Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 11 tháng 11, 2013

Nhà văn Trung Quốc nói:

Vì sao Trung Quốc sẽ không chinh phục được thế giới

Tác giả: Xue Xinran (Tiết Hân Nhiên 薛欣然), Daily Telegraph, 8-10-2011

Người trẻ thì bất lực, người già thì kiệt sức, và giới hành chính thiếu sáng kiến chỉ biết hành dân là chính. Trung Quốc, một siêu cường ư? Trước tiên, nó cần phải trưởng thành cái đã, nhà văn nổi tiếng Xue Xinran nói vậy.
Liệu Trung Quốc (TQ) có thay thế địa vị siêu cường thế giới của Hoa Kỳ được không? Liệu TQ có thực sự sẵn sàng thống trị thế giới được không? Gần mười năm nay, trên những chuyến đi giới thiệu sách của mình khắp thế giới, đây là một đề tài tôi luôn luôn chắc mẩm sẽ bị độc giả chất vấn.
Tôi thông cảm vì sao người ta hỏi tôi. Tôi tên là Xinran, sinh ra tại Bắc Kinh năm 1958. Hiện nay tôi vừa là xướng ngôn viên Anh-Hoa vừa là nhà văn, và tôi sống ở London kể từ năm 1997, nơi mà tôi bắt đầu sự nghiệp bằng nghề quét dọn. Mặc dù chân tôi đứng cả trong hai nền văn hóa, nhưng mỗi lần độc giả hỏi tôi liệu những nỗi lo sợ của người phương Tây rằng quyền lực đang chuyển dịch một cách không nương nể về phương Đông là chính đáng hay không, tôi vẫn lúng túng khi tìm cách trả lời.
Trung Hoa là một con sư tử đang ngủ, Napoléon đã có lần cảnh báo. “Cứ để cho nó ngủ yên, vì khi nó thức dậy nó sẽ làm rung chuyển thế giới”.
Con sư tử thức dậy rồi và đang rống lớn
Gần hai thế kỷ sau, con sư tử này không những thức dậy mà còn đang rống lớn. Các công ty nước ngoài tại châu Á, hãng xưởng tại châu Phi, và thậm chí cả làng mạc tại Ý và những con phố tại Pháp cũng bị các doanh nhân khôn lanh của TQ chụp giựt. Tăng trưởng kinh tế có lẽ đã khựng lại tại các nước nằm vào trung tâm của cuộc khủng hoảng nợ nần trên thế giới, nhưng TQ vẫn là nước sản xuất hàng hóa ít ốn kém và là chủ nợ lớn nhất của Mỹ, khiến một viện nghiên cứu chính sách tại Washington gần đây đã tiên đoán đồng Nguyên (yuan) có thể giành lấy địa vị của đồng đôla như là một trữ kim chính của thế giới trong vòng 10 năm tới.
Trong khu tôi ở tạiLondonhiện nay, một loạt trường còn đưa ra các bài học tiếng Quan thoại cho trẻ em từ 3 tuổi.
Trước đây, khoảng năm 2008, báo Daily Telegraph đã tường thuật việc các “phụ huynh thành đạt” lũ lượt đi mướn các chị giữ trẻ biết nói tiếng Quan thoại nhằm “đầu tư cho tương lai con cái”. Nhìn vào đâu, hình như bạn cũng tiên cảm sự khống chế của TQ là tất yếu. Nhưng có đúng vậy không?
Ít ra cứ mỗi năm hai lần, tôi trở về TQ để cập nhật sự hiểu biết của mình về quê hương kỳ diệu đang thay đổi từng phút từng giờ. Là một nhà văn, tôi cố gắng đào xới những gì thực sự diễn ra đằng sau những siêu thị đồ sộ, những yết thị lóe lên chỉ số giao dịch của Thị trường Chứng khoán Luân đôn, cũng như thăm viếng các vùng quê, nơi cuộc sống thay đổi hơn bao giờ hết.
Đông đúc hơn năm 1997 rất nhiều
Chuyến đi TQ gần đây nhất của tôi diễn ra trong tháng Chín. Bắt đầu bằng 10 ngày bận rộn kinh khủng tại Bắc Kinh nơi mà chồng tôi, trong vai trò tư vấn cho Tổ hợp Xuất bản TQ (China Publishing Group), đang tham dự Hội chợ Sách quốc tế (International Book Fair). Trước đó tôi đã đi Nam Kinh để nghiên cứu tư liệu cho cuốn sách mới của mình về hậu quả của chính sách một-con của TQ, qua cái nhìn của thế hệ thứ nhất.
Rồi chúng tôi đi Thượng Hải, nơi mà cả hai vợ chồng tôi đều đến thuyết trình tại Đại học Fudan [Phúc Đán]. Phần lớn thời gian của chúng tôi đã bị tiêu phí trên đường đi, và lúc đó chúng tôi rất ước ao được ra khỏi dòng xe cộ nối đuôi nhau và những con phố đông đúc, tất cả đều chìm dưới mắt của những dãy nhà chọc trời dài bất tận, trong đó có hơn 16 triệu người cư ngụ.
Một người bạn đề nghị chúng tôi đi Tô Châu, “để có thể đi bộ và uống trà tại một vài vườn trà cổ xưa còn lại, như Làng Guhan chẳng hạn. Không xe hơi, không du khách”.
Trước khi rời quê hương để sang Anh Quốc vào năm 1997, thường thì tôi chỉ mất một giờ ngồi xe hơi trên đoạn đường thú vị này. Lần này chúng tôi phải mất đến 5 giờ và sau một bữa ăn trưa vội vã, người tài xế cảnh báo chúng tôi cần phải ra đi ngay – “nếu không, quí vị sẽ không trở lại Thượng Hải kịp giờ ăn tối, thậm chí theo tiêu chuẩn phương Tây”. (Người TQ ăn tối sớm hơn nhiều). Khi chúng tôi đến ngoại ô Thượng Hải và bắt đầu nhập vào đoàn xe cộ bò lúc nhúc, tất cả đều giành nhau để vào đườmg cao tốc (đài phát thanh sáng đó đã đưa tin số xe hơi tại TQ vừa mới lên tới 100 triệu chiếc, chỉ đứng sau con số 285 triệu chiếc của Mỹ), nhân cơ hội này tôi hỏi chuyện với người tài xế. Xem thử anh ta có tiết lộ điều gì liên quan tình hình của nước Trung Hoa hiện đại và liệu nó sẽ đi đâu về đâu?
