Tại sao nói pháp Phật là thuốc chửa bách bịnh? Vậy bách bịnh này căn bản nằm ở đâu? Mà pháp Phật sao hay quá vậy?
Bách bịnh của con người căn bản là do tâm trí sinh ra hết. Người ta cứ tưởng bên ngoài vào, nhưng chẳng qua con người căn bản nhận thức bên ngoài bằng tâm trí mà thôi. Cái bên ngoài chỉ là cái cớ cho chúng ta đổ thừa lung tung. Nhưng nếu điều chỉnh được tâm trí cân bằng, thì cái bên ngoài tự nhiên cũng khác.
Nhưng làm sao cân bằng tâm trí được đây?
Vì vui quá, tài giỏi quá, sướng quá, thì tham lam ngã mạn dâng cao. Khổ quá, buồn quá, xui xẻo quá, thì mặc cảm tự ti tuyệt vọng. Rồi thành đạt bên ngoài đời sống, được ca ngợi nhiều quá, thì tự cao tự đại kiêu ngạo tự hào. Còn không có gì hết lại tự huyễn hoặc mình mơ mộng xa vời này kia... Và như có mấy người thấu hiểu được nhân gian, có thánh trí hơn người, thì lại ngông cuồng, gàn dở. Từ đó làm mọi người ngẫn ngơ bàng hoàng, chả biết thằng này điên hay tỉnh, thiên tài hay hoang tưởng đây?
Nói chung con người nhỏ bé sống trong vũ trụ bao la. Và luôn bị chằng chéo bởi nhân quả, trùng trùng duyên khởi mịt mù chẳng đầu chẳng cuối, thì biết đâu mà rờ? Từ đó mọi sự phó mặc cho thực tại đời sống hết. Nên nó thay đổi thì tâm trí chúng ta lộn nhào...
Do đó căn bản tâm trí con người là luôn luôn bị động trước thực tại...
Vậy nếu ai biết cách tự cân bằng tâm trí được thì tốt. Còn không biết thì có thể học thêm pháp Phật để áp dụng vô chữa trị là xong...
Phật hay thiền chỉ là để cân bằng tâm trí thôi. Đừng hiểu nhiều thêm như thế vô ích...
Tại sao người ta quyết định đủ thứ việc lớn lao mệt óc. Mà sao không quyết định rằng: Từ nay tui phải dễ thương nhỉ?
Tháng 2 năm nay, những cây đào Tổng Chúp, Hưng Đạo, Cao Bằng bỗng dưng đỏ loét trong cái nắng trái mùa. Trên đồn biên phòng Pha Long, Lào Cai, thật lạ, chỉ duy nhất một gốc đào đơm hoa. Còn ở pháo đài Đồng Đăng, Lạng Sơn, những cây đào khoe sắc vô duyên bên nền đá xám xịt và lau lách tùm lum của một pháo đài hoang phế đã đi vào quên lãng.
Một số phận
Trong ngôi nhà nhỏ ở dốc cầu Nà Rụa, phường Tân An, Cao Bằng, bà Nguyễn Thị Quỳ cũng có một cành đào nhỏ trước ban thờ chồng, người 35 năm trước bất đắc dĩ trở thành “tù binh chiến tranh”.
Câu chuyện liên tục ngắt quãng khi đôi vai của người phụ nữ nhỏ nhắn run lên bần bật trước những hồi ức từ 35 năm trước. Chiến tranh đã lấy đi của bà một đứa con. Và sau 35 năm, vết thương ấy chưa bao giờ lành khi hàng đêm, hình ảnh đứa nhỏ tím tái chết trong mưa lạnh vẫn ùa về như một nỗi kinh hoàng không bao giờ phai nhạt.
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt.
Sáng 17.2.1979, trời rất mù và lạnh. Từ thị trấn Nước Hai, bà Quỳ chỉ còn biết cắm đầu cắm cổ chạy loạn khi tiếng pháo của lính Trung Quốc “như bom Mỹ rải thảm” khắp nơi. Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, người sản phụ khốn khổ đang mang thai đến tháng thứ 9 chỉ còn biết vác bụng lặc lè để chạy.
“Cô chạy vào núi đá Mỏ Hách. Rồi từ Mỏ Hách chạy sang Đại Tiến. Chạy ngược với tiếng pháo”. Đám người chạy loạn bị lính Trung Quốc phát hiện, truy đuổi, và lại tứ tán khắp nơi. “Chúng nó đông lắm cháu ơi! Đâu đâu cũng thấy lính Trung Quốc”.
Trong gần một tuần lễ trốn trên động đá, bà Quỳ đau đẻ trong cái đói, trong cái rét, trong trời mưa lạnh, trong tối tăm mò mẫm. Không một hạt gạo mang theo. Không một tấm chăn. Cả đám người đói khát, rét mướt và lo sợ đến hoảng loạn. Chỉ ngay phía dưới, lính Trung Quốc đông lúc nhúc, vây hãm khắp nơi.
Những con người khốn khổ lấy nước bằng cách hứng từ giọt gianh trong một tấm nilon rộng chừng 2 bàn tay. Ăn tất cả những gì mà ban đêm mấy người đàn ông mò mẫm được từ bờ cây, gốc sắn… ngay sát nơi lính Trung Quốc dựng trại.
Đến hôm đau đẻ, bà được đồng bào gom cho thìa đường cuối cùng, hòa với vốc nước “để có sức mà đẻ”. Đứa con đầu lòng được sinh ra trong hang đá nhưng 3 hôm sau thì qua đời.
Bia thảm sát tại Tổng Chúp, Hưng Đạo, Hòa An, Cao Bằng. Bà Hậu, một người dân Tổng Chúc xưa từng cắp con chạy loạn bảo rằng: Bà không thể quên những ngày tháng 2 năm ấy
“Cô sinh cháu và gói trong một chiếc áo. Và rồi đó cũng là chiếc áo liệm”- người cựu binh chống Mỹ khốn khổ đưa tay lên dụi mắt. Những giọt nước mắt mờ đục lăn dài trên khuôn mặt “một ngàn nếp nhăn” tưởng chừng đã không còn có thể đau khổ được nữa: “Lúc đó cô yếu quá, bỏ mấy đồng nhờ một ông già mang cháu đi. Chắc vứt nó ở một đâu đó”.
