Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

Từ nổi lo một nền báo chí không vì công chúng Hay là viết cho ai? Vì ai?


FB Bút Lông
"Nhưng trên những trang báo toàn điều tốt đẹp, thiếu những góc khuất, những khoảng trống chưa lấp đầy trách nhiệm có chỗ nào là sự hèn nhát, né tránh của người cầm bút, khi không dám xông vào những nơi cần tiếng nói của nhà báo, cần phanh phui thực tế còn nhiều nghịch lý, cần đào xới, mổ xẻ đến tận cùng cái xấu, cái ác, để tạo nền cho sự đổi thay? Có không tình trạng “mũ ni che tai”, an toàn là trên hết mà chưa nghe thấu nỗi lòng bạn đọc, chưa làm tròn thiên chức phản biện xã hội mà đặc thù nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội đã giao phó?"
Rất nhiều tên báo được điểm...

TỪ NỖI LO MỘT NỀN BÁO CHÍ KHÔNG VÌ CÔNG CHÚNG

Báo chí Việt Nam đang bước vào một giai đoạn mới mà sự tụt hậu và cơ hội phát triển đặt ra ngang nhau. Chỉ có sự chuẩn bị đầy đủ, chiến lược bài bản, chỉ có quyết tâm thay đổi, vượt lên chính mình, chúng ta mới có thể có những bước đi xa và vững chắc.

Công chúng báo chí là người đọc báo, người xem truyền hình, người nghe phát thanh và cũng là người chi trả cho những sản phẩm báo chí đó. Mối quan hệ nhà báo – tác phẩm – công chúng là mối quan hệ mật thiết, sống còn. Đưa thông tin chính xác, chất lượng và trách nhiệm dến cho công chúng là thể hiện đạo đức của người làm báo và cũng là cách để báo chí tồn tại, đứng vững và phát triển trong bối cảnh cạnh tranh thông tin gay gắt hiện nay. Tuy thế, bài toán đặt ra không hề dễ dàng vì nó liên quan đến một loạt yếu tố từ nhận thức của nhà báo đến cơ chế hoạt động, vận hành của mỗi cơ quan báo chí và cả nền báo chí.

Còn ai khao khát sự đổi mới hơn những người làm báo khi thường xuyên đối mặt với dòng chảy cuồn cuộn của cuộc sống, khi dòng tin hôm nay khác hẳn hôm qua? Nghề báo là nghề của sáng tạo, chỉ có mở lòng ra đón nhận cái mới, liên tục cập nhật tri thức, kĩ năng, mới có thể đứng được với nghề. Thế nhưng, cái lối mòn cũng từ đó phát sinh, nếu sự thụ động và lười biếng, thói quen khép kín, quá tự tin hoặc chỉ nhăm nhăm giữ “an toàn” sau những bài học về tai nạn nghề nghiệp khó tránh trên hành trình tác nghiệp lấn át đi khao khát vươn lên.

Những trang báo chạy ra đều đều từ máy in mỗi sáng, chứa trong nó sự nóng bỏng, tha thiết của đời sống hay đơn thuần chỉ là những dòng chữ lấp đầy trang báo, vô cảm và cả vô duyên nữa? Đất nước 90 triệu dân, với bao lo toan, trăn trở, hạnh phúc và tai ương, thuận lợi và khó khăn, hanh thông và trắc trở… Đã đủ chưa để người cầm bút đào xới, suy tư, làm rõ bản chất của nó, đồng hành với cuộc sống, với con người để tích cực hoá đời sống nhân sinh?

Thế nhưng, nhiều khi cầm tờ báo lên mỗi sáng, đôi khi người đọc vẫn thấy hụt hẫng, buồn lòng vì những trang báo toàn thông tin ngọt ngào, thuận tai, nhưng xa lạ với thực tế. Lòng tự băn khoăn: chẳng lẽ cuộc sống chỉ còn toàn cái tốt, cái hoàn thiện?…

Để cái tốt đẩy lùi cái xấu, để sự thuyết phục nhân tâm nở rộ bởi những điển hình mới mẻ, đó là một nguyên tắc cần thống nhất. Nhưng trên những trang báo toàn điều tốt đẹp, thiếu những góc khuất, những khoảng trống chưa lấp đầy trách nhiệm có chỗ nào là sự hèn nhát, né tránh của người cầm bút, khi không dám xông vào những nơi cần tiếng nói của nhà báo, cần phanh phui thực tế còn nhiều nghịch lý, cần đào xới, mổ xẻ đến tận cùng cái xấu, cái ác, để tạo nền cho sự đổi thay? Có không tình trạng “mũ ni che tai”, an toàn là trên hết mà chưa nghe thấu nỗi lòng bạn đọc, chưa làm tròn thiên chức phản biện xã hội mà đặc thù nghề nghiệp và trách nhiệm xã hội đã giao phó?

Có thể ai đó quá sốt sắng với những biến chuyển của nền kinh tế, của xu hướng hội nhập nên vội vàng gắn nó vào xu hướng quốc tế hoá truyền thông gấp gáp và có phần thiên kiến. Song nếu nói rằng không có sự liên hệ trực tiếp nào giữa những đổi thay có tính cách mạng của nền kinh tế thế giới, của công nghệ thông tin toàn cầu vào những phương tiện truyền thông ở ta thì e rằng đó là một nhận định chủ quan. Điểm nhấn cơ bản của quá trình này chưa chắc đã ở những phương tiện thiết bị hiện đại, ở những công nghệ làm báo, làm truyền hình hay trên Internet đang thay đổi từng ngày. Bản chất sự chuyển động nằm ở phía khác: mối quan hệ giữa nhà báo và công chúng. 

