẹ
Mẹ tôi nói:
Bố các con liệt sĩ Điện Biên
Anh các con liệt sĩ Khe Sanh đường  Chín
Em các con liệt sĩ Đồng Đăng xứ Lạng
Đều vì nước hy sinh
Đều vì con Hồng cháu Lạc
Sao các con lòng đen dạ bạc?
Đứa chết ở Đồng Đăng chẳng nhắc đến bao giờ?
Ba mươi năm rồi đó
Hay em nó chết chui?
Hay em nó hy sinh không chính đáng?
Lũ chúng mày mở mày mở mặt
Sống dư thừa nhờ cái chết của bao người
Cả cái chết cũng bất công đến thế
Lòng mẹ đau biết nhắm mắt sao đây?!

 (   10.2.2009
Trần Nhương)
     

Hà Nội ngày 5 tháng 2 năm 2014
HQH

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyễn Trãi lại trở về cổ vũ con cháu của Người


Nguyễn Anh Tuấn

Đọc "Gửi Ức Trai" của nhà văn Lưu Trọng Lư

Người sợ đưa nhanh nhát chổi
Làm bóng hoa tan
Nhưng khi xô một tảng núi bạo tàn
Ức Trai! Người không biết sợ
Thà chịu một vừng trăng đổ vỡ
Để đổi lấy một mặt trời đại nghĩa giữa hành tinh.
Ai yêu như Người, cái lẽ hiếu sinh
Một giọt nắng thanh bình
Trên đầu ngọn lúa?
Ai yêu như Người, từng tia máu đỏ
Trong da tóc trẻ đẹp con người?
Người thơ của đội quân đất nước
Đã làm bơ phờ xơ xác
Những mũ mãng thiên triều!
Làm một nước nghĩa nhân nhỏ bé
Bên một nước lớn vô độ, tham tàn
Phải chịu điều cay đắng nghìn năm
Để đổi lấy hàng trăm trận thắng
Và Ức Trai với mái tóc thời gian còn thơm trắng mãi
Vẫn nắm chặt trong tay ấn tín Liễu Thăng
Dặn cháu con:
Với hùm beo phải vững giáo, chắc thương
Nhưng Nhân nghĩa ngọn cờ, đừng để lọt vào những bàn tay dính máu

Ôi!  Ngọt ngào ngọn gió
Gần 600 năm rồi mà như mới hôm qua
Ức Trai về, lững thững dưới rừng hoa
Như xem lại, một chiều trận mạc…
(Trong tập Bài ca tự tình -
NXB Hội Nhà văn, tháng 6-2011)

