Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2014

THĂM THẲM ĐƯỜNG VỀ ( Chương 17 )


17.
 
 

N
ắng.
Gió và đất và bụi ...
Những bánh xe bằng gỗ nom ám muội như bánh xe luân hồi. Con đường trải dài như vô cùng vô tận. Tiếng ve miên man níu giữ không gian, thời gian. Nỗi buồn đặc quánh có thể xắn ra được miếng bánh vô hình ấy khó lòng nuốt trôi. Nó tắc nghẹn ở cuống họng làm nước bọt đắng ngắt vị xà phòng. Mắt ri rỉ giọt nước muối, vội vàng bốc hơi trong cái nóng ngập trời, khô ran.
Đôi bò âm thầm đi, chân khua vào mặt đường đã bị cái nóng biến mầu từ nâu đỏ thành trắng bợt bạt. Những cặp chân của chúng tung lên để những đám bụi dày đặc phía sau.
Những chùm lá khô chết từ đầu mùa chưa chịu rơi xuống đất. Lâu lâu một chú chim đơn độc đỗ xuống, làm lá rơi rào rào. Những con sâu lông vội cuộn mình nom rất giống một bông hoa. Thứ hoa quái dị. Cảnh sắc đơn điệu, tàn úa đến nỗi Khải cố tìm một mảng, một đám lá xanh hai bên đường cũng thật khó khăn.
Mùa này ở phương Bắc là mùa rừng đang đua nhau trổ lá. Những cây Phách tán hình nắm xôi trổ hoa tím ngát thấp thoáng triền núi cao, dưới những chỏm đá lóa nắng phản chiếu ánh mặt trời. Những khe núi mát lành róc rách nước chảy, phía trên vạt chuối rừng có những đài hoa nhọn hoắt đỏ chói chĩa lên trời. Những đàn ong rộn ràng kiếm mật. Có cảm giác mật theo cánh ong vương vãi khắp một vùng. Vị mật ong gay gắt, ngọt nồng nàn đọng ngay đầu lưỡi. Còn trên đầu đang ríu rít đủ loại tiếng chim. Miền Bắc của anh là cái gì mát mẻ, ngọt ngào tương phản với quang cảnh khô khát nơi đây... Còn hơn một tháng nữa mới hết mùa khô. Mới đến những cơn mưa rào hớn hở, những cánh rừng xanh trở lại. Khí hậu mát mẻ, dễ chịu hơn. Nhưng lại là lúc những người làm nghề đốt than ở trong rừng e ngại. Rất dễ bị sập lò. Chất lượng than tồi. Và thường than bị rớt giá. Nguy cơ đứt bữa treo lơ lửng trên đầu. Để sống còn lại phải tìm cơ hội khác. Hiệu quả ít hơn, rủi ro lại nhiều hơn. Khải không biết tới đây mình không biết sẽ làm việc gì để sống. Anh đã quá quen cảnh sống trôi dạt nay đây mai đó. Vào những lúc khó khăn lại tặc lưỡi: " Cùng thì biến, biến thì thông " chẳng biết câu thành ngữ ấy có phải là chân lý hay không? Hay chỉ là cách tự trấn an của những kẻ có hoàn cảnh và số phận như mình.
Con đường đã đi vào lối khó đi. Nó được tạo ra bởi những kẻ làm than và những bước chân bò. Trên đầu đã rậm dày những tán lá cây của các loài cây có sức sống kỳ lạ nhờ vào cái rễ chủ đâm sâu vào lòng đất. Cành lá của nó vẫn xanh rờn rợn phủ lên màu khô xác xơ những trảng cỏ tranh.
Ba Tô luôn miệng hét to, " Dí " " Thá " đôi bò vừa đi vừa lựa đường. Bây giờ Khải mới hiểu tại sao cặp bánh xe bò lại cao to đến thế. Chu vi của nó có khi còn to hơn cả loại nong đại phơi thóc ngoài quê. Đường kính của nó đứng cao hơn mặt người. Trừ cây trục và vòng đai ngoài bằng sắt còn tất cả ổ và nan hoa đều bằng gỗ. Những nan hoa không bình thường dóng to như bắp cày.
Vươn về phía trước vừa to vừa dài như cần cối giã gạo hồi anh còn nhỏ. Chỉ có điều phía đầu để mắc vạy bò của nó thon nhỏ hơn, Còn bên phía gầm xe thì to, mập. Cần kéo xe ở giữa, bò đi hai bên. Phải là cặp bò cân xứng với nhau cả về sức vóc và thể hình mới cặp được với nhau cùng kéo một xe. Thường là người ta chọn nó đồng một màu lông, một kiểu sừng, cùng độ tuổi của đôi bò.
Đúng là kiểu xe địa hình. Bộ khung làm thùng và càng xe bằng gỗ chịu nắng mưa, bất chấp các loại mối mọt, ký sinh. Bền như sắt nguội. Đôi vòng bánh cực lớn, cực khoẻ không coi ổ gà, ổ voi là gì. Kiểu xe chỉ ngại dốc cao. Nhưng rừng miền đông là kiểu rừng mặt bằng thoai thoải. Là bình nguyên, chân của dãy Trường Sơn hùng vĩ. Những con đường ít trở ngại bởi khe, suối hay vách núi cao, hàn sâu vệt bánh xe bò chở nặng.
Chỉ có trở ngại duy nhất là cánh kiểm lâm. Họ đi từng tốp năm ba người. Dao dựa cầm tay, vai khoác súng R16. Những người gác rừng bất ngờ xuất hiện sau bụi lùm nào đó.
Đó là lý do suốt từ ngoài đường lộ người ta lặng ngắt, ngậm tăm không lên tiếng. Cố gắng giữ để đừng chạm trán với những người canh rừng.
Lệnh cấm phá rừng ban hành từ đã lâu. Nhưng với lực lượng bảo vệ là kiểm lâm lại quá mỏng. Người ta vẫn cưa cây, xẻ gỗ, hầm than đến gần hết thế kỷ hai mươi. Cho đến khi hầu hết những cánh rừng nguyên sinh trơ trụi. Cảnh sắc giống như thảo nguyên dùng làm bãi chăn thả như sau này ít năm. Cho đến khi tái trồng rừng trở lại. Nếu như cân đối thu và chi trong việc phá và trồng lại rừng, ngân sách quốc gia thâm thủng lớn đến nỗi người ta khó tin đó là những thống kê trung thực. Còn chưa tính đến mối hoạ di hại về môi sinh, môi trường những thế kỷ tiếp sau.
Nhưng khi đó Khải không ý thức được những tai hại ấy. Anh đã có mặt trong đội quân đông đảo tàn sát rừng chỉ vì miếng ăn, manh áo không mang một chút tư tưởng hay lý tưởng nào. Có những nhục nhã, ê chề tủi thân, đôi khi ý thức con người không kiểm soát được hành vi của chính mình.
Mấy chuyến trước, đoàn xe chờ than trong đêm cũng bị phát hiện. Tiếng súng nổ chói, đanh bất ngờ phía chiếc xe đi đầu. ánh đèn pin sáng loá lia dọc ngang. Những xe sau quất cho bò rẽ ngang, lao bừa vào rừng rậm. Không ai đuổi theo. Sợ một kẻ cùn đời nào đó nấp sau gốc cây bất ngờ lao ra. Đã từng có những vụ chết người không tìm ra tông tích. Chẳng ai dại gì xông vào chỗ chết để giữ thứ tài sản chung chung không phải của mình. Người ta quay ra lượm những tờ bạc từ những bàn tay đen nhẻm tro than:
- Chú hai, chú ba. Xin để cho vợ con tôi sống mà!
Những đồng bạc dính than đen, những lời than não ruột đã làm cho những kẻ thi hành công vụ động lòng. Không nỡ dồn những con người làm lũ vào chỗ cùng đường để rồi già néo đứt dây.
Còn một nỗi sợ hãi lớn hơn: ấy là những tốp người lạ mặt bất chợt gặp trong rừng. Chúng thường vận đồ đen, hành tung cũng hắc ám như thế.
- Tàn phỉ trên cao nguyên, tù trốn trại hoặc các băng cướp bị vỡ từ thành phố dồn về - Chúng lột hết những gì ăn được, mặc được, những thứ đồ dùng cá nhân. Sau đó chúng trói chân tay, bịt giẻ vào miệng, vứt vào một bụi cây nào đó. Nạn nhân có thể sống sót nhưng không thể báo cho công an bộ đội tới được. Khi may mắn gặp người, được giải cứu, chúng đã đi rất xa rồi. Vì thế những người nhát gan và đàn bà con gái ít khi vào sâu trong rừng. Nơi đó luôn ẩn chứa những tai hoạ bất ngờ.
Con đường dẫn tới những hầm than là con đường của những kẻ gan góc hoặc bần cùng. Thường họ ở luôn trong đó từ lúc dựng lán, đào hầm, cưa cây. Cây nhóm xong, hầm bén lửa, tham mục, nguội lò họ mới ra đường gọi xe vào chở than. Một đợt như vậy nhanh cũng mất mười ngày. Có khi kéo dài gấp đôi.
Những con đường xe hàng chục cây số, đi bộ gần hết cả ngày. Không một bóng dáng nhà dân, hiếm khi gặp người qua lại. Ăn hết một nắm cơm, uống cạn một tông nước mới tới nơi.
Nhưng rồi tất cả cũng quen. Nỗi sợ hãi cũng mờ nhạt dần. Người ta vẫn đi như thể được sinh ra là để đi và làm như thế. Như không có chuyện gì đáng kể!
Ba Tô lại ca bằng cái giọng khào khào:
" Chim khôn xuống đất ăn trùng.
Anh hùng thất thế lên rừng đốt than "
Đôi bò như biết đã gần tới đích bước chân mau hơn, tai vểnh cao, đầu cúi gằm xuống, căng hết búi cỏ dưới làn da phủ lông vàng mịn. Lúc đầu Khải rất thắc mắc vì sao họ lại vào sâu trong rừng đến thế. Để đỡ bị kiểm lâm phát hiện chỉ là một phần. Điều đó có thể khắc phục bằng cách mua chuộc họ. Lòng tham là tính cố hữu có sẵn của con người từ khi còn là lối sống bầy đàn hoang dã. Biết cách khơi gợi, dẫn dắt là con thú tham lam thò ra khỏi hang cho người ta dắt mũi.
Phải vào sâu trong rừng - Cái chính là vì nguồn nước, là nơi có nhiều cây to, cây suông thẳng dễ xếp lò.
Ai đã từng thăm quan " chuồng cọp " ngoài Côn Đảo hay hầm giam ngầm ở nhà tù Sơn La sẽ dễ hình dung lò hầm than kiểu dáng như thế nào. Nó được đào sâu trong lòng đất, có duy nhất một lỗ thông hơi nhỏ bằng cổ tay ở đỉnh nóc lò. Trần lò được gác những cái gi bằng sắt. Bên trên lợp tôn. Lớp trên cùng trét bằng đất bàn luyện nhuyễn với cỏ tranh. Lúc lò Hồng tâm, người ta bịt kín cái cửa duy nhất vừa để xếp củi ban đầu, vừa để nhóm lửa khi củi xếp xong. Vì vậy hầm than phải ở nơi gần nước. Phần nữa cũng là để tiện sinh hoạt. Mặc cho đầu nguồn nước có những thùng phi 200 lít, bên ngoài còn những dòng chữ tiếng Anh. Hồi đó chưa om sòm vì thứ chất độc màu da cam, người ta thản nhiên coi nó như một thùng nhiên liệu gì đó từ trên máy bay rớt xuống. Mưa nắng đã làm cho những lớp sắt tây han rỉ. Có chỗ chiếc thùng bị bục nhìn rõ cả thức bột vàng tươi bên trong. Màu vàng của nó không khác màu ve để sơn tường. Không biết những thùng bột quái quỷ ấy còn nằm lại đấy đến khi nào? Hay nó chờ thời gian, nắng mưa tan vào lòng đất?
Cuộc mưu sinh hối thúc chẳng ai còn hơi đâu mà để ý đến những chuyện xa xôi, hay quan tâm đến những điều khác xảy ra xung quanh mà không dính líu tới mình.
Lại rẽ. Đám rừng trước mặt san sát bằng lăng, dầu và một ít cây gỗ. Cây ở đây phải có hàng trăm năm tuổi. Bạnh cây to tạo thành từng cái hốc có thể trú nắng, trú mưa. Con đường vẫn đi sâu thêm vào rừng. Đám cây quá to những thợ hầm than cũng không ưa thích. Người ta chỉ chọn những cây đủ vòng tay ôm trở lại, cắt khúc chừng hơn mét dễ mang lên mang xuống khi xếp, khi dỡ lò. Các thứ cây gỗ tốt, rắn chắc, vân mịn như gỗ như dầu dân hầm than càng ưa. Nó là thứ than vừa nặng cân, mang vác không hư hao vụn vỡ, càng bán được tiền. Trông nó càng đen lánh, sờ không dính tay, cháy càng đượm.
Lúc đầu nhìn những cục than còn nguyên cả khúc như vừa cưa ở cây ra, Khải không hiểu người ta làm cách nào để khúc cây chuyển thành than còn nguyên vẹn? Có khúc còn nguyên cả lớp vỏ cây bên ngoài, như không hề hư hao, chỉ nhỏ sắt lại, nhẹ hơn khi nó còn tươi.
Đến khi tự tay mình nhóm lò, nuôi lửa, canh chừng khói lên anh mới thấy hết sự cầu kỳ, cẩn trọng, chăm chú của nghề hầm than. Phải đốt thế nào cho lò vừa đủ nhiệt, khói lên đều. Để những khúc cây được cưa bằng bặn cháy từ từ, cháy ngấm ngầm không ra thành tro. Phải khống chế được thời gian, phải cầm được lửa. Cháy nhanh quá có thể nổ sụp lò vì áp suất trong lòng hầm than quá lớn. Cháy chậm quá, nhiệt không đủ để than ngấm vào từng lõi khúc cây than sẽ sống. Rút cục thì tro bụi thì nhiều mà khúc than vừa xấu vừa được ít. Không biết nghề đốt than này có tự bao giờ? Nhưng Khải biết những người tìm ra các hầm than là những người rất kỳ cựu. Phải có sức khoẻ đã đành, còn phải có sự minh mẫn nhanh nhẹn. Chỉ cần ngửi mùi khói, nhìn ánh lửa lên ở chỗ tăm lò người có nghề biết ngay là hầm than có được lửa hay không? Ban đêm từ chỗ tăm lò phụt lên ngọn lửa xanh rất đẹp. Nó giống như ánh lửa hàn ôxitylen, hay ngọn lửa đốt bằng cồn. Cả một vùng ngập tràn một mùi thơm hăng hắc, cay nồng dễ gây nghiện. Đặc biệt là xung quanh không một con muỗi nào lai vãng. Những người đốt than nằm chen chúc nhau trong một cái chòi giống kiểu nhà sàn ngoài Bắc. Chỉ có điều sàn rất thấp chỉ cao hơn mặt đát vài gang tay. Kiểu sàn như thế chỉ cốt tránh khí nặng từ đất bốc lên nhiễm cảm. Mái chòi cũng chỉ lợp sơ sài, che sương. Ban đêm nhìn lên trời, qua lớp mái vẫn thấy những vì sao lấp lánh. Hình như bầu trời ở miền đông này rất gần mặt đất. Thấy sao trời to hơn, sáng đẹp hơn bất cứ nơi nào Khải đã từng qua...
Ba Tô cho bò dừng lại. Đã nhìn thấy mấy hầm than bên kia con suối. Có hầm không thấy khói lên, cửa lò đã mở. Đấy là hầm than đã nguội đang chờ bốc xếp. Có hầm đang nghi ngút khói vì mới nhóm. Những người đàn ông cởi trần, lưng mồ hôi loang loáng đang đi đi lại lại, vẻ đợi chờ. Thấy xe đến họ vội vã chạy lại tháo xe cho bò uống nước, ăn cỏ.
Ba Tô lấy từ trên xe cái bị đan bằng cói đi vào trong chòi. Khải gọi người mang bao ra đóng than. Đêm nay khi trời tối hẳn anh lại theo xe ra ngoài đường lộ đổ than cho vựa. Rồi lại trở vào, cưa cây, rồi ngủ, đi ra lại đi vào. Ngày nọ nối tiếp ngày kia của nghề đốt than cực nhọc.
Nếu biết trước được sau cả ngàn cây số vào tới đây để chọn một công việc nhàm chán, vô nghĩa như thế này chắc là anh đã không thể ra đi. Nhưng mọi việc đã lỡ. Anh cần phải sống phải tồn tại. Trước mắt Khải không còn cách chọn lựa nào.