Công chúng là người quyết định số phận của tờ báo khi họ có quyền lựa chọn trên sạp, đăt qua hệ thống phát hành tờ báo họ yêu thích, kí hợp đồng với kênh truyền hình cáp họ cho là phù hợp. Họ cũng có quyền chọn xem chương trình yêu thích phát trên cùng một hệ giờ, đọc chuyên mục này hay chuyên mục khác của một tờ báo. Quyền năng của công chúng còn thể hiện qua những ý kiến phản hồi mà giờ đây không một cơ quan truyền thông đứng đắn nào dám xem nhẹ, bỏ qua…

Thực ra, cũng như nhiều câu chuyện của một thời đại mới, một cơ chế kinh tế mới manh nha, những vấn đề này không hề mới ở ngay các nước xung quanh chúng ta. Ngay ở Việt Nam, từ hơn hai mươi năm trước, khi công cuộc đổi mới bắt đầu, một số cơ quan truyền thông cũng đã ý thức sâu sắc “có bạn đọc là có tất cả” như một bài học vỡ lòng của làm báo thời đổi mới. 

Thành công của những “thương hiệu” như Tuổi trẻ, Thanh niên, Lao động, Tiền phong... có thể lý giải thế nào nếu không xuất phát từ ý thức hướng về bạn đọc, người chi trả cho tờ báo, nuôi sống tờ báo và nhen lên ngọn lửa tin tưởng vào những ngòi bút công bằng, chính trực, không ngại đối đầu với cái ác, cái xấu? 

Những tờ báo điện tử như Vnexpress, VietNamNet… phải tri ân bạn đọc, khi những ngày đầu cơ chế chưa tạo một hành lang pháp lý, tờ báo chưa được thừa nhận, nhưng tài sản bạn đọc đã khiến những người tác nghiệp trên một loại hình báo chí còn mới mẻ này vững tâm bước tiếp…

Tất nhiên, làm báo là phải có định hướng, có ý thức chính trị rất cao. Nhưng nếu chỉ là chính trị xơ cứng, xa lạ với thực tế, thì sự “trang nghiêm”, “kín cổng cao tường” của cơ quan báo chí chỉ làm bạn đọc e ngại, xa lánh. Nỗ lực định hướng của những người làm báo, khi áp đặt công chúng vào một cái gu thẩm mỹ cũ kĩ, không có tranh luận có khác nào cỗ máy “chạy không tải”, tốn năng lượng và tiền bạc mà không mảy may tác động đến ai?

Từ những năm 50 của thế kỉ trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở nghiêm khắc: “Báo chí cũng phải hợp lý hoá. Đừng bày biện ra nhiều thứ. Làm ít nhưng làm cho hẳn hoi. Không hợp lý hoá lại như thế thì rốt cuộc báo viết ra không ai muốn đọc mà tốn kém một trăm thứ. Đoàn thể cứ co cổ lại chịu tiền để mấy chú làm báo ngồi vẽ voi, vẽ ngựa mà không ai đọc. Tóm tắt Bác nói chừng đó các chú nghiên cứu lại” (Hồ Chí Minh- Nói chuyện tại Hội nghị lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập, Hồ Chí Minh toàn tập, NXB CTQG- Sự thật, trang 129, tập 7).

Trong làng báo, cũng như một cộng đồng xã hội, có người đến trước, có người đến sau, có tờ báo tiềm lực tài chính mạnh mẽ, có tờ đang phải lo toan “chạy ăn từng bữa”. Có cơ quan báo chí chỉ cậm cạch duy trì sự tồn tại của vài số định kì đã khó khăn, trong khi cũng có tờ lại đang tính chiến lược vươn xa, lên tập đoàn, đa dạng hoá loại hình. Nhưng dù trong điều kiện thế nào, với tư duy hướng về công chúng, báo chí cũng sẽ có lời giải thoả đáng nhất cho chiến lược phát triển của mình.

Ai cũng biết, phần khó nhất trong sự chuyển đổi này thuộc về các báo địa phương, báo và tạp chí chuyên ngành hẹp vì sự gò bó của cơ chế cũng có, khó khăn về tiềm lực tài chính cũng có, và lực cản từ tư duy cũng có. Đây cũng là tình trạng chung của báo chí từ Bắc chí Nam, chứ không phải chuyện của riêng ai. 

Còn nhớ, cách đây ít năm, đã có một cuộc hội thảo báo chí khu vực đồng bằng sông Cửu Long bàn kĩ về chuyện “ai có quyền ra lệnh cho báo chí đăng hay dừng”? “Báo tỉnh có tự sống được không”?... Và dù nhiều ý kiến đặt ra rất sôi nổi, thì cuối cùng các đồng nghiệp phía Nam cũng phải thống nhất rằng: chỉ có thể chuyển động thực sự nếu có cú hích từ cơ chế, cụ thể là cơ chế lãnh đạo của cấp uỷ địa phương, tạo hành lang rộng hơn cho báo chí phát triển; làm sao thoát khỏi cơ chế tài chính gò bó “đồng nào mua mắm, đồng nào mua tương” như cách cơ quan quản lý ngân sách vẫn “áp” vào.

Tuy nhiên, trong cái khó vẫn ló cái khôn. Khi báo chí quan tâm đến công chúng thực sự và đúng mức, đầu tư bài vở và chất lượng tác phẩm chương trình thì sự gặt hái thành công vẫn là điều không khó hiểu. Trong giai đoạn khó khăn của nền kinh tế, khi nguồn thu các cơ quan báo chí sụt giảm, vẫn có những cơ quan báo chí vươn lên mạnh mẽ như “hiện tượng” Đài PTTH Vĩnh Long. Suốt 5 năm qua, doanh thu của Đài liên tục tăng trưởng 30-40%, cá biệt có năm tăng tới 100%. Ngay năm 2013 được coi là năm chạm đáy của nền kinh tế, doanh thu quảng cáo của Đài đã vượt xa ngưỡng 1000 tỷ đồng so với mức hơn 900 tỷ của năm 2012. Điều đặc biệt, lãnh đạo tỉnh Vĩnh Long khẳng định, Đài luôn bám sát định hướng chính trị, định hướng tuyên truyền của địa phương, thông tin rất trách nhiệm, ít để xảy ra sai sót. Hiệu quả kinh doanh gắn chặt với chất lượng thông tin. 