Nhà văn Lưu Trọng lư làm bài thơ này sau khi đã sống nhiều ngày cùng các chiến sĩ trận điạ "chốt" biên giới phía Bắc tại Lạng Sơn, Cao Bằng, "Khi trái tim ta đang vỡ làm đôi" khiến cho "Tiếng nói của cả đời ta ùn lại" như ông từng bộc lộ ở bài thơ "Em có nghe" viết cũng trong thời gian đó. Trước máu xương của quân dân ta đổ xuống chống trả sự "ma giáo côn đồ" của bọn bành trướng để bảo vệ từng tấc đất cha ông, nhà văn đã nhớ đến người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi; và bài thơ "Gửi Ức Trai" đã như một nén hương kính cẩn giữa đất trời Tổ quốc thiêng liêng dâng lên hương hồn biết bao anh hùng nghĩa sĩ Việt Nam xưa nay mà Nguyễn Trãi là tấm gương chói lọi nhất...
    Bài thơ mở đầu bằng một ý thơ rất đẹp lấy trong Quốc âm thi tập: "Hé cửa đêm chờ hương quế lọt/ Quét sân ngày lệ (sợ) bóng hoa tan", liền sau đó là một hình ảnh tương phản giàu thẩm mỹ và nặng trĩu hiện thực để khái quát lên toàn bộ tâm hồn cao khiết lẫn khí phách phi thường của Nguyễn Trãi trong suốt cuộc đời cụ:
Người sợ đưa nhanh nhát chổi
Làm bóng hoa tan
Nhưng khi xô một tảng núi bạo tàn
Ức Trai! Người không biết sợ
Sức mạnh tinh thần của Nguyễn Trãi được bắt nguồn từ triết lý hành động của một dân tộc từng chịu quá nhiều đau khổ, khi "mỗi người Việt mình nước mắt đủ chảy thành sông", và nhà văn đã diễn đạt điều này tựa lời thề của người nghĩa quân trước giờ vung gươm ra trận diệt ngoại xâm, tựa đôi câu đối trang trọng thấm đẫm xúc cảm treo nơi bàn thờ Tổ tiên anh linh:
Thà chịu một vừng trăng đổ vỡ
Để đổi lấy một mặt trời đại nghĩa giữa hành tinh.
Từ điểm xuất phát này, nhà văn bắt đầu miêu tả thế giới tinh thần cao quý của Ức Trai, mà cội nguồn là tình yêu Dân, thương Dân:
Ai yêu như Người, cái lẽ hiếu sinh
Một giọt nắng thanh bình
Trên đầu ngọn lúa?
Ai yêu như Người, từng tia máu đỏ
Trong da tóc trẻ đẹp con người?
Cho dù phải chịu cảnh "Danh hư họa thực", nhưng nhờ có tình thương lớn lao đó, nhờ có "lòng trung lẫn hiếu/ mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen" (QÂTT) mà Nguyễn Trãi đã trở thành "Nhà chiến lược thiên tài/ Người mưu sĩ tuyệt vời" đưa dân tộc vượt qua bao hiểm nguy và đè bẹp giấc mộng của bọn bá quyền:
Người thơ của đội quân đất nước
Đã làm bơ phờ xơ xác
Những mũ mãng thiên triều!
Nguyễn Trãi còn "dành cả hơi nồng cho hậu thế", và nhà văn như nghe thấy nỗi lo âu trăn trở thể hiện tầm nhìn vượt nhiều thế kỷ của cụ đến với hôm nay:
Làm một nước nghĩa nhân nhỏ bé
Bên một nước lớn vô độ, tham tàn
Phải chịu điều cay đắng nghìn năm
Để đổi lấy hàng trăm trận thắng
Nhưng từ hơn ba mươi năm trước, giữa những ngày tháng Tổ quốc bị sỉ nhục đó, nhà văn đã thốt lên hộ biết bao người Việt Nam yêu nước-"Những ngọn đèn không ngủ" trong hiện tại cái điều phẫn uất này, qua cách nói dân dã: "Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng!" Vì thế, Đạo nghĩa làm người lớn nhất giờ đây là "Biết cầm chắc những gì Tổ quốc trao đưa" :
Và Ức Trai với mái tóc thời gian còn thơm trắng mãi
Vẫn nắm chặt trong tay ấn tín Liễu Thăng
Dặn cháu con:
Với hùm beo phải vững giáo, chắc thương
Nhưng Nhân nghĩa ngọn cờ, đừng để lọt vào những bàn tay dính máu !
Gần mười năm sau cái ngày "Người lính thơ đi nhặt những mũ mãng thiên triều", nhà văn Lưu Trọng Lư vẫn chưa hết nỗi đau và sự trăn trở về hành động xấc xược của bọn "ma giáo côn đồ" bành trướng; cùng với nỗi lo lắng khôn nguôi về sự sa sút của đạo lý, của tinh thần dân tộc chân chính, ông viết "Thư đêm giao thừa"( năm 1988):
Mênh mông trường dạ” nhang đèn xưa cũng thổn thức đầy vơi
Cả lịch sử anh hùng cũng về đây trong chiến hào sinh tử
Của dân tộc, một câu thơ, một đạo lý
Cũng về đây, sống chết với hôm nay
...Việt Nam không chỉ chết sống một lần
Việt Nam muôn đời tự làm nên vận mạng
Hãy cuốn phăng đi trăm loài xác bẩn!
Nhà văn như đang nói trực tiếp với Nhân dân mà ông yêu thương quý trọng trọn đời và những người có trách nhiệm đối với vận mệnh Nhân dân giữa những ngày nóng bỏng này:
Hỡi quyền uy rộng lớn! Thái thượng Nhân dân
Ta chỉ xin quỳ trước một chữ Nhân
Cuộc Giao ban Đất Trời
Người không được phép thêm một lần lỡ hẹn!
Và Nguyễn Trãi lại về với chúng ta hôm nay, theo xúc cảm của một nhà văn sẵn sàng "Ôm cả tình thương mà chết", không chỉ để tiếp tục "Tìm mai theo đạp bóng trăng" (QÂTT) mà còn để xem xét cháu con "Với hùm beo phải vững giáo, chắc thương" ra sao trước sự tồn vong của Đất Nước:
Ôi!  Ngọt ngào ngọn gió
Gần 600 năm rồi mà như mới hôm qua
Ức Trai về, lững thững dưới rừng hoa
Như xem lại, một chiều trận mạc…
Một dũng sĩ trong hình dáng của một tiên ông "lững thững dưới rừng hoa" thăm lại "vạn cổ thử giang san"- nơi mà chỗ nào cũng có dấu vết "Kình ngạc băm vằm non mấy khúc/ Giáo gươm chìm gãy bãi bao tầng" (thơ dịch Ức Trai Thi tập). Một tiên ông hiền dịu có tâm hồn "ngọt ngào như ngọn gió" mà lại quắc thước, cứng cỏi, chứ không hề ủy mị yếu hèn trước cả một hàng tướng giặc qua sự miêu tả gần đây của một nhà văn có tên tuổi...
    Nhà văn Lưu Trọng Lư đã cảm nhận một cách sâu sắc và đồng cảm cao độ cái sức mạnh tinh thần lớn lao của Nguyễn Trãi qua văn chương chiến đấu và văn chương thế sự của cụ mà nhà thơ Pháp Paul Éluard từng gọi là: "những vũ khí của đau thương"... Đó cũng là nguyên nhân quan trọng để "Gửi Ức Trai" trở thành một trong những tác phẩm văn học hiện đại hay nhất viết về người anh hùng vĩ đại dân tộc - danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Trãi, và luôn luôn mang tính thời sự nóng hổi... Vâng, Nguyễn Trãi đang "lững thững" trở về để cổ vũ con cháu biết yêu thương, quý trọng nhau hơn khi cùng cầm "ngọn cờ Nhân nghĩa ", không để chúng lọt vào "những bàn tay dính máu" và dơ bẩn - có như vậy mới bảo vệ được trọn vẹn non sông gấm vóc yêu quý...
( Đã in Tạp chí Nhà văn, số 3-2013)