ó
ó   ó

" Rất khó nhận ra bộ mặt con quỷ trong bộ dạng con người. Đó là quỷ nhập tràng thường trà trộn nhân gian. Một sơ hở nào đó của thượng đế chúng lẻn xuống đầu thai, mang hình hài và nét mặt con người. Nó nguy hiểm ở chỗ nó mang tính quỷ những lại không mang hình dáng quỷ. Thường khi nó lại khôn ngoan, láu lỉnh, khéo léo, hơn cả con người. Nó thù dai, độc địa không biết đâu mà nói ". Khải đã đọc trong một cuốn sách của tác giả nào đó qua bản dịch văn học nước ngoài. Khi ấy anh chỉ nghĩ ông ta là một nhà văn giàu óc tưởng tượng. Hoặc là con người có nhiều nỗi đắng cay mà sinh ra chua chát với cuộc đời. Quỷ cần chi phải mượn mặt người? Chúng cứ nhọn mũi, tai to, mình đầy lông lá, miệng như chậu máu, đầu mọc đầy sừng chẳng dễ doạ nạt người ta hơn sao? Cần chi phải mượn khuôn mặt giả dối, nhĩn nhặn, dễ coi của con người. Để cái ác giảm thiểu sự hung ác của nó?
Nhưng Khải đã lầm. Cái ác chân thật chỉ gây nên tội lỗi một cách trắng trợn mà người đời dễ nhận ra và dễ tránh.
Còn cái ác biết âm mưu, biết dối gạt, biết che dấu mới là đáng sợ. Ngay hôm gặp Huệ ở nhà Lân, y vẫn nói nói cười cười. Y lảng tránh không đả động gì đến chuyện riêng của hai người ngoài Bắc. Y làm như mọi việc xưa nay đều tốt đẹp và không có gì xảy ra giữa Khải và y. Như ngày nào cả hai là đôi bạn thân suốt thời gian đi học phổ thông. Thậm chí y còn bảo Khải mới vào có cần gì y sẵn sàng san sẻ. Cần mua sắm gì y sẽ cho Khải mượn tiền, khi nào có trả y sau. Trước mắt y cũng không tiêu gì đến, vài năm nữa y mới trở ra Bắc, y sẽ lấy tiền sau. Lúc đầu Khải tỏ ra dè dặt. Không lẽ y dã thay tính đổi nết, trở nên con người khác? Con người đã từng làm cho hạnh phúc gia đình anh tan nát. Khải vào vòng lao lý cũng một phần khởi từ tâm địa của y. Hay là biến cố nào đó trong cuộc đời đã biến hắn thành con người khác? Không có ai là người tốt suốt đời, cũng không ai là kẻ xấu chung thân. Tốt hay xấu phần nhiều do hoàn cảnh, do những mục đích sống tạo nên? Y nói với mọi người rằng: Con người y ưa sống tình cảm và rất hay cả nể. Y thích tự do, phóng khoáng nên ngành tư pháp gò bó, khắc nghiệt không hợp với mình. Y đã tự nguyện rời bỏ nó vào đây tìm cơ hội đổi đời với nguyện vọng có ý nghĩa hơn: Một cuộc sống tự do, thoải mái. Không phải đau đầu buốt óc trong cuộc bon chen giành dựt ở chốn quan trường. Được sống như lòng mình muốn. Không bị kẻ khác giật dây bóp méo tính cách và tình cảm. Nếu quả điều hắn nói là sự thật thì hắn là một tên đáng nể trong cuộc đời này. Bởi làm được những điều ấy không phải là chuyện dễ dàng. Trước lúc Khổng Minh Không trở ra thành phố, Huệ còn nói:
- Ông cứ yên tâm đi. Ông Khải về đây với chúng tôi là về giữa lòng bè bạn, ông không phải lo. Khi nào có điều kiện rảnh ông lên chơi.
Lúc đó Khải rất cảm động. Con người anh dễ tin, dễ yêu và không thích thù hận. Dù có mâu thuẫn, khúc mắc với ai điều gì, anh dễ dàng bỏ qua. Coi như đó là chấp nhận tự nhiên, bản tính của con người. đó là điểm mạnh và cũng là yếu điểm của Khải. Nó giúp anh sống thanh thản, bao dung với xung quanh. Nhưng nó cũng làm anh mất đề phòng, cảnh giác. Như khi người ta đi trên đường gặp phải chỗ lầy chỗ thụt cần phải tránh cho xa. Kẻ ác gây hoạ một lần, cần phải để lâu trong gan trong ruột. Nếu cần sống để bụng, chết mang theo. Khải lại quên điều đó.
Khi đã bỏ chỗ Lân đi, Khải mới thấy ân hận. Đáng lẽ thấy Huệ ở đấy anh phải tìm đi nơi khác. Chính Lân đã chỉ đường mà Khải không muốn. Anh ta nói:
- Tớ đang cần người, cậu ở đây thì hay quá. Nếu cảm thấy không hợp, tớ sẽ đưa xuống chỗ ông Cơ người nhà của cậu. Chỉ có điều chỗ ông ấy ở là Doanh trại quân đội, sinh hoạt không được tự do thoải mái như ở đây!
Ông Cơ là con bác, Khải con chú. Đó là tình ruột thịt. Chỉ có điều lâu ngày anh em không được gặp nhau. Không hiểu cuộc sống của ông ấy hiện tại thế nào. Nghe nói ông ấy làm khá to, đưa cả vợ con vừa mới ở Bắc vào. Ông đi bộ đội từ hồi Khải còn học phổ thông. Sau ngày giải phóng miền nam ông Cơ có về Bắc mấy lần. Nhưng khi đó gia đình Khải đã rời đi nơi khác còn anh vẫn từ nơi tăm tối chưa về. Không biết sau khi về nhà nghe hết mọi chuyện, ông ấy có cảm thông với mình không? Nếu mình công thành danh toại gặp lại anh em sẽ thắm thiết là lẽ đương nhiên. Thất cơ lỡ vận như bây giờ gặp nhau chắc gì đã vui vẻ? Sự đời thường người ta phù thịnh, mấy ai phù suy? Lẽ sống ấy nhiều khi xảy ra trong tình ruột thịt. Nếu anh có phận, có danh, có địa vị, tiền tài mọi người đều muốn gần, quý trọng anh hơn là anh chẳng có gì. Mà Khải bây giờ ngoài hai bàn tay trắng, anh chỉ còn gánh nặng của quá khứ sau lưng. Không phải ai cũng dễ dàng thông cảm và giúp đỡ mình. " Ta thà ăn mày thiên hạ, còn hơn ăn mày anh em ". Một người không có bao nhiêu lòng tự trọng như lão Chỉ còn biết nói như vậy. Huống hồ Khải đã từng thấm thía niềm cay đắng, bẽ bàng giữa những người ruột thịt. Những người đáng lẽ ra phải đưa tay đỡ anh dậy những khi vấp ngã, vì đó là tình ruột thịt. Nhưng họ đã quay mặt đi, xử sự không bằng người dưng. Thậm chí thấy " Trâu ốm đã vội cầm dao ".
Những ý nghĩ ấy thoáng qua rất nhanh trong đầu, nhưng Khải phải giữ kín trong lòng. Đấy là chỗ đau anh không muốn để ai đụng tới, có hay gì vạch áo cho người xem lưng? Anh chỉ nói:
- Được anh giúp vậy là hay lắm rồi. ở đâu cũng phải làm, phải ăn. Dù là tình ruột thịt cũng không nên trở thành gánh nặng cho ông ấy. Hơn nữa, kỷ luật quân đội cũng có cái khó. Vợ con ông ấy đã đành thêm tôi nữa chắc ở đơn vị người ta cũng ngại. Hôm nào có điều kiện rảnh rỗi, xin anh cho nghỉ mấy ngày tới thăm anh ấy thôi.
Lân cởi mở:
- Vậy thì được, cậu ở lại đây. Thời gian này đang gấp rút chuẩn bị nơi ăn, chốn ở anh em. Thời gian nữa vãn vãn công việc mình sẽ bố trí hai anh em cùng đi. Mình trước cũng là quân của ông ấy mà, cũng lâu không được gặp.
Vùng đất mới này, Khải để ý thấy hình như có một quy định chung bất thành vănấy là người ta không tò mò đến đời tư của nhau. Không ai hỏi anh vì sao lại đến đây? Có mục đích gì? Người tứ xứ quần cư. Đủ cả Trung, Nam, Bắc nhưng không ai tò mò thóc mách. Có lẽ là do số phận chung, mà mọi người gặp gỡ. Không ai muốn phạm vào chỗ đau của ngời khác, mà không ít thì nhiều, ai cũng mang nó sau cái vẻ tự nhiên, tự tại của mình. Ngay cả đến Huệ, không lần nào y đả động đến đời tư của Khải. Y làm như không hề biết gì, hoặc là biết tất cả mọi biến cố cuộc đời anh không cần dò hỏi thêm gì nữa.
Khải cũng không hỏi vì sao y có mặt ở đất này. Anh không tin là y chán chường công danh địa vị thích tự do phóng túng mà dứt áo ra đi. Một kể hiếu thắng, hiếu danh từ hồi con ngồi trên ghế nhà trướng không dễ dàng từ bỏ một chỗ ngồi có thứ bậc cao trong xã hội hiện thời.
Mãi về sau khi trở ra miền Bắc Khải mới biết sự thật. Người ta đã châm chước và bỏ qua cho y nên Huệ mới thoát khỏi ra toà. Bản tính nhăng nhít, quen nết của y đã cướp đi cuộc đời một cô gái trẻ. Cô đang học trường y ở ngoại thành Hà Nội. Cô gái không hề biết y đã có vợ, có con. Quan hệ đôi bên kéo dài hơn một năm trời cho đến khi cô có bầu với Huệ. Cô giục y làm đám cưới vì cha mẹ cô rất nghiêm khắc với con, không muốn hai người kéo dài tình trạng không chính thức. Y dối quanh. Đến mức gia đình cô phải lần tìm ra sự thật. Không chịu nổi sự giả dối y mang lại cho mình và sự chì chiết của gia đình, cô đã kết thúc cuộc đời mình bằng hai chục viên thuốc ngủ. Gia đình cô đâm đơn kiện y. Nếu không có ông chú ruột y đang làm trên tỉnh có lẽ y đã phải hầu toà. Huệ không mang án phạt nhưng y cũng bị trừng phạt xứng đáng. Một kẻ từng đi quyến rũ vợ người lại bị chính vợ mình ruồng bỏ. Vợ y làm đơn ra toà và y buộc phải chấp nhận. Giờ đây số phận y cũng không hơn gì Khải. Dù y chưa hề phải ăn cơn cân, mang áo số ngày nào. Bộ mặt y cũng không còn vẻ dương dương tự đắc, tự thị đến kinh thường mọi sự, mọi người như ngày nào.
Khải chỉ nghĩ sự thay đổi đó là do từng trải theo thời gian mà có. Như một quy luật của sự đổi thay: " Con người sống là quá trình tự hoàn thiện mình ". Anh không hề biết những điều vừa kể. Còn y, thì không hề hé răng.
Hai người sống chung nửa năm trời như vậy. Như những người quen tự lâu, lại như chẳng biết gì về nhau cả.