Trạc ngoài 30, anh tài đã được làm cha và trước đó anh học lái xe trong quân đội. Nhiều thanh niên vùng quê cố gắng hết sức để vào quân đội, vì đây là cơ hội để có được một cuộc sống tốt đẹp hơn cha mẹ và ông bà của họ, những người đã lớn lên ở vùng quê nghèo khổ hoặc có vào sống ở thành thị thì cũng chỉ làm lao động chân tay ở tận đáy xã hội.
Tuy nhiên, mặc dù còn lâu anh ta mới vươn tới giới thượng lưu trong xã hội, nhưng cũng chưa hẳn là anh đang sống một cuộc đời mộc mạc, thiếu thốn: “Tài xế không có cơ may để làm nhiều tiền như các lãnh đạo chính trị và các bí thư tỉnh, nhưng chúng tôi cũng cần tiền như mọi người khác. Tất cả mọi người chỉ có tối đa một đứa con và vì thế chúng tôi muốn đáp ứng cho con mình những gì tốt đẹp nhất.
“Trường mầm non của con gái tôi không một mảy may nằm trong danh sách thượng thặng nhưng cũng tốn trên 10 nghìn Nhân dân tệ (tức 1.600 Mỹ kim) một năm. Cháu sẽ vào bậc tiểu học năm nay, và tôi cũng phải tốn cho cháu [gần 5.000 Mỹ kim] gọi là ‘phụ phí nhập học’ (entrance donation), một món quà bắt buộc phải đóng góp cho một trường rất trung bình”.
Khi tôi hỏi bao lâu anh mới gặp con gái một lần, anh cho biết, “Không ai có thì giờ cho gia đình, mọi người chỉ túi bụi kiếm tiền để lo cho con cái. Tôi lợi dụng mọi cơ hội để ngủ lấy sức cho ca tiếp theo”.
Tài xế chết đường
Chẳng ngạc nhiên chi: Anh cho tôi biết thường thường anh làm việc mỗi ngày 15 giờ và nhiều tài xế taxi Thượng Hải làm 18 tiếng mỗi ngày không nghỉ ngơi. “Nhiều tài xế tôi quen đã chết vì ngủ gục trên tay lái. Thật uổng mạng”.
Tôi đã gặp những nhân viên phục vụ tại các khách sạn ở Thượng Hải và Bắc Kinh, hầu hết đều trong lứa tuổi ngoài 20 một chút, họ cho tôi biết họ sẽ vui vẻ làm trên 12 tiếng một ngày, bảy ngày một tuần, không cần nghỉ lễ, nếu có thể kiếm thêm một ít tiền phụ trội. TQ đã trở thành một cỗ máy tạo ra của cải và cơ hội, nhưng liệu đất nước của những công nhân kiệt lực này có thể là một quốc gia một ngày nào đó sẽ lãnh đạo thế giới không?
Và thế hệ do chính sách một-con sản sinh thì sao? Nhiều thanh thiếu niên từ 40 đô thị lớn nhất đang sống trong thế giới ba-màn-ảnh (truyền hình, máy vi tính và điện thoại di động), mặc hàng hiệu toàn cầu, đi đây đi đó bằng vé hạng nhất, và mua nhà sắm xe cho một hay hai năm du học ở nước ngoài.
Đối với giới trẻ “siêu giàu” (superrich) này, giá cả không thành vấn đề đối với họ, có kẻ thậm chí bay đi bay về Hồng Kông chỉ để mua sắm nội trong một ngày.
Thật khó quan niệm nổi họ có thể trở thành thế hệ doanh gia tiếp theo của TQ, khi, khác với cha mẹ và ông bà họ, nhiều em chưa bao giờ đụng đến bếp núc và chỉ biết qua loa cách dọp dẹp chỗ ngủ của mình.
Mặc dù giới trẻ này có thể được đào tạo trong những trường tốt nhất, nhưng nhiều nhà phê bình cho rằng hệ thống giáo dục TQ – quá đặt nặng thi cử và học thuộc lòng – chỉ bóp nghẹt chứ không thể khuyến khích óc sáng tạo.
Thật vậy, kỳ thi vào các trường đại học TQ hiện nay, còn gọi là “gaokao” [cao khảo], có nguồn gốc từ một kỳ thi tuyển quan lại được triều đình đặt ra ở thế kỷ thứ VI, và theo Jiang Xueqin [Giang Tuyết Cầm], một nhà quản trị học đường (school administrator) được đào tạo ở Đại học Yale hiện làm việc tại Bắc Kinh, loại thi cử này dành ưu thế cho “ký ức tốt, khả năng phân tích và lý luận cao; nhưng không đòi hỏi óc tưởng tượng và tham vọng chất vấn giới thẩm quyền”.
TQ có thể được coi là có khả năng bắt chước tài tình, nhưng óc sáng chế của TQ thì nghèo nàn – TQ có tài làm hàng nhái của bất cứ sản phẩm nào do phương Tây sản xuất, khả năng này được chứng minh bằng vụ phát hiện gần đây 22 cửa hàng bán sản phẩm Apple giả hiệu tại Côn Minh, thủ phủ tỉnh Vân Nam. Cách vận hành của những cửa hàng này có sức thuyết phục đến nỗi ngay cả nhân viên của họ cũng lầm tưởng rằng mình đang làm việc cho hãng Apple.
Trong một cách nào đó, có thể gọi khả năng này là thiên tài. Nhưng là một thiên tài lầm lạc.
Nếu TQ muốn khống chế các công nghiệp sáng tạo (creative industries) như TQ đã và đang khống chế các ngành chế tạo (manufacturing), TQ cần phải mượn một châm ngôn từ ngành tiếp thị của công ty Apple: “Suy nghĩ khác đi” (Think different).
Liu Jun [Lưu Quân], một doanh nhân vừa được vinh danh là một trong “50 cá nhân có óc sáng tạo nhất TQ”, nói rằng việc này cũng khó như chiến đấu để chiếm một ngọn đồi.
Sở dĩ người TQ không có những công ty toàn cầu là vì chúng tôi không có một viễn kiến toàn cầu”, ông ta tuyên bố gần đây. “Các nhà thiết kế TQ chỉ nghĩ về sở thích của mình, chứ không mấy quan tâm đến sở thích của khách hàng. Đó là một vấn đề hết sức to lớn”.