Nhưng bi kịch chưa dừng lại ở đó. Đêm ngày 25.2, người chồng nửa đêm đi kiếm ước uống bị sa vào tay lính Trung Quốc. Ông bị giam giữ cho đến ngày 3.6 và từ sau đó, những đồng nghiệp của ông ở Ty Thể thao Cao Bằng cho biết ông bỗng dưng có thói quen ăn cơm với nước lã.
Còn bà Quỳ, quãng thời gian trong động đá và cái chết bi thảm của đứa con đầu lòng khiến bà trở nên trầm uất suốt 3 tháng. Tuyến sữa viêm tắc khiến sau đó người phụ nữ khốn khổ phải cắt đi một bên ngực.
35 năm, bằng đấy thời gian chưa đủ để bà Quỳ quên đi hình ảnh đứa con đầu lòng chết tím tái. “Đau xót lắm cháu ơi. Cô đi cúng, Thầy bảo nó không có nhà, lang thang ở một gốc cây nào đó”…
Không chỉ Bệnh viện Hòa An bị đánh sập, cả thị xã Cao Bằng lỗ chỗ tổ ong như vừa trải qua “một trận B52 mặt đất”, không còn thứ gì cao quá 1m. Bách hóa tổng hợp, một biểu tượng của Cao Bằng bị hủy hoại đến không còn một viên gạch lành.
Chị Hoài Phương, phóng viên của Đài truyền hình Cao Bằng, năm đó 9 tuổi, đến giờ vẫn không thể quên hình những xác người bị súng phun lửa đốt cháy trên mặt đất. Khắp nơi.
Ông Nguyễn Duy, Phó Chủ tịch Hội cựu chiến binh Hòa An nhớ lại: Đến ngày 20.3, cả thị xã vẫn như một đụn khói lớn. Chiều 29.3. Không một chiếc xe, không một người dân đi trên đường. Kho lương thực còn cháy nghi ngút. Thị xã tan hoang khi lính Trung Quốc trước khi rút đã ốp mìn giật đổ từng cây cầu, từng cột điện. Cái gì lấy được thì lấy hết. Cái gì không lấy được thì phá hết.
Khi giặc đến nhà
Ngày 17.2.1979, Trung Quốc đã dùng một lực lượng quân sự chính quy lên tới 60 vạn quân tấn công Việt Nam trên khắp chiều dài 1.200 km biên giới 6 tỉnh phía Bắc. Cao Bằng chính là một trong những trọng điểm đánh phá của quân đoàn 41A với sự tham gia của xe tăng và pháo binh.
Theo nhận định của Xiaoming Zhang trong một nghiên cứu đăng trên tạp chí China Quarterly tháng 12.2005, cuộc tấn công của Trung Quốc phụ thuộc phần lớn vào việc nhanh chóng chiếm được Cao Bằng.
Nhưng hai mũi tấn công không đến được mục tiêu trong vòng 24 tiếng. Khu vực đồi núi cùng kháng cự của dân quân Việt Nam tạo ra khó khăn lớn. Việc đi chậm khiến Xu Shiyou, lãnh đạo cánh quân Quảng Tây, phải hoãn cuộc tấn công vào Cao Bằng, mặc dù phó tướng Wu Zhong đã đến sát thành phố này ở mạn phía đông và nam.
Trong một bài phát biểu được nhà nghiên cứu Dương Danh Hy dịch ra tiếng Việt ít năm trước, nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đó là Đặng Tiểu Bình đã xác nhận đó là cuộc chiến "giết gà đã phải dùng dao mổ trâu". Cụ thể “vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là năm đánh một, sáu đánh một, chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí sáu đánh một, bảy đánh một”.
Vì sao ở Cao Bằng, chiến tranh lại đồng nghĩa với tàn phá như vậy?
Trang mạng quân sự milchina.com của Trung Quốc 3 năm trước đã cho đăng thư của một cựu chiến binh Trung Quốc từng tham gia chiến tranh biên giới 1979 phần nào giải thích lý do: "Mục đích của cuộc chiến tranh này là tàn phá, hủy hoại quốc lực của Việt Nam chứ không phải là chiếm lĩnh lãnh thổ, nên sau hai ngày đánh nhau, lính tham chiến bắt đầu chấp hành mệnh lệnh bán chính thức là “không bắt tù binh”, “không để lại cho Việt Nam một lá cây ngọn cỏ”.
Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư tỉnh ủy rưng rưng nước mắt. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng giai đoạn 1979-1992 nhớ lại: Bấy giờ, tình trạng tranh chấp, lấn chiếm và vấn đề người Hoa đã khá căng thẳng, nhưng không ai nghĩ là chiến tranh xảy ra. Chủ trương của ta là đưa thanh niên ra biên giới tổ chức các lâm nông trường. “TƯ xác định cũng phải đề phòng, nhưng là phòng xích mích biên giới thôi”- ông Tường nói.
Tỉnh ủy Cao Bằng bấy giờ chủ trương đưa một số bộ đội về một số xã để củng cố đội ngũ cán bộ. Quân đội không có ở Cao Bằng. Lực lượng công an vũ trang chỉ có ở cấp tỉnh chứ cấp huyện là không có người. Cả thị xã bấy giờ chỉ có 1 một trung đoàn bộ đội địa phương (E567), nhưng cũng chủ yếu là làm kinh tế. Đến đội ngũ dân quân tự vệ, “có thì có đấy, căng thì căng như thế nhưng đã được phát súng đâu”. Thậm chí khi chiến tranh đã nổ ra, có thêm một sư đoàn được thành lập, nhưng lúc đó cũng chưa có quân”.
Ông Vương Dường Tường, nguyên bí thư tỉnh ủy Cao Bằng
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng, thời điểm 1979 đeo quân hàm trung sĩ, tiểu đoàn 40 Bộ đội địa phương còn nhớ như in là khi xe tăng Trung Quốc vượt cầu Sông Hiến vào đến tận dốc Nà Toòng, đại đội 3 phòng không của trung đoàn 567 phải thay đạn, chúc nòng pháo 37 ly xuống để bắn xe tăng bằng đạn xuyên.