Cho đến hôm Lân đưa từ thành phố về một cô gái giúp việc nhà. Cô gái có cái tên chẳng con gái chút nào: Soái! Một cái tên gây gổ, rất đàn ông, trái ngược với bề ngoài đằm thắm của cô. Cô nói cô đã lập gia đình. Người chồng là một gã đàn ông vừa lỗ mãng vừa vũ phu. Gã đánh vợ như đánh kẻ thù chỉ vì cô không kiểm đủ tiền cho gã cờ bạc, rượu chè. Ghen tuông như gã chỉ có một trên đời. Ra đường gặp người quen chỉ chào hỏi nhau cũng là cái cớ để gã bẻ hành bẻ tỏi. Đánh đập cô thâm tín mặt mày. Thở than với bạn gái cho vơi tâm sự hắn kết cho cái tội bêu riếu chồng. Hắn lại đánh cho thừa sống thiếu chết. Cô làm đơn ra toà, nhưng toà kéo dài thời gian hoà giải. Gia đình cô lại là gia đình đầu óc thủ cựu: Con gái lấy chồng sướng khổ sống chết vẫn phải theo chồng, như thuyền theo lái. Không còn nơi nào trông cậy, nửa đêm cô tìm đường bỏ nhà ra đi. Thân gái đường xa, cô đã gặp bao nỗi đau lòng...
Khổ một nỗi nhìn bề ngoài không ai nghĩ cô là người từng trải qua cảnh khổ. Vẻ xinh xắn, tươi tắn của cô như thể có được từ cuộc sống đủ đầy, mãn nguyện, từng được cưng chiều. Đôi mắt luôn lấp lánh niềm vui, cặp môi mọng như thể sinh ra để đón chờ hạnh phúc.
Bà Long là người cả nghĩ và hay lo xa, Bà không tin vào lời Soái kể. Bà nói riêng với con trai:
- Tôi nghe chuyện nó cứ thế nào ấy. Có cái gì không thật, uẩn khúc ở bên trong. Anh nên cẩn thận, kẻo rồi tan của nát nhà.
Lân vội nói:
- Mẹ cứ lo xa quá làm gì. Tốt xấu mặc người ta, con không cần biết. Miễn là nó làm được việc. Con trả công thế thôi. Có gì mà mẹ phải ngại.
Miệng nói thế những trong bụng Lân thấy mẹ có lý. Về nhan sắc Lân thấy cô ta ăn đứt vợ mình. Cả về khuôn mặt, làn da lẫn dáng người. Tính cách cũng sắc xảo có nét mặn mà. Nếu coi trọng hình thức bề ngoài Soái nổi bật bên vợ anh. Cho dù phân biệt chủ, tớ hai người đàn bà khó sống chung dưới một mái nhà. Dễ gây ra sự hiểu lầm tai hại không đáng có. Mà lúc này đây mối quan tâm hàng đầu của Lân là củng cố chỗ đứng vừa được cất nhắc. Anh còn nhằm những đích cao hơn. Khi người ta có chỗ đứng cao hơn, cũng có nghĩa là quyền lợi nhiều hơn. Và khi có lợi có quyền muốn gì cũng được? Soái, đâu phải vì tình ý gì mà anh đưa về đây? Chẳng qua nông trường vừa thành lập đang thiếu người. Cũng là cách giúp người trong lúc khó khăn. Dù cô xinh đẹp thế nào thì cũng là: " Nứa trôi sông không dập cũng gãy ". Anh chẳng quan tâm. Anh định để Soái giúp việc nhà để vợ anh rảnh tay lo việc cơ quan. Thấy mẹ nhắc thế, anh liền chuyển cô về tổ vườn ươm. Công việc ấy có lẽ cũng hợp với tác phong mau mắn, lanh lẹ của cô.
Hai dãy nhà lợp tôn, cột gỗ nhiều gian chạy song song nhau. ở giữa là khoảng sâu, hẹp. Một dãy dành cho những người có gia đình, vợ chồng con cái ở một dãy dành cho hộ độc thân. Mỗi phòng hai chục mét vuông được ngăn cách bởi cót, nẹp bằng khung gỗ. Phía cuối dãy nhà là khu giếng nước, nhà tắm công cộng. Khuân viên có nét hao hao giống các khu nhà công trường ngoài Bắc. Lại rất giống khu gia binh thời Mỹ ngụy. Nó mang tính cách tạm bợ nhiều hơn là dùng cho sinh hoạt, sinh sống lâu dài. Cột gỗ mới dựng mà chi chít lỗ mọt. Từ trên mái nhà mạt gỗ từ những thanh xà ngang dọc rơi xuống lả tả. Dãy dành cho các hộ gia đình gần như đã kín các phòng. Những cặp vợ chồng mang theo đủ nam phụ, lão ấu từ Bắc vào. Những gia đình người Huế, miền tây Nam Bộ. Suốt ngày ồn ã đủ giọng, thanh điệu của cả ba miền. Thật hiến nơi nào đa thanh, đa sắc, nhiều cảnh ngộ của mọi hạng người như ở nơi đây. Nhưng để ý kỹ thấy họ có một nét chung rất giống nhau. Đó là vẻ nghèo khó, nét vất vả hằn trên khuôn mặt.
Nông trường được cấp một máy phát điện nhưng thiếu thợ vận hành. Máy móc từ thời ngụy để lại thiếu phụ tùng nên chạy rất tậm tịt. Chỉ khi nào nông trường có hội họp mới có điện thắp sáng chừng đôi ba tiếng. Sinh hoạt về đêm chủ yếu vẫn thắp đèn dầu. Chỉ có văn phòng làm việc mới thắp đèn măng sông.
Khoảng trống giữa sân người ta cũng gắn loa truyền thanh trên một cây cột cao vượt mái nhà. Đài truyền thanh của nông trường vẫn chạy ắc quy. Tiếng loa ọ ẹ, chập chờn như người ngạt mũi. Lại thêm âm thanh hỗn tạp từ các khu tập thể nên nghe đài mà chẳng rõ người ta nói những gì. Nó mang tính hình thức cho đủ bộ lệ nhiều hơn là để phục vụ thiết thực. Phải một thời gian khá lâu mới quen được không khí ồn ào hỗn tạp ở đây. Mặc dù anh cũng đã từng sống trong những hoàn cảnh chật chội và thiếu thốn hơn nhiều. Khung cảnh tự nhiên gây cho người ta cảm giác bồn chồn, bất an. Không để tâm được để suy nghĩ điều gì chín chắn. Vừa hời hợt, chấp chới pha chút gì đó như là hoang mang, sơ sài.
Những hôm có xe cá lạnh từ thành phố chở lên, hay nông trường thịt con trâu hoặc con bò thật đúng như chợ vỡ. Người lớn trẻ con mang thùng mang chậu gõ khua inh ỏi. Như kiểu xua đuổi gấu ăn mặt trời ngày nhật thực. Rượu say có kẻ leo lên mái nhà đạp tôn ầm ĩ tới tận khuya. Anh tự hỏi không biết đây có còn biểu hiện sự sống của con người nữa không? Có cái gì đó giống như thác loạn, bất cần đời, bất cần đến ngày mai.
Phòng có bốn giường cá nhân, nhưng mới chỉ có ba. Ngoài Khải ra là Huệ và một anh chàng nữa người miền Tây. Anh ta nói quê đâu ở Cần Thơ hay An Giang gì đấy nhưng lên thành phố từ hồi nhỏ kiếm sống theo cha mẹ. Ba má anh mất đã lâu. Anh ta vất vưởng bờ sông, cuối phố cho đến ngày người ta gom đưa về đây. Hầu như anh suốt ngày say sỉn, khi khóc, khi cười, lúc lại ca cải lương. Người lúc nào cũng rũ ra như tàu lá héo, mắt đỏ ngầu, miệng rớt rãi.
Hụê thì đi suốt ngày. Đến khuya mới về. Phòng bên cạnh là hai cô gái. Một cô người An Giang mới xin vào làm ở cùng với Soái. Họ cùng làm ở vườn ươm.
Anh chàng người miền Tây lúc nào cũng cởi trần, áo vắt vai. Anh ta không quan tâm đến những người đàn bà xung quanh. Lúc nào cũng có câu cửa mịêng: " Đàn bà là giống trằn tinh " Thường quạu cọ với hai cô gái gần phòng mỗi khi giáp mặt. Các cô cũng sợ gã và lảng xa như gã có bệnh cùi. Chỉ khi nào gã mò ra quán nhậu các cô mới dám bước vào phòng ở của Khải. Mỗi khi tới, hai cô cùng rủ nhau, không tới một mình. Những câu chuyện xoay quanh công việc, sinh hoạt ở nông trường. Chuỵên làng xóm quê hương. Họ đều là những kẻ xa nhà thiếu thốn tình cảm muốn có người sẻ chia tâm sự. Hoàn toàn không mang ngụ ý gì.
Vậy mà Huệ khó chịu ra mặt. Y tìm cách tiếp cận, săn đón luôn bị các cô tránh mặt. Trong khi đó họ lại có cảm tình với Khải. Điều này làm y tức tối. Y không biết rằng tâm trạng Khải lúc này anh không để ý tới chuỵên đó. Anh đã quá nhiều chua chát trong chuyện tình duyên. Lúc này đây anh chưa sẵn sàng đón nhận tình cảm mới.
Khải đủ tỉnh táo để biết rằng: Cái thời chỉ cần hai đứa yêu nhau, một túp lều tranh hai trái tim vàng đã qua lâu rồi. Có chăng nó chỉ còn trong ý nghĩ lãng mạn, viển vông của các nhà thơ, các nhạc sĩ. Tình yêu thời nay cũng cần có đủ phương tiện. Giống như máy bay cần có đường băng, tên lửa cần bệ phóng. Nếu không nó sẽ chẳng đi tới đâu. óc thực dụng là một thực tế đáng buồn đang ngự trị trái tim con người sau cả thời kỳ nhiều ngộ nhận và ẫu trĩ.
Hàng ngày phải sống chung với một kẻ mà mình không ưa quả là một cực hình. Không chỉ là nỗi khổ đồng sàng di mộng. Con người y luôn tiết ra thứ chất chẳng ra người làm Khải thấy lợm mửa. Một đêm đang say giấc anh chợt thức vì phòng bên có tiếng kêu thất thanh. Khải lần tìm cây đèn pin soi quanh phòng mình. Giường bên đối diện với anh không thấy Huệ. Nhìn ra thấy cửa mở tung. Vừa lúc Huệ từ bên ngoài chạy vào. Trên người y mặc độc chiếu quần đùi, mồ hôi túa ra như tắm. Bên phòng Soái đã thắp đèn sáng, người từ các phòng bên đổ xô lại. Hai cô gái kể cho mọi người nghe có kẻ đột nhập vào gian phòng. Bên ngoài cửa cái khoá giây đã bị kẻ nào đó dùng kìm cắt đứt. Có người nói có trộm lẻn vào ăn cắp đồ. Cũng có người thì thào vào tai nhau: " Không phải ". Khải biết ngay đã xảy ra chuyện gì. Anh nói đủ cho Huệ nghe:
- Tao không ngờ mày lại đổ đốn ra như thế. Không còn cách nào nữa hay sao mà giở trò khốn nạn thế?
Y không nói gì, làm như không nghe thấy chui vào màn ngủ. Nhưng từ sau buối ấy, Khải thấy y cứ lấm lét nhìn trộm mình như chó ăn vụng bột. Không biết y còn âm mưu gì nữa?