Cơ cấu của các tập đoàn công nghiệp TQ vẫn còn rất cứng nhắc, và, theo Daniel Altman, một nhà tư vấn của Tố chức Cố vấn Phát triển toàn cầu Dalberg, các sáng kiến “phải được sàng lọc qua quá nhiều tầng lớp trong hệ thống tôn ti trật tự TQ đến nỗi chúng khó có thể tồn tại để lên đến chóp bu”. TQ còn một khoảng cách rất xa mới tiến đến trình độ của Mỹ trong khả năng nuôi dưỡng tinh thần kinh doanh”.
Chẳng có gì giống Mỹ
Hẳn nhiên, những tham vọng khống chế toàn cầu của các tập đoàn TQ là quá xa vời đối với đời sống của nông dân TQ, thành phần chiếm 70% dân số cả nước. Và nhiều tầng lớp thấp kém hơn trên nấc thang xã hội ngày càng trở nên phẫn nộ việc TQ đáp ứng nhu cầu vay nợ của Mỹ.
Như người tài xế của chúng tôi diễn tả: “Tại sao, trong khi người TQ tưới mồ hôi xuống đất đai của chúng ta, làm lụng vất vả ngày đêm, thì người Mỹ lại ung dung thoải mái, mang kính râm đi tắm nắng và tắm biển? Tại sao chúng ta phải giúp họ giải quyết các vấn đề tài chính của họ? Tôi không dám nói với anh ta rằng vào tháng Bảy năm nay, tổng số trái phiếu Mỹ mà TQ nắm giữ đã lên tới trị giá 1.173 nghìn tỉ rưỡi đôla Mỹ, nói cách khác Chính phủ Mỹ nợ mỗi công dân TQ 900 đôla. Tôi nghĩ rằng, là người dân TQ, chúng tôi biết núi nợ này đã được tích lũy như thế nào, bằng việc chúng tôi đã oằn lưng lao động cật lực qua nhiều năm, nhưng không mấy ai dám nói ra.
Lý do là, một phần vì hầu hết người dân TQ không hiểu được tầm mức nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ và một phần vì chúng tôi không quen chất vấn các vị lãnh đạo đất nước.
Larry Hsien Ping Lang, một người sinh ra ở Đài Loan và hiện là một Giáo sư môn Tài chính ở Đại học Hồng Kông, được nhiều người biết đến nhờ những bài phê bình của ông đối với nền kinh tế TQ. Vào đầu tháng này, ông cảnh báo rằng những lo ngại về tình hình kinh tế Mỹ đã bị thổi phồng, và rằng chính địa vị tài chính bấp bênh của TQ mới thực sự cần phải được đối phó.
“Nền kinh tế của chúng ta không được lành mạnh”, ông viết, “và công nghiệp chế tạo sẽ là điểm cuối của sự phát triển kinh tế TQ. Con số các công ty bị đóng cửa sẽ lên tới 30% hay 40% vì khu vực chế tạo đang gặp hai khó khăn. Một là, môi trường đầu tư nói chung đã bắt đầu thoái hóa và, hai là, TQ đang sản xuất dư dôi nghiêm trọng.
“Những khó khăn này đã dẫn đến một cuộc khủng hoảng trong công nghiệp chế tạo và các nhà kinh doanh đã bắt đầu rút lui”.
Ông Lang cho rằng giá nhà tăng vọt tại TQ, được nuôi dưỡng do lượng tiền được bơm vào từ khu vực chế tạo, đang gây thêm bất ổn cho “nền kinh tế bong bóng” của TQ.
Và liệu kinh tế TQ có sắp bể bóng hay không? Ông Lang sợ rằng nó sắp. Theo ông, TQ cần phải giảm bớt tốc độ tăng trưởng kinh tế để hệ thống giáo dục và xã hội TQ có đủ thời gian theo kịp; để cải thiện cán cân chênh lệch giàu nghèo, và để có đủ thời gian cân nhắc những gì TQ cần đến nhằm tạo ra một tương lai vững mạnh.
Một quốc gia hỗn loạn
Sau nhiều năm nghiên cứu các vấn đề được tạo ra bởi một xã hội theo chính sách một-con, tôi không thể không đồng ý với Giáo sư Lang. Thật vậy, lắm lúc tôi có cảm tưởng quê hương tôi là một quốc gia đang hỗn loạn.
Lấy con số tử vong do tai nạn giao thông làm ví dụ. Trong 5 năm qua (2006-2010), trung bình mỗi năm có đến 76.000 người chết vì tai nạn giao thông tại TQ, chiếm hơn 80% tổng số người chết trong trong tất cả các tai nạn công nghiệp.
Kể từ năm 2001, tỷ số ly dị cũng tăng vọt. Tỷ số ly dị cao nhất của TQ là tại Bắc Kinh (39%), tiếp sau đó là Thượng Hải (38%).
Ngày nay, hơn nửa số vụ ly dị diễn ra trong lứa tuổi 20 và lứa tuổi 30, hầu hết nằm trong thế hệ thứ nhất của chính sách một-con.
Nhiều người trong thế hệ này thậm chí không muốn có con. Một số người không muốn mất vị trí của mình trong gia đình; một số người khác nói giản dị là họ không có đủ thì giờ để chăm sóc cho dù chỉ một đứa con.
Ít ra họ biết được khả năng giới hạn của mình. Trong 5 năm qua, có nhiều trường hợp tử vong vì trẻ em 2, 3 tuổi bị chết ngột trong xe. Tại sao? Tại vì cha mẹ chúng vì bận quá nhiều việc, giao con cho tài xế trông coi và những người này lại khóa cửa xe bít bùng khiến trẻ em thiếu dưỡng khí trong khi họ chạy đi lo các việc lặt vặt khác.
Thật là đau lòng, nhưng tai nạn vẫn cứ xảy ra.
TQ đang thay đổi từng phút từng giờ, nhưng đối với một số người, hậu quả là khó chấp nhận. Khi tôi đến thăm vài người bạn cũ ở Nam Kinh, những người này đã nhắc đến con cái mà lâu ngày họ không thấy mặt. Họ không hiểu được làm sao cuộc đời có thể tốt đẹp hơn trong khi cơ cấu gia đình đang biến mất.
