Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2014

Đàn bà cần đàn ông ngọt ngào để làm gì ?












Người đàn bà đẹp...


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chả thấy ảnh chó nào vui cả!

Ảnh vui
Sochi : Nga - Canada












Tượng đẹp ?
































Phần nhận xét hiển thị trên trang

THAM THẲM ĐƯỜNG VỀ ( Chương 16 )

     
16.
 
Đ
ã có lúc Khải định nhờ Khổng Minh Không kiếm cho bộ đồ nghề để có thể sống tự do ở thành phố này. Chẳng hạn bộ đồ bơm vá xe đạp hay hớt tóc. Thành phố hơn bốn triệu dân, với những công việc ấy anh có thể sống được không khó khăn gì, ngay cả khi còn chật vật thiếu thốn chưa đi vào ổn định. Khải sẽ kiếm thêm miếng bạt căng ở một góc tường hoặc gốc cây nào đó, kiểu cửa hàng lưu động ấy, có thể đi bất cứ đâu trong thành phố. Chắc chắn đồng tiền kiếm được không nhiều nhặn gì, nhưng đủ nuôi thân. Cảnh sống phù du như thế anh đã để ý thấy thấp thoáng hai bên đường những ngày ở đây. Hoặc giả như mua bán trao tay chợ giời ngoài Hà Nội. Một tấm nilon trải xuống lề đường, dăm ba cặp kính, mấy ổ khoá, vài chiếc bật lửa. Đã có những ngày thất cơ lỡ vận Khải đã phải sống như thế. Anh cũng đủ khả năng ứng biến mọi chuyện trên đường phố, cho dù đến với nó lần đầu.
Nhưng lúc này anh không muốn như vậy. Dẫu có muốn anh cũng không thể làm được. Khải đang là bạn của Khổng Minh Không. Người vừa cùng đoàn quân chiến thắng trở về. To nhỏ bây giờ cũng là có cương vị trong xã hội. Hơn nữa anh vừa từ Miền Bắc XHCN vào đây. Trong con mắt bạn bè, người thân của Khổng Minh Không họ sẽ nghĩ ngợi thế nào? Dù anh có tìm cách che giấu hoặc làm xa hẳn khu vực này. Rốt cuộc gia đình và bạn bè của Không cũng biết. Với người qua đường Khải không ngại. Họ và anh có ai biết ai đâu? Anh cũng sẽ lẫn vào hàng trăm ngàn con người đang trôi nổi trong thành phố này. Một anh Bắc Kỳ theo cha mẹ di cư, thất lạc gia đình sau chiến tranh, một quân nhân không muốn trở về quê cũ, vì một lý do nào đó còn muốn lưu lại nơi này. Có rất nhiều lý do để hiện diện ở đây, để không cần xấu hổ hay cắn dứt lương tri. Nhưng làm mất thể diện của bạn là điều không thể. Cho dù anh với Khổng Minh Không là “bạn của những người bạn” như người ta nói, mức độ chưa lấy gì thân thiết. Chính vì thế mà càng phải giữ gìn. Trong cuộc đời ít may mắn, luôn chậm chân, lỡ tàu của mình, Khải có một niềm an ủi, đôi khi là niềm tự hào đó là những người bạn. Những người luôn động viên khích lệ, là chỗ dựa tinh thần. Họ tốt có, xấu có. Thẳng thắn chân thành hay ranh ma cũng có. Tuỳ theo cách nhìn nhận và đánh giá của người đương thời. Với anh họ vẫn là người bạn quý. ở chót vót nơi đỉnh đầu đất nước như Phán, như Hoa. ở nơi chôn rau cắt rốn như Đỗ, như Thái. ở thành phố như Vũ, như Hùng… Giờ đây nữa là ở mảnh đất phương nam này, những người mới gặp như Khổng Minh Không…
Dù cuộc sống có thế nào, Khải không có quyền làm họ tổn thương. Một điều nữa không kém phần quan trọng mà Khải không muốn lưu lại đây lâu, anh chưa có một chỗ để chui ra chui vào. Thuê nhà cũng có chỗ nhưng thủ tục nhiêu khê, trong lúc anh gần như không có giấy tờ, theo như sự quản lý hộ khẩu lúc này yêu cầu.
Khải chợt nhớ đến những người bạn, đúng hơn là những người anh là cán bộ tập kết trở về đang ở thành phố này. Anh quen biết và đã từng sống với họ nhiều năm ngày còn ở Hà Nội. Rất nhiều người coi gia đình anh như chỗ ruột thịt, đã từng đến thăm mẹ Khải, biết rõ hoàn cảnh gia đình anh những ngày khó khăn nhất của cuộc chiến vừa qua. Nếu gặp được họ Khải tin rằng sẽ có cách để anh ổn định cuộc sống, có công ăn việc làm ở đây. Xa hơn nữa anh có điều kiện để đón mẹ và bé Hà vào. Nhưng tìm họ ở đâu bây giờ? Ngày Khải đi xa trở về, họ đã rời Miền Bắc trở lại quê hương. Ngay cả gia đình ông Võ Bá là nơi Khải nhập hộ khẩu sau ngày chuyển từ cơ quan về Cầu Diễn cũng đã chuyển vào Nam. Ngày ở Bắc chỉ nghe ông nói quê ông ở Lái Thiêu hay Thủ Đức gì đó. Một địa chỉ chung chung như thế, thật khó hỏi thăm sau bao nhiêu năm binh lửa vật đổi sao rời.
Trong lúc ngồi sau xe Không lái lòng vòng chạy trong thành phố, lúc ngang qua đường Nguyễn Thị Minh Khai, Khải nhớ đến một người. Qua dinh Độc Lập nay là dinh Thống Nhất chạy một quãng là tới đài phát thanh. Hôm ở Hà Nội Khải có nghe ông Cao Phương nói đến một người. Một người anh, một người bạn trước đây làm biên tập ở đài Tiếng nói Việt Nam ông Phương bảo người ấy giờ vào tăng cường cho đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Người ấy là anh Nguyễn Huy. Địa chỉ này có thể dễ tìm. Biết đâu mình gặp được anh Nguyễn?
Hai người dừng lại trước cổng thường trực. Ông bảo vệ là người Quảng Ngãi nên nói rất khó nghe. Nhưng rồi Khải cũng trình bày được mong muốn của mình. Ông ta nhìn khải với con mắt nghi hoặc như anh từ một thế giới nào khác vừa tới đây. Nếu không thế cũng là một tên khiêu khích. Cái nhìn tăng cường cảnh giác của ông làm Khải khó chịu. Sau rồi anh cũng rằn lòng. Tình hình chung là thế. Tuy rằng Mỹ đã cút, Ngụy đã nhào nhưng Cách Mạng chưa phải là đã hết kẻ thù. Có những kẻ xưa là bạn bè, đồng minh giờ đây thoắt cái đã kẻ thù địch. Sự đời tráo trở không biết đâu mà lường. ở đâu đó bọn phản động vẫn lăm le ngóc đầu dậy, còn bọn bành trướng bên ngoài đang khích lệ, xúi bẩy, tiếp tay cho một cuộc chiến khác âm thầm gọi là “Diễn biến hoà bình”. Ông là bảo vệ nhưng không đơn thuần như những người bảo vệ khác. Mà được cơ quan an ninh bảo trợ. Vì đây là một trọng điểm nhạy cảm. ở nơi này nếu muốn, chỉ sau một phút người ta có thể nói một điều gì đó ra ngoài thế giới. Vì thế công việc bảo vệ không được xem thường.
      Khải đọc được ý nghĩ ấy qua thái độ của ông và yêu cầu một lần nữa:
- Bác làm ơn cho tôi gặp ông Nguyễn Huy cán bộ tập kết, trước ở 56 phố   Quán Sứ chuyển vào.
- Anh với ông Nguyễn Huy quan hệ thế nào?
- Thưa, là chỗ người nhà.
- Lạ nhỉ, sao ông này lại có người nhà người Sơn Tây nhỉ?
      Khải nói liều, hy vọng là ông ta không chú ý đến chi tiết mình nói:
- Dạ, bà con đằng vợ ông ấy ạ!
Ông bảo Vệ cau mặt:
- Nè, anh có định giỡn qua mặt tui không đấy?
Khải biết mình lỡ lời. Chị Xuân vợ ông Huy là người Hà Tĩnh. Có lẽ ông ta biết là mình đã “ xạo ” theo như cách nói ở đây. Anh đành xin lỗi, rồi nói sơ qua mọi chuyện, lúc này ông ta mới dịu nét mặt:
- Vậy hả, anh làm tôi thắc mắc vì chuyện gì anh biết không? Nếu là chỗ bà con anh phải biết mọi chuyện chứ, ông Nguyễn Huy chết đã qua giỗ đầu rồi, mà lại hỏi như không biết gì.
- Thưa bác, Bắc - Nam cách trở, tôi vắng nhà mong bác thông cảm. Vậy bác làm ơn cho biết vợ con ông ấy giờ ở đâu? Tôi muốn tới thắp cho ông ấy nén nhang.
Thoáng một chút do dự rồi ông người xứ Quảng vẫn cái giọng nằng nặng cũng nói:
- Thôi được, anh ngồi đây chờ.
Ông ta gọi điện đi đâu đó, một lát sau, trong khuôn viên sâu hun hút, nhiều cây to, thấp thoáng người qua lại, có một thanh niên cao lớn đi ra. Mới nhác qua Khải đã nhận ra dáng quen quen mình đã gặp ở đâu đó. Cậu thanh niên áo trắng bỏ trong quần, mái tóc cắt cao, ngay gần thái dương có cái sẹo dài, mắt to đen như mắt con gái. Cậu ta ngập ngừng trước Khải một lúc rồi reo lên:
- Chú Hai hả, chú vào hồi nào? chú có nhận ra con không?
- Có phải cháu là Long con ba Huy không?
- Chú nhớ hay thiệt! Cháu là thứ hai. Anh cháu qua Nga học rồi.
- Mẹ cháu giờ ở đâu?
- Mẹ cháu nghỉ hưu rồi. Nghỉ sớm mà, sau hồi ba cháu mất. Giờ mẹ cháu lo nội trợ. Gia đình cháu ở cư xá Thanh Đa. Để cháu vô xin phép rồi đưa chú về chơi.
- Thôi giờ đang giờ làm việc để khi khác chú tới. Nhưng ba cháu mất hồi nào?
Long mời hai người vào phòng khách của cơ quan, cậu ta chưa trả lời ngay câu hỏi của Khải, bận rộn pha trà. Người bảo vệ cũng vào, ông ta có chút áy náy vì cử chỉ và thái độ của mình vừa rồi:
- Mấy anh cảm phiền nghe, nguyên tắc cơ quan mà, chứ thực ra tôi cũng không muốn. Thế hoá ra là chỗ người nhà thiệt, thông cảm nghe.
      Khải đỡ lời:
- Chuyện nhỏ thôi mà chú!
      Long kể:
- Ba con mất năm 1978 sau vụ đổi tiền.
Có vướng mắc gì sao?
- Không đâu chú ạ, ba con làm gì có tiền? Mười mấy năm ngoài Bắc vô, ba mẹ con chỉ có mỗi cái xe đạp thôi à. Lương ba cọc ba đồng mà, còn phải nuôi tụi con ăn học. Vô đây ổng mới mua nổi cái xe Hông- Đa, được ít tháng rồi mất.
      Khải hỏi:
- Ba có bệnh đau gì không?
- Bệnh của ba con từ hồi ở ngoài cơ. Ông bị dạ dày riết, thuốc mấy cũng không khỏi. Vô đây vui, các bác các chú lại nhậu dữ quá. Má với tụi con can không nổi. Ba bị xuất huyết dạ dày rồi mất.
Không khí như có cái gì ủ ê buồn bã, không ai nói gì, lát sau Khải mới hỏi tiếp:
- Vậy giờ cháu thế chỗ ba cháu làm ở đây?
- Dạ không, con làm kỹ thuật thôi. Học xong con về thẳng đây. Nghiệp của ba con, mấy đứa tụi con không tiếp theo được. Có phải ai cũng làm thơ viết văn được đâu chú?
- Vậy cũng tốt. Cháu chưa làm qua, chưa hiểu biết đừng buồn, có khi làm khoa học kỹ thuật lại hay.
Khải nhớ đến những người bạn vong niên. Đúng là con cái ít người theo nghiệp cha mẹ. Có ông nhà văn nổi tiếng cả nước, nước ngoài còn biết, mà con cái lại lộc ngộc cày bừa cả đàn. Cũng là cái duyên cái nghiệp ở đời, sướng khổ nào ai có biết?
Một buổi chiều hình như vào năm bảy mươi, bảy mốt gì đó. Mấy anh em nhàn tản rủ nhau về thị trấn Phùng, ở đó nghe người ta đồn có ông thầy xem tử vi hay lắm. Ba anh em xuống một cái dốc đá đi một đoạn tới cái giếng cổ, kiểu giếng giống như cái ao hình tròn xây tường bao quanh có bậc lên xuống để gánh nước từ đáy giếng lên tới bờ. Một kiểu giếng đặc trưng của nông thôn miền Bắc, tồn tại từ thế kỷ trước. Sau này công nghệ phát triển, có máy bơm mới thay đổi hình thái của giếng. Nó được xây nhỏ lại. Thậm chí sau làm giếng khoan chẳng còn dấu vết gì của hình hài giếng xưa. Đi qua lối tường rào đắp đất tới ngôi nhà như cái am giữa vườn cây um tùm. Hai vợ chồng ông thầy tử vi sống trong ngôi nhà đó. ông thầy mặc quần áo gụ, đi guốc gỗ. Đôi mắt ông đeo cặp kính đen kịt. Đầu luôn đội cái khăn xếp cũ. Ông có giọng nói nghe rất lạ, như từ thế giới nào xa xôi, lạnh lẽo vọng về. Còn bàn tay thì ngón rất dài.
Ban đầu chỉ là tò mò. Về sau cả ba người đều kinh ngạc. Ông cụ xem cho mỗi người một quẻ, phân tích rất tỷ mỷ. Khải còn nhớ ông nói về mình:
- Số thầy cung phụ mẫu có tang môn, cô thần không cha thì mẹ mất sớm. Cung thê thiếp thì có đào hoa, tinh văn, tinh khôi hiềm nỗi có điếu khách phục binh. Số dễ lấy vợ, hay được đàn bà để ý, nhưng không cẩn thận vợ có ngoại tình. Cung quan lộc thì…Ông có vẻ ngần ngại.
      Khải phải nói:
- Thầy cứ dạy. Có sao xin thày cho biết.
- Hơi bị kém, thầy là người sáng dạ, nhưng khó làm quan vì có Đà ca Điếu khách, Địa sát… Nhưng mà kéo lại được cung điền trạch và cung phúc đức. Tài vượng lão lai, số khá về sau.
Nguyễn Huy nói: “Vậy đúng rồi còn gì, phần sau còn phải xem sao đã”, rồi cũng xin một quẻ. Thầy phán:
- Số thày phải ly hương, nhưng tử vi đứng cung Quan lộc, cung Nô bộc có bác sỹ, lực sỹ. Thê thiếp có: Hỉ thần, đào hoa thiên việt… Nghĩa là tài năng thầy không có gì nổi bật, nhưng làm quan có người giúp, bạn bè nhiều người tốt, họ là những người giỏi giang. Đường tình duyên rất may mắn, lấy được vợ đẹp lại hiền. Nhưng cung tử tức hơi bị kém.
      Mặt Nguyễn Huy hơi đổi sắc:
- Làm sao xin thầy tính kỹ dùm.
- Để rồi xem…
      Thầy tính lại một lượt rồi nói:
- Gần đây thôi, nội trong tháng này, hôm nay đầu tháng, thầy nhớ không cho trẻ nhỏ ra đường.
Bác sỹ Võ Bá không xem, ba anh em chào ông thầy rồi ra về. Ông thầy còn chốt một câu:
- Tôi biết khi tới đây các thầy còn chưa thực tâm lắm đâu. Nhưng thôi tôi cũng không trách.
Đồng bóng, bói toán lúc này còn đang bị cấm đoán. Hơn nữa kể cả ba người đều là những con mọt sách. Chỉ cho là chuyện dị đoan. Không ngờ cuối tháng đó xảy ra một chuyện: Trong khu tập thể nhà Đài có một khoảng sân vừa là lối đi vào khu trong. Bên cạnh đường có một bể nước công cộng, Đám trẻ vẫn thường chơi trò đuổi bắt, ẩn nấp xung quanh bể. Thằng Long lúc đó còn là một cậu bé chạy từ sau ra bể nước nhô ra đường. Có một xe tải đang lùi để quay đầu. Đầu nó trồ vào bánh sau. May mà xe không lùi tiếp. Nếu không tai nạn không biết thế nào. Cái vết sẹo ngang thái dương kia chính là dấu vết của vụ tai nạn bất ngờ xảy ra cách nay đã mấy chục năm.
Khải vẫn nhớ như in chuyện này. Suýt nữa thì anh đã kể cả chuyện cha con nó ngày ấy, rất mê cá chọi, chai nhỏ nên con mạnh con yếu, giỏi dở đến đâu khó phân biệt…
Đang giờ làm việc không thể chuyện lâu. Hơn nữa ông Huy mất rồi đành đến viếng vào dịp khác. Có gặp chị Xuân bây giờ ngoài lời an ủi, cũng không giải quyết được việc gì thêm. Tình trạng của Khải rất gấp không có thời giờ. Hai người chia tay nhau và hẹn gặp sau. Thôi đành theo dự định ban đầu của Khổng Minh Không. Khải không còn lựa chọn nào khác.