Chính ông Hùng là một trong những người đầu tiên chạy bộ đạp lá sa mộc đến bên xác xe tăng còn nghi ngút khói.
“Chúng tôi chỉ có 3 khẩu súng AK để bảo vệ trận địa”, ông Hùng nói, “về sau, khi lính Trung Quốc lên quá đông, đơn vị đã phải tháo súng (pháo) để rút”.
Theo Xiaoming Zhang, đến ngày 23.2, Trung Quốc mới chiếm được Cao Bằng sau khi nhận ra nơi này chỉ có một số lượng nhỏ quân Việt Nam cố thủ. Nhưng sự chậm chân khi chiếm Cao Bằng đã ngáng trở kế hoạch ban đầu của Trung Quốc, vốn nhấn mạnh việc tác chiến nhanh và quyết liệt.
Cao Bằng có gì để chống lại 6 sư đoàn chính quy với xe tăng và pháo binh yểm trợ?
“Dân Cao Bằng sẵn biết Trung Quốc rồi. Ở đâu cũng đánh, gặp đâu cũng đánh, ai cũng đánh. Một, hai người cũng đánh. Chặn khắp nơi”- ông Vương Dương Tường nói.
Ở Hòa An, dù lúc đó mất hoàn toàn liên lạc, một nhóm cựu binh vẫn tự tập hợp nhau lại lập chốt đánh địch. Nhặt được cái gì thì đánh được bằng cái đó. Ở Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hà Quảng đều có những chốt đánh địch như vậy.
Người Cao Bằng sau phút bất ngờ đã chủ động trở lại. Cho đến cuối cuộc chiến tranh, ở Cao Bằng “không ai theo địch, không ai đầu hàng, không ai phản bội”- giọng người cựu bí thư già rưng rưng. Bao đời nay vẫn vậy, mỗi khi giặc đến nhà thì mỗi một người dân chính là một người lính.
Tháng 2 năm nay, trên nền bách hóa tổng hợp bị đánh sập năm xưa, một siêu thị mới đã được dựng lên, cho dù người Cao Bằng vẫn gọi đó là Tổng Hợp Đổ.
Còn người nữ cựu binh Nguyễn Thị Quỳ, đến giữa câu chuyện, bỗng bất ngờ hỏi lại chúng tôi: “Sao các cháu không hỏi vì sao tháng 2 năm ấy cô không đi tìm một cây súng? Và rồi, bà quả quyết tự trả lời: “Năm xưa, cô phải chạy giặc vì lúc đó đang mang bầu, không muốn ảnh hưởng đến anh em đồng chí. Còn nếu bây giờ giặc đến nhà, cô sẽ tìm một khẩu súng. Nếu cô già yếu không đánh được, những đứa con của cô sẽ cầm súng".
Con gái bà, một cô gái niềng răng sinh năm 1988 sau đó nói sẽ đưa chúng tôi vào Tổng Chúp, dù ở Cao Bằng, không còn nhiều người biết đến những gì xảy ra tại Tổng Chúp 35 năm trước, dù theo lời cô bé: "nơi đó giờ đã hoang vắng lắm rồi anh ạ”.
“Ai cũng chỉ nói chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi. Chứ anh em đồng chí, ai nghĩ là sẽ đánh nhau”- 35 năm sau, nguyên Bí thư tỉnh Cao Bằng vẫn còn khắc khoải câu chuyện xảy ra năm 1979.
Ở Bát Xát, Lào Cai, khi pháo Trung Quốc bắt đầu bắn sang từ phía bên kia biên giới, ông Nguyễn Văn Tuyến, đại đội trưởng tự vệ Đoàn địa chất 305 (Đoàn 5) đang ở Bản Vược, ngay trong tầm súng trường lính Trung Quốc.
“Chúng tôi vẫn pha trà uống. Chiến sự vẫn liên miên từ trước đó, đêm nào cũng có tiếng súng, cho nên không ai ngờ Trung Quốc đánh lớn”- ông nói.
Chỉ trước khi cuộc tấn công diễn ra 48 tiếng, cả dân lẫn lính Trung Quốc vẫn “sang bên này xem chiếu bóng bình thường".
Ông Tuyến từng là lính trong chiến tranh với Mỹ, sau chiến tranh làm Phó Chủ tịch HĐND huyện Bát Xát, nhớ lại: "Khi pháo Trung Quốc chuyển làn, ông mới giật mình hô anh em vì cảm giác rằng bộ binh Trung Quốc sẽ sang. Mấy người hoảng hốt chạy ra đến đến ngã ba Bản Vược thì khắp nơi đã tràn ngập màu áo lính đang vận động từ phía trong ra điểm chốt của công an vũ trang. Chúng tôi tưởng bộ đội mình đã lên ngay thành thử súng cầm trong tay mà không bắn”.
Từ trong hậu phương, lính Trung Quốc tiến đánh từ phía sau đồn công an vũ trang và chốt tự vệ địa phương. Hỏa lực từ bên kia biên giới bắn sang như mưa rào. Đơn vị ông Tuyến cơ động ra đến chốt Cây 2 thì bị một khẩu đại liên chặn lại. Bấy giờ, anh em vẫn có người giơ súng, giơ cờ vẫy ra hiệu vì vẫn tưởng bộ đội mình bắn nhầm.
Chỉ một lát sau đó, từ khu vực bản Xèo, lính công binh Trung Quốc lao cầu phao và sau đó xe tăng Trung Quốc tiến sang. “Họ đã chuẩn bị sẵn hết rồi. Cây cầu phao thả ra trôi theo dòng nước là áp khít sang bờ bên này”, lời ông Tuyến.
Tự vệ bản Xèo hy sinh vô số kể. “Chúng tôi chỉ được trang bị trung liên và súng K63. Không có vũ khí chống tăng”- ông Tuyến nói.
Ông Nguyễn Mạnh Tường, Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh Bát Xát thời điểm tháng 2.1979 đang là lính sư đoàn 316, một trong hai sư đoàn chủ lực duy nhất hiện diện ở biên giới phía Bắc.