Không ai nghi ngờ TQ đã tiến bộ trong 30 năm qua. Tôi không nghĩ ra một quốc gia nào trong lịch sử nhân loại có thể cải thiện được mức sống của 1,3 tỉ người trong một thời gian ngắn ngủi như vậy. Hầu hết ông bà chúng tôi từng chắt chiu dành dụm vài ba hạt đậu mỗi ngày để đẩy đưa gia đình cho qua nạn đói. Cha mẹ tôi thường phải xếp hàng hàng giờ để chờ mua một chai dầu ăn.
Nhưng liệu chúng tôi có thể thực sự trở thành siêu cường kế tiếp hay không? Liệu chúng tôi có khả năng tương tác với những nước phát triển nhất thế giới hay không khi nền kinh tế thị trường tự do của TQ chỉ được 30 năm tuổi?
Cho dù chúng tôi có trở thành một siêu cường đi nữa, thì liệu siêu cường đó có ngằm dưới sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ trung ương hay không?
Liệu chúng tôi có mất bản sắc của mình – các giá trị gia đình và văn hóa của chúng tôi – cho đến khi chúng tôi không còn phân biệt được con rồng Tàu (như cách người TQ nghĩ về chính mình) và con sư tử Tàu (như người phương Tây đã ví chúng tôi)?
Hỡi Trung Quốc, con sư tử ngủ yên bây giờ đã thức dậy rồi, Người phải tìm cách mà lo cho nó ăn và nuôi nó sống.
Trở lại Thượng Hải, sau chuyến đi 10 giờ vất vả gian nan với chỉ một đoạn đường giữa Thượng Hải và Tô Châu, Toby, chồng tôi, đã than rằng: “Anh sẽ không bước lên ô tô tại TQ thêm một lần nữa”.
Anh nói vậy, nhưng cả hai chúng tôi đều biết rồi chúng tôi cũng đi xe hơi tại TQ. Đây là một đất nước có quá nhiều điều kỳ thú và nhiều màu sắc mà chúng tôi không thể từ bỏ và điều kỳ thú nhất là lịch sử của nó vẫn chưa được viết xong.
Xue Xinran (Tiết Hân Nhiên 薛欣然)
Trần Ngọc Cư dịch


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc: Phe ủng hộ Bạc Hy Lai lập chính đảng



Ông Bạc Hy Lai được chỉ định làm Chủ tịch suốt đời đảng Trí Hiến. Trong ảnh: ông Bạc (G) tại phiên phúc thẩm, 25/10/2013) AFP PHOTO / CCTV
Ông Bạc Hy Lai được chỉ định làm Chủ tịch suốt đời đảng Trí Hiến. Trong ảnh: ông Bạc (G) tại phiên phúc thẩm, 25/10/2013)
AFP PHOTO / CCTV
Bất chấp cấm đoán trên thực tế, những người ủng hộ cựu Bí thư Thành ủy Trùng Khánh Bạc Hy Lai đã thành lập một chính đảng riêng. Các nguồn tin gần gũi với phe ông Bạc Hy Lai đã khẳng định sự kiện này với Reuters, ngày hôm qua, 09/11/2013.
Chính đảng có tên gọi là Chí Hiến (Zhi Xian), theo nghĩa Hiến pháp là cao nhất, được thành lập ngày 6/11, tức là chỉ 3 ngày trước khi khai mạc Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành trung ương lần thứ 3 của đảng Cộng sản Trung Quốc.
Qua điện thoại, bà Vương Tranh (Wang Zheng), một trong những người sáng lập đảng Chí Hiến, giáo sư về thương mại quốc tế tại Viện Kinh tế và Quản lý Bắc Kinh, cho Reuters biết là ông Bạc Hy Lai, hiện đang thụ án tù chung thân, được chỉ định làm Chủ tịch đảng suốt đời. Mặt khác, việc thành lập đảng Chí Hiến không có gì là bất hợp pháp chiếu theo luật pháp Trung Quốc.
Vẫn theo vị giáo sư này, thư thông báo việc thành lập đảng Chí Hiến đã được gửi tới đảng Cộng sản Trung Quốc, tới 8 phong trào chính trị khác mà Bắc Kinh nhắm mắt làm ngơ, cho phép hoạt động trên thực tế, cũng như tới Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc (Quốc hội) và Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc (gần như Mặt trận Tổ quốc).
Thông qua Giám đốc trại giam, đảng Chí Hiến cũng gửi thư tới ông Bạc Hy Lai, thông báo việc ông được chỉ định làm Chủ tịch đảng suốt đời.
Giáo sư Vương Tranh nhấn mạnh: « Chúng tôi không sợ hãi. Tôi không nghĩ là chúng tôi sẽ bị bắt. Hành động của chúng tôi là hợp pháp và hợp lý ».
Hiến pháp Trung Quốc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do lập hội, không cấm việc thành lập các đảng phái chính trị. Nhưng trên thực tế, chính quyền không chấp nhận việc thành lập các tổ chức chính trị đối lập với đảng Cộng sản Trung Quốc đang cầm quyền.
Reuters nhắc lại trường hợp nhà ly khai Từ Văn Lập (Xu Wenli), vào năm 1998, bị kết án 13 năm tù vì đã tham gia thành lập đảng Dân chủ Trung Quốc.
Tài liệu của đảng Chí Hiến khẳng định là tổ chức này hoàn toàn đồng thuận với chính sách bình đẳng, được gọi là «phồn thịnh chung» do ông Bạc Hy Lai chủ xướng, trước khi bị hạ bệ.
Tham vọng chính trị của cựu Bí thư Trùng Khách Bạc Hy Lai đã tiêu tan sau vụ một doanh nhân nguời Anh qua đời hồi tháng 11/2011. Trong vụ này, bà Cốc Khai Lai, vợ ông Bạc Hy Lai, đã bị kết án tử hình treo trong năm 2012. Còn ông Bạc Hy Lai bị kết tội tham nhũng, lạm dụng quyền lực và lãnh án tù chung thân. Những người ủng hộ ông Bạc cho đây là một vụ án chính trị.