Công chúng xem các chương trình của đài Vĩnh Long ngày càng tăng, kể cả công chúng ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và công chúng ở các thành phố lớn. Ngay ở thành phố Hồ Chí Minh, một địa bàn rất khó “chen chân”, với mật độ truyền hình cạnh tranh dày đặc, đài PTTH Vĩnh Long vẫn chiếm tới 8% thời lượng xem thường xuyên của khán giả. Không chỉ chương trình giải trí mà các chương tình chính luận, chương trình xã hội, từ thiện của đài PTTH Vĩnh Long cũng được công chúng đánh giá cao. 

Không phải ngẫu nhiên mà ông Lê Quang Nguyên, Giám đốc của Đài khi chia sẻ với với các đồng nghiệp là học viên cao học báo chí của Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã khẳng định: “Với đài Vĩnh Long, không phải khách hàng (quảng cáo) là thượng đế mà công chúng mới là thượng đế. Các nhà tài trợ, các công ty quảng cáo sẽ bỏ rơi chúng tôi nếu khán giả không xem chương trình của Vĩnh Long. Còn khi công chúng đã chấp nhận chương trình của Đài thì quảng cáo, tài trợ sẽ liên tục tăng dù chúng tôi không cớ chính sách ưu đãi, hoa hồng gì cho các nhà quảng cáo”.

Rõ ràng, có công chúng là có tất cả. Nhìn ra xung quanh, Trung Quốc từng cho đóng cửa hơn 600 tờ báo “bao cấp”, vì đã không cần quan tâm đến bạn đọc thì làm sao có hiệu quả, in ra chỉ tốn giấy mực, tốn ngân sách và bộ máy cồng kềnh. Có vị lãnh đạo cấp tỉnh ở Trung Quốc yêu cầu báo tỉnh không đưa hình ảnh hoạt động của lãnh đạo lên trang nhất, dành “đất” để nói chuyện người dân, hầu mở rộng tầm nhìn cho những người đứng mũi chịu sào trong các nấc thang công quyền… Công nghệ có thể chuyển giao, máy móc hiện đại có thể vay tiền đầu tư, nhưng quan điểm báo chí hướng về bạn đọc thì chỉ có thể thực thi từ chính cái tâm, sự suy tư, sẻ chia trách nhiệm đầy tự giác và dũng cảm của những người làm báo.

Trăn trở đi ra biển lớn, mong có những cú hích về cơ chế, chọn được người thực tài để đứng mũi chịu sào đưa tờ báo phát triển. Những khát vọng ấy chỉ thành hiện thực khi có một chiến lược hoàn thiện về quy hoạch và phát triển hệ thống báo chí lâu dài, phát huy sáng tạo và đột phá cùng những người truyền thông vốn luôn khao khát đổi thay.

Một nền báo chí hội nhập không phải từ những điều đao to búa lớn mà phải từ những nguyên lý cụ thể và sinh động như thế: báo chí hướng về bạn đọc, tri ân bạn đọc trên từng trang viết, từng khuôn hình của phóng viên! Dù phải ý thức sâu sắc về tính định hướng, về vai trò hướng dẫn dư luận, nhưng nếu báo chí cô độc trên ốc đảo “thiên chức” chung chung, trên cái “uy” của cơ quan chủ quản, nhà báo ngủ quên trên danh xưng nghề nghiệp, thì không bao giờ chúng ta dám mơ về một nền báo chí hội nhập toàn diện và hiệu quả vào đời sống báo chí toàn cầu!


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nét đôn hậu Huế:

Ngày thơ- Viếng mộ thi nhân

Nhân Tết Nguyên tiêu ( Rằm tháng Giang Giáp Ngọ), Ngày thơ Việt Nam lần thứ XII, năm nay Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên – Huế đã tổ chức đi Viếng mộ thi nhân lần thứ 6 vào sáng 14 âm lịch (nhằm ngày 13/2/2014) để tưởng nhớ những tài hoa văn chương đã khuất. 
Ngày thơ- Viếng mộ thi nhân
Các văn nghệ sĩ thắp hương viếng mộ cụ Phan Bội Châu
Viếng mộ thi nhân là hoạt động thường niên vào mỗi dịp Nguyên Tiêu của văn nghệ sĩ Cố đô Huế, nhằm tri ân các thế hệ đã đóng góp cho thi ca tỉnh nhà và đất nước. Đây là một tập tục văn hóa mới rất có ý nghĩa, mà các văn nghệ sĩ Huế đã dày công tổ chức. Đây cũng là dịp để giáo dục, khơi dậy truyền thống thơ ca cho thế hệ trẻ trên đất Cố Đô. Có khi nó có ý nghĩa tâm linh hơn là tổ chức một đêm thơ công cộng, vài chục tác giả lên đọc. Có lẽ chỉ duy nhất ở Huế mới có tập tục Viếng mộ thi nhân.
                                           Viếng mộ thi sĩ Phạm Quỳnh
Trong tiết trời mưa xuân lất phất, hành trình các lần Viếng mộ thị nhân bắt đầu là Nhà lưu niệm Phan Bội Châu ở đường Phan Bội Châu. Đây là căn nhà cũ nơi nhà chí sĩ yêu nước, “Ông già bến Ngự” từng sống. Sau đó, đoàn văn nghệ sĩ đi thăm nghĩa trang Phan Bội Châu ở 5- đường Thanh Hải, nơi an nghỉ của 21 nhà chí sĩ như Hải Triều, Đạm Phương nữ sử, Nguyễn Chí Diểu…Sau đó đến đồi Từ Hiếu, nơi an nghỉ của nhiều văn nghệ sĩ, chí sĩ yêu nước như nhà thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, Hoàng Triều Trần Thúc Nhẫn, Trần Cao Vân - Thái Phiên, vợ chồng nhà thơ Vĩnh Mai – Phương Chi, văn Trịnh Xuân An...Tiếp đến là thăm mộ họa sĩ Bửu Chỉ ở nghĩa trang Ba Đồn. Điểm  nghĩa trang thành phố Huế có mộ của nhà thơ Thanh Tịnh, Thái Ngọc San, Nguyễn Văn Phương (Phương xích lô) và Nguyễn Xuân Hoàng.
                                                 Viếng mộ thi sĩ Phạm Hầu
Ngoài các khu nghĩa trang có mộ văn nhân nói trên, lâu nay các văn nghệ sĩ Huế còn chưa biết một khu nghĩa trang khác có mộ nhà văn, học giả lừng danh Phạm Quỳnh và nhà thơ Phạm Hầu.
Ngày thơ Viếng mộ thi nhân là một sinh hoạt rất có ý nghĩa của các văn nghệ sĩ vùng đất thi ca Huế. 
 