ó
ó   ó

Khu vực được giao của nông trường hiện nay gồm cả diện tích một đơn vị bộ đội bàn giao lại. Đó là những vạt cao su mới trồng mọc đầy cỏ mỹ, cỏ tranh mùa này khô xác rất dễ bén lửa. Khải đang cùng một tốp công nhân dựng chòi phòng hoả. Anh đang ở trên cao chót vót, có tiếng người gọi vọng lên. Nghe rõ tên mình, Khải lần bậc thang tụt xuống.
Sáu Tơ nói:
- Giám đốc có lệnh mời anh về ngay nông trường bộ!
Khải hỏi:
- Có việc chi vậy anh?
- Tôi đâu có biết, thấy ông Lân nói vậy. Anh về luôn đi. Sẵn xe tôi chở luôn.
Linh tính báo cho Khải có chuyện chẳng lành. Nhưng anh vẫn ngồi sau xe Hon Đa theo Sáu Tơ về nông trường. Trận cuồng phong như đoàn ngựa hoang cuốn trên đường. Bụi đỏ, lá khô cuộn lên từng đám không mở được mắt. Hình như Sáu Tơ nói một câu gì đó, lời nói chìm trong gió Khải không nghe tiếng. Anh cũng không hỏi lại.
Xe chạy đến cổng nông trường bộ Khải nhìn thấy có hai chiếc xe tải thùng rất cao tre kín bằng lưới B40. Trên xe lố nhố người nghé mắt nhìn ra đường. Phía sau một chiếc U oát có mấy người mặc cảnh phục mang súng AK. Bên vệ đường một người đeo súng ngắn đang gọi máy bộ đàm đi đâu đó.
Cảnh tượng này Khải đã thấy một đôi lần từ ngày anh về đây. Lâu lâu có đợt công an, bộ đội, kiểm lâm lập đội kiểm soát liên ngành đi truy quét dọc tuyến quốc lộ này. Những người đứng trên thùng xe che lưới kia là những kẻ vi phạm hoặc tình nghi một việc phạm pháp nào đó đang chờ đưa về huyện công an. Không riêng gì ở địa phương này. Những biện pháp an ninh như vậy kéo dài trong cả nước nhiều năm. Trước tác động của chủ trương " Giá, lương, tiền" với cuộc sống còn nhiều khó khăn. Một bất cập sau ngày Bắc Nam thống nhất, chưa chuyển sang thời kỳ đổi mới vào các năm sau đó.
Nó có mặt tích cực trong việc củng cố chính quyền. Trấn áp phản cách mạng, ngăn ngừa tội ác hình sự. Nhưng cũng làm tổn thương không ít người lương thiện nếu họ oan sai.
Khải vừa vào đến phòng thường trực một trung sỹ hỏi anh ngay:
- Anh có phải là Nguyễn Đình Khải ?
- Vâng đúng tôi.
- Yêu cầu anh lên xe về huyện chúng tôi có chuyện muốn gặp.
Khải sửng sốt:
- Thưa tôi bị bắt về tội gì?
Người kia cau mặt:
- Lên đó anh sẽ rõ.
- Tôi đề nghị các ông cho tôi gặp giám đốc, sau đó tôi sẽ theo các ông.
Người cảnh sát xua tay:
Việc này không liên quan gì đến nông trường. Chúng tôi đã làm việc với ban Giám đốc rồi, anh có gặp cũng thế thôi. Yêu cầu anh chấp hành nghiêm chỉnh.
Khải không biết nói sao nữa, mặc dù anh cũng chưa hiểu đã xảy ra chuyện gì, đành theo họ ra xe. Đám đông công nhân đang tò mò đứng xem Khải thoáng thấy Huệ đứng trong số đó. Hình như y nhếc mép cười. Bắt gặp cái nhìn nảy lửa của Khải y vội lùi về phía sau. Trực giác như mách bảo Khải trong việc này có bàn tay của y. Một kẻ luôn lấy âm mưu làm lẽ sống như y sẽ không từ thủ đoạn nào để gạt bỏ trở ngại trên đường sống của mình. Nhất là sau việc đáng xấu hổ của y đêm vừa rồi. Mình với nó không thù không oán, không cạnh tranh quyền lợi, cớ sao nó cứ lằng nhằng bám theo ám hại mình? Hay là kiếp trước mình có điều gì không phải hoặc mắc nợ nó? Không hẳn là nỗi oán hận, một nỗi buồn tê dại làm Khải điếng người. Anh không nhớ mình đã trèo lên xe bằng cách nào, dọc đường xe đỗ bao nhiêu lần để gom củi của dân bày bán hai bên đường Khải cũng không để ý.
Anh làm như một cái máy cùng hơn chục con người bốc củi lên xe, quên cả việc từ sớm tới giờ chưa ăn thứ gì vào bụng. Bình tĩnh lại Khải tự trấn an: Có lẽ kiếp nạn trên đường đời của mình chưa hết. Con đường ảm đạm tăm tối vẫn còn. Dù sao mình cũng phải vững lòng tin ở bản thân đã không làm điều gì tồi tệ. Sớm muộn gì tai hoạ có đến đâu rồi cũng sẽ qua.
Khải gặp Ba Tô trong đợt cùng bị gom về Huyện. Sau này khi được tha về Ba Tô rủ anh cùng đi hầm than.
Một người nữa Khải không ngờ gặp lại: Khúc Khắc Điều. Con người có cái tên không giống ai, rất khó gọi đủ cả tên họ. Anh ta đã thay tên đổi họ cùng làm ở nông trường. Khải không biết vì Điều đang ở đội khai thác gỗ mãi rừng Mã Đà. ở huyện công an người ta giam chung với anh ta một buồng. Ngày hôm sau Điều được đưa về thành phố để di lý ra Bắc. Nhưng đêm đó Điều đã kể với Khải vì sao chạy trốn vào đến đây mà anh ta không đi xa hơn nữa. Thực ra Điều đã sang đến Thái rồi lại quay về. Anh ta vẫn chưa biết hy vọng một ngày nào đó được trở lại Xuân quang với vợ, với con. Theo như Điều nói vụ trọng án của anh ta có những tình tiết có thể được xem xét giảm nhẹ, nếu như Toà án làm việc công tâm. Hy vọng quả là ngọn nguồn của tình yêu cuộc sống. Trước lúc Điều còn nói với Khải mong ngày gặp lại.
Một tuần sau Khải cũng được ra về. Viên đại uý trao cho anh tờ giấy tha và nói:
- Anh bị giữ vì có đơn tố cáo vi phạm pháp luật ở ngoài Bắc, qua điều tra chúng tôi xét không cần giữ lại, anh có thể về nông trường tiếp tục công việc.
Khải đã mừng đến ứa nước mắt. Anh nói lời cảm ơn rồi ra đường đón xe. Mất ngày ở đây Khải đã nghĩ rất nhiều. Sự việc vừa qua tuy không gây tác hại gì nhiều, nhưng cũng làm anh khó xử nếu trở lại nông trường. Tốt nhất mình kiếm một việc gì đó có tiền trở ra Bắc. Người ta không thể lẩn tránh số phận. Không có cách nào khác là đối diện với thử thách, vượt qua khó khăn để sống làm người. Những ngày vừa qua đã dạy cho anh bài học đó. Cũng may là pháp luật giờ đây hoàn thiện hơn, cuộc sống của Khải không biết sẽ ra sao? Những thằng bán tơ thời nào cũng có. Nhưng nó mang bộ mặt khác, không lộ mặt như thời cụ Nguyễn Du.
Khải cố gắng xua đuổi những ý nghĩ nặng nề trong đầu. Anh đang phải đối mặt với thử thách trước mắt là đi đâu? Về đâu?
Ba Tô đã ngoắc được xe ngoài lộ. Ông ta đang năn nỉ người ta kế chờ thêm chút nữa đợi Khải. Ngay trưa hôm đó hai người về tới chợ Tân Bình. Nơi Ba Tô có quán hủ Tiếu cùng vợ con ở đó. Ngẫu nhiên Khải trở thành anh chàng đốt than. Chân tay mặt mũi anh luôn đen nhẻm từ dạo đó.




Phần nhận xét hiển thị trên trang

ĐÀN SẺ RI BAY NGANG RỪNG


Tác giả : Võ Thị Xuân Hà
(Ảnh trình diễn truyện ngắn Đàn sẻ ri bay ngang rừng của 
nhà văn Võ Thị Xuân Hà, tại L'espace, ngày 29/4/2009)
Tôi về làm dâu nhà Thản được một tuần thì xảy mâu thuẫn. Mặt Thản tai tái, cặp môi bợn trông đến ghét. Khi hôn thì dữ dội thế, khi đáng phải hoạt thì lại lắp bắp.
- Nó láo thì phải dạy.
Ông bố chồng tôi gầm lên như tên đồ tể. Tôi ngồi đung đưa cặp đùi trần trong buồng, bĩu môi thách thức.

- Thôi, bố mẹ bỏ quá - Tiếng Thản thảm hại.

Bà mẹ đần độn của Thản cắp rổ rau vào bếp, vừa đi vừa lảu nhảu:

- Nó cãi lần nữa thì tao trả. Con đầu dâu trưởng thế, trông cậy vào ai?

Tôi muốn nhảy xổ ra, xỉa xói vào cái chức dâu trưởng mà khi yêu tôi không thể lựa chọn.Tuy thế, đêm chúng tôi vẫn quấn lấy nhau như cặp rắn. Căn buồng năm mét vuông đậm đặc mùi mồ hôi nồng nồng của Thản, hương tóc tôi... hơi thở của hai kẻ say tình, và thỉnh thoảng, một cơn gió nhẹ mang theo hương đêm ngai ngái của đầm sen, dòng sông lân tinh, cá, tôm và thành phố ngủ... vào căn buồng chật chội. Sau cơn say, chúng tôi rời nhau nằm rã rượi bên mép giường, ngó mông lung những vì sao mờ tỏ vô tình lọt qua ô cửa sổ.