Sáng đó, đang ở Than Uyên, đơn vị ông có lệnh báo động. Ai cũng tưởng chỉ báo động hành quân dã ngoại, thành thử “có người chỉ mang theo một quả đạn, có người trút lại tượng gạo, và có người, chỉ mang độc một bộ quần áo trên người”.
Đơn vị ông Trường hành quân lên đến Sapa thì những người lính mới biết chiến tranh đã xảy ra, và sau đó chạm địch ngay tại đèo Ô Quy Hồ. 218 đồng đội của ông đã hy sinh trong trận đánh đó.
Bát Xát là “nơi con sông Hồng chảy vào đất Việt” với những địa danh anh hùng và đau thương: A Mú Sung, Y tý.
Những người lính biên phòng A Mú Sung trong ngày 17 tháng 2 năm ấy, đã đánh đến viên đạn cuối cùng và hy sinh oanh liệt.
Một góc pháo đài Đồng Đăng
Cú đánh trộm của "người anh em"
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Cao Bằng Trần Hùng nhớ lại, trưa ngày 17, khi một người dân chạy đến đơn vị báo tin xe tăng Trung Quốc đã vào đến Nước Hai, Hòa An, thủ trưởng của ông còn lệnh cho lính "trói nó lại” vì cho rằng người này phao tin đồn nhảm.
Vì sao quân dân ta lại bị bất ngờ trước một cuộc tấn công toàn tuyến với quy mô 32 sư đoàn?
Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương Tường, nhớ lại ở Cao Bằng hôm ấy, quân khu còn đưa các chỉ huy quân sự tỉnh về họp. Không ai biết Trung Quốc đánh mình. Ngay cả khi tiếng súng đã nổ vang từ hướng Hà Quảng, Thông Nông, trưởng ty Thủy lợi băn khoăn nói tiếng súng nhiều lắm, không biết súng ta hay súng địch. Một lãnh đạo Cao Bằng khi đó nói anh em cứ yên trí. Đó là súng mình.
Nguyên Bí thư Cao Bằng, Vương Dương Tường,
Ông Tường thừa nhận: "Cơ bản nhất là bấy giờ không ai tin anh em đồng chí lại đánh nhau", ông Tường nói.
Cao Bằng bấy giờ vừa tách tỉnh. Đến 1 giờ đêm, pháo Trung Quốc bắn phá dồn dập. Sáng ngày 17.2, lính Trung Quốc đã đến chân đèo Minh Tâm. 2 tiếng sau, xe tăng chúng đã vào đến Cao Bình, rồi vào đến Nà Tàu. Pháo binh Trung Quốc dồn dập nã xuống Nà Tản.
Ngày 18.2, lính Trung Quốc đã vào đến Hòa An, Cao Bình. Đến ngày 19, khắp nơi đã bị đốt phá giết chóc.
“Ai cũng nghĩ là chỉ tranh chấp biên giới. Ai cũng chỉ xác định là giữ đất thôi. Tin là đồng chí với nhau, chỉ gây sự, chỉ ghen ghét thế thôi, ai nghĩ là sẽ đánh nhau” - ông Tường nói, và theo ông, 35 năm sau vẫn chưa hiểu nguyên nhân câu chuyện đã xảy ra.
Cho đến năm 1992, khi các cơ quan của Bát Xát, Lào Cai từ Mường Vi trở lại Bản Xèo thì “vẫn chỉ có cỏ may và đất đỏ”.
Chúng tôi trở lại Đồng Đăng, Lạng Sơn vào đúng ngày lễ Đền Mẫu, lễ lớn nhất Lạng Sơn, nằm ngay dưới chân pháo đài Đồng Đăng.
Từ 35 năm nay, mỗi dịp tháng hai, đại tá Triệu Quang Điện, Trưởng phòng cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn vẫn đến đây thắp hương tưởng nhớ những người đồng đội của mình.
Ông Điện được phong Anh hùng lực lượng vũ trang sau cuộc chiến tranh biên giới 1979, và sau 35 năm, ông vẫn nhớ như in những cái tên Trần Văn Thái, Vi Văn Cao, những người đồng đội trong tổ tam tam và bữa cháo cơm nếp cuối cùng đêm 16.12.
Từ 35 năm nay, vào dịp tháng 2 mỗi năm, Đại tá Triệu Quang Điện, trưởng Phòng Cảnh sát truy nã Công an tỉnh Lạng Sơn đều đến đền Mẫu để thắp hương cho đồng đội của mình.
35 năm, thời gian chưa đủ để ông quên đi bữa cháo nếp cuối cùng. 35 năm, ông vẫn nhớ như in hình ảnh của những người đồng đội trong tổ tam tam: Những Trần Văn Thái. Những Vi Văn Cao.
Pháo đài Đồng Đăng và pháo hoa Trung Quốc
Năm đó, binh nhì Triệu Quang Điện vừa cưới vợ được 4 tháng, cũng vừa qua khóa huấn luyện 4 tháng ở Đông Khê, trở lại Lạng Sơn vào đúng buổi chiều ngày 16, khi phía Trung Quốc cho người đuổi trâu dò phá những bãi mìn biên giới.
5h sáng, khi pháo bắn cấp tập vào Đồng Đăng, ông cùng hai người đồng đội trong tổ thậm chí còn chưa kịp ăn nồi cháo gạo nếp đã đặt trên bếp để vội vã xách súng lên chốt ngay tại khu vực Đền Mẫu, pháo đài Đồng Đăng.
Tới 7h, sương còn chưa tan thì lính Trung Quốc đã kéo sang khắp nơi. Ba người kê súng bắn. Ông Điện, giữ súng trung liên bắn suốt 1 giờ đồng hồ.
“Hồi huấn luyện, tôi bắn bia được 3 điểm 9 - ông Điện nhớ lại - nhưng hôm đó, lính Trung Quốc lên quá đông, có lẽ là không cần bắn giỏi cũng có thể trúng”. Riêng tại chốt Đền Mẫu, binh nhì Điện đã tiêu diệt tới 30 lính Trung Quốc.
Lính Trung Quốc cứ theo tiếng kèn lớp lớp xông lên. Bị hắt ngược trở lại, rồi lại xông lên.