Phương Anh 

http://tapchisonghuong.com.vn

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Liên Xô "chia lửa" với Việt Nam trong chiến tranh biên giới thế nào?


Ngày 16/2/1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô. Dọc tuyến biên giới Xô - Trung đã tập trung khoảng 1,5 triệu quân PLA, phía Liên Xô đã triển khai hơn 40 sư đoàn...
Cảng Cam Ranh tháng 3-1979, các thành viên tàu BPK "Vasily Chapaev" 
và sỹ quan chiến sỹ vùng 4 hải quân Việt Nam chụp ảnh lưu niệm.
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước năm 1975, do những vấn đề phức tạp trong quan hệ giữa các nước trong khối XHCN, Việt Nam khẳng định đường lối chính trị độc lập, tự chủ, không phụ thuộc đã duy trì mối quan hệ chính trị bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và không can thiệp vào nội bộ của nhau với các nước trong khối XHCN.


Tháng 12/1979. Đô đốc Hạm đội Liên bang Xô Viết S.G.Gorshkov, Tổng tư lệnh Hải quân Liên Xô đến Hà Nội để đặt quan hệ công tác với Bộ Quốc phòng CHXHCN Việt Nam. Trong ảnh là Tư lệnh Hải quân Việt Nam, Thiếu tướng Giáp Văn Cương đón đoàn.

Trong bầu không khí đối ngoại chính trị căng thẳng sau chiến tranh khốc liệt, Việt Nam nhanh chóng xác định được thực chất những vấn đề phức tạp đang nảy sinh trong quan hệ quốc tế và xác định rõ Liên bang Xô Viết là người bạn chung thủy và đáng tin cậy nhất trong giai đoạn này.

Nhưng Việt Nam vẫn duy trì mối quan hệ bình đẳng về ngoại giao với hai nước lớn trong khối XHCN đến trước năm 1979. Chiến lược chi phối toàn bộ khu vực châu Á - Thái Bình Dương và những âm mưu đầy tham vọng của nước láng giềng nhằm thực hiện sách lược đã nêu buộc nhà nước Việt Nam phải tiến hành những bước đi vững chắc nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, một trong những bước đi kiên quyết đó là gắn kết với Liên Xô trong một mối quan hệ đoàn kết hữu nghị trên tầm chiến lược.

Vào rạng sáng ngày 17.2.1979, quân đội nước láng giềng sau hàng loạt những hành động khiêu khích đã tiến hành cuộc chiến tranh trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam. Trước khi nổ ra cuộc chiến một thời gian, ngày 29.6.1978 Việt Nam đã gia nhập CMEA. Ngày 3.11.1978 tại Moscow, đại diện nhà nước Liên bang Xô Viết và Việt Nam đã ký kết Hiệp ước hữu nghị Xô-Việt. Ngoài các điều kiện tiêu chuẩn của hiệp ước về hợp tác thương mại và văn hóa, hiệp ước có được những vấn đề quan trọng về quốc phòng như một hiệp ước về "phòng thủ chung" có nghĩa là "tham khảo ý kiến ​​chung và hành động hiệu quả để đảm bảo an ninh quốc phòng của cả hai nước."

Nhưng dấu hiệu của sự gia tăng của hợp tác Xô-Việt trở thành hiện thực vào mùa hè năm 1978, trong bối cảnh mâu thuẫn ngày càng tăng giữa Việt Nam với nước láng giềng. Theo các nguồn tin chính thức của Hoa Kỳ vào tháng 8.1978, Việt Nam có 4.000 cố vấn và chuyên gia Liên Xô và đến giữa năm 1979 con số đã tăng lên đến 5.000-8.000. Tháng 9.1978, Liên Xô bắt đầu thực hiện việc cung cấp vũ khí mới (máy bay, tên lửa phòng không, xe tăng và vũ khí, đạn dược, cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh) cho Việt Nam bằng đường hàng không và đường biển.

Cũng vào thời điểm đó, quan hệ Xô – Trung trở nên vô cùng căng thẳng và có rất nhiều trở ngại lớn. Ngày 1.11.1977, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Trung quốc, tờ Nhân dân nhật báo trong một bài xã luận đã gọi Liên Xô như một kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc, đồng thời coi Mỹ như là một đồng minh. Ngày 26.4.1978. Bộ Ngoại giao Trung Quốc yêu cầu bổ sung thêm vào điều kiện công nhận sự tồn tại các vấn đề tranh chấp khu vực trên biên giới Trung-Xô. Trung Quốc đòi quân đội Liên Xô phải hoàn toàn triệt thoái khỏi Mông Cổ, đồng thời giảm số lượng các lực lượng vũ trang trên suốt tuyến biên giới Trung-Xô.