- Em đừng cãi mẹ, mẹ già rồi.

Thản nhắc nhở trong bóng tối. Tôi trần truồng đếm sao trời. Tiếng Thản rì rầm như lời ru dỗ tôi vào giấc ngủ.

" Mùa bão năm nào anh cũng phải đòn vì để mất vài con vịt trong đàn. Tháng mưa Ngâu, lũ vịt chổng mông lên trời chúc mặt xuống nước đớp lân tinh, trứng tuột ra rơi xuống đáy sông, anh phải lặn xuống mò, có khi được cả rổ. Môi thâm tím, quần đùi có khi bở bục thòi ra hai quả cà...".

Tôi phì cười, tỉnh ngủ. Thản đẹp, dáng đậm, da săn chắc, vồng ngực nở rộng. Mái tóc xám nâu phủ trên vầng trán thông minh. Thản có thể quơ một lúc hàng chục thiếu nữ. Nhưng Thản lại say tôi, lúc nào cũng sợ tôi bỏ đi theo người khác.Thản ngu mới tưởng thế, chỉ vì Thản quá yêu nên không nhận ra tôi cũng ghen tàn bạo. Vì thế mà tôi đâm thù ghét nhà chồng.

Chỉ có một người tôi không hề thù ghét, thậm chí luôn ước ao giá anh có mặt, chắc tôi cũng đỡ bị đòn nhà chồng, vì sẽ không phải làm dâu trưởng. Anh ngồi trên cao, mắt cười u buồn ngó mông lung ra cửa, ra vườn. Ngoài vườn chỉ có mấy cây na, mấy cây bưởi. Tôi bươi đất lên bằng những đầu ngón tay bé nhỏ, đất cào xước tay tôi, rướm máu. Dưới lòng đất lúc nhúc những giun. Tôi hoảng sợ bỏ chạy vào nhà. Anh vẫn cười cười ngó mông lung ra cửa. Tôi gọi Thản, chỉ ra vườn:

- Đất nhà mình toàn giun.

Bố chồng tôi rít sòng sọc ống điếu, phả khói mù mịt nhà rồi lẩm bẩm:

- Dâu nhà này khùng.

Chỉ có Nẫm là có thể bênh vực được tôi.

*
Vào ngày nghỉ, Thản thường rủ tôi lên rừng bắn sẻ. Lũ sẻ rừng đậu chiu chít trên những cành săng lẻ thẳng đuột chọc chĩa lên trời. Thản giương khẩu súng săn và giải thích:

- Bắn sẻ, lòng thanh thản hơn triệt những loài khác.

Khẩu súng trên tay Thản rung lên. Tôi hỏi:

- Tại sao?

Đàn sẻ táo tác dợm bay đặc trời. Một con rơi dúi xuống bụi cây xa xa, máu loang đỏ lòm lòm trên những bông hoa gai màu trắng sữa. Thản lao tới vồ lấy chú sẻ ri nâu đang quằn quại dưới đất. Tôi túm tay áo Thản, khẽ giật:

- Tại sao?

Thản cười, nhìn vết máu đỏ tươi rỏ trên cỏ rồi chỉ lên trời bảo:

- Vì chúng bạt ngàn.

Tôi vơ lá khô, nhóm lửa. Lửa bén lá cháy rừng rực. Con sẻ ri chảy mỡ xèo xèo trên lửa, bàn tay thô nhám của Thản cầm xiên sắt lật qua lật lại con thịt.

Mùi thịt chim nướng ngầy ngậy. Tôi nuốt nước miếng, thò mũi dao xẻo một phần thịt chín đút vào miệng. Thản cười cọt nhìn tôi.

- Em đúng là loài chồn cáo. Em là nàng cáo Ecmơlin(*)

Chúng tôi lăn ra cỏ, miệng vẫn còn giây mỡ sẻ nướng, ôm choàng lấy nhau, ngấu nghiến. Chẳng làm thế nào mà biết được cái bên trong, trong cuối, tận cùng của nhau. Tôi thèm khát được nhìn thấy, sờ thấy từng tế bào máu li ti chảy rần rật trong từng mao mạch, tưới khắp cơ thể người đàn ông đang nằm cùng tôi. Tôi thèm khát nhìn thấy tận mắt sức mạnh bí ẩn lôi cuốn người đàn ông và người đàn bà ràng buộc với nhau.

Thản bắn từng con sẻ một, nướng ăn xong, lại bắn. Trời dần ngả sang chiều, chúng tôi duỗi mình trên cỏ ngắm từng bầy chim kéo về tổ. Mặt trời ngả màu đỏ bầm, màu máu chúng tôi trộn lẫn máu sẻ.

Đôi khi chúng tôi gặp những cơn mưa rừng. Đổ xuống tơi bời. Cành lá man dại rách mướp. Những giọt mưa quất vào da thịt lạnh buốt làm dịu cơn khát bừng bừng trong ruột. Tôi cởi áo quần cùng Thản hứng mưa, cười hú hét. Thân mình tôi đẫm nước, trắng ngần. Da thịt được mưa tưới tắm săn lại nõn nà, làm dịu vết thương vĩnh viễn của kiếp đàn bà.

Sau cơn mưa, rừng xanh mỡ. Những giọt non bật lách khỏi vỏ cây xù xì, nhú ra đón những tia nắng muộn. Từng đàn kiến nhẫn nại du di trên lớp lá mục. Có khi chúng cõng trên lưng một cái lá mới rụng. Thản bảo:

- Kiến phải ăn lá đắng là kiến đói.

Tôi nhớ ngày chưa đi lấy chồng, mẹ tôi vẫn buông những câu rất ngộ để dạy con gái: "Kiếp kiến là kiếp đói". Đáng lẽ mẹ phải dạy tôi cách thức cung kính cha mẹ chồng, cách ngồi đầu nồi xới cơm vun tay cho cả nhà, cách cúi đầu quần quật như loài kiến. Tôi nhìn Thản, rầu rĩ nghĩ: đã là kiến lại còn làm kiến đói! ở đâu đó xa xa, tiếng một con suối chảy róc rách. Tiếng nai tác, và tiếng lá rừng thở xào xạc. Những chú cá cờ đang chổng đuôi sục mồi dưới những lớp sỏi xanh rêu. Chỉ có loài hổ là không bao giờ có thể nom thấy, trừ phi chúng lao thẳng vào ta.

- Về thôi, nàng Ecmơlin.

Thản gọi. Tôi luyến tiếc rời khỏi rừng.

*
Làm dâu được một năm thì tôi chửa. Đủ 9 tháng tôi sinh hạ được một bé gái, mắt mũi miệng giống đúc nhà chồng. Bà đỡ huơ kéo cắt xoẹt cuống rốn. Tôi xoạc cẳng thiếp đi trên bàn đẻ. Một người đàn ông cao to hơn Thản ngó tôi từ trên trần nhà. Hắn nhìn gương mặt võ vàng của tôi, rồi nhìn lướt xuống bụng, nơi cái cuống rau vừa bị cắt còn lòng thòng ra khỏi chỗ sinh nở. Tôi nghe tiếng khóc ngằn ngặt của con gái. Lúc đó người đàn ông cúi xuống hôn con bé rồi đi đến bên tôi rờ rẫm cái cuống rau đỏ lòm. ánh mắt rầu rĩ nhìn tôi cười cười. Tôi nhận ra Nẫm. Tôi tỉnh dậy khi Thản bế tôi đặt xuống giường. Tôi nhìn Thản, tự dưng thấy Thản xa lạ. Thản mới được làm cha, ngượng nghịu cười, ngượng nghịu sắp xếp. Tiếng bố chồng tôi càu nhàu ngoài hè:

- Bao giờ cho có thằng cu.

A! Cứ đợi đấy. Tôi mệt mỏi nhắm mắt. Tôi thèm nhìn thấy người đàn ông đã rờ vào cuống rau thò ra ở chỗ sinh nở của tôi. Trong giây phút, tôi quên hết, quên Thản, quên những ngày nghỉ ở rừng. Tôi đắm đuối với hình ảnh người đàn ông kia đang mân mê cái cuống rau, như thể anh ta đã thò vào sờ nắm được hết những mạch máu li ti chảy trong cơ thể tôi mà tình yêu của Thản chỉ chạm tới chứ không nắm được.

- Bố anh muốn có con trai nữa thì cưới vợ cho ông ấy.

Tôi tỉnh dậy và bắt đầu gây sự. Thản vỗ vỗ vào vai tôi, dỗ dành:

- Thôi nào, nằm yên đi cáo Ecmơlin.

- Anh thèm con trai thì đi mà lấy vợ khác - Tôi vẫn không dịu.

Thản nhăn nhó:

- Anh biết trước mà, em có con là hê anh ra ngay.

Tôi nổi khùng:

- Đàn ông các anh cứ liệu hồn. Khéo không lại tiệt nọc. Cả thế giới mà toàn là lũ đàn bà con gái, chỉ cần uống nước sông cũng chửa được nhỉ.- Tôi bật cười - Rồi anh xem, đàn bà chúng tôi dễ chịu hơn các anh nhiều, chỉ cãi vã nỏ mồm chứ không súng ống máu me...

Thản ngồi im, thộn mặt nghe tôi khùng. Tôi dịu cơn, nắm tay Thản, thì thào:

- Em vừa nhìn thấy anh Nẫm về. Anh ấy hôn con mình và xem em cởi truồng.

Thản giật nảy:

- Cô lại nói bậy.

- Thật đấy! Anh ấy làm như bé Mai là con của anh ấy cứ không phải con anh.

Thản nghĩ tôi nói sảng, không chấp, bảo:

- Hôm nọ anh đã hỏi được phiên hiệu đơn vị anh Nẫm. Bao giờ em khoẻ, có lẽ anh sẽ vào đó tìm...

*
Nẫm là anh ruột của Thản, là cả trong nhà. Anh Nẫm tình nguyện vào bộ đội năm 17 tuổi. Cả cái làng ven phố nhà chồng tôi tới đưa tiễn, ca ngợi. Về sau này, bố chồng tôi buôn lậu đủ thứ, vẫn được tha vì có con xung phong đi lính. Chẳng ai ngờ rằng chỉ vì ông bố tàn bạo mà anh Nẫm phải tìm cách đi khỏi nhà bằng được. Tôi căm tức nghĩ, may mà hồi đó có đánh nhau, chứ im ắng như bây giờ, những đứa trẻ con chán cha mẹ chỉ có nước đi lang thang. Nghe Thản kể ngày trước anh Nẫm thường bị treo lên xà ngang, rồi bị bố quật bằng roi song, vì cái tội đi rèn cả ngày tối về lại ăn không, chả góp được xu nào. Anh Nẫm đi bộ đội được hai tháng thì đơn vị cho về phép một ngày trước khi vào chiến trường. Anh gõ cửa ồi ồi lúc nửa đêm, chó sủa váng cả làng. Ông bố tưởng cướp la toáng lên, nhét vội cục tiền vào kẽ liếp. Anh Nẫm ở hết ngày, ăn hết con gà sống thiến thì chào cả nhà đi. Thản lúc đó mới 10 tuổi, đứng mút kẹo ở góc hè. Anh Nẫm móc túi cho Thản một vỏ đạn đồng to bằng quả ớt mỡ. Móc túi dúi vào tay mẹ nắm tiền phụ cấp anh dành dụm được. Bà mẹ nước mắt ròng ròng ngơ ngẩn nhìn đứa con trai bước ra khỏi ngõ. Ông bố hèm giọng:

- Hừm... Bà khóc cái nỗi gì? Làm thằng đàn ông chân đạp đất đầu đội trời....

Nhưng anh Nẫm chân đạp đất mà đầu phải đội đạn. Anh đi được một năm thì có giấy báo tử. Anh chết mất xác đâu đó ở Quảng Trị. Thản lục lọi trong đống đồ chơi bẩn thỉu lôi ra cái vỏ đạn bằng đồng. Thản chùi nó thật bóng và cất vào góc kín nhất. Lúc yêu tôi, Thản đem ra khoe:

- Kỷ vật của anh Nẫm.

