Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 15 tháng 11, 2013

Chán làm việc nhà: Robot tự tử

Vì quá nhàm chán với công việc dọn dẹp nhà cửa, một con robot ở Áo đã cố gắng “tự thiêu” để giải thoát bản thân, giới truyền thông Áo đưa tin.

 - 1
Hiện trường vụ robot “tự thiêu”
Con robot này thuộc dòng Irobot Roomba 760, chủ yếu chịu trách nhiệm lau chùi, dọn dẹp nhà cửa cho một gia đình tại chung cư cao tầng ở Hinterstoder thuộc khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Kirchdorf, Áo. Trước khi leo lên một chiếc bếp điện để tự vẫn, robot này đã được giao trách nhiệm lau dọn ngũ cốc rơi vãi.
Chủ nhà Gernot Hackl cho biết họ đã tắt nguồn thiết bị ngay khi nó hoàn thành xong công việc dọn dẹp. Sau đó, vị chủ nhà 44 tuổi cùng vợ và con trai đã rời khỏi nhà.
Helmut Kniewasser, một lính cứu hỏa được điều động đến khắc phục sự cố ở Hinterstoder, nói: “Bằng cách nào đó, robot dường như đã tự kích hoạt hoạt động và tìm được cách trèo lên trên bếp điện, đè bẹp một chiếc nồi đang nấu và thế chỗ vào đó… Robot đã nhanh chóng bị tan chảy, dính chặt vào bề mặt bếp điện rồi bốc cháy. Khi chúng tôi đến, tất cả còn lại chỉ là một đống tro”.

Robot lúc còn nguyên vẹn
Sự cố trên đã khiến toàn bộ chung cư ở Hinterstoder phải sơ tán. Tại căn hộ, khói bốc lên nghi ngút, các lực lượng chức năng phải mất tới 1 giờ để dọn dẹp hiện trường và khôi phục tình trạng an toàn cho tòa nhà.
Nguyên nhân kích hoạt robot để nó có thể leo lên bếp điện vẫn còn là một bí ẩn và cảnh sát vẫn đang nỗ lực điều tra. Người ta cho rằng do bị ép buộc phải làm cùng một công việc nhà nhàm chán hàng ngày nên robot đã chọn cách “tự thiêu” để giải thoát.
Chủ con robot cho biết sẽ khởi kiện nhà sản xuất sau những thiệt hại do robot “tự tử” gây ra cho gia đình ông.
————-
Theo Người lao động/Daily Mail, Metro

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cười cái coi!




Đôi vú Phờ - lây - cu.



Nàng tiên cóc, ối quên, tóc đkm.



Còn mỗi tưng đây thôi đấy khà khà...



Đi đâu? Đéo biết! Hàng đầu cứ đi.



Buồn tê chim




Đồng sàng dị mộng



Hài cốt giác đấu



Đây đích thị là: cái đẹp chổng mông vào... cái đẹp



Công nghệ chống thấm



Y học bó tay - các thày chịu chết



Bộ đội chùa



Cuộc đua: Chổng mông khoan phá bê tông



Ếch om măng



Gần thêm nữa, thế hẵng còn...xa lắm hĩ hĩ.



Chó hóng tát ao



Nước nổi sinh nông nỗi



Đừng cố quá mà thành...quá cố



Công nghệ nuôi chim



Nhầm hàng



Khà khà...



nôn ra giầy



Bố tiên nhân!


Các anh vào mà... gằm

Nguồn: nhặt trên NET

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tương lai thế giới trong thế kỷ tới

Tương lai chính trị, kinh tế và an ninh toàn cầu trong thế kỷ tới
Thế kỷ XXI là thế kỷ của an ninh năng lượng, nguồn nước sạch và lương thực. Mọi biến động về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, chiến tranh,... trên toàn cầu đều xoay quanh 3 lĩnh vực chính này. Cho đến lúc này, sự cạnh tranh khốc liệt vẫn diễn ra bỡi 2 cường quốc Hoa Kỳ và Trung Hoa. Đâu đó trên thế giới vẫn còn ảo tưởng một Trung Hoa thống trị thế giới vào khoảng 2026. Họ đang thực hiện một kế hoạch gọi là 383 để cố làm được điều ấy vào 2020. Nhưng vô vọng vì trong khi họ tiến trong nền chính trị què quặt, thì Hoa Kỳ đã đi đến chỗ mà Trung Hoa không bao giờ đạt được dù trong giấc mộng Trung Hoa.

Nhưng năm 2010, Hoa Kỳ tuyên bố rút dần khỏi túi dầu thế giới - Trung Đông - để xoay trục sang Thái Bình Dương, sau khi từ bỏ Thái Bình Dương để sang Trung Đông 4 thập kỷ qua thông cáo Thượng Hải, để ký hiệp định Paris rút khỏi quân đội ở Đông Dương, giao quyền cai trị mãnh đất này cho Trung Hoa. Đây là dấu mốc quan trọng mà ít ai quan tâm lý do nào Hoa Kỳ quay lại Thái Bình Dương. Có 3 lý do cơ bản cần đưa ra để hiểu rõ nguyên nhân quay lại của Hoa Kỳ.

Thứ nhất là từ trước năm 2010, Hoa Kỳ - vùng đất của sáng tạo - đã tìm ra phương pháp biến đá thành dầu. An ninh năng lượng của Hoa Kỳ trong vòng 1 thế kỷ tới xem như không còn là vấn đề để quan tâm.

Lý do thứ hai là sự trổi dậy hung hãn của Trung Hoa nhằm làm bá chủ châu Á, và toàn cầu, đang cần sự có mặt của Hoa Kỳ, cũng giống như sự trổi dậy của Iran, Iraq và Liên Xô ở vùng Trung Đông vào đầu thập niên 1970s của thế kỷ trước.

Và cuối cùng là, một Hoa Kỳ trở lại thời kỳ hoàng kim khi tìm ra dầu hỏa, để giữ vững ngôi vị quán quân của siêu cường về mọi lĩnh vực, khi Hoa Kỳ sẽ là quốc gia xuất khẩu dầu hỏa số 1 thế giới vào năm 2020. Nó sẽ tác động đến những thay đổi cục diện của từng khu vực trên toàn cầu.