ó
ó   ó

Thoạt đầu người bạn của Hùng định viết một phong thư gửi lên cho Lân, sau rồi anh ta bỏ ý định đấy, bảo với Khải.
- Thôi đằng nào em cũng phải đi cùng với anh. Nhân tiện thăm vợ chồng em Dì, đã lâu không gặp. Lân là em rể đằng vợ nhưng lớn tuổi hơn anh em mình. Cũng người Bắc, nghe đâu cùng tỉnh với anh, gặp nhau biết đâu lại chả là người quen cả?
Hai anh em ra bến xe miền Đông. Quang cảnh chộn rộn không kém cảnh ga Hoà - Hưng. Rất nhiều người Bắc đợi xe ở đây. Từng tốp năm ba người một ăn mặc lem luốc, sau hành trình cả ngàn cây số. Đầu tóc rối bù bết bẩn bụi đường. Những đôi mắt thiếu ngủ đỏ ngầu, đuôi mắt từng cục dử to tướng. Thợ mộc thì cưa đục, thợ xây thì dao, bay, đồ lề lỉnh kỉnh. Những người bỏ lại quê nhà đi làm ăn xa, có thể hàng năm mới về. Khải tự thấy mình thực không giống ai trong dòng người đi tìm cuộc sống này. Trông anh không ra trí thức mà cũng không giống người lao động. Có lẽ Khải là người duy nhất lẻ loi tìm về miền đất đỏ chân dãy Trường Sơn.
Khải cay đắng thầm cười trong lòng, khi chợt nhớ đến một câu chuyện cổ, anh đọc được trong đống sách hôm ông Trạng Nguyên mang đến nhà mình. Cũng có một anh chàng cô đơn lẻ loi như thế bỏ nhà đi, tìm hạnh phúc. Trên người chàng chẳng mang theo thứ gì ngoài một chiếc đinh. Nhưng anh chàng đã gặp may. Một trận cuồng phong đã làm đứt sợi dây phơi quần áo của một hàng thợ nhuộm. Anh chàng bèn lấy ngay cái đinh của mình trong túi ra đóng lên tường. Chàng căng lại sợi dây rồi phơi lại áo quần vừa nhuộm xong cho ông chủ. Cử chỉ ấy khiến ông ta cảm động. Giữ anh lại và gả người con gái cho anh. Cô gái hiền ngoan sau này dốc lòng nuôi chồng ăn học, thi đỗ làm quan… Có thể vì thế sau này có câu để ví so sánh: “Không bằng cái đinh gì”. Người đời muốn nói nhỏ như cái đinh nhiều khi cũng mang lại hy vọng và niềm hạnh phúc.
Khải bây giờ đến một cái đinh cũng không có. Ngoài cái cặp sờn, bộ quần áo anh không còn gì nữa. Mấy đồng bạc vụn trong túi đủ để uống nước. Nếu Khổng Minh Không ở nhà không biết mình mua vé xe bằng cách nào? Có những lúc cuộc đời đưa con người ta vào những hoàn cảnh éo le. Gianh giới kẻ tốt người xấu thật khó phân định. Để đạt được ý muốn tồn tại, có khi phải làm điều gì đó xấu xa. Anh không còn là kẻ lương thiện được nữa, nói chi đến làm người tốt. Câu: “Đói ăn vụng, túng làm liều” không phải là câu nói chơi. Nó được chắt ra từ khổ đau, cay đắng ngậm ngùi. Chỉ những ai một lần trải qua mới thấm thía, mới hiểu hết giá trị xót xa của nó.
Đổi lại anh hơn anh chàng nọ còn có những người bạn. Dù họ không còn chung với anh đi hết con đường, cũng là người đỡ anh từng chặng. Nếu không có họ không hiểu Khải sẽ xoay trở ra sao? Hình như đó là nhã ý của trò chơi số phận, mà Thượng đế kín đáo bày đặt cho cuộc đời anh.
Hai người lên một chiếc xe mà Khải chưa từng thấy bao giờ. Có lẽ người ta mang nó từ một nhà bảo tàng nào đấy ra. Chiếc xe cao dài như một toa tàu và đen trùi trũi. Sau buồng lái là một ống khói cao ngật ngưỡng chỉ lên trời. Ngăn người lái cách biệt với hành khách trên xe. Khổng Minh Không bảo nó là xe ôtô chạy bằng hơi nước, nhiên liệu là than đá. Thấy Khải trố mắt có vẻ không tin anh ta còn nói thêm:
- Nó nằm trong bộ sưu tập của một tay chơi hồi chưa giải phóng Sài Gòn. Sản phẩm của thế kỷ 18 từ bên Pháp mang sang. Hồi này thiếu phương tiện, xăng dầu mắc người ta mang ra dùng thử. Thấy không sao, dùng hoài cả năm nay. Tốc độ không được nhanh, nhưng ít hỏng dọc đường.
Ghế ngồi trên xe cũng không giống kiểu xe nào. Bốn hàng ghế song song chạy dọc từ đầu đến cuối xe. Khách ngồi chân xoạc hai bên như người cưỡi ngựa. Mỗi khi qua một ụ đất hay ổ gà lại xô khách ngồi ôm choàng lấy người phía trước. Đã thế lại chật như nêm. Có mấy người nhảy lên mui. Anh lơ xe vội kêu:
- Mấy cha nội xuống dùm tôi nhờ. Ra khỏi thành muốn lên cho thoải mái hãy lên. Phạt thấy bà đó nghen!
Dù gì cũng vẫn còn may. Rất nhiều người lỡ chuyến, mặt mày tiu nghỉu. Họ lại nằm ngồi vạ vật ở nhà chờ xe, mặc cho đám bán hàng rong lượn lờ, chào mời nhức đầu nhức óc.
Hù ụ ụ ụ … Tiếng còi xe rúc lên làm Khải giật mình. Như tiếng tên khổng lồ nào đó mắc bệnh ho lao. Rồi khói đen cuồn cuộn lên trời như lò gạch vừa bén than. Xe bắt đầu chuyển bánh. Khải có cảm giác như ngồi trên lưng một con quái vật. Nhưng rồi cũng quen. Tính thích nghi của con người thật là kỳ diệu. Sau này Khải cứ nghĩ mãi vì sao một cái xe cà khổ như vậy mà người ta vẫn tranh giành nhau để được đi? Anh còn có dịp gặp lại nó một thời gian sau này nữa. Nhất là về đêm cái đèn duy nhất ở đầu xe đỏ lừ trông nó như con ma chột mắt. Dưới gầm xe tàn than rơi lả tả, đỏ lừ cháy xèo xèo hồi lâu mới tắt.
Xe qua cầu Bình Lợi, qua Lái Thiêu ra ngoại ô thành phố, nhà cửa thưa dần, con đường chạy hun hút giữa hai hàng cây xanh. Những “cánh đồng bất tận” dọc hai bên đường xa ngút tầm mắt. Khác với những cánh đồng Châu Thổ Bắc Bộ, dù rộng tới đâu cũng cũng thấy những dải núi mờ mờ xa ở phía chân trời. Qua những vườn cây trái có rặng tầm vông bao quanh. Những lò gốm chum vại, lọ, hũ xếp cao như những bức thành.
Con đường lộ 13 có một vạt xưa là vành đai trắng phòng thủ Sài Gòn. ở đó không có bóng cây to, không có vạt rừng lâu năm. Cây cối chết rụi bởi bom xăng, chất độc hoá học. Miên man những trảng cỏ gianh, cỏ Mỹ. Người ta đang cày đất trồng cao su, dựng cọc tiêu.