Trong một thời khắc, khi ông vừa nhảy xuống hào thay đạn thì chỉ nghe “bầm”. Ngoảnh lại, nơi 2 người đồng đội nằm chỉ còn lại một hố pháo đen xì. Không còn chút vết tích.
Tới 10h, xe tăng Trung Quốc đã tràn ngập khắp nơi. Pháo binh Trung Quốc nã đạn vào pháo đài trong suốt nửa ngày 18.
Bấy giờ trong hang Đền Mẫu, ngay phía dưới chốt của ông Điện có tới 300 - 400 dân tới tránh pháo.
Đến tối 18, đơn vị ông nhận được phương án đưa dân trong hang ra. Và chỉ trong một đêm, binh nhì Triệu Quang Điện trực tiếp đưa dân, ra ra vào vào 3 lần để cõng được ra 3 người đồng đội bị thương nặng.
Khẩu trung liên của ông giờ đang được trưng bày tại Viện Bảo tàng công an nhân dân.
Bia trấn ải ở Pha Long, Mường Khương, Lào Cai
Ít năm sau đó, khi gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong một buổi lễ, ông thậm chí không trả lời được vì sao chỉ trong 1 đêm, với quãng đường 17km, một người chỉ nặng chưa tới 49kg đã 3 lần bò vào cõng đồng đội bị thương ra nơi an toàn.
Chúng tôi theo lối mòn trèo lên pháo đài Đồng Đăng, nơi bị đánh phá ác liệt nhất trong cuộc chiến biên giới.
Vào ngày 17.2.1979, 2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc dưới sự hỗ trợ của 1 trung đoàn xe tăng và 6 trung đoàn pháo binh đã tấn công ác liệt nơi này.
Trong cuốn Lịch sử sư đoàn 3 Sao Vàng còn ghi rõ: Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh và nhân dân tới đây trú ẩn.
Tháng 2 năm nay, pháo đài trở nên cô đơn, trơ trọi giữa sự náo nhiệt của lễ hội Đền Mẫu.
Hoặc như ở chính cái nơi mà lính Trung Quốc xả súng vào chiếc xe cứu thương 12A 04-35 của bệnh viện Lạng Sơn đi Đồng Đăng cứu nhân dân bị thương, giết chết cả người lái xe, cả BS Nguyễn Thu Thủy, y tá Trịnh Thị Sâm, giờ một con đường mới đã được mở ra dập dìu xe cộ, hàng hóa thông thương qua cửa khẩu Hữu Nghị.
Ở Tổng Chúp có tấm bia ghi bại vụ thảm sát này. Tấm bia giờ vẫn còn sau 35 năm, dù chiếc giếng cạn, nơi năm xưa chứa đầy xác phụ nữ, trẻ em bị hành quyết bằng rìu bổ củi giờ đã lấp đầy cây lá.
Quá khứ không dễ quên. Nhất là khi đó là những gì đau thương nhất. Cho dù theo thời gian, những nhân chứng chiến tranh giờ đã lần lượt ra đi. Ông Hoàng A Tỉn, nhân chứng thảm sát trong sân Bách hóa tổng hợp Bát Xát đã mất 2 năm trước.
Đến Tổng Chúp, lại nghe tin ông Nông Văn Ất, nguyên trưởng trại giống Đức Chính, người đã mất vợ và 4 đứa con trong vụ thảm sát Tổng Chúp giờ cũng không còn.
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long
Nhưng cũng có những tấm bia trấn ải mới được dựng lên. Ngay bên tay phải đồn biên phòng tiền tiêu Pha Long, Mường Khương, Lào Cai, có những dòng chữ mới, được in trên bia đá:
Nguyên Thần Bổn Mệnh giữ núi non
Nam Sơn bốn cõi tựa sách trời định.
Thiên thiên nhật nguyệt linh linh ứng
Tuyệt tuyệt long phụng báo quốc an
Bình nhất hà Việt Nam Quốc thổ.
Thạc sĩ Đặng Vũ Cảnh Linh dịch: Nguyên Thần được giao sứ mệnh giữ núi non. Núi nam bốn cõi đã quy định trong sách trời. Nghìn nghìn mặt trời, mặt trăng linh thiêng và ứng nghiệm (điều đó). (Có) rồng phượng tuyệt vời bảo vệ an nguy tổ quốc. Đất Việt Nam yên bình nhất là ở đây.
Thiếu tá Phan Đức Mạnh, chính trị viên đồn Pha Long cho biết tấm bia trấn ải vừa được dựng hồi tháng 5, đúng vào điểm đối diện đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ. Bên này từng hàng, từng hàng tên tuổi của 37 liệt sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc được khắc chìm trong đá xám.
Năm ấy, những chiến sĩ công an vũ trang còn trẻ măng đã đánh đến viên đạn cuối cùng, đã đâm gẫy đến chiếc lưỡi lê cuối cùng để bảo vệ tổ quốc.
Ngày 17.2.1979, sau khi bắn viên đạn cuối cùng, một người lính Pha Long đã gửi bức điện cuối cùng về hậu phương. Và cũng chỉ vài chữ, đại ý: Chúng tôi hết đạn. Xin Vĩnh biệt.
Chợt nhớ đến những câu thơ Vương Trọng:
Mắt rưng rưng, dò đọc từng dòng
Gặp điệp khúc Tháng Hai năm Bảy chín
Lời vĩnh biệt nhói trời Pha Long.
… Đến lúc này tôi mới hiểu ra
Vì sao đường Biên giới bản đồ
Của Tổ quốc được tô màu đỏ!..
Năm nay, chỉ duy nhất một, trong số gần bảy chục gốc đào ở Pha Long đơm hoa.
Không xa Pha Long là điểm cao Tả Ngải Chồ, nơi một đồng nghiệp của chúng tôi, nhà báo, anh hùng liệt sĩ Bùi Nguyên Khiết đã tay bút tay súng hy sinh vào ngày 17.2.1979.