Về mặt kinh tế và chính trị toàn cầu, khi Hoa Kỳ trở thành quốc gia số 1 xuất khẩu dầu hỏa, thì giá dầu sẽ giảm, nhân loại sẽ được hưởng thụ nguồn cung năng lượng thêm 1 thế kỷ nữa, mà không phải lo lắng các túi dầu, khí sẽ cạn kiệt trong vòng nửa thế kỷ tới.

Sau khi Hiệp Định Bretton Woods bị Đức và Nhật từ bỏ vào năm 1970, nhờ vào sự che chở của Hoa Kỳ để lo phát triển kinh tế sau chiến tranh thế giới II. Tháng 8 năm 1971, tổng thống Nixon đã quyết định không neo đồng đô la Mỹ vào vàng, thả nổi đồng đô la Mỹ để điều hành kinh tế toàn cầu. Từ đó, một thế giới hỗn loạn về kinh tế cứ diễn ra khoảng 7-8 năm một lần, do sự phát triển không có kế hoạch ở các khu vực, quốc gia trên thế giới. Từ đó, giá dầu được neo vào vàng và đồng đô la vạn năng là 2 yếu tố quyết định chủ chốt. Dĩ nhiên, do nhu cầu năng lượng mà một số yếu tố như, đình công, chiến tranh, giảm sản xuất, phát hiện thêm mỏ dầu, v.v... cũng là những yếu tố làm ảnh hưởng giá dầu trên toàn cầu.

Khi giá dầu biến động thì làm ảnh hưởng đến nền kinh tế, kể cả chính trị các quốc gia xuất và nhập khẩu dầu. Cụ thể là, giá dầu lên thì các quốc gia nhập khẩu dầu sẽ khó khăn, còn các quốc gia xuất khẩu dầu được hưởng lợi; và ngược lại. Nhưng khi Hoa Kỳ đã đảm bảo an ninh năng lượng cho chính họ, thì cả thế giới cũng được hưởng sự an toàn năng lượng với giá rẻ.

Trong khi đó, kinh tế châu Âu đang vật lộn với một mô hình United States of European với dị biệt văn hóa, và chưa chuẩn hóa về luật pháp để được một sự đồng thuận như United States of America. Kinh tế Hoa Kỳ khủng hoảng 2008, kéo theo kinh tế toàn cầu bị ảnh hưởng, đặc biệt, nền kinh tế dựa vào tăng trưởng do đầu tư công và xuất khẩu của Trung Hoa cũng đang vật vã. Hoa Kỳ bắt đầu tăng trưởng kinh tế và thị trường lao động tăng trưởng mạnh bất ngờ vào tháng 10/2013 này, và họ đang xem xét có nên tung những gói kích thích kinh tế - QE3 - sau 5 năm vật lộn với suy giảm kinh tế. Và Hoa Kỳ còn hy vọng sẽ tăng trưởng kinh tế nhanh hơn, giảm tỷ lệ thất nghiệp về tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên - 3-5% - nhờ vào luật đầu tư của chính quyền Obama.

Vấn đề này cho chúng ta thấy những dấu hiệu tốt cho kinh tế toàn cầu, và những kết quả của nó ảnh hưởng đến từng quốc gia, khu vực trong tương lai.


Đầu tiên là giá dầu và vàng sẽ giảm trong dài hạn 7 năm tới, khi Hoa Kỳ đạt mức xuất khẩu dầu số 1 toàn cầu, và sẽ còn giảm tiếp, có thể về cái mốc của cuối thập niên 1990s - dầu ở mức 40USD/thùng, và vàng ở mức 300USD/ounce.

Thứ hai là Hoa Kỳ vẫn khẳng định siêu cường số 1 toàn cầu trong ít nhất một thế kỷ tới. Một thế kỷ tới số phận của thế giới vẫn nằm trong tầm chiến lược của Hoa Kỳ.

Hai vấn đề lớn trên sẽ là yếu tố quyết định để các quốc gia nhỏ bé chọn tầm nhìn an ninh quốc phòng và nền kinh tế chính trị đúng đắn cho riêng mình, để dân giàu nước mạnh. Vì chỉ sau 25 năm kể từ khi Hoa Kỳ bảo trợ an ninh quốc phòng cho Đức và Nhật sau chiến tranh thế giới II, họ đã phát triển kinh tế vượt bậc, chiếm lĩnh thị phần thế giới, và đòi xóa bỏ Hiệp định Bretton Woods, hòng muốn cạnh tranh với đồng đô la trên thị trường toàn cầu.

Mặc dù an ninh lương thực và nguồn nước sạch đóng vai trò lớn cho toàn cầu trong thế kỷ tới, nhưng nó chỉ có giá trị để Trung Hoa lấy làm mối đe dọa láng giềng. Và một số quốc gia châu Phi, Trung Đông, cũng như châu Á cần phải biết trân quý những gì thiên nhiên ban phát, thì có thể ổn định được trong vòng một thế kỷ tới.

Đối với Việt Nam cho đến giờ này chưa là một quốc gia phát triển bằng sáng tạo, mà vẫn còn là một nước đang phát triển chủ yếu nhờ vào nông nghiệp, và bán rẻ sức lao động, tài nguyên là chủ yếu. Mặc dù, định hướng phát triển của nền kinh tế Việt Nam đến 2020 là một nền kinh tế công nghiệp, nhưng tỷ trọng công nghiệp có được vẫn nhờ cậy vào đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, doanh nghiệp trong nước vẫn chỉ là gia công lắp ráp, chưa tự sản xuất được bất kỳ một mặt hàng công nghiệp nào có thể cạnh tranh với thế giới.

Nếu Việt Nam có đủ những lãnh đạo có khả năng lèo lái quốc gia, thì lúc này là cơ hội ngàn vàng để tính cho quốc gia dân tộc một chặn đường dài trong một thế kỷ tới về việc quy hoạch phát triển ngành mũi nhọn: nông, ngư nghiệp vẫn còn đang chiếm 80% nuôi sống dân Việt. Đồng thời chọn lựa một hình thái chính trị kinh tế phù hợp để chung sống hòa bình và thịnh vượng. Bằng không, khó lường trong tương lai gần của đất nước sẽ đi về đâu, trong kiếp nạn kinh tế, chính trị và văn hóa đang suy đồi đến đáy như bây giờ.