Theo RFI

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vấn đề chính là cái đuôi vẫn còn mắc kẹt


Theo truyện ngụ ngôn Aesop, có một con cáo bị mắc kẹt đuôi vào một bụi cây, không rút ra được. Bọn muỗi liền xông đến đốt cho sưng vù. Có chú chồn đi qua thấy vậy thương hại nói: “để em đuổi tụi muỗi đi cho anh nhé”. Con cáo khôn ngoan trả lời: “Chú đừng có đuổi chúng. Bọn muỗi này đốt anh no rồi, không đốt nhiều nữa. Giờ mà chú đuổi chúng, thì sẽ có bọn muỗi đói khác đến đốt anh còn đau hơn!”.

Vấn đề chống tham nhũng của VN cũng vậy thôi, đuổi tên tham nhũng này đi, sẽ có những tên tham nhũng khác xông đến xâu xé còn tệ hơn, chừng nào còn chưa “rút được cái đuôi ra khỏi chỗ mắc kẹt”


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2013

những nhà văn “khó đọc” ba miền

 Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết? Tôi không nói văn phong, vì văn phong tức là người sao thì văn vậy, là tâm tính bẩm sinh xuất phát từ hồn vía và thân thể, vấn đề ở đây là lối viết, tức có cả yếu tố tư tưởng, cái nhìn, suy tư và cả văn hóa nền, tức là ý thức xã hội và ý thức cá nhân được hòa trộn. Khó đọc hay dễ đọc chỉ là quan niệm tương đối. Và việc chọn tác giả ba miền cũng chỉ theo cảm tính cá nhân, Nguyễn Bình phương (miền Bắc), Nhật Chiêu (miền Nam), Ngô Phan Lưu (miền Trung) đơn giản chỉ là những nhà văn tôi quen biết và đọc nhiều. Bài viết này không mang tính chọn lọc, đúc kết hay đánh giá thuần chuyên môn; với tôi, có thể những văn bản văn chương này hấp dẫn vì nó đòi hỏi người đọc phải động não nắm bắt khóa mã và tham gia nắm bắt hàm nghĩa cùng nhà văn.
 I. Nguyễn Bình Phương với kiểu hiện thực lũy thừa:
Nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh 1965, viết tiểu thuyết khá sớm: Vào Cõi (NXB Thanh Niên, 1991), Những Đứa Trẻ Chết Già (NXB Văn Học, 1994). Bẵng đi vài năm, gần đây hàng loạt tiểu thuyết ấn tượng của anh liên tục xuất bản và tái bản: Thoạt Kỳ Thủy (NXB Văn Học), Trí Nhớ Suy Tàn (NXB Thanh Niên), Người Đi Vắng (NXB Phụ Nữ), Ngồi (NXB Đà Nẵng)… Bền bỉ với thể loại mệnh danh là “cỗ máy cái”, nhà văn đầy cá tính này đã thực sự tạo thành hiện tượng tiểu thuyết đẫm không khí Kafka Việt, một lối viết huyền ảo trong dòng chảy văn chương đương đại Việt Nam. “Tôi chỉ có một nhận thức bảo thủ là cố gắng viết cho nó gần sát với quan niệm của mình về văn chương vậy thôi.” Anh tâm sự thế. Thật khó rốt ráo quan niệm văn chương của anh, tôi chỉ thử viết những nhận xét, cảm nhận phiên phiến của mình sau khi đọc các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương.
Để có được hiện thực lũy thừa lên nhiều lần, thậm chí đến mức cực thực, đến mức trở thành linh ảo, siêu linh, đối với hệ thống nhân vật trong hầu hết tiểu thuyết của mình, Nguyễn Bình phương đã tách chẻ con người thành những phần nhỏ hơn. Cách thức này thật ra không mới, nếu ai đọc áng văn cổ Tây Du Ký thì đều biết kiểu nhân vật tượng trưng cho từng phần trong con người, nhưng với Nguyễn Bình Phương thì sự tách chẻ theo trục khác, rất riêng: Nhân vật vô thức, nhân vật bóng mờ, nhân vật đang hình thành, nhân vật biến mất, nhân vật đồng thoại…, tức nhân vật con người trong con người và cả nhân vật con người ngoài con người. Tôi tạm gọi là kiểu nhân vật Nguyễn Bình Phương.
Thử khảo sát tiểu thuyết Thoạt Kỳ Thủy, NXB Văn học, 2005:
Trong tiểu thuyết có sự pha trộn giữa kịch và thơ này, ấn tượng nhất là nhân vật Tính. Tính là dạng nhân vật vô thức. Trọng thương ngay trước khi sinh ra, Tính đóng vai trò chuyển dịch, làm hiện dần cái sự chưa điên thành sẽ điên của phân nửa cộng đồng đói nghèo, u mê, lấy bạo hành làm hành vi ứng xử căn bản, (trong khi nửa kia vốn đã điên loạn, liệt tê vì chiến tranh tàn khốc). Ngay từ khi sinh ra, Tính đã không là một “nhân chi sơ tính bổn thiện”, sự “thấy trăng” đã dự báo một sinh thể nhiễm nặng âm tính: … “Vừa ra đời, Tính đã thấy trăng. Mặt trăng to bằng chiếc nong lừ lừ rọi qua vách liếp tạo thành một quầng trong suốt. Tính co rúm lại, rồi thét lên mặc dù cô đỡ quấn Tính trong chiếc khăn to, áp vào ngực mình. Tính lạnh, mắt nhắm tịt lại” (dòng 18,19,20,21,22 trang 14, dòng 1, 2 trang 15)
Dòng vô thức chắp nối, vay mượn, hướng tới hủy diệt đã cuộn lên theo nhịp sống phi nhân của Tính trong từng ngày, từng đêm; hậu quả tất yếu là sau khi Tính lần lượt đốt cháy người thầy của mình và “chọc” hết lợn trong làng rồi “quặt đầu dao, ấn mạnh vào cổ mình” tự diệt. Ông Điện hoạn là người thầy dạy Tính chọc tiết lợn đã đánh thức máu hủy diệt trong người Tính và ánh mắt con chó nhà ông Điện đã tạo ám ảnh dai dẳng “mắt chó vàng như trăng” trong suốt lộ trình vô thức, đã khắc đậm một thế giới đồng chủng, trong đó cú, chó, lợn, người đều mang thuộc tính cùng loài.