Có lẽ, chính những người lính biên phòng, chính những nhà báo liệt sĩ, chính nhân dân anh hùng, những người đã ngã xuống từ cả ngàn năm nay, những người đã hy sinh anh dũng trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược phương Bắc năm 1979 mới là những tấm “bia trấn ải” thiêng liêng nhất mà mỗi người làm báo chúng tôi cần phải nhắc lại để thế hệ con cháu còn có được cảm xúc thiêng liêng, tự hào khi nhắc đến hai chữ “Tổ Quốc”.
Theo tin từ tổ chức phi chính phủ Global Witness có trụ sở tại Anh quốc hôm qua 10/02/2014, đại diện 17 cộng đồng bản địa tại tỉnh Ratanakiri, Cam Bốt đã đệ đơn khiếu nại IFC (Tổng công ty Tài chính Quốc tế), định chế trực thuộc Ngân hàng Thế giới vì đã đầu tư vào Hoàng Anh Gia Lai (HAGL). Tập đoàn Việt Nam này từng bị tổ chức Global Witness tố cáo là đã lấy đất canh tác của dân địa phương để trồng cao su, ảnh hưởng đến môi trường và các vấn đề xã hội.
Thông cáo cho biết, đơn khiếu nại được các tổ chức Equitable Cambodia, Cambodian Indigenous Youth Association (CIYA), Indigenous Rights Active Members (IRAM), Highlanders Association and Inclusive Development International (IDI) đứng tên thay mặt cộng đồng bản địa, mô tả việc định chế này đã đầu tư vào các công ty vi phạm luật pháp cũng như chính sách xã hội và môi trường. Những người dân địa phương trong đó có người Jarai, Tampoun, Kachok và Kroeung bị mất đất khiến ảnh hưởng đến sinh kế, tập tục văn hóa và cách sống.
Lá đơn cũng nhắc đến báo cáo « Những ông trùm cao su » của Global Witness, trong đó nói đến những ảnh hưởng đối với dân địa phương ở Lào vì những hoạt động tại ba đồn điền cao su của HAGL.
Theo thông cáo trên, các khu rừng phong phú của Ratanakiri trong những năm gần đây đã bị tàn phá do đất đai được nhượng lại cho các công ty, chủ yếu để trồng cao su. Một trong số các công ty được hưởng lợi là HAGL nhờ sở hữu khoảng 5% diện tích đất đai. Trong số các nhà đầu tư vào HAGL có Dragon Capital, một quỹ đầu tư Việt Nam trong đó một phần vốn do International Finance Corporation (IFC) sở hữu.
RFI Việt ngữ đã đặt câu hỏi với bà Megan McInnes, trưởng bộ phận phụ trách vấn đề đất đai của Global Witness về vấn đề này.
RFI: Kính chào bà Megan McInnes. Thưa bà, Global Witness ủng hộ việc cộng đồng người Cam Bốt ở Ratanakiri khiếu nại IFC, phải chăng vì công ty này đầu tư vào Hoàng Anh Gia Lai - một tập đoàn bị cho là có trách nhiệm đối với môi trường và xã hội tại Cam Bốt và Lào?Bà Megan McInnes : Vâng. Global Witness hoàn toàn ủng hộ các cộng đồng bị ảnh hưởng tiêu cực từ các hoạt động của Hoàng Anh Gia Lai tại Cam Bốt đã đệ đơn kiện một trong những đơn vị đầu tư vào tập đoàn này là IFC. Các cộng đồng này đã cố gắng tìm công lý đối với việc họ bị mất đất cho HAGL và việc đền bù từ nhiều năm rồi, nhưng không hề có thay đổi. Do đó chúng tôi hiểu rằng họ thất vọng, đành tìm cơ hội ở cấp độ quốc tế. RFI : Tổ chức Global Witness có những bằng chứng về việc IFC thường thiếu minh bạch trong việc đầu tư, đặc biệt là Dragon Capital Group? Bà Megan McInnes : Có sự thiếu sót về tính minh bạch trong cách thức mà IFC theo dõi các đầu tư của mình vào Dragon Capital và sau đó đầu tư tài chính vào HAGL hay nói cách khác, các vấn đề liên quan đến các đồn điền cao su của tập đoàn này ở Cam Bốt và Lào đã được xác định trước đó.
Tuy nhiên, đây không phải là trường hợp duy nhất. Năm 2012, CAO (tức Compliance Advisor Ombudsman, đơn vị thanh tra việc tuân thủ của IFC) đã ra một báo cáo kiểm toán. Báo cáo chỉ trích rất dữ các “trung gian tài chính” trong các khoản đầu tư của IFC, chiếm gần một nửa danh mục và loại cơ cấu đầu tư mà qua đó HAGL đã nhận được vốn, cho thấy IFC không có phương tiện để biết được các tác động môi trường và xã hội của việc sử dụng quỹ này. RFI : Bà có nghĩ rằng việc khiếu nại của các cộng đồng trên có thể dẫn đến kết quả là họ lấy lại được đất? Bà Megan McInnes : Chúng tôi hy vọng khi nhận được khiếu nại này, IFC sẽ khởi động tiến trình hòa giải, với sự tôn trọng quyền của các cộng đồng bị ảnh hưởng và luật pháp Cam Bốt. Nếu HAGL muốn được coi là một công ty quốc tế có uy tín, thì sẽ phải tham gia và hỗ trợ cho tiến trình này.
Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân (phải) và Bộ trưởng các vấn đề Hoa lục Vương Úc Kỳ của Đài Loan trong cuộc gặp tại Nam Kinh ngày 11/02/2014
Trung Quốc và Đài Loan vốn xung đột tiềm tàng từ hơn 60 năm qua, hôm nay 11/02/2014 đã đạt được một hiệp định lịch sử về việc thành lập “càng sớm càng tốt” các văn phòng đại diện.
Các cuộc thương thảo giữa Bộ trưởng về các vấn đề Hoa lục Vương Úc Kỳ (Wang Yuchi) của Đài Loan và Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Trương Chí Quân (Zhang Zhijun) là những cuộc đàm phán đầu tiên giữa hai nước kể từ khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập từ năm 1949.
Cuộc thương lượng này đánh dấu một bước đáng kể trong đối thoại song phương, vượt lên trên các vấn đề kinh tế và thương mại, cho dù đôi bên không nêu ra các vấn đề chính trị nhạy cảm.