Asia Clinic, 11h22' ngày thứ Ba, 12/11/2013
http://bshohai.blogspot.com/2013/11/tuong-lai-chinh-tri-kinh-te-va-ninh.html
BS Hồ Hải

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trứng gà cao su của ông anh vàng lại tái xuất ở Hà Nội

Video vạch trần trứng gà làm bằng cao su
Hình ảnh những quả trứng gà non cao su trong bát miến khiến nhiều người hoang mang về tình trạng làm giả thực phẩm. Đoạn video được quay bởi tác giả Trần Quang Khải đang gây sốc đông đảo bạn trẻ, ghi lại cảnh thực nghiệm kiểm tra một bát bún miến có kèm theo trứng gà non. 
Theo tác giả video, bát bún được mua từ một quán ăn ở Phố Chùa Hà, quận Cầu Giấy, Hà Nội. Khi mua về, tác giả cùng một người bạn đã ngỡ ngàng khi phát hiện những quả trứng gà non đẹp mắt trong bát miến thực chất không phải là trứng gà thật.


Trứng gà non khi bóp ra có cảm giác dẻo, dính như cao su. Ảnh chụp màn hình.

Người quay video cho biết, những quả trứng gà này nhìn bề ngoài trông giống y chàng như trứng thật. Tuy nhiên, khi luộc chín, thì lòng đỏ có màu vàng, có mùi tanh của trứng và khi ăn thì dai giống như nhựa cao su. Trong video, những quả trứng non được tác giả bóp ra một cách dễ dàng, song vẫn còn bám dính một cách bất thường trên tay.

Thử đem những quả trứng này đốt trên bếp ga, thì trứng cháy lên, nổ lép bép và có mùi khét như cao su. Thậm chí, những quả trứng này bắt lửa vào đôi đũa gỗ và cháy không kém các loại cao su khác, khiến những người quay thực nghiệm khá vất vả để dập tắt lửa. Trứng sau khi cháy xong lcó màu đen, cứng như cao su cháy. Người quay video miêu tả những quả trứng này “cháy như lốp xe” và cho rằng công nghệ làm trứng giả quả là “kinh khủng khiếp”.

Khi đốt, trứng gà bắt lửa rất lớn. Ảnh chụp màn hình.

Đoạn video sau khi được đăng lên mạng xã hội lập tức khiến đông đảo bạn trẻ chú ý. Thông tin về những bát bún, miến có trứng gà non làm giả từ cao su đã được nhiều người rỉ tai nhau tại Hà Nội và một số tỉnh, thành phía Bắc, song đây là một trong những video hiếm hoi quay cận cánh một bát miến có trứng gà giả để xác thực tin đồn trên. Nhiều người xem cho biết cảm giác “ớn lạnh” khi trông thấy cảnh tượng trứng gà cao su cháy lép bép trên bếp ga, và tự hỏi liệu mình đã từng ăn phải những bát miến như vậy.

“Nhóm bọn mình toàn rủ nhau đi miến gà, lòng xào mề. Nếu thực sự đây là kiểu kinh doanh kiếm lời đang tồn tại ở nhiều hàng quán thì không biết phải nói sao cho đủ về sự thất đức này”, Bùi Minh bức xúc.

Nhiều bạn trẻ cũng lên tiếng xác thực về hình thức làm giả đồ ăn bằng nhựa, gelatin, bột thạch cao và sáp nến, vốn đang được nghi ngờ có xuất xứ từ Trung Quốc. Đặc biệt, không chỉ trứng gà non, nhiều món ăn khoái khẩu vỉa hè khác của teen cũng đang nằm trong nguy cơ bị làm giả không thương tiếc.

“Công nghệ này mình cũng từng chứng kiến. Trên phố Thái Thịnh có một quán rán cũng bán thịt bò cao su, mực cao su. Hôm đấy nghịch nghịch cầm miếng thịt bò đốt cháy, thấy nó đùng đùng nhỏ giọt mà hoảng hồn”, Minh Lam chia sẻ.

Vụ phát hiện trứng gà uốn dẻo như nhựa từng 
khiến nhiều người hoang mang. Ảnh: FB

Nhiều vụ bê bối thực phẩm gần đây được chính cộng đồng mạng phát hiện và quay lại, đăng lên mạng xã hội để cảnh cáo nguy cơ bị ăn phải đồ giả cho đông đảo bạn trẻ. Giữa tháng 9, nữ ca sĩ Hồng Ngọc cũng chia sẻ trên Facebook của mình đoạn video quay cảnh chị phát hiện một loại mỳ ăn liền ở Việt Nam 100% làm từ cao su, khi đốt có mùi cháy khét, mặc dù khi ăn vẫn có cảm giác như mỳ thật.

Đầu tháng 3/2012, một vị khách đến một quán tại phố Chùa Hà và cũng bị ăn nhầm phải một bát bún ngan có trứng bị nghi làm giả. Khi mang những quả trứng về, người này kiểm tra bằng cách cắt ra thì thấy miến trứng sau khi bị uốn cong liền trở lại trạng thái ban đầu, ăn vào có vị nhạt.

Mai Mai

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tính cách dân tộc qua truyện trạng


Triều Nguyên 
 
Trạng Quỳnh đãi vua
1. Hệ thống truyện trạng Việt Nam bao gồm các bộ phận truyện Trạng Quỳnh, truyện Xiển Bột, truyện Nguyễn Kinh, truyện Thủ Thiệm, truyện Ông Ó, truyện Khun Hón (dân tộc Thái), truyện Lật Đời (dân tộc Chăm),... Qua nhiều thế hệ, chúng luôn hấp dẫn, lôi cuốn người đọc (nghe). Sự thông minh, tài trí của các nhân vật trạng do nhân dân bao đời sáng tạo nên, nhằm phản ánh khát vọng về người tài giỏi có thể làm xã hội trở nên công bằng, con người sống trong môi trường lành mạnh, lẽ phải được xiển dương, áp bức bị lên án và đánh bại.