Chính ám ảnh “mắt chó vàng như trăng” cùng với sự cố con cú bị trọng thương trôi theo dòng sông là những chi tiết nhỏ nhưng sự lặp đi lặp lại của nó đủ sức gợi người đọc đến những quy chiếu, những kết nối liên tục về một nhận thức tổng quát, về một không gian đầy máu đỏ, trăng vàng và sự điên loạn mê muội.
Có thể hiểu cái tên Tính của nhân vật này theo nghĩa “yếu tính”, vậy nên ta có một chiều khảo sát khác là nhìn từ căn nguyên, từ người gieo mầm ác là cha ruột Tính. Sau cú đạp của ông Phước vào bụng bà Liên lúc mang bầu, Tính đã học được bài học bạo lực đầu tiên, ác tính đã được tiếp nhận từ bào thai và phát triển phình lớn, từ giết công cống, giết kiến đến giết lợn và giết người để rồi kết thúc chu kỳ là tự giết mình. Tức là bạo lực khai mở, khai tính, để rồi, oái oăm thay, con người quy hướng về tự ngã- phi luân lý. Mê lộ hình thành yếu tính, kỳ thực là khởi thủy của những “bất yếu tính”. [Thoạt Kỳ Thủy gợi liên tưởng đến cách giáo dục một thời của ta. Những người còn chút lương tâm lúc đó luôn trăn trở: Sao không dạy trẻ con bài toán “một bông hoa cộng một bông hoa” mà nỡ in vào sách giáo khoa những bài toán nặng nề “một cây súng cộng một cây súng”? May mà những ấu trĩ như vậy cũng qua rồi!] Và câu hỏi đặt ra: Phải chăng Thoạt Kỳ Thủy là nguồn cội tâm lý, tâm thần của một thời đại đã qua, nơi đầy rẫy những lập ngôn sáo rỗng, những giáo dục hành xử sai lệch và những ham muốn hủy diệt, tự diệt không ngừng?!
Trong tiểu thuyết Ngồi, NXB Đà Nẵng, 2006, Khẩn, Kim là những nhân vật vong thân. Con đường hình thành, biến mất Khẩn được biểu hiện một phần qua danh tính: “…”, “…n”, “…ẩn”, “…hẩn”, “Khẩn”/ “Khẩ…”, “Kh…”, “K…”. Và Kim hiện ra, biến mất bí mật bên trong Khẩn. Kim xuất hiện trong đời sống tinh thần của Khẩn như một ám ảnh tâm linh của người “Giao Chỉ”.
Cũng không hẳn thế giới của Khẩn là một thế giới phóng đãng do bị dồn nén, nó còn là biểu hiện khủng hoảng về niềm tin cuộc sống, anh ta tin vào cõi âm nhiều hơn là tin vào điều gì đó của cõi người đang sống, anh ta bất an trong một thế giới đầy rẫy những khả nghi, bê tha, giả trá và nhiều âm khí. Khẩn sống, làm việc, ứng xử miên man trong một trạng thái bần thần, như dòng 8, trang 188 có đúc kết: “Cái dáng đứng bần thần là biểu hiện cố gắng cuối cùng duy trì tư thế của một con người”, hay trong dòng 13,14,15 trang 290: “Giữa cái dòng sáng nhấp nhánh ấy những khuôn mặt hiện ra, trôi qua, lại hiện ra lớp lớp vô tận chẳng biết về đâu, cũng chẳng biết từ đâu tới”…
Một không gian lơ lửng, ảo mờ những hình ảnh nửa là người, nửa lại chưa phải của người, nghĩa là “tâm theo cảnh mà hóa”, mà tiên khởi, trùng khởi. Nó như con dao hai lưỡi “giết chết” người đọc, lấy kiến văn tri giác, mở rộng các giác quan mà tiếp cận mới mong nhập được dòng chảy ảo mờ của chốn rốn bão nội tâm “hoảng loạn” tâm thần, nhưng cũng chính kiến văn tri giác là khối trở ngại lớn lao, cứ thử đọc tiểu thuyết Ngồi một mạch, gấp sách lại, ta sẽ thấy mình rơi vào cõi tịt mù, những đại tự sự, tiểu tự sự, những giáo thuyết, cách tân, những phân tích, diễn ngôn, chẻ tư sợi tóc, phân ly, liên hội, đồng nhất hay tích hợp… đều vuột khỏi, người đọc mất khả năng câu thúc trước tình trạng khủng hoảng, cáo chung của một ẩn dụ con người- thời đại [Khẩn].
“… Tổ sư con đĩ.
cốc cốc cốc
Tổ sư. Sao lại chửi tổ sư? cốc cốc cốc cốc. Chả biết nữa. Nhưng mà rõ ràng là mình đã gặp ở đó. Nằm trên đỉnh núi hoang vu, rờn rợn mái cong ngả màu xanh đen. Mình đã lên đấy, vượt biết bao nhiêu con suối, những con suối nhỏ bé nhưng bí ẩn bởi lẽ không thể biết chúng bắt nguồn từ đâu, và mình thấy luôn luôn gai người mỗi khi ngước lên những vòm lá sẫm tối nhộm nhoạm trải bất tận trên đầu đến mức nghẹn thở…” (dòng 21,22,23,24,25,26,27 trang 197, dòng 1,2,3 trang 198)
Rõ ràng đó là loại hiện thực cực thực, những hình ảnh, ẩn dụ vừa hiện hữu như những sắc thân hư huyễn của tự nhiên vừa như những cảnh tượng niệm tưởng tịch tĩnh mà cõi tâm linh sống động của ai đó vừa phóng tâm hướng tới.
Và nữa, các trò chơi mê tín cầu cơ, bói toán, những hiện tượng bí hiểm như ma làm, như mảnh vải may áo tự dưng có, những bức hình cũ, những nhân vật khả nghi, những truyền thuyết, những truyện dân gian hoang đường, những biến mất khả nghi [Quân, Dũng]… Tất cả xoay quanh Khẩn làm cho vòng xoáy bất an càng lúc càng xiết chặt.