Tôi xăm xoi cái vỏ đạn. Bóng dáng người anh chồng lấp ló. Tình yêu của chúng tôi mới đầu đã dợm mùi thuốc súng.

*
Bé Mai được hai năm thì có một đoàn làm phim lên đường vào thành cổ Quảng Trị. Họ quay một bộ phim về chiến tranh, về câu chuyện một đôi vợ chồng phải xa nhau vì chiến tranh tàn khốc. Câu chuyện xảy ra ngay tại thành cổ, có sai lầm, nhỏ nhen và cao cả. Thản chỉ là chân sửa mo-rát của một tờ báo, nhưng thỉnh thoảng anh có viết báo. Những bài báo được in, Thản cẩn thận cất vào ngăn tủ riêng, khoá lại. Vì viết báo nên Thản quen nhiều. Ông chủ nhiệm đoàn làm phim là anh em kết nghĩa với Thản. Ông đạo diễn thì mới được Thản ca ngợi trong một bài báo. Họ tha thiết mời Thản đi cùng để viết bài quảng cáo cho bộ phim sắp ra đời. Thản đồng ý với một điều kiện:

- Phải cho em đem Diễm theo.

Ông Vĩnh chủ nhiệm đoàn phim gật gù cười:

- Mày với con Diễm đi đâu cũng rìn rịt, khéo về già lại mặt trăng mặt trời.

Tôi biết thừa Thản muốn tôi đi cùng chỉ vì sợ tôi ở nhà vắng chồng sinh hư. Thản đã bắt gặp ánh mắt thằng Tú - người yêu Phượng, em gái Thản - nhìn tôi hừng hực. Phượng đã 25 tuổi mà ngực xẹp lép, nước da tai tái khi không dùng son phấn. Phượng thường vụng về, luống cuống mỗi khi Tú đến. Khi pha nước mời, thế nào cũng làm đổ vung vãi ra sàn nhà. Tôi được thể chạy ra lau dọn, cúi xuống làm cho bầu vú chồi ra chọc vào mắt Tú. Tôi nghe tiếng nuốt nước miếng khan nơi cổ họng Tú, tiếng máu réo sôi giận dữ trong tim Phượng. Tôi nhếch miệng cười mỉm rồi lững thững bước ra cửa.

Thản giận, làm mặt lạnh. Nếu Thản không kết tội tôi có lẽ tôi đã hối. Tôi trèo lên giường, quay mặt vào tường tưởng tượng ra cảnh thằng Tú và con Phượng làm tình với nhau. ánh mắt thằng Tú vuốt dọc thân thể tôi. Mồ hôi vã ra đầm đìa, tôi ớn lạnh khi nghĩ đến đôi mắt u buồn của anh Nẫm nhìn tôi lạnh lẽo.

*
Đoàn làm phim làm việc nhẫn nại dưới cái nắng oi ả miền Trung. Từng cơn gió lào đổ chụp xuống thành cổ, làm đặc quánh mọi vật. Diễn viên chính khoe mình sút được hai cân, nhưng mà đen rám, sợ khi về chó không nhận ra chủ. Và chị ta bật cười. Chị là diễn viên nổi tiếng, đang thất nghiệp, chán đời bỏ đi nhảy tối ngày, thì được mời đóng vai người vợ nông dân lành hiền.

Trong bối cảnh thành cổ, những người làm phim đã dựng lại cảnh chiến trận ác liệt, những người lính ngã xuống dưới làn mưa đạn. Lẫn trong bụi đỏ có cả mùi thuốc súng khét lẹt. Tôi khiếp đảm: như thể chiến tranh đang kề bên. Ông Vĩnh hét vào tai tôi:

- Thế này mới chỉ mô tả được một phần mười.

Một phần mười hay một phần trăm? Tôi không cần biết. Trong đáy ví lủng củng son phấn của tôi có mẩu thư hoen ố của anh Nẫm:

"... Yên lặng quá. Chúng con thèm nghe tiếng gà gáy, tiếng trẻ con khóc...".

Tôi bần thần nghĩ: Liệu có thước phim nào mô tả được hết sự khủng khiếp của những phút giây yên ắng giữa cuộc chiến?

Anh Nẫm giờ nằm đâu giữa bạt ngàn lau lách quanh thành Cổ?

Tôi cùng Thản lang thang khắp vùng. Nắng táp, chỉ có cỏ gianh, mần trầu và lau vươn lên khỏi mặt đất. Lấp loá trắng cả một vùng là thành phố của những người chết. Thỉnh thoảng tôi vấp và vịn đứng lại. Thản buồn rầu nhìn xa hút về cuối nghĩa trang:

- Vậy là vẫn không tìm thấy...

Một mụ(*) già đi ngang qua chúng tôi, buông lửng khửng một câu:

- Không khi mô hết người tìm.

Tôi hỏi liều:

- Dạ thưa, cho con hỏi...

Mụ già quay đầu lại ngó tôi.

- Hỏi người chết thì được, chứ người sống tứ tán cả rồi.

- Dạ, con hỏi người chết.

- Biết rồi mờ.

Mụ chỉ vào một ngôi nhà lợp mái tôn xiêu vẹo. Chúng tôi theo chân mụ bước vào. Trong nhà chỏng trơ chiếc chõng kết bằng lá dừa, cái bàn mộc và mấy cái chén mẻ. Trên kệ thờ, một người thanh niên mặt mờ mịt nheo nheo con mắt. Mụ già rờ tay vào đáy hai chiếc chén xem thử có cặn không rồi nghiêng bình thuỷ rót nước mời vợ chồng tôi.

- Uống đi! Chết năm nào?

Thản ngớ ra một lát rồi trả lời rành rọt như anh đã từng trả lời cho biết bao người có trách nhiệm mà chúng tôi tìm đến. Mụ già chăm chú nghe. Nghe xong mụ lắc đầu:

- Nghe vậy khó tìm cốt. Tui bày cho anh chị cách này: Kiếm cái người đàn bà đã yêu thương anh ấy, bảo chị ta khấn giùm. Con người khi chết thịt da trả cốt nhục, chỉ có tâm linh thuộc vào tiền duyên...

Tiếng mụ già đặc quánh, sền sệt.

"Con trai tui đó - mụ chỉ lên kệ thờ - nó chết không nhặt được một mảnh xương. Trận đó nó dẫn đường cho một đại đội chủ lực. Pháo dập, lẫn lộn hết vào đất cát...".

Mụ già ho khan. Tôi và Thản chia nhau bó nhang cắm thia lia trên những bát nhang nứt nẻ.

Đêm nằm ở khách sạn, muôn vàn con đom đóm lập loè đập cánh ngoài cửa kính. Tôi rón rén trở dậy mở tung cửa sổ. Những com đom đóm xanh lè chập choạng bay vào chỗ ngủ. Thản ngồi bó gối ngó sững những con đom đóm.

- Em nhớ anh Nẫm đeo một phù hiệu ở ve áo, đỏ nhờ, khuy áo vỡ hai cái, một cái sứt chỉ sắp tuột.

Tôi nhắc đến hình ảnh người đàn ông ngày tôi sinh nở. Thản thẫn thờ:

- Anh Nẫm khi đi mới 17, chưa kịp có bạn...

Tìm không ra anh Nẫm, Thản ngồi lì trong khách sạn viết báo. Tôi nhận đóng một vai phụ thay cho một cô diễn viên có mẹ bị ốm nặng phải trở về. Một vai không phải nói một lời nào, chỉ việc đứng nhìn theo bầy chim bay ngang qua thành Cổ, và gió tơi bời.

Nghe nói đến chim, Thản buông bút, xách súng sục lên đồi lau. Trên đồi lau bạc má, một đàn chim sẻ đậu chiu chít. Thản thầm thì với đạo diễn:

- Xong cảnh là phải cho tôi bắn đấy nhé.

Tôi rón rén bò đến vị trí đạo diễn chỉ. Rồi vụt đứng dậy. Đàn chim thấy động vù bay rợp trời. Tôi ngửa mặt nhìn xa hút. Thoảng trong gió lời Thản: " Vì chúng bạt ngàn". Tiếng máy quay xè xè. Rồi xoạch. Tiếng đóng máy. Thản giương súng lên trời. Khẩu súng rung nhẹ. Một con chấp chới rồi chúi xuống. Tôi ngửi thấy mùi thịt nướng, mùi mồ hôi Thản, bỗng dưng buồn nôn đến quặn ruột.

Hai chúng tôi nằm trên đồi lau ăn thịt chim nướng. Thản chờ tôi chùi miệng xong thì bảo:

- Phải em yêu anh Nẫm không?

Tôi bàng hoàng:

- Anh khùng rồi. Đến nắm xương của anh ấy còn chưa tìm được.

Thản dằn tôi xuống cỏ. Tôi cong mình chống trả.

- Tôi căm thù cả nhà anh - Tôi la lớn.

- Vậy nhờ ai mà em thành đàn bà? Nhờ ai mà em có con?

- Chúng tôi sẽ uống nước sông để chửa.

Thản buông tôi, quay mặt đi. Tôi chợt nhận ra nước mắt anh nhỏ giọt xuống đồi lau.

- Anh đâu có ghen với người chết. Em khấn đi, khấn cho anh Nẫm về.

Tôi khóc. Và khấn. Anh Nẫm ơi, anh sống khôn chết thiêng hãy báo mộng cho em. Em là vợ Thản, là người yêu suốt đời của Thản. Hai cõi âm dương cách biệt. Em muốn làm bạn cùng anh. Em sẽ chịu đựng, chăn sóc gia đình anh. Anh hãy cùng chúng em trở về...

Nhưng dòng Thạch Hãn vẫn lầm lụi chảy. Phù sa đỏ bầm. Có phải xương cốt của bao chàng trai ngã xuống trong cuộc chiến đã hoá thành phù sa? Trong bao la đất trời, hạt cát nào chói sáng hài cốt Nẫm? - Ecmơlin của anh! - Thản thầm thì gọi.

Nẫm vẫn bặt vô âm tín, mặc tôi phụ Thản.

*
Ra về tay không được hai năm thì tôi có thai. Lần sinh nở này đối với tôi và Thản trọng đại gấp bội bởi lẽ tôi cũng như Thản, không ai nói ra nhưng thầm hy vọng anh Nẫm sẽ lại về thăm. Tôi đau quằn quại và lần lượt cho ra đời hai thằng cu kháu khỉnh. Chao ơi, hai đứa con trai, hai cuốn rốn lòng thòng. Hai ông bà già phen này tha hồ dọn cứt nhé. Tôi thiếp đi trong ý nghĩ chờ đợi một bóng hình... Tôi nằm, rã rượi. Thản đứng cạnh, gương mặt phong sương hằn những vệt nhăn.

Có lẽ anh Nẫm linh hơn chúng tôi tưởng. Anh vẫn ngồi trên cao ngó ra vườn cười cười. Gặp lúc Phượng láo tôi trỏ tay lên bàn thờ:

- Liệu hồn, tao mách anh Nẫm.

Nó im re.

Mỗi khi lũ trẻ hỏi về bác Nẫm, Thản trả lời:

-Bác hoá thành sao ở tít trên trời kia kìa.

Lũ trẻ thành kính nhìn lên bầu trời đêm chi chít sao. Tôi nhớ đến những đêm ở thành Cổ Quảng Trị, bầy đom đóm cũng dày chi chít, những vì sao trên bầu trời không xanh mà đỏ bầm.

Thỉnh thoảng, Thản dắt mấy mẹ con lên rừng, đợi đàn sẻ ri đậu xuống cành cây thấp và bắn. Thản không bắn phát một như xưa, anh bóp cò liên tiếp bốn năm phát. Những con sẻ phải đạn rụng xuống. Hai đứa con trai nhảy tưng chạy theo bố nhặt xác sẻ.

Chỉ có bé Mai là đứng lặng lẽ ở một góc. Nó để mặc tôi quơ lá nhóm lửa. Nó che mắt nhìn lên bầu trời xanh ngắm nhìn từng đàn sẻ ri bay ngang rừng, bay lên cao cao mãi.

Và nó cười.