 Do việc sáng tạo của văn học dân gian mang tính tự phát, tính cộng đồng, không phải bằng sự thông thái kèm ý thức chủ quan và cá tính mạnh mẽ như của các nhà văn, nên có thể tìm thấy mối quan hệ nhất định giữa tính cách của các nhân vật được un đúc, tô bồi, với tính cách của cộng đồng sáng tạo nên các nhân vật ấy. Nói rõ hơn: tính cách của nhân vật trạng có sự tương đồng nhất định với tính cách dân tộc.

Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn trong bài “Thói nguỵ biện của người Việt”, viết: “Người Việt chúng ta thường rất tự hào về những đối thoại (mà chúng ta cho là “thông minh”) giữa Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công bằng và theo tiêu chuẩn của lí luận logic, thì những trao đổi của Trạng Quỳnh hay tương tự chỉ là những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất. Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong đó sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẻ nhau từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế hệ sau này. Mà làm gương thật.


Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận” (1). Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài “Lạm bàn về thơ Việt hôm nay”, viết: “Đành rằng chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc có ý nghĩa to lớn trong dựng nước và giữ nước. Tuy nhiên trong hàng ngàn, hàng vạn năm không có chiến tranh, trận mạc, lúc đó lòng yêu nước trở thành “viên ngọc quý, được cất giữ trong rương trong hòm”, thì cái mà người Việt vẫn dựa vào để tồn tại vững vàng qua mỗi ngày lại là nhân cách Việt. Đó là tất cả những giá trị giúp con người tồn tại như một nhân cách xứng đáng, trong khuôn khổ cộng đồng Việt, tạm gọi là nhân cách Việt. [...] Theo nghĩa đó, có thể xem truyện Trạng Quỳnh là biểu tượng về nhân cách Việt, hơn là tinh thần phản phong và chống ngoại xâm như ta thường giải thích”(2).

Hai trích dẫn vừa ghi có một nhìn nhận chung (tạm không bàn đến các nội dung ngoài việc nhìn nhận này): sự ứng xử của Trạng Quỳnh được xem là biểu tượng “của sự thâm thúy, thông minh” hay “về nhân cách”của dân tộc, hiện được mọi người đem ra ứng dụng. Đây là vấn đề mà bài viết đang đặt ra.

Khái niệm nhân cách thường được hiểu như một khía cạnh thiên về giá trị hay sự định giá về mặt đạo đức của tính cách. Bên cạnh đó, cũng có thể mở rộng phạm vi của “nhân vật Trạng Quỳnh”, thành các nhân vật trạng của tổng thể truyện trạng Việt Nam – sở dĩ cần sự mở rộng này vì các nhân vật trạng trong tổng thể truyện trạng Việt Nam ở nhiều vùng miền của đất nước, đều có quan hệ gắn bó với nhau thành một thể thống nhất, và nhìn chung, họ có cùng một tính cách. Bấy giờ, sẽ nảy sinh vấn đề: trong tính cách của các trạng, được cho là biểu tượng của tính cách dân tộc ấy, có những ưu, nhược điểm gì? Vấn đề cần được xem xét, bởi ngoài yêu cầu về nội dung mà việc tìm hiểu truyện trạng phải nắm bắt, còn là vấn đề thuộc lĩnh vực con người, nhân tố chính làm nên cục diện của đất nước.

2. Các nghiên cứu về truyện trạng thường nói nhiều đến mặt đấu tranh xã hội của nhân vật trạng. Trong một tìm hiểu của người viết về vấn đề, qua 371 mẩu truyện của 27 bộ phận truyện trạng Việt Nam, thì cụ thể về mặt đấu tranh này được chia làm ba lĩnh vực như sau: a) Truyện trạng chống lại sự gian tham, tàn ác của tầng lớp hào lí, quan lại, vua chúa (229 truyện, chiếm 61,7%); b) Truyện trạng trừ khử các thói hư tật xấu của người dân thường (114 truyện, chiếm 30,7%); c) Truyện trạng bài xích quỷ thần, người phụng sự quỷ thần (28 truyện, chiếm 7,5%). Nhìn chung, đó là sự đấu tranh vì tiến bộ xã hội. Có thể nói, ba nội dung vừa nêu đồng thời cũng là ưu điểm của truyện trạng, của nhân vật trạng.

Bên cạnh ưu điểm lớn vừa nêu, cũng cần trình bày một số nhược điểm, hạn chế hiện chưa thấy các nghiên cứu về truyện trạng đề cập. Đó là: 

+ Nhân vật trạng sử dụng mưu kế, tức “bày binh bố trận”, quyết hạ bệ hay thuyết phục bằng được đối phương, và luôn thành công. Chúng ta không khó nhận ra, đây là cuộc đọ sức thiếu sòng phẳng, công khai, bởi một bên được chuẩn bị chu đáo, bên kia bị đánh úp bất ngờ. Nói rõ hơn, trạng đã sử dụng một phương tiện không công bằng, trong đó phần lợi nghiêng về phía mình. Nó tương tự với lối đánh mai phục hay phục kích (ém sẵn người, vũ khí ở một địa thế phù hợp, để bất ngờ tấn công khi đối phương sa vào trận địa đã chuẩn bị ấy), thường gặp ở các đội quân nhỏ lẻ, khi tổ chức chiến đấu chống lại một lực lượng đối lập mạnh hơn.

Điều vừa nói được thể hiện ngay trong chính mô hình (mô hình cấu trúc ngôn ngữ văn bản), đồng thời là kết cấu, cốt truyện gồm bốn phần (hay bốn bước) của thể loại này: 1) Tạo mâu thuẫn giữa nhân vật trạng và nhân vật là đối tượng mà trạng cần chiến thắng (theo lối hạ bệ, thuyết phục) – bước thắt nút hay khai đoan; 2) Nhân vật trạng tiến hành các phần việc theo mưu kế của mình, để tấn công đối tượng – bước phát triển; 3) Mưu kế được thực hiện trọn vẹn, nhân vật trạng chiến thắng, đối tượng của nhân vật trạng bị hạ bệ hay thuyết phục – bước đỉnh điểm, cao trào; 4) Nhân vật trạng hả hê, đối tượng của nhân vật trạng ê đòn (có khi, bước này nhằm giải thích cho bước trước) – bước mở nút, kết thúc.