Đáp trả lại yêu cầu ngang ngược của Bắc Kinh, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Brezhnev, vào đầu tháng 4.1978 khi đi thăm Siberia và Hạm đội Thái Bình Dương, đã tuyên bố rằng sẽ triển khai trên tuyến biên giới các hệ thống vũ khí mới, ngoài những hệ thống vũ khí trang bị hiện đại đã có sẵn trên biên giới Trung-Xô. Các loại vũ khí mới này, theo tuyên bố của Leonid Brezhnev có khả năng đảm bảo an ninh biên giới cho Liên bang Xô Viết và các nước đồng minh, chống lại mọi âm mưu xâm lược của thế lực nước ngoài.


Ngay trong tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh. Ít lâu sau, các máy bay của Hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh xuống Cam Ranh. Trong ảnh là thủy thủ đoàn tàu ngầm hạt nhân tấn công lớp Victor III Rroject 671RTM biên chế trong Sư đoàn tàu ngầm số 38 (Liên đội tàu chiến số 17) tại Cam Ranh.

Thế lực nào thì Brezhnev không nêu rõ, nhưng tất cả đều đã rõ ràng. Bổ sung thêm vào lời tuyên bố của Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, ngày 12.4.1978. Ulan Bator cũng công khai bác bỏ yêu cầu của Trung Quốc, tuyên bố rằng lực lượng quân đội Liên Xô được tăng cường và triển khai dọc biên giới Mông Cổ - Trung Quốc là theo yêu cầu của Mông Cổ nhằm đáp trả việc tăng cường lực lượng của PLA trên biên giới. Tình hình ngày càng trở lên phức tạp. Tháng 5.1979 trên biên giới Xô Trung đã xảy ra một vụ xung đột nghiêm trọng lớn tính từ năm 1969, xung đột đã lôi kéo sự tham gia của cả máy bay trực thăng chiến đấu. Ngược lại, Liên bang Xô Viết cũng tăng cường áp lực lên Trung Quốc với mục đích đạt được sự kéo dài Hiệp định Xô – Trung có giới hạn 30 năm về quan hệ Liên minh, Hợp tác hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau, được ký vào ngày 14.2.1950.

15.2.1979 là ngày đầu tiên sau 30 năm Hiệp ước Xô - Trung về Liên minh, hợp tác hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau hết hiệu lực. Trung Quốc chính thức bước ra khỏi sự ràng buộc của Hiệp định này. Ngày 16.2.1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố với Moscow về khả năng sẵn sàng tiến hành một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên bang Xô Viết. Dọc tuyến biên giới Xô - Trung đã tập trung khoảng 1,5 triệu quân PLA trên tổng số quân thường trực chiến đấu là 3,6 triệu người, trên tuyến biên giới quân đội Liên Xô đã triển khai hơn 40 sư đoàn.

Sáng sớm ngày 17.2.1979, các cuộc tấn công đã đồng loạt diễn ra tại 26 điểm trên toàn tuyến biên giới phía Bắc dài 1460 km của Việt Nam. Ngày 19.2 các phương tiện thông tin công bố bản "Tuyên bố của Chính phủ Liên Xô" thứ nhất. Trong có đoạn viết: “Nhân dân Việt Nam anh hùng lại một lần nữa trở thành nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược mới, nhưng quân và dân Việt Nam có đủ sức mạnh và ý chí để đánh bại kẻ thù xâm lược, hơn nữa, nhân dân Việt Nam có những người bạn thủy chung và là chỗ dựa vững chắc cho cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện đầy đủ những điều khoản cam kết được ghi trong Hiệp ước hợp tác hữu nghị toàn diện và giúp đỡ lẫn nhau giữa Liên Xô và Việt Nam. Liên bang Xô Viết kiên quyết yêu cầu chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược phi nghĩa chống nhân dân Việt Nam và lập tức rút quân khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam".

Trước thực trạng nhân dân Việt Nam một lần nữa phải chịu đựng những tổn thất, mất mát và sự tàn khốc của chiến tranh xâm lược, Liên Xô hoàn toàn không có ý định bỏ qua những trách nhiệm đã được cam kết. Tại Việt Nam, các chuyên gia và cố vấn lập tức tham gia vào những hoạt động quân sự cùng với những người đồng chí Việt Nam. Từ phía Liên Xô, các lực lượng cố vấn và chuyên gia quân sự được tăng cường. Một cầu hàng không được thiết lập từ Liên Xô đến Việt Nam. Ngày 19.2.1979, một đội chuyên gia kỹ chiến thuật binh chủng và cố vấn quân sự của tất cả các quân binh chủng đứng đầu là đại tướng G.Obaturovym.

Đội chuyên gia và cố vấn có nhiệm vụ hỗ trợ, giúp đỡ và cố vấn cho các cán bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam trong tình huống phức tạp của chiến trường. Nhóm chuyên gia của Trung tướng M.Vorobevy nhận nhiệm vụ cố vấn cho bộ tư lệnh lực lượng Phòng không – Không quân. Đại tướng G.Obaturovym làm cố vấn cho Tổng tham mưu trưởng lực lượng vũ trang Việt Nam Lê Trọng Tấn và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đại tướng Văn Tiến Dũng đã tiến hành đồng thời nghiên cứu chi tiết tình hình. Sau chuyến đi khẩn cấp thị sát chiến trường. Bộ tổng tham mưu đã đề xuất lãnh đạo cho phép điều động một quân đoàn từ Campuchia về hướng Lạng Sơn, điều động một tiểu đoàn pháo phản lực BM-21, vũ khí vừa được đưa sang từ Liên Xô. Đồng thời tổ chức và huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn vừa rút ra khỏi vòng vây, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.