Ngoài việc mở các văn phòng đại diện cho hai tổ chức bán chính thức phụ trách việc thành lập quan hệ, Đài Loan và Trung Quốc còn thỏa thuận sẽ siết chặt quan hệ kinh tế. Đôi bên cũng đồng ý sẽ “giải quyết hợp lý” vấn đề chăm sóc y tế cho các sinh viên Trung Quốc theo học tại Đài Loan và ngược lại.
Tân Hoa Xã dẫn lời ông Vương Úc Kỳ nói về cuộc gặp với ông Trương Chí Quân tại Nam Kinh ở miền đông Trung Quốc, cho rằng đây là một “cơ hội không thể hình dung ra nổi trong quá khứ”. Về phía Trương Chí Quân thì tuyên bố với người đối thoại từ Đài Loan là đôi bên cần phải có “thêm một ít sáng tạo nữa” về tương lai quan hệ giữa Bắc Kinh và Đài Bắc.
Tháng 10 năm ngoái, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã nhận định một giải pháp chính trị giữa hai nước Trung Hoa không thể bị hoãn lại vô hạn định. Nhưng Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu sau đó cho rằng việc tiến hành các cuộc thảo luận chính trị không phải là cấp thiết, tốt nhất nên tập trung vào phương diện kinh tế.
Nam Kinh vốn là thủ đô của nước Trung Hoa được Quốc dân đảng lãnh đạo, cho đến năm 1949 khi phe này bại trận trước phe Cộng sản, phải chạy sang Đài Loan.
Có thể nói, nếu đạo đức khiến cho một xã hội được sống bình an và nhân phẩm, thì tài năng là thứ nâng cao chất lượng đời sống của xã hội lên. Chẳng hạn, với tài nấu nướng của đầu bếp chúng ta được thưởng thức những món ăn ngon miệng, với tài năng của nhạc sĩ chúng ta được nghe những âm thanh thánh thót, với tài năng của họa sĩ chúng ta được ngắm những bức tranh lộng lẫy sắc mầu, với tài năng của nhà văn, nhà thơ chúng ta được nghe và đọc những áng văn thơ bất hủ, với tài năng của các nhà khoa học chúng ta có biết bao phương tiện trợ giúp cho cuộc sống của mình đỡ vất vả… nhưng tài năng có phải tự nhiên có như cây bưởi ra quả bưởi, cây na ra quả na? Chắc là không bao giờ, vì cây bưởi thì ra bưởi nhưng nếu chúng ta không trồng cây, thì cây ra bằng cách nào? Trồng rồi không tưới tắm, không bón, không tỉa cành nhặt sâu thì cây sống cách nào? Hay chúng ta chỉ có cây mọc tự nhiên và ăn quả dại? Nước biển có sẵn nhiều lắm, Việt Nam có hơn 3200 cây số bờ biển, nhưng muối không tự có bằng cách chui ra khỏi nước biển, mà nó phải được con người phơi nước gạn lọc để làm muối!
Bàn về tài năng, mới đây nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa có trả lời phóng viên Mặc Lâm trên sóng RFA ngày 04/01/2014, có nói: Mặc Lâm:Vâng thưa ông đúng là nhà văn khi ngồi vào bàn họ không nghĩ đến chủ nghĩa này chủ nghĩa kia nhưng cái mà họ nghĩ tới là làm sao tránh những cán bộ văn hóa nghĩ như thế… làm tự do của họ bị giới hạn trong khi viết… Trần Đăng Khoa: Nếu gọi cái sự mất tự do thế này thế kia thì tôi nghĩ cũng không phải đâu. Trước đây cái thời của cụ Nguyễn Du còn kinh hoàng vì thời phong kiến mà. Thậm chí một tác phẩm viết như thế nào đó có thề làm tác giả bị tru di đấy chứ. Thế nhưng thời đó vẫn có một Nguyễn Du, có rất nhiều tác giả lớn và theo tôi tôi cho vẫn là tài năng của nhà văn, cái đó quyết định hết tất cả. Chúng ta không có những tài năng mới, chúng ta không có được ngòi bút lớn không có tài năng chinh phục độc giả thì làm sao ta có thể ra được với thế giới. Tôi nghĩ tất cả nguyên do từ đấy thôi. Theo Trần Đăng Khoa thì “tài năng nhà văn quyết định tất cả”. Có đúng không? Sở dĩ tôi muốn bàn vào vấn đề này, bởi lẽ Trần Đăng Khoa đại diện cho rất nhiều thậm chí tất cả đội ngũ nhà thơ vẫn ăn và còn luyến tiếc ăn tem phiếu bao cấp khi được hỏi về môi trường sáng tạo Việt Nam thì đều đổ cho “tất cả là tài năng”. Đây là đặc trưng sai lầm của tư duy “duy vật ấu trĩ” chỉ có ở Việt Nam. Việt Nam trong nhiều thập kỷ chọn Chủ nghĩa duy vật, nhưng sau đó chúng ta phát hiện, người Việt đã rơi vào “duy ý chí” nặng nề, duy ý chí cũng chính là Duy tâm, trong khi chủ nghĩa Mác nói “Hiện thực Khách quan quyết định chủ quan” thì mấy anh cán bộ văn thơ còi trí tuệ lại bảo “tài năng quyết định hết tất cả”. Nói thế khác gì bảo “chủ quan quyết định tất cả”?! Giờ chúng ta hãy thử bàn vào một câu chuyện đơn giản dễ hiểu bậc nhất của Đức Phật để không thể à uôm. Đức Phật hỏi một môn đồ: - Anh có thấy cái cây ở ngoài sân kia không? - Có! - Cái nhìn ở mắt anh hay ở cái cây? - Ở mắt tôi! - Giả sử bây giờ không có cái cây đó, thì mắt anh nhìn nhưng có thấy không? - Không! - Vậy cái nhìn của anh ở đâu? - Ở cái cây! - Vậy anh thử nhắm mắt vào xem có thấy cái cây không? - Không! Cái nhìn cả ở mắt tôi và cả ở cây. - Vậy giờ nếu mắt anh vẫn nhìn, cái cây vẫn ở đó, mà trời tối đen như mực thì mắt anh có thấy