Trên đại thể, mô hình ấy đã phân định: phía nhân vật là đối tượng của trạng, đó là kẻ gian ác, sai bậy (nhân vật phản diện); phía nhân vật trạng, là người chống lại cái ác, bảo vệ lẽ phải, nhưng đang ở vào thế yếu (như người dân thường mà chống lại quan chức, quan nhỏ chống lại quan to,...), hoặc phải tự vệ chính đáng (nhân vật chính diện). Ngoài ra, có một điều quan trọng khác bổ sung cho sự hợp lẽ ở phía nhân vật trạng nữa, là việc làm của trạng không nhằm mang lại lợi lộc hay để vinh thân phì gia, mà vì cộng đồng, vì tôn trọng các chuẩn mực chung (về trí tuệ, đạo đức,...) (3).

Như vậy, đã có thể nói, truyện trạng, ở bình diện kết cấu hình tượng nghệ thuật, cái để tạo nên thông điệp cho tác phẩm, đã thể hiện một quan niệm ngầm ẩn: lấy mục đích biện minh cho phương tiện (4) (trạng đã vin vào mục đích chính đáng để biện minh cho phương tiện không được tử tế, sòng phẳng của mình). Đây là một quan niệm chỉ có thể chấp nhận trong một số trường hợp đặc biệt, bởi còn phải xem xét mức độ, phạm vi của mục đích cùng phương tiện sử dụng tương ứng, và hoàn cảnh của sự việc liên quan.

Có không ít phương tiện xấu đã làm lu mờ mục đích tốt đẹp. Chẳng hạn, truyện “Bà huyện đái dầm” (truyện Ba Giai) kể việc Ba Giai đột nhập vào thuyền của vợ chồng viên huyện Gà đang nghỉ ngơi bên bờ sông. Do có quen biết, nên ông được mời ăn uống cùng họ. Ăn xong, vờ lăn ra ngủ. Gần sáng, Ba Giai múc nước đổ từ chỗ bà huyện nằm đến chỗ mình, rồi lu loa lên là bà huyện đái dầm, ướt cả áo quần. Huyện Gà đành phải đền cho ông bộ đồ lụa tơ tằm mới, bộ đồ bị ướt kia cũng cho giặt và hứa mang đến trả tận nhà, lại biếu mấy quan tiền để đi ăn sáng. Đành rằng, tên huyện Gà (kẻ làm tay sai cho thực dân Pháp) rất đáng bị trừng trị, nhưng cách làm của Ba Giai không đàng hoàng, chỉ như một sự quậy phá, thậm chí, có phần giống với lối nằm vạ để kiếm chác của kẻ bất lương.

Trường hợp đối tượng của nhân vật trạng là người yếu thế, thì chính trạng đã ỷ giỏi cậy khôn để bức hiếp người. Đọc hai mẩu truyện sau (một thuộc truyện Ba Giai, một thuộc truyện Thủ Thiệm):

(a) BỞI VÌ ĐÔI DÉP 

Hôm ấy, Ba Giai đang ngồi tán ngẫu với bạn bè, bỗng nghe có tiếng lợn kêu eng éc bên hàng xóm. Ông chạy ra xem, thì biết anh đồ tể ở làng xa đang mặc cả mua lợn của nhà ấy. Ông nói với mọi người:

- Cái thằng chết đâm chết chém nào lại muốn đến ngay cạnh nhà mình mà mua lợn, mua gà, khiến đinh tai nhức óc, chẳng còn ai trò chuyện gì được với chúng. Tức cha chả là tức!

Đám bạn nhao nhao, yêu cầu Ba Giai cho hắn một vố, để chừa cái thói táo tợn, giỡn mặt Ba Giai đi. Ông đồng ý, bảo mọi người cứ đợi xem.

Thấy anh đồ tể quảy lợn đi, Ba Giai vào trong lấy đôi dép mới toanh, cuộn chúng trong chiếc võng rách, rồi cắm cổ đi.

Con đường từ nhà Ba Giai ra đường cái uốn lượn quanh co, lại lắm cây cối rậm rạp. Ba Giai đi theo đường tắt, tới chỗ miếu gốc đa là nơi cây cối um tùm nhất, lôi đôi dép ra, vứt vào hai nhánh của khúc quẹo, cách nhau vài chục bước, đoạn nấp vào bụi cây chờ.

Lát sau, anh đồ tể khệ nệ quẩy lợn tới, nhìn thấy chiếc dép mới liền dừng chân ngắm nghía. Bụng định nhặt nhưng lại thôi, vì nghĩ chỉ có một chiếc thì dẫu mới cũng chẳng được trò trống gì. Nhưng đến bên kia khúc quẹo anh ta lại thấy một chiếc dép nữa, đồng bộ với chiếc trước. Anh đồ tể đặt con lợn trên vai xuống nhặt chiếc dép, rồi đi ngược lại chỗ trước để nhặt chiếc kia cho đủ đôi. Ba Giai chỉ đợi có thế. Ông nhảy xổ ra, tháo đòn khiên, bọc con lợn vào cái võng, vác nó lên vai, rồi chạy thật nhanh. Nhưng không phải ông chạy về nhà mình mà đến chỗ Tú Xuất.

Giao con lợn cho Tú Xuất xong, Ba Giai quay lại nhà mình. Ông thấy anh đồ tể nọ đang than vãn với nhà hàng xóm về chuyện mất lợn, và ngỏ lời muốn mua con khác, để không phải nghỉ phiên chợ. Đến khi anh ta mua xong, xốc lợn quảy đi, thì Ba Giai cũng vội vã chạy ra cổng. Đến chỗ bỏ dép ban nãy, ông nấp vào một bụi rậm.

Anh đồ tể khệ nệ tới. Chờ anh ta qua khỏi mình độ mươi bước, Ba Giai mới bịt miệng giả làm tiếng lợn kêu. Anh đồ tể chỏng tai: quả có tiếng lợn thật. Anh ta vội vã vứt đôi dép và quẳng con lợn trên vai xuống đường, chạy hộc vào bụi xăm xoi tìm kiếm. Ba Giai lách bụi chui ra, vác luôn con lợn lên vai, không quên nhặt lại cả đôi dép mới của mình, co giò chạy.