Trong chiến thắng của quân và dân Việt Nam năm 1979, có sự đóng góp không nhỏ của các cố vấn, chuyên gia kỹ thuật quân binh chủng và một bộ phận các cán bộ chiến sĩ quân đội Liên Xô. Các phi công của phi đoàn máy bay vận tải An- 12 đã tiến hành không vận toàn bộ một quân đoàn từ Campuchia về Lạng Sơn. Hoạt động đặc biệt năng động và sáng tạo là lực lượng chuyên gia thông tin liên lạc của đoàn cố vấn (biên chế có 120 người từ năm 1978 và 68 người được đưa sang ngay khi cuộc xung đột nổ ra), một bộ phận thông tin liên lạc đi cùng với các cố vấn chiến trường, thực hiện nhiệm vụ ngay trong vùng chiến sự. Tháng 3/1979, đoàn cố vấn quân sự Liên Xô chịu một tổn thất không nhỏ, chiếc máy bay của hàng không Việt Nam An-24 khi hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng đã gặp phải sự cố, 6 phi công – huấn luyện viên và thiếu tướng không quân Malyh hy sinh.

Liên Xô đồng thời cũng tiến hành những hoạt động nhằm chấm dứt chiến tranh tại Liên Hiệp Quốc, đại diện chính thức của Liên bang Xô Viết đưa ra yêu cầu đòi xét xử kẻ xâm lược. Ngày 22.2/1979, Tùy viên quân sự Liên Xô tại Việt Nam cảnh cáo: “Liên bang Xô Viết sẽ thực hiện những điều khoản đã ký kết Trong Hiệp định hợp tác, đoàn kết hữu nghị và tương trợ lẫn nhau (trong cả lĩnh vực quân sự) đã được ký với Việt Nam. Nhưng thời điểm đó, xung đột vẫn có thể giới hạn được, Liên Xô cũng không muốn có một cuộc chiến tranh lớn.

Phía phát động chiến tranh xâm lược cũng được cảnh báo trước một điều đã rõ ràng, nếu quân đội của họ không rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải chiến đấu trên hai mặt trận. Tờ thời báo “Times” vào tháng 3.1979 đã viết: “Cho đến khi quân đội Việt Nam vẫn giữ vững mặt trận, Liên Xô tiến hành cuộc chiến tranh trên mặt trận tuyên truyền. Nguy hiểm nằm ở chỗ, nếu nước láng giềng tiếp tục chiến tranh, tấn công Hà Nội và Hải Phòng, hoặc duy trì quân đội của mình trên vùng đất chiếm được. Liên Xô, để thể hiện sự kiên quyết và sức mạnh trước toàn thế giới, giữ lời cam kết với đồng minh, sẽ tham gia giải quyết xung đột.

Trong trường hợp này, những hành động quân sự nào Liên Xô sẽ thực hiện trong thời điểm ban đầu? Các chuyên gia quân sự cho rằng, có quá nhiều sự lựa chọn hiệu quả. Liên Xô có thể tiếp tục tăng cường và tăng cường hơn nữa viện trợ quân sự cho Việt Nam, tăng cường hơn nữa cố vấn và các chuyên gia quân sự hoặc trực tiếp tiến hành các hành động vũ trang. Viễn cảnh đáng lo ngại nhất là những hành động quân sự mà Liên Xô có thể triển khai trên chiều dài 4.500 km đường biên giới Xô - Trung, nơi có 44 sư đoàn sẵn sàng chiến đấu đang đóng quân. Quân đội Liên Xô có thể xuất hiện trên vùng đồng bằng tuyết phủ của Tân Cương, có khả năng tấn công vào Mãn Châu - trung tâm công nghiệp nặng của Trung Quốc. Như một mục tiêu xa hơn cho "ngày tận thế" theo cách gọi của các chuyên gia là mục tiêu các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc ở vùng hồ muối Lop Nor (mục tiêu này dường như thích hợp hơn cả trong sự đánh giá của quân đội Liên Xô)" .

Bản tuyên bố của Liên bang Xô Viết lập tức gắn liền cùng với hành động biểu dương sức mạnh. Các đơn vị tên lửa chiến thuật, các sư đoàn đang đóng quân dọc biên giới Xô – Trung đều được chuyển trạng thái sẵn sàng chiến đấu số 1. Tập đoàn quân có trong biên chế 250.000 quân nhân với sự yểm trợ của không quân chiến thuật bắt đầu tập trung triển khai lực lượng dọc các tuyến biên giới. Những ý đồ tác chiến thật sự nghiêm túc được ông Eugene, lúc đó là đại đội trưởng đại đội 8 Trung đoàn lính thủy đánh bộ số 390 miêu tả lại: Vào tháng 2-3.1979, đã triển khai và biên chế trung đoàn 390 Lính thủy đánh bộ thuộc biên chế sư đoàn 55 Lính thủy đánh bộ trong trạng thái có chiến tranh, gắn liền với sự kiện tấn công Việt Nam.

Sư đoàn đã thực hiện nhiệm vụ diễn tập chiến thuật trên biên giới với Trung Quốc trong đó có nội dung đổ bộ đường biển, tiến hành các cuộc diễn tập cấp tiểu đoàn có sử dụng đạn thật. Đối với Trung Quốc, điều đó hoàn toàn không bất ngờ, thực tế, người Trung Quốc không hề muốn thử nghiệm tính nghiêm túc của sự việc đang diễn ra và những ý đồ tác chiến của quân đội Liên Xô. Tránh đối đầu, Trung Quốc đã tự cho rằng, mục đích cuộc chiến tranh đã đạt được. Ngày 5.3.1979, Bắc Kinh tuyên bố rút quân hoàn toàn.