VÕ THỊ XUÂN HÀ
-Tháng 8/1993-


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dù là vô tình hay chủ ý, điều này cũng không nên:

Dùng ảnh photoshop, là chủ ý hay vô tình ? (bài vừa đăng trên BVN)

Trên trang BVN, vừa mới đăng bài "Những thay đổi bất thường trong quan hệ Việt Nam-Trung Quốc 35 năm qua" của tác giả Hoàng Mai. Trong đó có đăng một cái ảnh như sau:

clip_image005
Ảnh xuất hiện trong bài mới đăng trên BVN
Ảnh được đưa ra trong mục 1 ("Cúi đầu") phần III ("Quy phục"). Có một chú thích ở bên trên là: "Hình ảnh như tự nó nói lên mà không cần bình luận".

Theo phát hiện của bạn đọc blog tôi (là bạn hehe), thì đó là một tấm ảnh giả. Tức là ảnh chế tác, mà không phải là có thật.



Ảnh thật thì như sau:


Ảnh thật (nguồn 1nguồn 2, và vân vân) 


Tạm thời thông tin như vậy đã.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

comments bằng những vần thơ:

Chiến tranh biên giới Việt Trung năm 1979 - Nỗi đau không thể quên!

Một comments trên blog Vũ Thị Phương Anh

Thực ra cuộc chiến tranh biên giới phía bắc mãi cuối năm 1989 mới coi là kết thúc. Mà ác liệt nhất là các trận đánh diễn ra vào ngày 12/7/1984 tại điểm cao 1509 thuộc huyện Vị Xuyên tỉnh Hà Giang bây giờ.Lính bộ binh ta chiến đấu ngoan cường giành giật với quân Trung Quốc từng ụ đất góc chiến hào.Những ai đã từng chiến đấu ở Vị Xuyên mới thấy được khó khăn thiếu thốn của người lính lúc bấy giờ.Trong khi đó chỉ cách mặt trận 20km phía sau là cuộc sống phồn hoa đô thị. Khi đó ở trên chốt những người lính nửa tháng trời không tắm khổ nhất là mùa này quần áo lúc nào cũng ẩm ướt bệnh hắc lào ghẻ lở đầy mình.Nhân dịp 30 năm trở lại chiến trường xưa Võ Thu Thủy có viết một bài thơ nói về những ngày ác liệt đó.
''....Vẫn biết rằng nơi đâu có chiến tranh.
Là nơi đó đầu rơi máu chảy.
Nhưng tôi vẫn không tin vào điều đó.
Chỉ một ngày mà máu đỏ thành sông.
Mười hai tháng bảy tiếng xung phong ,chìm trong tầm pháo địch
Nếu không còn các anh ,những nhân chứng sống anh hùng.
Mấy trăm nụ cười mới tươi nói hôm qua! Mà nay vụt tắt.
Khói đạn xới tung mảnh đất Vị Xuyên.
Khói lửa mịt mù Yên Ngựa Không Tên,
Cao điểm đất 300 ,685,khu E Sân Bóng.
Cối 60 băm nát chiến hào.
Súng địch nặng rồi ,bạn ở nơi nao?
Miệng Đắng ngắt mà mắt trào máu đỏ.
Tìm đồng đội thân vùi trong đá cỏ ,
Mà ruột gan còn vắt tréo trên cây.
Bao đau thương uất hận tràn đầy.
Yêu sự sống chẳng sợ gì phải chết.
Vì Tổ Quốc bừng lên khí tiết.
Hy sinh rồi vẫn ôm chặt đất biên cương...."

(Hiện nay vẫn còn nhiều đồng đội tôi còn nằm lại trên một ngọn đồi hay lòng khe nào đó mà chưa tìm thấy)

Thắp một nén hương cho các anh.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mạc Ngôn trong Biến - Đọc mà cảm thấy áy náy cho các "nhờ văn" Việt Nam!

Thảo Nguyễn Nguyên 


(TBKTSG) - Ngay sau khi Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố Mạc Ngôn là chủ nhân của giải Nobel Văn học năm 2012 thì tại Việt Nam có nhiều bài báo xới lại việc nhà văn này đã “dính dáng” đến cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 với cái nhìn từ bên kia chiến tuyến qua tiểu thuyết Ma chiến hữu(1). Bất phục và gay gắt. Một tiến sĩ văn học cho rằng, tác giả Đàn hương hình, Báu vật của đời đã nợ Việt Nam một lời xin lỗi.

Sự thật không thể chối cãi là sau Ma chiến hữu, Mạc Ngôn đã “mất điểm” trầm trọng đối với người đọc Việt Nam.

Nhưng ngược dòng xúc cảm đám đông xoay quanh vụ việc đó, từ Hà Nội, nhà văn Bảo Ninh, tác giả tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh đã có cái nhìn rộng và điềm tĩnh hơn khi đánh giá Ma chiến hữu. Ông viết: “Một số nhà văn và độc giả bạn hữu của tôi thấy rằng việc xuất bản một cuốn sách có nội dung liên quan tới cuộc chiến năm 1979 mà tác giả lại của phía đối phương là một sự báng bổ. Song tôi, và chắc chẳng riêng tôi, không nghĩ thế. Là một nhà văn nặng tình nghĩa với người nghèo khổ, tác giả Mạc Ngôn sẽ khó mà có thể bưng tai bịt mắt bỏ qua một đại tai ương, một bi kịch lớn lao cay đắng đến như vậy (...). Cuộc chiến năm 1979 chẳng những không bao giờ phai mờ trong ký ức của thế hệ chúng tôi, những người đương thời với cuộc chiến ấy, mà cả trong tâm trí các thế hệ sau cũng thế, ngay dù có muốn khỏa lấp thì vẫn sẽ mãi còn đó. Và để hiểu, để suy ngẫm về cuộc chiến ấy thì tất nhiên sẽ có những độc giả và nhà văn thế hệ sau chúng tôi tìm đọc các tác phẩm văn học viết về nó. Văn học Việt Nam tịnh không có tác phẩm nào, thì thôi, người ta đành đọc một chiều qua văn học dịch. Thiết nghĩ như thế cũng được, như thế còn hơn là một sự im lìm trống vắng bao trùm lên hiện thực sừng sững và hiển nhiên của thời kỳ lịch sử kinh hoàng và bi thương ấy” (Bảo Ninh, Đọc “Ma chiến hữu”, bài đăng trên báo Văn Nghệ Trẻ).

Thoát khỏi lớp sóng dư luận, nếu ai đó đủ bình tĩnh để đọc lại những gì Mạc Ngôn viết trong Ma chiến hữu, sẽ thấy tiếng nói khách quan của một người đọc, một nhà văn như Bảo Ninh trong trường hợp này là cần thiết để trả văn chương về cho văn chương, nhất là trong bầu khí quyển mà tác phẩm văn học dễ bị xô lệch theo nhiều phía bởi những thiên kiến phi văn chương.

Thế giới đau đớn, tuyệt vọng, hoang mang, chơi vơi của những bóng ma xuất thân nông dân bị đẩy vào cuộc chiến phi lý hiện về trong Ma chiến hữu. Nếu văn học Mỹ đã có nhiều tác phẩm nói về các di chứng hậu chiến của người lính trở về từ chiến tranh Việt Nam, thì có thể nói, Ma chiến hữu của Mạc Ngôn là tác phẩm nói về các tổn thương tinh thần của người lính Trung Quốc trong cuộc chiến diễn ra chớp mắt so với chiều dài lịch sử ngàn năm binh biến mà đất nước rộng lớn này đã gây ra cho láng giềng. Người nông dân, lương dân bị bần cùng hóa, bị ném vào lò lửa chiến tranh, biến thành công cụ trong cuộc chiến với hy vọng đổi đời, chấp nhận hy sinh để làm anh hùng nhưng rốt cuộc trở thành một đám “thân tàn ma dại” bị lịch sử bỏ quên. Những “điển hình” đó không được nhìn từ thứ chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa anh hùng hão huyền, mà trực diện, soi thấu nỗi khốn cùng của thân phận con người.

Mạc Ngôn đã trực tiếp tham gia vào cuộc chiến năm 1979 trong vai trò một sĩ quan tuyên truyền. Hai mươi lăm năm sau, ông trở lại cuộc chiến với nỗi day dứt, đắng cay và ám ảnh của một nhà văn, một con người hơn là sự hãnh tiến của một chính trị viên. Và một lần nữa, sự ám ảnh của cuộc chiến đó đi vào trong cuốn hồi ký mỏng có tựa Biến(2) của ông vừa mới ra mắt độc giả Việt Nam. Ông viết: “Năm 1979, dù đối với đất nước hay cá nhân tôi, cũng đều là một năm hết sức quan trọng. Trước tiên là ngày 17-2, cuộc chiến với Việt Nam bùng nổ. Hai trăm ngàn quân từ hai tuyến Quảng Tây và Vân Nam tràn vào biên giới Việt Nam. Các đồng đội nhập ngũ cùng đợt với chúng tôi có rất nhiều người đã ra tiền tuyến. Ở sâu thẳm trong lòng, tôi rất ngưỡng mộ họ. Tôi hy vọng mình cũng có cơ hội như thế, ra chiến trường, làm anh hùng, có thể lập công, khi trở về được đề bạt làm cán bộ, dẫu hy sinh cũng kiếm được cho bố mẹ ở quê cái danh gia đình liệt sĩ, thay đổi địa vị chính trị của gia đình, coi như không uổng công họ sinh ra và nuôi dưỡng tôi. Kỳ thực, không chỉ mình tôi có ý nghĩ này. Suy nghĩ này rất đơn giản, rất ấu trĩ, nhưng đích thực là một thứ tâm lý biến dạng của đám con cháu nhà trung nông bị áp bức chính trị như chúng tôi. Sống uất ức, thà rằng chết oanh liệt còn hơn” (trang 69).

Nên coi đây là một tư liệu đính kèm sau khi đọc Ma chiến hữu, cũng có thể xem là lời chú thích cho một trang tiểu sử văn chương - chính trị không dễ gì được biện hộ thỏa đáng.

(1) Trần Trung Hỷ dịch, Phương Nam book và NXB Văn học, 2009.
(2) Trần Đăng Hoàng dịch, Nhã Nam và NXB Văn học, 2014.


Xem thêm:
Cổng chùa thiện ác
Khôn khéo ngụy biện lấn át thiện tâm
Sự thịnh vượng hoang đường

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

Việt Nam sẽ mất thêm vài thế hệ?


Những hiện tượng gần đây xảy ra trong hành xử nhỏ nhặt nhất của tương tác xã hội (nạn hôi của, lừa đảo, chụp giựt, côn đồ, vô cảm…) cho thấy Việt Nam còn mất ít nhất vài ba thế hệ nữa mới sản sinh một đa số văn minh và có đạo đức dân sự .
Theo phong tục mùa xuân nên nói toàn chuyện lạc quan để lấy hên, nhưng không thể bịt mắt để mơ mộng về ‘tiền rừng bạc biển’, về ‘tự hào dân tộc’ hay về ‘quốc gia công nghiệp cho 2020′. Với tôi, ý nghĩa của mùa xuân là sự định giá chuẩn xác vị trí của mình và đem lại một kế hoạch bài bản để thực hiện nghiêm túc, đem lại một mùa xuân đích thực cho quê hương.

Dĩ nhiên đến một lúc nào đó, những chùm hoa mai, hoa cúc…rồi sẽ đâm chồi, những con chim trốn tuyến rồi lại quay về cố hương và những hy vọng mới về một tương lai tốt đẹp hơn sẽ đến trong lòng số đông. Nhưng hiện nay, ngay tại quê hương, chúng ta vẫn phải trực diện với những vấn nạn chưa giải quyết được, dù vài tín hiệu cho thấy sự đổi thay cũng gần kề.

Hai điểm sáng duy nhất của kinh tế xứ này, và dĩ nhiên chúng sẽ đem theo những điều chỉnh về chính trị xã hội, là sự phát triển mạnh của khu vực FDI (đầu tư từ nước ngoài) và TPP (hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương). Sự ký kết và thực hiện TPP được nhiều chuyên gia tiên liệu vào cuối năm 2014 sẽ mở rộng thị trường may mặc, giầy dép…và đương nhiên cũng lôi kéo thêm nhiều FDI trong lĩnh vực này.