Sau một hồi chui lủi ở các bụi rậm để tìm kiếm không thành, anh đồ tể đành trở ra đường cũ, thì ôi thôi, cả con lợn và đôi dép không cánh mà bay! Anh ta kêu khóc, nguyền rủa kẻ cắp chán chê rồi vác cái đòn không lủi thủi ra về.(5)

(b) MẶC LỘN QUẦN NGƯỜI TA MÀ CÒN HÀM HỒ 

Một người phụ nữ còn trẻ, vốn là chỗ bạn buôn mắm lâu nay của vợ Thủ Thiệm, cậy có chút nhan sắc nên rất vênh váo. Hôm ấy, do bán ế, trời thì đã chạng vạng, cô ta khó thể về nhà, bà Thủ thân tình mời về nhà, cho cô bạn ở tạm qua đêm. Thấy người phụ nữ trẻ này ra tuồng hợm mình, nói năng lại không được lễ phép, Thủ Thiệm ghét lắm.

Đến khuya, đợi cô ta ngủ say, Thiệm lấy một ngọn lá chuối đang còn ấp cọng, giả làm rắn, nhẹ nhàng luồn vào ống quần cô nàng. Thấy có vật gì bò lành lạnh, nhồn nhột trong quần, người phụ nữ giật mình thức dậy. Thần hồn nát thần tính, cô ta tưởng là rắn thật, vội vã chụp ngay lấy chỗ ống quần có con rắn đang bò, một tay giữ chặt lấy con rắn trong quần, một tay tụt vội quần ném ra xa. Thiệm chụp lấy cái quần của cô ả đem đi, và bỏ vào cạnh giường ả nằm cái quần của mình.

Hồi lâu, người phụ nữ thấy yên, nghĩ là con rắn chắc đã bò đi, mới lần mò tìm lại cái quần mặc vào, rồi yên tâm lên giường ngủ tiếp.

Trời mới hừng sáng, Thiệm mò tới giường cô ả, không chút e dè, đưa tay rờ rẫm, xoa bóp khắp người. Choàng tỉnh, cô ta hốt hoảng la lên. Thiệm cũng gân cổ la làng…

Tức nhiên, bà Thủ chạy tới trước tiên, kế đó là mấy người hàng xóm. Ai cũng nghĩ, chắc ông Thủ sinh tật.

Người phụ nữ ra sức phân bua:

- Chị Thủ và bà con coi, tui đang ngủ ngon, ông ni mò vô rờ mó tứ tung, thiệt là già dê…

Thủ Thiệm cũng giãi bày:

- Bà con nghĩ coi, cô ni thích ăn vụng mà cũng ưa làm bộ đoan trang. Ai đời, mặc lộn quần người ta mà còn hàm hồ, la lối. Thôi mau trả quần cho tui, quần của cô ở dưới chân giường kia kìa!

Người phụ nữ kênh kiệu nhìn xuống, quả nhiên quần của mình đang nằm ngay phía dưới chân giường, còn cái đang mặc là quần đàn ông rất rộng. Xấu hổ quá, cô ta chụp vội cái quần của mình chạy vào buồng trong.(6)

Ở (a), Ba Giai đã dùng mưu mẹo để cướp lấy hai con lợn của anh hàng thịt, trong lúc anh này chẳng làm điều gì đáng tội với mọi người, và với bản thân ông. Có thể thấy, việc đổ tội cho người mua do lợn kêu ồn khi bị bắt bỏ rọ, là tuỳ tiện, việc nhặt của rơi giữa đường cũng không có gì là sai trái. Hay vì anh này là đồ tể, nghề bị cho là không mấy lương thiện, khiến Ba Giai bất bình đến phải ra tay? Lí do để gỡ cái tội tước đoạt của cải người khác may ra được tìm thấy ít nhiều ở đó. 


Ở (b), Thủ Thiệm ghét người phụ nữ có nhan sắc mà vênh váo. Nhưng từ cái ghét thường tình kia đến việc “rờ rẫm, xoa bóp” lại còn đổ tội dâm ô lên người ta, thì đã không còn bình thường nữa, mà phạm tội: tội quấy rối tình dục, tội lăng nhục người khác. Ta thấy, tuy mục đích của các trạng là tốt hay có phần tốt (làm cho kẻ ít có thiên lương phải thua thiệt mà chùn tay, và kiếm lợn để thịt chiêu đãi bạn bè, hay trị thói hợm mình, vênh váo để người ta tốt lên), nhưng phương tiện thì tệ hại, đến mức không thể chấp nhận. Vả lại, hai nhân vật mà các trạng tước đoạt hay xúc phạm đều ở vào vị thế yếu, nên việc làm của trạng đáng bị chê trách, và nội dung truyện đã có phần phản cảm, phản tác dụng.

+ Do yêu cầu đề cao trí tuệ và phải chiến thắng đối phương mà nhân vật trạng trở nên khô khan, thuần lí, gần như thiếu hẳn yếu tố tình yêu và lòng nhân ái. Truyện Xiêng Miệng (Lào), loại truyện tương tự với truyện trạng Việt Nam, có mẩu truyện cuối “Tuỳ ý chú”, kể việc Xiêng Miệng đi nhờ thuyền của một chú tiểu. Ông ngồi ỳ không chịu chèo giúp, lại nói “Cho lên ở đâu là tuỳ ý chú!”. Chú tiểu dựa vào lời nói hớ ấy để đẩy Xiêng Miệng xuống một vạt rừng gai mây hoang vắng (nơi đã vào thì khó thể thoát ra). Trước khi dùng mái chèo xua Xiêng Miệng ra khỏi thuyền, chú tiểu nói: “Xiêng Miệng, anh đã biết thế nào là trí khôn của con người chưa? Anh tưởng anh đánh lừa được người khác mà không bị người khác xỏ lại anh hay sao? Anh thông minh nhưng thiếu tình thương, và bây giờ thì anh cứ ở đây chờ khi nào có ai thương tình thì nhờ người đó cứu!” (7).