Mùa khô ở xứ này thực khó chịu. Lúc nào cũng tưng tức ở sống mũi. Ngay cả khi có gió, trời vẫn rất nóng. ánh nắng loang loáng mặt đường. Khí nóng bốc lên chập chờn như từng đợt sóng. Nhìn lâu rất mỏi mắt, chóng mặt. Càng xa thành phố càng ngột ngạt vì độ ẩm không khí rất thấp. Sông nước, kênh rạch là thiên nhiên của miền Tây Nam Bộ. Vùng này hiếm khi được thấy một dòng nước chảy. Duy nhất con sông Bé thì chảy mãi tận đẩu tận đâu. Đi nữa là vạt cỏ khô hai bên đường. Ngoài cây Điều là giống cây chịu hạn đến kỳ lạ, không cây nào sống nổi vào mùa này. Khổng Minh Không lại nói trên chỗ Lân còn khô khát hơn. Khải không biết nói sao nữa. Anh nhìn những đám bụi đỏ cuộn lên sau những xe trên đường mà ái ngại. Lớp này bụi chưa kịp tan, tiếp đến lớp khác. Con đường tựa như chìm trong lớp sương mù màu hồng dày đặc. Mãi không thấy “trong sương hồng hiện ra ” một thứ gì ngoài mặt đường nham nhở, đã lâu không bảo dưỡng. Hoặc một người nào đó lấy tay che mặt trong đám bụi dày đặc.
Có ai đó chỉ lối rẽ vào nhà tù Phú Lợi. Nơi mà vào năm 1957 Báo đài miền bắc phản đối rùm beng về việc đầu độc tù nhân của anh em họ Ngô. Khải nhìn theo hướng tay chỉ, một đám bụi mịt mù chạy theo rừng cao su mới trồng. Anh còn nhớ được mấy câu thơ trong “Mối thù Phú Lợi ”của Tố Hữu. Định bụng sau này có dịp sẽ vào thăm chốn địa ngục trần gian ấy còn được những gì? Nhưng mãi sau này, khi trở ra miền Bắc anh cũng không một lần đến được. ấn tượng vẫn chỉ là đám khói bụi mù mịt, hồng hồng.
Chiếc xe mệt mỏi, chậm chạp như con trâu già ì ạch rồi cũng đến nơi. Nó rẽ vào con đường nhỏ hơn, đất đỏ sẫm màu vào Đa kia. Cây cối hai bên đường phủ đầy bụi tựa như cây cỏ cũng được tạo nên bằng đất đỏ. Nhưng rừng cây hai bên dày và cao hơn ngoài mặt lộ. Một khu nhà lợp tôn kề bên ngã ba. Một khu chợ nhỏ hàng quán lèo tèo. Những bồn bê tông cao như kiểu nhà tròn lừng lững Khổng Minh Không bảo đó là bồn chứa nước. Từ đây ra tới nguồn nước khoáng hơn chục cây số. Những xe bồn trở nước từ đó về sẽ bơm chứa vào bồn bê tông này. Còn mùa mưa thì có nguồn chứa nước dẫn về đây. Khải đã phần nào hình dung ra cuộc sống ở đây. Rõ dàng là không đơn giản dễ chịu gì. Trong những nhu cầu sống thì nước là thứ hàng đầu. Thiếu nước đồng nghĩa với thiếu đi nhiêù thứ khác.
Nhưng đã tới đây rồi, đành chấp nhận thôi. Nhưng như vậy đã xong đâu. Đến sáng hôm sau lại xảy ra một việc khác khiến anh choáng váng.
Người ta nói: “Đi ba quãng đường gặp người làng thì sáng mắt ra” nhiều khi lại không phải như vậy. Khải đã được chiêm nghiệm điều này ít ngày sau khi anh đặt chân lên đất Đa Kia, lạ đất lạ người . gặp người làng Vân Du của mình sau chặng đường mấy ngàn cây số. Cuộc hành trình bất đắc dĩ từ Bắc vào Nam mong một sự thay đổi cuộc đời.
Khi Khải đến thì Lân đi đâu đó. Mẹ cậu nhận ra anh ngay. Bà nói lâu lắm bà mới gặp người từ đó vào. Bà hỏi thăm người này người nọ ở làng. Có người Khải biết có người anh cũng không hay họ còn sống hay đã chết. Họ còn ở làng hay cũng theo cá nước, chim trời kiếm sống ở nơi nào khác. ít có nơi nào như ở quê anh, dân lưu tán lại nhiều đến thế. Đi tới đâu cũng gặp người làng. Nhưng Khải cũng lựa lời cho bà vui lòng. Người già hỏi vậy cốt để khuây khoả nỗi lòng. Một chút tình quê đỡ khắc khoải nỗi xa xứ khi tóc bạc trắng đầu.
Lân không phải là ai xa lạ. Chính là chồng chị Chiêm mũi đỏ có họ xa với Khải. Hai người bỏ nhau trước ngày Lân đi bộ đội vào Nam. Mẹ anh là người tham công tiếc việc và cũng đáo để có tiếng. Lấy vợ cho con khi hai đứa chưa đủ tuổi đăng ký Lân vẫn đi học còn vợ ở nhà đồng áng, chợ búa giúp mẹ. Chị Chiêm xấu người nhưng được cái chăm chỉ. Suốt ngày chị cun cút ngoài đồng, về nhà lại cặm cụi dưới bếp. Tứ thời ăn mặc chị vẫn quần chân què, áo cánh xanh sĩ lâm. lại thêm hàm răng đen nhuộm từ lúc bé, nên đi tới đâu như anh Lân nói: “Tối rầm đến đó”. Tiếng là vợ chồng nhưng không khi nào thấy hai người nói với nhau một câu. Có mặt người này người kia tránh đi chỗ khác. Đến trường anh Lân bị bạn bè trêu đến phát khóc. Cứ thế ngày tháng trôi đi, cho đến lúc mẹ chị Chiêm phải bảo:
- Nó không yêu thương thì con phải ra, tìm người khác. Con gái có thì. Nó giam lỏng mình, già rồi ai còn ngó tới? Nó là đàn ông, nó bỏ hay lấy lúc nào chẳng được? Bây giờ mình cố công làm giàu cho nhà nó. Sau này nó dở chứng hối không kịp đâu con ạ!
      Chị về nói với bà Long, mẹ Lân. Bà bảo:
- Cái đó tuỳ ở anh chị, chứ tôi không ép bên nào.
Chị ôm khăn gói về nhà mình. Anh Lân thản nhiên như không có chuyện gì. hai người bỏ nhau không ai mang điều, mang tiếng.
      Rồi anh đi bộ đội, ra quân ở lại nơi này.
Vợ Lân bây giờ người thon thả, có nét mềm mại của người con gái phương Nam. Giọng Bắc pha Nam rất gợi cảm. Chị nhanh nhảu pha cà phê, mang mấy chai nước hoa quả lên men tiếp khách. Chị ít nói nhưng nét mặt hồ hởi. Khải cảm thấy sự khô khát giảm đi trong căn nhà này. Một căn nhà năm gian rộng rãi bề thế hơn hẳn những nhà xung quanh. Cột nhà bằng gõ. Gõ cũng là loại gỗ quý tương đương với gỗ nghiến ở Bắc. Những cây cột to mập mạp hơn mức bình thường được bào chuốt đánh vecni bóng loáng. Đặc trưng kiểu nhà gỗ Đại Khoa ngoài Bắc, thiết kế có độ bền hàng trăm năm.
Giữa nhà kê bộ salong cải tiến bằng gỗ cẩm lai, thứ gỗ mịn bóng có độ cứng như sừng vằn đen vằn trắng hai màu tương phản trong cùng một phiến gỗ rất lạ, lần đầu Khải nom thấy.