cây không? - Không! - Và nếu ngay lúc này, người ta đóng cánh cửa lại, thì anh có thấy cây không? - Không! - Vậy cái nhìn thấy cây ở đâu? - Tôi không hiểu! Đức Phật liền giảng giải: anh muốn thấy cây, tức anh phải có chủ quan, có cái cây kia – tức là có khách quan, nhưng nếu không có nhân duyên là ánh sáng, hay cửa mở anh cũng không thấy cái cây. Vì thế mọi sự ở đời luôn cần có: chủ thể, khách thể và nhân duyên. Giống anh và tôi hôm nay nói chuyện ở đây, lúc này, vì có chủ, có khách, có cơ hội, có địa điểm, nghĩa là có cả nhân duyên cho chúng ta gặp gỡ… Trần Đăng Khoa và nhiều người nói “tất cả là tài năng” là cách đổ tội cho các cá nhân. Giờ thử hỏi TĐK, tại sao nhiều người nói tài năng của Hội Nhà văn hiện nay mỗi ngày một lão hóa? Chẳng lẽ thế hệ trẻ vẫn chưa được đẻ ra, nghe nói dân số nước ta tăng không ngừng mà, chẳng lẽ điều này không đúng? Đã có bao giờ lãnh đạo Hội ra báo động không ngừng về cái gọi là nguy cơ đổi gác chưa? Và lời báo động này có nấp sau báo động chính trị, hoặc tìm cách đồng hóa vào chính trị để ẩn nấp không? Nếu ngành nghề nào muốn trẻ hóa cán bộ hay tìm người kế nhiệm mà cứ bị buộc tội là “đổi gác” thì ai dám làm, và có phải như vậy cơ quan chỉ còn toàn các ông bà già cứ phải giả đò móm mém cười duyên để diễn vở: vì không có ai nên chúng tôi phải diễn tích cải lão hoàn đồng? Có một phương ngôn “Năng lực của người ta sẽ trở nên không giới hạn, nếu người ta được phát huy hết cỡ sở trường của mình”. Thử xem, mấy anh nhà thơ rặt rẹo cứ được trải chiếu vàng đăng đi đăng lại thơ nhạt của mình trên báo, rồi tăng chức, rồi ẵm giải, có phải báo Văn Nghệ đang báo động tình trạng sụt giảm vì lý do “các nhà văn, nhà thơ giỏi không chịu gửi bài” là có thực, hay là vì các ông cứ đem sắn khoai nghê nga cây nhà lá vườn hết đát “biết rồi, khổ lắm, nói mãi” lên sân nhà bao cấp phơi, nó mới thành như vậy? Nếu không phải vì lý do này thì lý do nào? Tất cả do tài năng ư? Cứ cho là vậy. Nhưng tài năng là gì chứ không thể à uôm theo cách nói của mấy ông bà nông dân. Hãy xem nông dân, từ muôn đời nay, khi trồng cấy người ta đều áp dụng phương châm: nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống. Giờ thử hỏi một anh cơ khí, anh ấy bảo: “tất cả vấn đề của xe là tốc độ” có nghe được không? Muốn có tốc độ, người ta phải: nâng cao công xuất của máy, theo đó lốp phải chịu lực hơn, phanh phải ăn hơn, đi đêm đèn phải chiếu xa hơn. Giờ hỏi đến tác phẩm lớn, anh nhà thơ bảo “tất cả do tài năng”, vậy “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” anh tính sao? Văn học là nhân học, triết gia Platon xác định: đạo đức là vấn đề cao nhất của con người. Tài năng chẳng là gì cả nếu người ta không rèn luyện đạo đức. Có phương ngôn “Khoa học không có lương tâm chỉ là táng bại về linh hồn”. Nhưng cứ bàn riêng về tài năng. Có phương ngôn “văn ôn võ luyện”, văn hay võ mà không ôn và luyện tập thì thành cái gì? Người phương Tây có phương ngôn “Bí quyết của thành công là luyện tập”. Nếu không luyện tập chắc chắn không ai thành công cả. Dù là thần đồng Mozart hay Beethoven cũng luyện tập suốt ngày, và chính Trần Đăng Khoa là bản mẫu hùng hồn nhất về cái gọi là chỉ sống bằng thiên bẩm tự có không rèn luyện người ta khó mà vượt qua kích cỡ của thứ “anh hùng trẻ thơ”. Tài năng nhà thơ Việt ở cỡ nào? Nói về ngoại ngữ cho dễ hiểu, có bao nhiêu người biết tiếng Anh?… Khi hãng dầu khí Total muốn tuyển một người Việt dưới 25 tuổi biết cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, khắp miền Bắc không ai lọt cửa… đủ thấy trình độ của người Việt rồi. Thế còn bao nhiêu môn học khác, nào âm nhạc, hội họa, triết học, thần học, hay mỹ học là cái gần gũi nhất với dân làm nghệ thuật, rồi tôn giáo, theo thống kê 90% dân Việt vô thần, còn các nhà văn có đến 95% vô thần. Vậy các vị đào luyện tài năng bằng cách nào hay chỉ có mấy câu chữ nghê nga bẻ vần thành mấy mẩu thơ cảm xúc. Theo triết học không cãi được, cảm xúc chỉ là con ở của lý trí mà thôi, vì thế các tác phẩm thơ ngắn tũn, thường ít hơn một trang giấy của người Việt chỉ là cảm xúc “hầu đồng” mua vui được chăng hay chớ. Chúng đã bao giờ biến thành vở kịch sục sôi sân khấu cuốn theo cả trăm diễn viễn và hàng triệu khán giả? Chúng chỉ để ngâm nga trong vòng vài tiếng suýt xoa bên tách trà hay ly rượu nhạt. Tại sao chúng ta cần bàn rõ vào tài năng? Bởi nếu chúng ta cứ áng chừng thì mãi mãi chúng ta không thể nào minh định muốn tiến đến tác phẩm lớn phải luyện tập những gì? Dù sao cũng cám ơn nhà thơ Trần Đăng Khoa đã tạo cảm hứng cho tôi để viết bài này. NHĐ 20/01/2014