Rất nhiều ý kiến, khi đánh giá cuộc chiến tranh biên giới đã khẳng định, PLA trong lĩnh vực tác chiến trên thực tế chiến trường đã phơi bày những điểm yếu của mình, đồng thời cũng nói nhiều về chiến thắng của Trung Quốc trên mặt trận ngoại giao đối với Liên Xô. Không ít ý kiến chỉ trích dường như Liên Xô đã không giúp đỡ được đồng minh của mình, CCCP trên thực tế chỉ là “chú gấu trắng bằng giấy”, những suy diễn này chủ yếu dựa trên cơ sở thực tế, tại sao Liên Xô không tấn công vào biên giới của Trung Quốc, nhưng rõ ràng những suy luận đó thuần túy mang tính cực đoan.

Trên thực tế, một phần nhờ lập trường kiên quyết và cứng rắn của Liên Xô cùng với ý chí kiên cường, lòng dũng cảm và năng lực chiến đấu mạnh mẽ của quân đội và nhân dân Việt Nam đã chặn đứng âm mưu tiến hành cuộc xung đột biên giới kéo dài, buộc kẻ địch phải rút quân mà không đạt được những mục đích đề ra. Quân đội Việt Nam tiếp tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả, tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng một đất nước Campuchia dân chủ. Mục đích xóa bỏ những vùng đất thuộc Liên bang Xô Viết trên tuyến biên giới Trung – Xô và khẳng định vị thế của Trung Quốc ở châu Á không thành công. Ngoài ra, Việt Nam đã triển khai hàng loạt những hoạt động ngoại giao trên trường thế giới nhằm phá thế bao vây cô lập và đã giành được sự ủng hộ nhất định. Liên bang Xô Viết, từ cuộc phiên lưu chiến tranh biên giới của Trung Quốc đã mở rộng sự hiển diện quân sự của mình trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, xây dựng các căn cứ quân sự và tăng cường viện trợ cho các đồng minh của mình.

(Còn tiếp)

Kỳ sau: Hải quân Liên Xô và gọng kìm Biển Đông
Theo Trịnh Thái Bằng
Tiền phong/Lịch sử Hải quân Liên Xô


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ngày 17 tháng hai năm 1979 không quên!


Nguyễn Trung

Không dưới một lần cha ông chúng ta ngày xưa, ví dụ như thời Trần, thời Lê, thời Quang Trung… sau khi đánh tan kẻ xâm lược Trung Quốc, chẳng những – nói một cách hình ảnh – trải chiếu hoa mời họ về nước họ, mà còn chủ động cầu hòa. Kể lại lịch sử như vậy để nói rằng nước ta đủ trí tuệ và phẩm chất xử lý đúng đắn những gì đã xảy ra trong quan hệ hai nước, vừa giữ gìn được quốc thể, vừa không làm mất mặt kẻ xâm lược. Thực tế này đã trở thành một truyền thống, một văn hóa của nước ta.

Cũng chính thực tế này đủ chứng minh dân tộc ta đủ cao thượng, không bao giờ lấy thù hận đối đáp thù hận, càng không để bất kỳ ai kích động thù hận, mà trước sau không tiếc sức tái lập, gìn giữ mối quan hệ láng giềng tốt giữa Việt Nam – Trung Quốc. Tất cả chỉ để luôn luôn khẳng định: nhân dân ta sẵn sàng dành cho xâm lược dù từ đâu tới sự đánh trả bất khả kháng; đồng thời luôn luôn sẵn sàng bỏ qua thù hận đối với chuyện đã xảy ra để hướng vào cái tốt trong mối quan hệ với nhau, nhưng lịch sử là lịch và dứt khoát nhân dân ta không bao giờ phản bội lại lịch sử. 

Bởi vì danh dự của đất nước đòi hỏi phải xử sự như vậy; bảo vệ đất nước thì phải làm như vậy; cảnh báo và không khuyến khích những mưu đồ xấu đối với nước ta cũng phải làm như vậy. Hơn thế nữa, muốn rút ra từ lịch sử những bài học để có thể chủ động phòng tránh những biến cố không kiểm soát được, cũng như để chủ động tăng cường quan hệ hữu nghị giữa hai nước, lại càng phải rốt ráo làm như vậy.

Thái độ trên đây của nhân dân ta cũng là thái độ kiên định đối với cuộc chiến tranh xâm lược biên giới phía Bắc nước ta, được đặt tên gọi là cuộc chiến tranh ngày 17 tháng hai năm 1979. Rất tiếc trong những năm qua, vì những lý do không thể thanh minh được, từ phía đảng và nhà nước đã có nhiều cách xử sự làm tổn thương thái độ kiên định nói trên và lòng tự trọng của dân tộc. Những sai trái này chỉ làm yếu đất nước, khuyến khích sự phiêu lưu mới của Trung Quốc. Những sai trái này cần được chấm dứt.

Vào ngày 17 tháng hai năm 2014 này, xin mỗi gia đình hãy thắp lên bàn thờ nhà mình một nén hương, để đồng lòng tưởng nhớ đến hương hồn các chiến sỹ đã ngã xuống và các đồng bào đã bị giết hại trong cuộc chiến tranh này, đồng thời cũng là để gửi đi một thông điệp rõ ràng đến phía Trung Quốc: Nhân dân Việt Nam không tiếc nỗ lực vun đắp quan hệ hòa bình – hữu nghị - hợp tác giữa hai nước, nhưng không bao giờ phản lại lịch sử./. 
 

Hà Nội, ngày 14-02-2014
Nguồn: Viet-Studies 
 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cuối tuần thư giãn

Ảnh vui

Chỉ có ở Trung Quốc ?































Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

Những hình ảnh sống, chiến đấu hào hùng năm 1979


(Soha.vn) - Có mặt ở Việt Nam vào những ngày tháng lịch sử năm 1979, nhiếp ảnh gia Thomas Billhardt đã chụp lại những bức ảnh về không khí chiến đấu và sinh hoạt của người dân Việt Nam.
Hừng hực khí thế ra trận
Thomas Billhardt, sinh năm 1937, là một nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Đức. Tên tuổi của ông được biết tới nhiều nhất vào những năm 1960, đặc biệt là với những bức ảnh chụp tại Việt Nam và Palestine. Billhardt đã nhận được nhiều giải thưởng danh giá về nhiếp ảnh tại Đức.

Nhiếp ảnh gia Thomas Billhardt

Bắt đầu cộng tác với báo chí ngay sau khi tốt nghiệp ngành điện ảnh, Billhardt đã dần trở thành một cái tên được tin tưởng và kính trọng trong giới nhiếp ảnh gia tự do. Ảnh của ông xuất hiện trên nhiều tờ báo lớn, uy tín thế giới như Time, Spiegel, Stern.... cùng khắp các triển lãm ảnh thế giới, từ Moscow tới New York.

Billhardt coi mình là một nhiếp ảnh gia thiên về nghệ thuật hơn là chính trị, vì thế mà những bức ảnh của ông luôn chuyển tải được không khí của cuộc sống ở mỗi quốc gia, nơi ông đặt chân tới, theo một cách nhẹ nhàng mà sâu sắc, vô cùng xúc động.

Từ năm 1962 - 1985, Thomas Billhardt đã tới Việt Nam 12 lần, tận mắt chứng kiến sự tàn khốc của chiến tranh ở đây và có nhiều bức ảnh chân thực về cuộc sống của người dân miền Bắc Việt Nam những năm đầu kháng chiến chống Mỹ.

Dưới đây là một số bức ảnh màu của nhiếp ảnh gia người Đức này về Việt Nam sống và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979 đăng tải trên trang Flickr cá nhân của ông:

Những cô gái đôi mươi, duyên dáng và kiên cường, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc


"Đoàn quân vội đi, đi về biên giới, cũng từ biên giới về những bầy trẻ nhỏ..."





Hừng hực khí thế ra trận

Tập bắn súng ngay trên đường phố



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Khán giả Vesoul hưởng ứng phim "Sống trong sợ hãi"


Bộ phim "Sống trong sợ hãi" - Living in fear của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên (DR)
Bộ phim "Sống trong sợ hãi" - Living in fear của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên (DR)

Thanh Hà          
"Hoan hô", "tuyệt vời" hay "Tôi cảm nhận được tâm trạng sợ hãi" trong bộ phim của Bùi Thạc Chuyên. Khán giả liên hoan phim châu Á Vesoul đã đánh giá phim Sống trong sợ hãi như trên trong buổi ra mắt chiều ngày 12/02/2014. Thanh Hà tường trình từ liên hoan Vesoul.Một tin vui cho khán giả Vesoul là vào giờ chót đạo diễn Phan Đăng Di đã thu xếp được chương trình làm việc, rời từ Hà Nội, anh đang trên đường đến Vesoul để kịp buổi chiếu Bi đừng sợ vào lúc 6 giờ tối nay (13/02/2014)Trở lại với buổi ra mắt phim Việt Nam đầu tiên trong mùa festival năm nay, Sống trong sợ hãi đã nhận được nhiều ưu ái từ phía khán giả. Giới thiệu tác phẩm của mình, đạo diễn Bùi Thạc Chuyên nói trước : đây là tác phẩm đầu tay trong số ba bộ phim dài mà đạo diễn đã thực hiện cho tới nay và như mọi tác phẩm đầu tay, anh e rằng không tránh khỏi một số vụng về.
Nhưng khi bộ phim kết thúc, Bùi Thạc Chuyên đã nhận được những tiến hoan hô và những tràng pháo tay rất lớn. Khán giả ngạc nhiên về chất lượng âm thanh và hình ảnh rất tốt. Về nội dung thì giới yêu điện ảnh của liên hoan cho rằng, đây là một bộ phim rất cô đọng. Tác giả đã đưa người xem nhập vào thế giới của Tải, nhân vật chính. Họ hồi hộp không kém Tải, mỗi khi anh đi đào mìn.Khi bộ phim kết thúc, Bùi Thạc Chuyên chia sẻ anh đã dựa trên một câu chuyện có thực để dựng phim, và chủ đích của anh là chia sẻ cảm giác khi người ta bươc đi trên những mảnh đất khô cằn, theo dấu chân của người lính miền Việt Nam Cộng Hòa đã phải đánh cuộc mạng sống của mình để nuôi sống hai người vợ cùng hai đứa con sắp chào đời. Ở điểm này đạo diễn đã thành công.
Bùi Thạc Chuyên đã thực hiện bộ phim này từ một vùng đất miền Trung. Trường quay cách không xa miếng đất vẫn còn ngậm mìn của nhân vật lấy tên là Tải trong phim. Sống trong sợ hãi được quay vào một mùa hè nóng kỷ lục của năm 2005.Trong phần trao đổi với tác giả, có người thốt lên rằng : phim của Bùi Thạc Chuyên tạo cho người xem cảm giác hồi hộp từng phút, từng giây và thậm chí là cho đến những hình ảnh cuối cùng. Nhiều người khác thắc mắc về câu chuyện của một người đàn ông hai vợ mà rồi cả hai lại cùng đi vào viện bảo sinh cùng lúc với nhau.
Họ không chỉ có chung một tình yêu của một người đàn ông mà còn chia sẻ cả với nhau giây phút làm mẹ ! Bộ phim thứ nhì Bùi Thạc Chuyên đem đến Vesoul lần này là Chơi vơi rất được khán giả liên hoan chờ đợi.


Phần nhận xét hiển thị trên trang