“Cây cột đèn bỗng nhiên cao vút lên, già cỗi, lạnh lùng, sừng sững chống lại sự trôi chảy cuồng nhiệt của dòng ánh sáng xe máy. Khẩn nhìn xuống dưới chân hy vọng tìm thấy một vật cứng để đập thử xem độ dày của cây cột nhưng không có bất cứ một viên đá nào, xác chim chết vì khí lạnh cũng không, chỉ có những vỏ bia lăn lóc lẫn với các túi nilông đựng rác…”
(dòng 4,5,6,7,8,9,10 trang 286)
Đó là hình ảnh mang tính thực trạng, ám dụ, so với cái cột đồng ở đầu quyển tiểu thuyết, cái trục này dễ làm cho người đọc dừng lại một cách hời hợt ở phần ám chỉ xã hội. Khi đọc tiểu thuyết này, tôi thầm cám ơn chi tiết Khẩn vơ chổi đuổi chuột, chính nó đã gợi nhớ lại câu chuyện thiền, trong khoảnh khắc cùng đường con chuột đã phóng ngược lại chính ngả đường đã dồn nó, trong khoảnh khắc thả lỏng và vụt lên ấy nó đã bật lên: “A! Đây rối”. Và tôi cũng đã thốt lên như vậy khi tìm ra con đường đến “hồng tâm” trong lần đọc thứ hai.
Thế giới vong thân và sa đọa trong các tiểu thuyết Thoạt Kỳ Thủy và Ngồi là loại hiện thực song song/ lũy thừa/ đa chiều được khắc họa bằng cách tách chẻ/ nghiền vụn, thậm chí trộn nhòa, nén co, làm mờ bóng, tan biến nhân vật đến có có không không. Đó là hiện thực tạp loạn, chợt ám, trôi nổi của giai đoạn quán tưởng, giai đoạn đầu tiên bước vào công án thiền, nơi đó, con người không còn đứng được nữa. Không đứng được nữa hay lùn hóa hay giam biệt hay tự diệt, cũng là ranh giới tạp niệm và xả bỏ tạp niệm. Vì Nguyễn Bình Phương đã cân nhắc công án hiện tiền đó bằng tiêu chuẩn tri thức, nên các tiểu thuyết của anh là những toàn cảnh đẫm đời, không giáo điều, lại khá quyến dụ.

II. Nhà văn Nhật Chiêu với thể sương:
Nhà văn, dịch giả Nhật Chiêu là người Sài Gòn gốc, ông sinh năm 1951, dạy Đại học Xã hội – Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh hơn hai mươi năm qua, là tác giả của hàng trăm bài viết, biên khảo, dịch thuật, tác phẩm văn chương. Có thể liệt kê sơ bộ: 
-Con lừa vàng, Lucius Apuleius, dịch, Nxb Hậu Giang, 1987. 
-Tình trong bóng tối, Tanizaki Junichiro, dịch, Nxb Văn nghệ, 1989. 
-Tagore – người tình của cuộc đời, viết chung với Hoàng Hữu Đản, Nxb Hội nhà văn, 1991. 
-Những kiệt tác văn chương thế giới, viết chung, Nxb Thanh niên, 1991. 
-Tiếu lâm Nhật Bản, dịch, Nxb Văn hoá dân tộc, 1993. 
-Basho và thơ Haiku, biên khảo, Nxb Văn học, 1994. 
-Nhật Bản trong chiếc gương soi, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1995. 
-Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Nhật Bản, chủ biên và dịch, 2 tập, Nxb Trẻ, 1996. 
-Đại cương văn hoá phương Đông, viết chung, Nxb Giáo dục, 1996. 
-Câu chuyện văn chương phương Đông, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1997. 
-Thơ ca Nhật Bản, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1998. 
-Văn học Nhật Bản, biên khảo, Nxb Giáo dục, 2000. 
-Người ăn gió và quả chuông bay đi, truyện ngắn, Nxb Văn Học, 2007 
-Mưa mặt nạ, truyện ngắn, Nxb Văn Nghệ tp HCM, 2008 
-Viết tên trên nước, truyện ngắn, Nxb Thanh Niên, 2010 
-Lời tiên tri của giọt sương, truyện tuyệt ngắn, Nxb Hội Nhà Văn, 2011
Nhân đọc Lời Tiên Tri Của Giọt Sương là tập truyện tuyệt ngắn của nhà văn Nhật Chiêu vừa được xuất bản bởi NXB Hội Nhà Văn và Phương Nam book, tôi mạo muội viết chút cảm nghĩ của mình. Tôi tạm gọi thể loại này là Thể Sương trong truyện ngắn: Thứ nhất đương nhiên là vì cực hạn, thứ hai vì nó chứa một hiện thực vạn vật bình đẳng, nghĩa là Nhật Chiêu đã mang đến văn đàn một cái nhìn, góc nhìn không biên kiến, thậm chí có thể đảo chiều, phóng to, thu nhỏ, tự do đến vô cùng, nén chặt chỉ còn một, như hình soi trong một thấu kính đa diện mà với góc nhìn nào thì cái tâm nhất như của nhà Phật cũng trùm lợp, thấy cùng lúc nhiều góc độ nhưng chỉ là một. Tất nhiên con người, tính người vẫn giữ được là một sinh thể xã hội, chịu sự tương tác với các điều kiện sống.
Cái nền để giọt sương chứa đựng hiện thực này trụ được là tư tưởng Phật giáo. Nhiều người cho rằng Nhật Chiêu ảnh hưởng rặt phương Đông, tôi đọc, nhất là trong tập này, thấy rằng ông đã chọn lọc qua lăng kính của mình tất cả, không nề hà Đông Tây, không định kiến, biên kiến, thời đoạn, chủ nghĩa. Có một thiền sư đã nói rằng: “Bao lâu mồ hôi chưa đẫm ướt lưng nhà ngươi chưa thể thấy chiếc thuyền trôi ngược gió, bao lâu mồ hôi chưa đẫm hết mình mẩy đừng có mong tìm ra điện ngọc trên đầu ngọn cỏ”. Truyện tuyệt ngắn của Nhật Chiêu khi thì như một công án thiền, khi thì như một “điện ngọc trên đầu ngọn cỏ”, khi thì như trò chơi tranh ảo giác, cái này lồng trong cái kia. Nheo mắt để nhìn, dồn hết tâm lực để đọc tưởng là kiến giải được hóa ra chỉ loay hoay ngoài cửa. Gấp sách đã lâu, đang làm việc khác chợt nhớ lại, liên tưởng, suy tưởng, bất ngờ mắt sáng lên, bất ngờ dòng điện hanh thông rần rật chảy chảy tuôn tuôn trong hồn, người đọc thoát nhanh khỏi anh thị giả ngây ngô trước đó.