Trong khi đó, giá tăng của FDI sẽ tạo thêm công ăn việc làm cho công nhân, cho họ một thu nhập cao hơn, kích thích tiêu dùng và ổn định xã hội. Các đầu tư nước ngoài cũng gián tiếp ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán và bất động sản, hạ thấp áp lực về nợ xấu ngân hàng và ngân sách chính phủ.

Ở bình diện khác có những thử thách quá lớn như ” năm con voi to tướng trong phòng” có thể giảm thiểu, ngay cả phá vỡ, tác dụng của hai “con én” FDI và TPP, đang lẻ loi trong mùa xuân mới. Năm con voi đó là:

Bình rượu cũ

Kinh nghiệm khi nhìn qua Trung Quốc và những cố gắng cải cách gần đây của ông Tập Cận Bình và nhóm lãnh đạo bao quanh là một sự thất vọng của hành động nửa vời. Khi nhất định giử cơ chế chính trị và quyền lợi của nhóm tư bản đó qua sự chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, mọi thay đổi về kinh tế sẽ hời hợt và chỉ gia tăng lợi thế của khu vực FDI.

Thực ra, nhóm lãnh đạo Trung Quốc cũng không đủ quyền lực để lựa chọn. Ngày xưa, khi ông Đặng Tiểu Bình thực hiện “cải cách” kinh tế Trung Quốc còn nghèo và nhóm lợi ích rất thưa thớt. Ngay nay đối thủ của ông Tập mạnh và giàu hơn nhiều. Mọi người thỏa hiệp là “bứt dây động rừng” nên có lẽ họ không thực sự muốn thay đổi.

Chỉ số “giàu nghèo”, “thành phố – nông thôn” ,”các tỉnh Đông – Tây”… vẫn rất nhiều khác biệt và sự bất mãn của đa số của dân Tàu nghèo vẫn ám ảnh an sinh xã hội. Kinh tế sẽ vẫn bế tắc về lâu dài và mọi thay đổi đang được đẩy lùi về phía sau để một thế hệ trẻ mới của Trung Quốc tự lo liệu.

Việt Nam đang sao chép kịch bản tái cấu trúc này của Trung Quốc.

Yếu kém của khu vực tư nhân

Sau tám năm thử thách khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp tư nhân Việt vẫn bộc lộ nhiều yếu kém, dù cạnh tranh trên sân nhà, với chi phí điều hành và vẫn bảo vệ với nhiều đặc lợi trong nhiều lãnh vực.

Ngoài việc sản suất gia công và tiến bộ trong nông nghiệp, thành quả về tài chánh cho thấy sự thua yếu trong quản trị, thiếu sót về quản trị, thiếu sót vế sáng tạo, nhất là kiến thức kinh nghiệm về biển lớn ngoài kia. Thử tách lớn nhất vẫn là một tư duy “xin – cho”, làm ăn theo quan hệ …đã mọc rễ sau 80 năm của bao cấp, tiểu nông và gia đình.

Không một thương hiệu Việt nào có thể thâm nhập thị trường Âu Mỹ dù lợi thế nguyên liệu về gạo, càphê, giầy dép, nội thất…rất dồi dào. Thay đổi tình thế là việc làm khả thi, những sẽ mất rất nhiều năm ngay cả thập kỷ.


Kinh tế, mùa xuân, Alan Phan

Yếu tố thời gian

Trong khi đó, những tiến bộ về công nghệ mới, hệ thống quản trị, nguồn lực tài chánh …của thế giới không ngừng tăng tốc. Trong định chế cạnh tranh tự do, không ai chờ đợi Việt Nam tái cấu trúc để cúng song hành. Điều này có nghĩa là sự cách biệt về kinh tế của các nước đang và đã phát triển so với các nước tụt hậu sẽ mỗi ngày càng lớn.

Với thông tin đa dạng và cập nhận từng giây qua Interner, áp lực đòi hỏi từ dân chúng, từ nhu cầu mới, từ thu nhập…. sẽ vô cùng lớn lao, gây bất ổn trầm trọng cho an ninh xã hội.

Giáo dục văn hóa

Một yếu tố quan trọng và luôn luôn là khởi điểm cho mọi phát triển hiện đại là dân trí hình thành từ nền giáo dục khai phóng tự do. Những hiện tượng gần đây xảy ra trong hành xử nhỏ nhặt nhất của tương tác xã hội (nạn hôi của, lừa đảo, chụp giựt, côn đồ, vô cảm…) cho thấy Việt Nam cón mất ít nhất vài ba thế hệ nữa mới sản sinh một đa số văn minh và có đạo đức dân sự .

Hiện tượng du học cao độ chẳng qua là một hình thức tỵ nạn vì hệ thống giáo dục trong nước gần như không còn điểm sáng. Sự tuyệt vọng của các bậc phụ huynh, cô thầy cũng như con em học sinh hiện rõ qua từng lời kêu cứu trên mọi mạng truyền thông, trái hay phải. Nền giáo dục hiện tại còn tiếp tục thì chuyện phát triển đất nước cho kịp đà tiến của nhân loại vẫn chỉ là một chuyện “chém gió”, càng nói nhiều càng thấy khôi hài.

Môi trường an sinh

Quan trọng hơn hết, để có cuộc sống khả dĩ chấp nhận được, con người cần một môi trường bảo bọc yến ấm của gia đình, bạn bè, tha nhân. Khi chúng ta phải đối diện hàng ngày với thực phẩm pha trộn hóa chất độc hại, nước và không khí ô nhiễm tệ hại, trộm cướp từ những người quen hay sơ, phong bì đều đều cho các cơ quan… thì tâm không an và thân xác thì phó mặc cho may rủi. Ngay cả khi vào bệnh viện, không ai biết những gì sẽ xẩy ra cho mình vì một hệ thống y tế cực kỳ xuống cấp trên mọi góc độ.

Alan Phan
Theo SGTT/VNN
(Tiêu đề bài báo do Tuần Việt Nam đặt)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hải Phòng: 'quan chức uống máu ăn thề' không tham nhũng

(VTC News) - Các “quan chức” trong làng cùng làm lễ cúng thần linh và “uống máu ăn thề” nguyện không lấy của công làm của tư, nếu không Thần linh sẽ “đả tử”.
Lãnh đạo xã Hòa Liễu đánh trống khai mạc lễ hội
Đó là Lễ hội Minh Thề - lễ hội thề chống tham nhũng diễn ra sáng nay (13/2), tại Đình – Chùa thôn Hòa Liễu, xã Thuận Thiên (Kiến Thụy, Hải Phòng), khu di tích lịch sử cấp Quốc gia đã được xếp hạng. Lễ hội này đã có từ xa xưa, mới được khôi phục lại từ năm 2003.Ngoài ý nghĩa tâm linh, lễ hội còn là dịp để giáo dục mọi người đạo lý, nhân cách, nơi các quan lại chức sắc làng, xã tuyên thề sẽ một lòng không nhũng nhiễu nhân dân.

Lễ hội diễn ra trong 3 ngày 14, 15, 16 tháng Giêng, đã thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân địa phương cũng như các quan chức làng xã trên địa bàn huyện.Có từ hơn 500 năm nay, Lễ hội Minh Thề là nơi những quan lại, chức sắc, công bộc tuyên thề sẽ công tâm, không tư túi, tham nhũng của công; không dùng quyền uy để chèn ép bóc lột của dân, không bao che tội phạm… Người dân đến với lễ hội cũng không phải mong lấy chữ danh lợi, mà là để tự nguyện sẽ giữ lòng trung thực, ngay thẳng. 



Chủ tế dùng động tác “chỉ trời vạch đất” mô phỏng theo phép biến trong Kinh dịch rồi vẽ một vòng tròn lớn, đường kính khoảng 2m ở giữa sân miếu gọi là Đài thề.

Các nghi lễ được tiến hành trang trọng, chủ lễ và các vị bồi lễ đọc chúc văn lai lịch công đức của Thánh vương. Sau đó làm lễ dâng hương, dâng rượu, dâng nước trong tiếng nhạc bát âm truyền thống.

Tế Thần xong, các bô lão, quan khách và dân làng, chức dịch, quần áo chỉnh tề tập trung quanh sân miếu theo thứ bậc.Chủ tế dùng động tác “chỉ trời vạch đất” mô phỏng theo phép biến trong Kinh dịch rồi vẽ một vòng tròn lớn, đường kính khoảng 2m ở giữa sân miếu gọi là Đài thề. Trước Đài thề đặt một bàn thờ hướng về cửa miếu thâm nghiêm. 


Gà trống được đưa lên đài thề làm lễ Thần linh, sau đó cắt tiết để hòa 
cùng rượu cho các "quan chức" trong làng cùng "uống máu ăn thề" 

Ba vị đại diện cho hàng ngũ chức dịch, hội tư văn và bô lão trong làng do Ban Tổ chức lễ hội thề và hội đồng bô lão tuyển chọn bước lên Đài thề làm lễ thắp hương khấn vái trời đất bách thần.

Đại diện tư văn dõng dạc đọc Minh Thề có Hịch văn. Mọi người trong làng từ hương chức đến nhân dân, trên là bô lão, dưới từ 18 tuổi trở lên, ai dùng của công dùng vào việc công xin thần linh ủng hộ, ai lấy của công dùng vào việc tư, cầu thần linh đả tử… làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, xin thần linh tru diệt.Sau khi mọi người cùng hô vang câu “y như lời thề” hoặc “y như miệng thề”, vị chủ tế cầm dao bầu cắm mạnh xuống trong vòng tròn Đài thề để biểu thị sự quyết tâm. Tiếp đến là nghi lễ cắt tiết gà để uống máu ăn thề diễn ra rất cầu kì theo một quy định truyền thống từ ngàn đời. 


Tiết gà trống được hòa vào bình rượu lớn, mỗi người truyền tay nhau uống một ngụm khẳng định sự đoàn kết thực hiện đúng lời thề. Sau lễ hội Minh Thề trang nghiêm, dân làng Hoà Liễu như được tiếp thêm sức mạnh, rũ bỏ mọi ưu phiền của một năm qua để tiếp tục bước vào năm mới, với niềm tin tưởng những điều tốt đẹp đang chờ phía trước. 

Các quan chức" trong làng cùng "uống máu ăn thề" trước đài tế Thần linh 

Lễ hội Minh Thề không chỉ lưu giữ giá trị văn hóa truyền thống và các phong tục tốt đẹp của địa phương, mà còn mang ý nghĩa tích cực, cao đẹp, giáo dục đạo đức, nhân cách con người. Tương truyền, chùa Hoà Liễu là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thế kỷ XIII, có tên là Thiên Phúc Tự. Giữa thế kỷ XVI, vợ của Thái Thượng hoàng Mạc Đăng Dung là Thái hoàng Thái hậu Vũ Thị Ngọc Toản đã đến ấp Lan Niểu (thôn Hoà Liễu ngày nay) tự bỏ tiền và vận động hoàng thân quốc thích, quan lại triều Mạc cả thảy 35 vị góp tiền của để tu tạo lại ngôi chùa cổ.

Thái Hoàng Thái Hậu xuất tiền mua 25 mẫu 8 sào 2 thước cúng dâng Tam Bảo. Nhiều người theo gương bà cũng tậu ruộng cúng chùa tăng số diện tích lên đến 47 mẫu 5 sào.

Số ruộng này làng gọi là Thánh điền, một phần diện tích dành cho nhà chùa cấy, một phần dùng vào việc tuần tiết lễ hội, còn lại để chia cho dân đinh cày cấy hưởng lộc và cho cấy đấu thầu lấy thóc lập quỹ nghĩa thương phòng khi đói khó cấp đỡ cho người nghèo, cố nhân, quả phụ…

Cũng chính từ đây, Thái hoàng Thái hậu đã cùng với dân làng lập ra một Hịch văn hội Minh Thề, quy định lấy chí công làm trọng. Người nông dân không phân biệt giàu, nghèo, đẳng cấp xã hội, với khí phách kẻ sĩ giữ tiết tháo không vì cơ hàn mà xâm phạm của công. Và, lễ hội Minh Thề đã ra đời, được nhân dân làng Hoà Liễu gìn giữ trong suốt nhiều thế kỷ qua.


Phần nhận xét hiển thị trên trang