Thật ra, “thiếu tình thương” cũng là một đặc điểm trong tính cách của các nhân vật trạng, nói chung.

Ở đây, có thể nảy sinh một phản bác, rằng trạng đã đấu tranh chống các thế lực áp bức xã hội, loại bỏ những thói xấu ở một số cá nhân, hòng đem lại cuộc sống tốt đẹp cho mọi người, điều đó không phải tình thương, thì là gì? Vâng, đó là tình thương. Trên thế giới, có không ít thể chế, đảng phái chính trị, cả một số tôn giáo nữa, cũng đề ra mục đích, nhiệm vụ đấu tranh của tổ chức mình như thế, và cho một phần kết quả đạt được để nhận sự ủng hộ của cộng đồng chính là tình thương. 


Điều cần phân định trong trường hợp này là, cái tình thương từ việc đấu tranh làm cho xã hội tốt đẹp theo lối của một tổ chức, khác biệt với tình thương là một yếu tố trong tính cách của một con người hay một nhân vật trong truyện kể. 

Cũng có thể nói, có hai thứ tình thương: tình thương là thuộc tính của một con người; và tình thương là mục đích của một tổ chức đấu tranh cho sự công bằng và tiến bộ xã hội. Theo đó, thì nhân vật trạng không có loại tình thương đầu. Vì cá thể người hay nhân vật truyện có thất tình lục dục, nên cũng có một tình thương cụ thể mang chất người, chứ không phải thứ tình thương trừu tượng, vượt ra ngoài phạm vi của một con người; do đó, ở bình diện đang bàn, có thể nói, nhân vật trạng không có tình thương.

+ Có một số trường hợp, trạng hành xử theo lời thách đố, thường có thưởng (tiền bạc, cuộc rượu,...) của người khác, như “Dằn mặt chú khách” (truyện Tú Xuất),“Đây là của chú!” (truyện Mân Nhuỵ), “Nhờ nước giếng mát quá mà sáng mắt” (truyện Nguyễn Tuyn), “Vuốt râu hùm” (truyện Thủ Thiệm), “Ông khách không mời” (truyện Học Hoàng), “Trị bệnh trứng trắng” (truyện Bợm Bảy), “Sợ bay mất mấy con chim”, “Anh Ba Tiền chết đâm” (hai mẩu thuộc truyện Ba Giai),“Mua bút”, “Đổ ruốc vào bàn tay” (hai mẩu thuộc truyện Phủ Tuấn),... Sự thành công trước các thách thức gay cấn nói lên tài cán của trạng; đồng thời, ở nhóm truyện này, cũng dễ dàng nhận ra sự háu thắng, có khi bất chấp sĩ diện của nhân vật này.

Bên cạnh đó, một số truyện khác lại cho thấy, để kiếm ăn, trạng giở đủ ngón nghề, và nhằm vào người dân thường. Sự việc này xuất hiện nhiều ở bộ phận truyện Tú Xuất: “Con trong cối, mẹ giữ chày”, “Để mất bạc của khách, chủ quán trọ phải đền”, “Của cô mày tròn hay méo?”, “Vịt đẻ năm trứng một đêm”, “Bùa cầu tài”,... Truyện đầu kể việc Tú Xuất giả làm pháp sư kiêm thầy thuốc đến chữa bệnh cho một cậu bé, con của một người đàn bà goá. Ông bảo bà mẹ sắc thuốc nam với hai nén bạc, lại bảo bà nhấn chân giữ chỗ đầu chày để đầu kia ngỏng lên, có chỗ mà đặt đứa trẻ vào cối (loại cối đạp), để ông làm phép. Khi bà chủ nhà bị “khoá phép” như thế, ông lấy hai nén bạc lỉnh đi.

Các truyện này cho thấy, trạng đã phải dùng đến hạ sách, là lừa dối để có cái ăn hay kiếm tiền sống qua ngày. Do trong tình trạng quẫn bách (cái đói) người ngoài cuộc có thể thông cảm. Nhưng với người bị hại thì khó tránh khỏi điều chê trách, thậm chí cho trạng là trí trá, lừa đảo. Bấy giờ điều gọi là thuyết phục ở nhân vật trạng bị hạ thấp. Việc gọi đích danh trạng là “bợm”, là “láo” (truyện Bợm Bảy, truyện Anh Láo, người Việt), là “thằng” (truyện Thằng Cuội, người Mường),… cũng phản ánh một cách nhìn nhận của dân gian, chủ thể đã sáng tạo ra các nhân vật trạng. Sự nhìn nhận này có thể xuất phát từ những truyện như thế.

3. Từ việc trình bày trên, có thể nói: khi cho tính cách nhân vật trạng là biểu tượng về tính cách của dân tộc, thì điều quan trọng hàng đầu, là không nên coi tính cách ấy là hoàn toàn tốt đẹp và đã định hình, để cứ thế mà làm theo. Bởi như chúng ta đã thấy, trong tính cách của nhân vật trạng có nhiều ưu điểm, nhiều yếu tố tích cực, nhưng cũng có một số nhược điểm, hạn chế.

Cho đến nay, có việc lớn như quan hệ với nước ngoài của các đoàn ngoại giao, không ít người chú trọng đến việc đối đáp sao cho rắn rỏi, thể hiện được lòng tự tôn dân tộc của sứ giả hơn là quan tâm về những kết quả cần có mà chuyến quan hệ ngoại giao ấy mang lại cho đất nước, có việc nhỏ như vào các tháng đầu năm 2013 này, trên báo chí rộ lên thông tin các học sinh bậc phổ thông khắp nước, rất thích tấn công bạn bằng loại đồ chơi gọi là “bom thối” (khi xì ra, phát mùi hôi), chúng đều ít nhiều có “dính dáng” đến truyện trạng, nhân vật trạng. Việc đầu có thể tìm thấy ở cung cách ứng xử của phần lớn các nhân vật trạng; việc sau, có thể tìm thấy trực tiếp qua hành động của ba nhân vật trạng: Trạng Quỳnh (ở truyện “Ống quyển thi”), Xiển Bột (ở truyện “Trị bọn Tây đoan bắt rượu lậu”), Thủ Thiệm (ở truyện “Mo cơm”),... Cho dù các việc vừa nêu có thuộc tính cách dân tộc đi nữa, thì đó cũng là những việc làm không đúng. Mà đã vậy thì cần phải chỉnh sửa.