Cái sân rộng sau nhà để la liệt các loại máy bơm, máy kéo và chiếc ôtô tải cỡ lớn. Chỉ chừng ấy thôi vào thời điểm này chứng tỏ chủ nhân của nó là người khá giả. Vài ngày sau, Khải nghe người hàng xóm kháo nhau “ổng bộ đội bên Miên về, vàng cả ống, ổng đâu có thiếu tiền!”
Bà Long nói có ý khoe:
- Tôi bảo anh ấy cứ làm nhân viên cho nó khoẻ, không phải lo lắng gì. Nhưng ông Trâu ông ấy không chịu, cứ bắt nhận chân lãnh đạo! Chẳng biết những công việc gì, về tới nhà, đặt bát là lại đi ngay. Tối nào cũng tới khuya mới về. Vợ con nó không dám nói, nhưng nó đâu có bằng lòng?
      Thuỳ vợ Lân cười nhỏn nhẻn:
      - Má nói hay thiệt! Anh ấy đi công việc chớ có đi đâu. Con đâu có buồn…
Rồi chị quay sang anh rể, hỏi thăm bố mẹ và chị gái ngoài Sài Gòn. Giọng hai người đủ nghe, không oang oang như bà già mẹ Lân.
Hình như Không có gợi ý gì đó về việc của Khải. Anh ta nói nhỏ như không rõ lắm, nhưng nghe thấy vợ Lân nói:
- Cái ấy dễ ợt ấy mà. Anh ấy cũng đang cần người. Đang định ra Bắc kiếm thêm người vô. ở đây cũng có người nhưng dân quen làm biếng, lại khùng khùng khó sài lắm.
Không cần phải suy nghĩ lâu, Khải cũng đoán ra chuyện gì. Nếu vậy thì tối, hai người không phải mất công không lên tới tận đấy. Đang vui vẻ câu chuyện thì một chiến xe zép bám đỏ bụi đỗ xịch trước sân nhà. Đây là kiểu xe dã chiến dùng cho chỉ huy của quân Mỹ bỏ lại. Mui nó cũng căng bạt nhưng nhỏ nhắn hơn loại Com Măng Ca ngoài Bắc. Một người mặc quần áo rằn ri nhưng đầu lại đội mũ tai bèo từ trên xe nhảy xuống. Anh ta mở rộng cửa xe ra một chút rồi cùng một người nữa từ trên xe lôi ra một con nai lông vàng như lông bò. Hai người lồng đòn khiêng luôn về phía sau nhà. Người đi sau mặc bà ba đen, đầu để trầu, chân mang dép râu.
Người đội mũ tai bèo, râu quai nón gần kín mặt, quay ra cầm lái chiếc xe, vòng vào dưới gốc cây vú sữa tránh nắng. Anh ta nhảy xuống lấy chiếc mũ tai bèo lau mồ hôi mặt rồi bô lô:
- Chị Hai đâu rồi cà! Tụi tôi mang con thịt này về hôm nay làm bữa nhậu nha! Mấy anh em mất công mò cả đêm hồi hôm đó.
Thấy hai người khách lạ anh ta đưa cặp mắt có đôi mày rậm có ý hỏi Thuỳ vợ Lân. Chị ta giới thiệu:
- Bà con của tôi dưới thành phố lên chơi. Đây là anh Ba Không, anh em cọc chèo với ông xã nhà tui, còn đây là anh Khải ngoài Bắc mới vô. Các chú vô nhà uống nước. Chút nữa anh Hai về coi làm sao!
      Người đó cười phô hàm răng ám đầy khói thuốc:
- Phải coi gì nữa chị Hai, nhờ chị kiếm cho mớ dưa leo, chút gừng, một can ba là được rồi. Tụi tôi tự biên tự diễn. Việc này đâu phải để anh Hai để mắt tới. Chị đi lẹ, chút xíu xong thôi mà!
      Quay sang hai người anh ta chầm bập bắt tay rồi tự giới thiệu:
- Tôi Năm Hoảnh cũng từ thành phố lên, còn ông kia là Sáu Tơ, người An Giang, đều quân của ông Hai Lân cả. Nông trường bộ cách đây chừng chục cây số. Tụi tui từ trên đó về, gọi là nông trường bộ nhưng vẫn còn sơ sài lắm, mới được quy hoạch mà. mấy anh lên ở lại chơi, nhậu với tụi tui ít bữa rồi hãy về. ở đây thèm người. Lắm lúc buồn muốn chết luôn!
Anh ta lôi từ túi quần gói thuốc rê bọc trong bao nilon rồi xé giấy vấn bằng tay. Thứ thuốc sợi to, màu đen như thuốc lào ngoài Bắc, mùi khói khen khét ngai ngái.
Khải nhìn kỹ hơn nét mặt có vẻ hầm hố, bặm trợn của anh ta có cái gì đó dễ gần, như là nét phóng khoáng cởi mở của người phương Nam. Uống cạn một chai nước ga, anh ta đưa bàn tay ngón xù xì lên lau vệt bọt nước dính vào râu rồi nói:
- Mấy anh uống nước rồi chơi lòng vòng. Tui xuống bếp phụ ông Sáu một tay.
Mùa này nắng lâu, sáu giờ chiều rồi mà nắng vẫn loang vàng cánh rừng trước mặt. Tuy cái nóng có dịu đi một chút nhưng Khải vẫn chưa quen. Anh muốn tắm một cái nhưng sực nhớ ở đây nước như một thứ xa xỉ lại thôi. Khổng Minh Không vẫn giữ thói quen con nhà lính dễ nhập cuộc trong sinh hoạt. Anh cởi quần áo dài treo lên móc, tay cũng cầm con dao xuống bếp.
Khải ngồi nói chuyện với bà già một lúc, cảm thấy không tiện anh cũng làm theo Khổng Minh Không. Nhưng chưa quen, Khải lúng túng chưa biết làm gì thì Năm Hoảnh kêu to:
      - Anh Hai nhóm dùm đám lửa, ta làm như thui bò ngoài Bắc mà.
Khải chưa thui bò ngoài đó bao giờ. Nghề ba toa là cái nghề kém nhất của anh. Nghe anh ta nói vậy cũng hăng hái nhóm lửa.
Khi Lân về tới nhà, các món đã bày biện trên chiếc bàn tròn to quá cỡ, gắn bi quay kê ở gian bên cạnh. Các món ăn vừa Bắc vừa Nam. Các món riêng của miền Đông này Khải chưa thấy bao giờ. Cảm giác mệt mỏi vì đi đường, khung cảnh khô vàng của mùa lá chết vẫn ám ảnh anh. Thức ăn nhìn rất ngon mà Khải gần như chẳng hứng thú gì. Anh cố gắng không biểu lộ ra tâm sự riêng của mình. Gượng cười nói với mọi người xung quanh.
Lân là con người khó đoán được tính cách. Bề ngoài có vẻ sởi lởi, dễ gần, nhưng con mắt có cái nhìn sắc lạnh, như có luồng âm khí phát ra.
Hai ông bạn rể đã tranh thủ trao đổi công việc của Khải sau vài ly rượu, Lân đã có vẻ không được thăng bằng, nhưng vẫn tỉnh táo tự nhiên. Anh ta bảo:
- Tưởng việc gì chứ việc đó không khó, tôi cũng đang cần người. Nhưng nói thực là bây giờ nông trường mới đang ở giai đoạn khởi động. ăn khổ, làm khổ, ở cũng khổ luôn. Không biết chú có chịu nổi không?
- Anh yên tâm, em khổ từ nhỏ. Miễn là anh giúp cho em có việc làm ổn định. Khổ mấy em cũng cố gắng khắc phục.
      Lân nói nghiêm chỉnh:
- Vậy thì được. Mai lên cơ quan tôi sẽ làm hợp đồng cho chú. Thôi không bàn công việc nữa, uống!
Khải lấy làm lạ là người cùng làng, sao gặp nhau không thấy đả động gì tới chuyện hàng xóm, quê hương, những người thân bạn bè ngoài Bắc? không lẽ ở trong này lâu anh ta đã quên hết? Hay mẹ anh ta đã vào đây không phải lo gì từ phía gia đình? Hay Lân ngại lỡ mình vui chuyện, lại mang chuyện vợ con cũ của Lân nói ra ở đây, trước mắt vợ anh và mọi người. Nhưng Khải đã nhầm. Một người đang thành đạt, mãn nguyện như Lân đâu có ngại gì chuyện đó! Có khi những kỷ niệm những ngày cực khổ, những tình huống gian nan ngày xưa lại có ý nghĩa tôn cao giá trị của sự thành đạt bây giờ.
Lân đã có ý. Anh còn phải xem ý định của Khải và hoàn cảnh của anh ra sao đã. Sau đó mới nói đến chuyện tình cảm. Không muốn để tình cảm xen lẫn vào công việc khi chưa hình dung nó ra sao?
      Bây giờ là lúc anh mới nhắc lại chuyện cũ:
- Chú mày còn nhớ lần nhà ông Đởm tát ao không?
- Em quên sao được, hôm đó em suýt mù mắt. Không có anh vác lên bờ, lấy chanh vắt vào mắt cho có khi không nhìn thấy gì. Bây giờ chưa chắc tìm được đường vào đây.
- Vậy là anh em mình có duyên với nhau từ ngày đó.
      Năm Hoảnh giơ cao ly rượu:
- Vậy là chúc mừng tái ngộ. Trăm phần trăm đi hai anh!
      Tất cả cùng nâng ly: Dô nào, dô!
      Tiệc rượu om xòm như người ta kéo gỗ lên đồi.
      Lân đã có phần phấn khích, anh nói như để cắt nghĩa một điều:
- Trong này nói: “Lầm lầm như người tát ao” không mấy người hiểu. Cảnh tát ao ngoài Bắc cực khổ vô cùng. Ao thì sâu, bờ lại cao thay nhau tát ngày tát đêm, mấy ngày mới cạn. Cá thì có nhiều nhặn gì? vậy mà chưa xong, mấy ông lỏi đã lội xuống ào ào hôi, mót cá. Người lớn vớ thứ gì, quăng thứ ấy xua đuổi. Tóc tai người ngợm đứa nào cũng bê bết bùn chỉ nhìn thấy hai con mắt. Có được bữa tươi ngày ấy đúng là không dễ chút nào! Vậy ông ấy bây giờ có còn chân trong Hợp tác xã không ?
- Ông ấy sau này lên làm ở Xã. Nhưng bây giờ cũng nghỉ rồi.
Khải đã định kể cho Lân biết chuyện ông Đởm và chuyện liên quan đến mình, nhưng thấy lúc này chưa tiện, nên lại thôi. Anh vừa chân ướt, chân ráo vào đây, những chuyện lúc này chưa thích hợp.
Ngày Lân ra đi Khải còn nhỏ. Nhưng Khải chưa quên những buổi xem anh ấy thả diều. Diều cánh cốc, to bằng cả cái chiếu, với những ống sáo rất to. Lân nổi tiếng là tay nghịch ngầm, lại khéo tay. Con người ham chơi, đôi chút liều lĩnh ngày nào bây giờ đã là một ông giám đốc nông trường.
Năm Hoảnh, Sáu Tơ ngà ngà rượu, vừa lấy thìa đánh nhịp vừa hát Tân nhạc. Bắt đầu là bài “Đường xa vạn dặm” của Trịnh Công Sơn, rồi đến các bài của Đoàn Chuẩn, Từ Linh. Khung cảnh bỗng chốc tươi mới, lung linh hẳn lên dưới ánh đèn toạ đăng. Một cái gì vừa cởi mở, mới mẻ, lại vừa thô sơ, hoang dã. Tiệc rượu tới khuya chưa dứt. Vừa khi ấy có một người đội mũ cối đi xe 67 vào nhà.
      Hai Lân hỏi:
- Sao về muộn quá vậy Ba Huệ?
- Mệt muốn chết luôn. Rong khắp thành phố, lộn lên Biên Hoà mới kiếm được một chỗ. Tôn lợp bây giờ là hàng chiến lược mà anh Hai…
      Anh ta nói giọng Bắc, quen quen như gặp ở đâu rồi.
- Hay là ta cho người cắt tranh lợp tạm khu mới cất được không anh?
- Đâu có được. Nhà tập thể sinh hoạt phức tạp lắm. Điện đóm chưa có, dầu đèn sơ sảy một chút là tiêu luôn cả dãy.
- Vậy mới có được một nửa, số thiếu anh tính sao?
- Có gì mà phải tính. Số người mới tới cứ tạm dồn ở số nhà cũ với anh chị em lên trước. Khi nào lo được nhà ta phân lại sau.
- Cũng đành phải vậy. Em đi tắm rửa qua rồi xin phép anh đi nghỉ. Công việc sớm mai sẽ báo cáo cụ thể sau được không?
- ừ , Cậu mệt thì nghỉ sớm, nếu không nhậu chơi cùng anh em, đang vui!
- Dạ em xin phép.
Anh ta cúi cúi người đi ra phía sau. Dáng điệu có cái gì khúm núm lộ liễu. Khải chưa nhìn rõ mặt, nhưng dáng điệu ấy anh gặp ở đâu rồi nhỉ, Khải cố tìm trong trí nhớ của mình. Dồn dập bao nhiêu chuyện gần đây, bộ nhớ của anh như có vấn đề.
      Hai Lân bảo:
- Hắn mệt, mai tôi giới thiệu hắn với chú sau. Đồng hương cả đấy. Một ông phó chánh án huyện mình ngoài đó. Không hiểu mắc mớ ra sao, ly dị vợ bỏ vào trong này. Đang làm trợ lý cho tôi. Một tay cung ứng vật tư có nghề. Tôi định phân chú về làm đội trưởng xây dựng. Có thể hai người phải gặp nhau luôn. Thôi chú không quen có thể đi nghỉ sớm. Tụi này nhậu dữ lắm. Tôi cũng phải vào coi lại mớ giấy tờ, tài liệu.
Khải đã định hỏi kỹ thêm về người mới đến có cái tên là Huệ, nhưng Hai Lân đã đứng lên đi vào nhà. Khải ngồi chơi thêm một lúc nữa, nhưng đầu óc anh rất băn khoăn: Huệ nào nhỉ? Có phải cái thằng đôi mắt lúc nào cũng như cười cợt, cái miệng nhăn nhở và bộ mặt giả giả như bằng cao su ấy không? Cái thằng đã làm cho cuộc đời anh tan nát từ cuộc hôn nhân khốn nạn. Và chính nó là mầm mống sinh ra tai vạ? Nếu đúng là nó thì cuộc sống của anh ở đây không vui vẻ gì. Không biết chuyện gì đã xảy ra với nó ngoài kia? Nhưng ở đây nó đang là trợ thủ đắc lực của Lân, có khi còn là tình ruột thịt với Lân mà trước đây mình không biết? Không biết kiếp trước mình có mắc mớ gì không mà nó như phái viên của ma quỷ, như đại diện của âm binh hắc ám, của thủ đoạn đểu cáng tráo trở, ám hại mình? Khải không lo lắng, giờ đây chẳng có gì có thể làm anh khiếp sợ, vì không còn gì để mất. Anh chỉ thấy buồn. Thực sự buồn, nỗi buồn trống trải như cánh rừng chết lá mùa khô này, trong đêm thăm thẳm ngoài kia.





Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nói láo có thành công mãi không ?


Napoléon , một danh tướng tài ba của nước Pháp có một câu nói bất hủ: “đừng nói láo vô ích vì nói láo chỉ thành công một lần “. Bên xứ ta cũng có một câu tương tự : “một lần bất tín , vạn lần bất tin “ . Thế mà trên đời nầy vẫn có nhiều người nói láo nhiều lần qua nhiều giai đoạn , nhiều thời kỳ kéo dài mà vẫn còn nhiều người tin ! Vì sao lại thế ?

 Tướng tài Napoléon cầm quân trăm trận trăm thắng ;  vậy mà có lần  ông cũng bị thất trận . Ông không hề che dấu hay nói khoác , mà chỉ dõng dạc tuyên bố trước ba quân rằng : “ Ta chỉ thua một trận giặc chứ ta không thua giặc “. Câu nói thể hiện sự trung thực có pha chút tự tin và lòng kiêu dũng . Nó gây lòng tin tưởng và sự phấn chấn trong toàn quân ; thua keo nầy ta bày keo khác .
  Nói láo chỉ thành công một lần ..
Rõ ràng trong một số trường hợp câu nầy thật không sai .Nhớ truyện U Vương nước Tàu vì muốn nghe tiếng cười của nàng Bao Tự mà phóng hỏa đốt phong hỏa đài để  lừa các chư hầu kéo binh tiếp cứu . Đến nơi mới biết bị lừa đành tiu nghỉu kéo binh trở về trong tiếng cười sảng khoái của U Vương và người đẹp . Về sau khi có nguy biến thật thì U Vương đã không còn được chư hầu nào tới cứu cả và đành ngậm ngùi nhận ra cái sai lầm quá lớn của mình trước khi bỏ mạng .
  Truyện cổ dân gian cũng kể một câu truyện của một cậu bé hay thích nói dối để lừa mọi người ; lấy đó làm trò vui . Một hôm cậu chạy ra khỏi nhà và kêu toáng “nhà cháy” . Hàng xóm chạy đến , không thấy nhà cháy , biết đã bị lừa mọi người tức giận quay về . Sau đó đến khi nhà cậu bé chẳng may bị cháy thật ; cậu kêu cứu rát cả họng chẳng thấy bóng người nào chạy đến ; vì họ cứ tưởng cậu lại đùa nghịch như  lần trước !

 Đúng là nói láo chỉ thành công một lần ! Một lần thất tín , vạn lần bất tin .
  Tuy nhiên trên thực tế vẫn có nhiều người nói láo nhiều lần , qua nhiều giai đoạn mà vẫn có được lòng tin ở nhiều người . Đây là vấn đề  !
  Nói láo mà đạt đến trình độ nầy thì được mọi người “ thán phục “ là nói láo có sách . Thật ra không có sách  nào dạy nói láo ; mà chỉ là một sự nói láo có chủ trương có sách lược , có bí quyết !.
Ví dụ như sách  lược tạo ra một huyền thoại được nhiều người lập đi lập lại mãi một điều gì đó cũng khiến người ta tin. Chẳng hạn có tin đồn đoạn đường nào đó có ma . Tin đồn lan xa . Nhiều người nói ; nói nhiều lần …Thét rồi ai cũng tin là đoạn đường ấy có ma thật . Thậm chí người ban đầu phao tin đồn láo đó cũng ngại đi qua đoạn đường đó vì “ nghe đồn rằng ở đó có ma “ . Đó là hiện tượng tâm lý tự kỷ ám thị ..
 Cũng như diễn viên sân khấu suốt đời chỉ thủ vai một nhân vật ; quen nhập vai trên sân khấu diễn viên mặc định mình là nhân vật đó ở ngoài đời ..

Dùng huyền thoại để tăng hiệu quả lời nói  là cách đại chúng hóa xã hội hóa  điều muốn nói  .. Chẳng thế mà các sản phẩm  được hằng ngày quảng cáo rầm rộ trên TV, tràn lan trên khắp phố xá , hang cùng ngỏ hẻm . Tên sản phẩm được người ta ghi nhớ , chấp nhận dùng thử
  Sự dối trá ngày nay dần được hợp thức hóa và trở thành mode trong giao tiếp hàng ngày  kiểu ‘ đắc nhân tâm ‘. Gặp nhau câu đầu tiên là một câu khen “ Anh bận rày phong độ quá “ hoặc “ Chị hôm nay trông xinh ra , trẻ ra …” Người được khen vẫn tin là mình phong độ thật , trẻ thật , xinh thật , (mặc dù người khen không có ý khen thật ).
, vì “ ai cũng nói vậy “.
  Những lời lẽ dối trá dua nịnh , tâng bốc nhiều khi làm hư hõng con người ta . Vua , quan hư hõng cũng vì sự ton hót bợ đỡ của nịnh thần .
   Có câu chuyện cổ tích kể một vị vua bị lừa thậm chí cởi truồng mà không hay cũng vì bọn nình thần dối trá . Ngày nọ có hai tên thợ may đến cung vua lãnh may cho vua bộ hoàng bào bằng vàng . Chúng lãnh vàng xong , hàng ngày vào phòng giả bộ cắt cắt may may . Bọn chúng tung tin rằng bộ đồ này rất đặc biệt , chỉ người nào thông minh mới nhìn thấy được mà thôi . Đến hôm nhà vua thử bộ đồ “ không thấy “ thì cả đám nịnh thần đều khen là tuyệt đẹp “ là “ quý phái “ ,vv…Thậm chí nhà vua cũng nghĩ là mình đang mặc hòang bào  “ lộng lẫy’ , mà vì mình không thông minh nên không nhìn thấy đó thôi .. Nếu không có cậu bé thật thà reo lớn “nhà vua cởi truồng’ thì không biết nhà vua còn bị những lời dối trá gây ảo tưởng và làm trò cười đến bao giờ .
   Nói láo bằng cách tạo ra huyền thoại cũng là sách lược của Hitler- nhà độc tài phát xít Đức -  Hitler cố tình dịch sai , hiểu lệch triết lý siêu nhân của Nieztche – triết gia của Đức . Bộ máy thông tin tuyên truyền của Đức Quốc xã  rao giảng  rằng dân tộc Đức là dân tộc siêu nhân , rằng chủng tộc Đức là chủng tộc ưu việt và rằng nước Đức xứng đáng làm bá chủ hoàn cầu .. Người dân Đức lúc bấy giờ bị nhồi nhét tư tưởng siêu nhân rồi tôn thờ Quốc trưởng Hitler như một vị thánh . Huyền thoại siêu nhân ăn sâu vào trong  huyết quản của dân Đức . Do vậy mà  khi xung trận lính Đức cứ tưởng mình là siêu nhân nên không sợ chết ; cũng vì thế mà Đức quốc xã đã chiếm gần hết Châu Âu .
  Ngoài sách lược tạo ra huyền thoại còn có bí quyết THAY ĐỔI CÁCH NÓI LÁO . Khi cảm thấy nói láo nhiều lần sợ người ta không còn tin nữa bèn nghĩ ra cách nói láo mới – kiểu bình mới rượu cũ .. Chú Cuội là nhân vật điển hình về xão thuật nầy .Cuội lừa gạt chú thím mình không biết bao nhiêu lần mà lần nào cũng thành công cũng là nhờ biết thay đổi cách nói láo tùy tình huống , tùy thời điểm , tùy hoàn cảnh , tùy địa điểm , không gian thích ứng .Vì vậy cho nên mới có thành ngữ nói láo như cuội , hứa cuội , …
 Một trong những hình thức thay đổi cách nói láo là đổi cách gọi tên sự vật , sự việc để đánh tráo khái niệm hay ý nghĩa của một danh từ , của một cụm từ vốn ổn định trong tự điển .. Để cho người ta dễ dàng tin theo mình trước một sự việc  nên phải đánh tráo một khái niệm nầy bằng một khái niệm khác .Ví dụ có một phóng viên nhà báo bào chữa cho hành vi nhận tiền hối lộ của một quan tham , anh ta dùng cụm từ hoa mỹrối loạn cảm xúc !
Đánh tráo cụm từ ham tiền hám lợi bằng mỹ từ rối loạn cảm xúc !
  Gần đây lại xuất hiện cụm từ “ nhà ngoại cảm “thay cho từ “ thầy bói “, “ phù thủy “. Trong tự điển chỉ có các từ chiêm tinh gia , nhà tiên tri ,nhà toán số ( như Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm )chứ không có từ “ nhà ngoại cảm “ .
 Các “nhà ngoại cảm “ nầy thi nhau tham gia tìm mộ liệt sĩ và được bộ trưởng LĐTBXH cấp giấy khen . Về sau , khi phát hiện hài cốt được tìm thấy chỉ là xương thú thì mọi người kinh hoàng cho cái láo đã đến mức thượng thừa ! Việc phát hiện sự vụ lừa dối nầy đã khiến cho bà bộ trưởng lấy làm bàng hoàng và vô cùng hối hận vì đã trot tin những kẻ lừa đảo  !
  Cũng trong những năm gần đây có một khoa học mới gọi là khoa học tiềm năng để thay cho “ khoa học huyền bí “ ( sciène mystère ). Nhà nước lại mở ra viện nghiên cứu ứng dụng tiềm năng con người với kinh phí đầu tư đáng kể .. Các nhà ngoại  cảm là thành viên , là học viên của viện nầy . Sự đánh tráo khái niệm nầy không biết sẽ còn gây ra hệ lụy gì nữa đây .
 Riết rồi sự dối trá lừa mỵ đã được xã hội hóa . Ngay trong nhà trường cũng không tránh khỏi . Dẫn học sinh đi  du lịch , dã ngoại thường được thay thế bằng cụm từ “ Về nguồn “ , “ Tìm hiểu lịch sử “ , vv…Người lớn không trung thực khó mà giáo dục trẻ con thật thà . Nhiều học sinh mang giấy khen giả về khoe với phụ huynh để vòi tiền . Thầy cô thì lập thành tích bằng cách nâng điểm  cho học sinh vô tội vạ , báo cáo không đúng thực trạng chất lượng  học sinh , tạo ra tình trạng vô số học sinh ngồi nhầm lớp .
    Thật là trớ trêu khi  vừa rồi có một phụ huynh phát hiện con mình ngồi nhầm lớp bèn đến nhà giáo viên chủ nhiệm " xin cho cháu được ở lại lớp vì tôi thấy học lực cháu học còn yếu quá  " . Cô giáo xanh mặt phản đối :Bảng điểm đây , anh xem đi , cháu đủ năm phẩy mà , làm sao ở lại lớp cho được !! Vậy đó , người ta đôi khi lại không dám chấp nhận sự thật ; bằng lòng và khư khư tin vào cả những dối trá do mình tạo ra .
 Trung thực là nét đẹp văn hóa , là thuộc tính của văn minh . Còn nhớ em bé Nhật 9 tuổi trong trận động đất sóng thần năm nào đã làm nhiều người kinh ngạc thán phục . Tại sao lại thán phục khi đó chỉ là một hành động đúng đắn tất nhiên của một con người có giáo dục ? Phải chăng xã hội ta đã nhiễu nhương đến mức phải kinh ngạc trước một sự việc bình thường của một con người văn minh !

Đất nước ta , dân tộc ta , vốn có truyền thống tín nghĩa từ rất lâu dời . Con đường hán học xuống dốc khiến cho  cái đạo của người quân tử bị mai một . Khái niệm người quân tử bị nhòe đi trong ký ức của mọi người .
 Con người chính nhân quân tử phải có đầy đủ các đức tính : nhân , nghĩa , lễ , trí , tín .. Trong đó chữ tín rất quan trọng về phương diện lập thân .. Bởi vì người xưa từng nói : Nhân vô tín bất lập ! Người quân tử nói ra điều gì mà họ có khả năng làm được , không nói suông , hứa suông :Quân tử nhất ngôn . Chính vì vậy mà người quân tử thường vô cùng cẩn trong trong lời nói của mình bởi vì nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy ! Trái lại những kẻ tiểu nhân thì lúc nào cũng ngoa ngôn xão ngữ !

Nói láo có thể thành công nhiều lần nhưng không thể thành công mãi được .. Bởi sự thật muôn đời vẫn là sự thật .Galilé bị giáo hội Ky Tô đưa ra tòa án dị giáo về tội đã nói trái đất quay , ngược lại với quan điểm của giáo hội  . Sau khi  phải tuyên bố theo những gì giáo hội bắt buộc ; ông mới được tha . Nhưng khi quay trở xuống dưới chỗ ngồi ông lại lẩm bẩm :“dù sao trái đất vẫn quay”. Thật là một con người chân chính !
   Nói láo - ngoài một số trường hợp nhân đạo như bác sĩ nói dối tình trạng bệnh của bệnh nhân – không những không thành công mãi được mà còn để lại những di chứng khôn lường cho nền văn minh văn hóa của cả dân tộc .




Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thơ ơi xin đừng buồn dù ai đó có nói gì đi chăng nữa:

Văn chương thời nay như mớ giẻ rách.


Nguyễn Thông
Một nhà văn đáng kính (từng có truyện đăng trên báo Thanh Niên) vừa gửi cho tôi ít dòng, than rằng: "Bác có stt về Rằm tháng Giêng, mệt với các nhà thơ. Có lẽ tôi mệt với họ hơn cả

Ngày Thơ năm nao tôi cũng được quay phim các lễ lạt về Ngày Thơ. Năm nay có thông tin thế này, biếu bác: Đầu tiên dự định đặt tiêu đề cho Ngày thơ 2014 là "Từ Điện Biên đến Trường Sa". Sau khi họp báo lần 1, các nhà báo hỏi: Thế Hoàng Sa thì sao? Ban Tổ chức (bác Hữu Thỉnh) bèn đặt lại: Từ Điện Biên đến Hoàng Sa, Trường Sa. Mọi người tưng bừng chuẩn bị thơ phú về biển đảo, về chống bành trướng, nhớ 17/2... vân vân. 

Đùng cái, có "chỉ đạo", rằng không được nói đến Hoàng Sa. Họp lần 2, các nhà văn đều bực, bị ép, đành chuyển thành "Mùa Xuân- Đất Nước" như mọi năm. Đa số muốn giữ lại cái tên "Ngày Thơ VN 2014, Từ Điện Biên đến Hoàng Sa, Trường Sa", nhưng chắc là ai cũng biết không được. Chính thức thì Chánh văn phòng Hội Nhà văn thông báo có "chỉ đạo" chỉ được đọc 01 bài thơ về Hoàng Sa, và duy nhất 1 bài thơ về chủ đề chiến tranh biên giới phía Bắc 17/2, còn lại thì cứ "mùa xuân - đất nước" mà diễn. 

Chúng tôi cũng ngao ngán. Tâm trạng của bác cũng giống chúng tôi thôi. Nhưng có lẽ chúng tôi còn phải làm việc với lũ chúng nó, nên bi kịch và đau khổ là không kêu lên được. Năm nay sẽ chỉ làm lễ lạt ở Văn Miếu rất thường, ngắn gọn và không tổ chức đêm. Có chỉ đạo cả. Chúng nó sợ nhất là có biến".

Sau khi nghe thở than của ông bạn văn, tôi suýt ngất.


Kinh thật. Văn chương thời nay như mớ giẻ rách. Ông bà nào có ý định tham gia Ngày Thơ 2014 thì nên nghĩ lại.

Nguồn: FB Nguyễn Thông

Phần nhận xét hiển thị trên trang