Một dân tộc biết ưu điểm để xiển dương, phát huy, biết nhược điểm hòng khắc phục, chế ngự, là một dân tộc tiến bộ. Trên con đường phấn đấu để có được một tính cách dân tộc tốt đẹp, thì những nhược điểm đang mắc phải nên đẩy lùi dần về quá khứ.

Bàn về tính cách dân tộc qua một đối tượng cụ thể là truyện trạng, một thể loại văn học dân gian có biểu hiện mạnh về vấn đề đặt ra, có thể có sự thuyết phục nhất định.

T.N
(1) Nguyễn Văn Tuấn, “Thói nguỵ biện của người Việt”, vanhoanghean.com.vn/, ngày 8-8-2010.
(2) Nguyễn Khoa Điềm, “Lạm bàn về thơ Việt hôm nay”, trannhuongcom.blogspot.com/, ngày 11-10-2011.
(3) Để biểu thị điều này, các nhân vật trạng đều có cuộc sống nghèo khổ hoặc ở mức trung bình (như Xiển Bột, Phan Điện, Nguyễn Kinh, Thủ Thiệm, Ông Ó, Anh Kđưng, Khun Hón,...), và có những kết cục không bình thường (như Trạng Quỳnh, Men Chây bị vua chúa hại chết; Ba Giai, Tú Xuất và nhiều trạng khác chỉ xuất hiện lúc còn trẻ rồi mất tăm dạng).
(4) Cũng nói “cứu cánh biện minh cho phương tiện” (“cứu cánh”: mục đích cuối cùng).
(5) Theo: Nguyễn Cừ, Phan Trọng Thưởng, Tuyển tập Văn học dân gian Việt Nam – Tập III: Truyện cười, truyện trạng cười, truyện ngụ ngôn, Nxb. Giáo dục, tr. 336-340.
(6) Theo: Nguyễn Văn Bổn, Thủ Thiệm – Tiếng cười dân gian độc đáo xứ Quảng, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2011, tr. 173-174.
(7) Theo: Trương Sĩ Hùng (Chủ biên) Nguyễn Đức Hiền, Đào Văn Tiến, Truyện trạng Đông Nam Á: Thơmênh Chây, Xiêng Miệng, Trạng Quỳnh, Sở Văn hoá Thông tin Gia Lai Kon Tum xuất bản, 1987, tr. 115. 


NGuồn: Văn hóa nghệ an
Được đăng bởi 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

KÍNH THƯA CÁC LOẠI ...CHÓ CHẾT !


Ảnh minh họa trên Internet
Kính thưa các bác sĩ hung thần !
Kính thưa các quan ụ nổi, ụ chìm !
Kính thưa các nhà ngoại cảm...gió !
Kính thưa các nhà tâm linh...tinh !
Kính thưa các nhà nghiên cứu tiềm năng...con cầy !
Kính thưa các vị  thẩm phán...láo!
Kính thưa các điều tra...điên !
Kính thưa các kiểm sát...nhân !
Kính thưa các nhà biện chứng...thối !
Kính thưa các vị lãnh đạo...tặc !
............................................................
Tóm lại là: Kính thưa các loại...chó chết ! 

Được đăng bởi Sơn-Thi-Thư 
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyện vọng của vong:

TRÒ CHUYỆN VỚI GIÁM ĐỐC TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TIỀM NĂNG CON LỪA

PV: A lô..Dạ thưa đây có phải là Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con cầy không ạ ?

TS Sở Văn Khanh: Anh nhầm rồi, đây là Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con lừa chứ không phải con cầy.

PV: Dạ, em xin lỗi, em quên vì vừa bước ra từ quán cầy tơ bảy món. Vâng, em đang muốn gọi đến Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con lừa đấy ạ !

Loa, loa, loa ..Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con lừa đây!

TS SVK: Thế thì đúng rồi. Anh cần gặp ai ?

PV: Dạ em xin được gặp tiến sĩ Sở Văn Khanh – Giám đốc Trung tâm.

TS SVK: Thì chính tôi đây.

PV: Vâng, may mắn quá, em xin kính chào tiến sĩ. Tiến sĩ cho phép em được phỏng vấn vài câu được không ạ ?

TS SVK: OK. không thuốc mê!

PV: Thưa tiến sĩ, sao lại có chuyện chia 3 bộ xương người thành 4 bộ xương ạ?

TS SVK: Người chết bảo làm thế !

PV: Người chết thì nói thế nào được mà bảo làm ?

TS SVK: Nói được chứ, "vong" nhập mà.

PV: Tức là cứ ý “vong” là phải theo, đúng không ạ ?

TS SVK: Đúng  thế, kể cả “vong ” nói sai.

PV: Sao lại thế ạ ?

TSSVK: Vì "vong" thích sai thì sao ? Chúng ta phải tôn trọng nguyện vọng của “vong”, chứ không thể làm theo ý chủ quan của mình được đâu.

PV: Và việc làm này là rất “nhân văn”, thưa tiến sĩ ?

TS SVK: Tôi xin đính chính, không phải “nhân văn” mà là “vật văn” vì Trung tâm chúng tôi là Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con lừa mà !

PV: Vâng, thưa tiến sĩ, ông nghĩ sao về tiền đồ của Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con lừa của chúng ta ?

TSSVK: Cái “tiền đồ” của Trung tâm là rất xán lạn.

PV: Vì sao ạ ?

TSSVK: Vì ở cái xứ này, cục sắt gỉ người ta cũng tin là ụ nổi, xương bò, xương lợn mà người ta cũng tin là xương người và chịu mua với giá 75 triệu quan tiền một bộ thì Trung tâm nghiên cứu tiềm năng con lừa của chúng tôi còn phát triển dài dài.

PV: Xin chúc mừng Trung tâm và xin cảm ơn tiến sĩ về cuộc trao đổi thú vị này.



Phần nhận xét hiển thị trên trang