Lời Tiên Tri Của Giọt Sương là tập mới nhất Nhật Chiêu dụng công khai phá Thể Sương, nếu cắt nghĩa theo các khái niệm cơ bản của thi pháp lí thuyết thì đây là một dạng thức sáng tác mới lạ trong văn học hiện đại Việt Nam, nhưng bản lai diện mục của nó nằm trong kinh Phật từ xưa. Nó là cuộc trở về, cuộc LƯU LẠC TRỞ VỀ của văn chương Việt.
Thử xét một truyện như là một chấn động trong tâm tư tác giả. Truyện chỉ gồm tên truyện “Godot nói”, nội dung: “TA LÀ MỘT SÂN KHẤU TRỐNG, tự chờ đợi.” Cái liên văn bản về vở kịch phi lí Waiting for Godot của Samuel Beckett là gốc đã đành. Từ vở kịch ấy, Nhật Chiêu đã không cố ý cô lại nội dung, ông ghi ra sự chấn động lớn của chính ông trong đời sống con người, không có gì bi kịch bằng, mơ hồ bằng, lừa mị bằng nỗi chờ đợi chính mình. Godot không chờ ai cả, ngay cả Chúa (God) cũng không có cuộc hẹn nào và cũng không chờ đợi gì, Godot chờ chính mình. Chờ chưa hẳn là để gặp mà chờ để chiến thắng, chiến thắng chính mình. Theo tư tưởng Phật giáo thì đây là chiến thắng khó khăn nhất- chiến thắng Phật. Ngay cả chờ đợi sự chết cũng có yếu tố từ bên ngoài, tức khả năng gặp là có thể, còn tự chờ đợi một điều thay đổi, tiến triển lên tới được điểm gặp gỡ nơi chính mình thì thật sự là khó, phi lí, thậm chí không thể. Lúc bấy giờ, nhận thức: TA LÀ MỘT SÂN KHẤU TRỐNG là một nhận thức tự kỷ ám thị nặng nề đau xót trong bi kịch xã hội. Vượt qua diễu nhại thông thường, làn sóng chấn động đó sẽ lan sang độc giả nắm được “độc pháp”, ta buông bỏ hoặc quên đi những kiến văn ban đầu mà không hay. “Godot nói” đã thêm một chiều nữa vào “Chờ Godot”. Gấp sách, ta hoang mang hơn về cái gọi là tự “hoang đảo” chính mình.
Truyện khác: Mĩ học. “NÀNG NGƯ NỮ HỎI MỘT CON CÁ GIÀ, ta có đẹp không, nó đáp “chỉ có nửa thân dưới là đẹp, cô là một con cá đẹp phải sống với quái vật ngay trong bản thân mình” và câu nói ấy đã làm Ngư nữ chết tươi cùng với niềm đam mê vô ích.”
Biểu hiện đặc thù của quan hệ giá trị con người đối với thế giới được đặt trong cái nhìn bình đẳng mà tôi đã nêu trên. (Quan điểm kinh điển: Thẩm mỹ không tự có, nó tồn tại, sinh thành nơi con người như là một cách tư duy thế giới). Trao cho “con cá già” hay là một sinh vật khác con người sự tự biểu hiện tức thừa nhận những tình cảm thẩm mỹ khác, những lý tưởng thẩm mỹ khác, những thị hiếu và quan điểm thẩm mỹ khác, nghĩa là ý thức thẩm mỹ khác, rộng mở. Truyện đánh thức chúng ta ra khỏi giấc ngủ mà ở đó chúng ta đã quen với hơi ấm của chiếc mền được dệt bằng thói quen, chúng ta mong muốn trở về với sự công bằng, bình đẳng, tất cả đều là tiểu vũ trụ và mong muốn nắm bắt được mối quan hệ đích thực trong tự nhiên mà tư tưởng Phật giáo gọi là “đế võng”. Hoàn toàn không suy lý, những cảm thức của Nhật Chiêu trong nhóm truyện mê này muốn nhấn mạnh một quan điểm mĩ học rộng mở, Ngư nữ chết chính là cái chết quy luật của những quan điểm mĩ học chưa toàn diện.
Truyện khác: Vong. “LÀ NGƯỜI CUỐI CÙNG được phóng vào vũ trụ, anh nhìn thấy trái đất nổ tan.” Rất nhiều áng văn xưa nay nói về nỗi cô đơn nhưng xét cho cùng “mảnh đất” để quay về của những nỗi nhớ da diết, của những lạc loài đớn đau ấy vẫn còn, vẫn chưa mất, vẫn còn sợi dây bám víu, dù là mong manh như sợi khói, dù là xa ngái đến vạn dặm trùng khơi. “Vong” của Nhật Chiêu thì nỗi cô đơn đã được đẩy đến tận cùng: Vong quê hương, tức là những sợi dây cuối cùng cũng bị cắt đứt bởi cuộc “nổ tan” kinh hoàng cuối cùng. Đây là một truyện ngắn thâm hậu mà khi còn ở dạng phát thảo ban đầu, ông thường nói với tôi khi uống cà phê. Tôi nghĩ NGƯỜI CUỐI CÙNG ấy chính là biểu tượng của sự cô đơn tột cùng và nỗi tự do tột cùng. Trong cái khoảnh khắc tột cùng kia, mọi lời nói, mọi suy tư đều trở nên phi thực và chẳng mang một ý nghĩa gì. Nó như thơ mà không phải thơ. Nó ở giữa tiếng nổ của ý thức tự do và một cuộc đối mặt với thực tại biến động. Nó ở giữa cái ai cũng biết và cái chưa ai biết. Nó nhân danh con người- vừa là tác giả vừa là nạn nhân. Nó cho phép mọi suy luận liên quan đến điều này, bởi chưa từng có một kinh nghiệm trong sự mong manh đỉnh cao của thân phận con người. Không cần đến sự thăm dò, phóng chiếu này như một công án đánh thẳng tới sự “hốt ngộ”. 
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự 
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền… 
Có lẽ ai cũng nhớ mang máng hoặc thấm đẫm tiếng chuông của tinh thần thoát tục Phong Kiều Dạ Bạc này, bởi thế khi đọc truyện Vào của Nhật Chiêu, ta không thể không liên tưởng. Cái tuyệt bút của Nhật Chiêu là ông đã đặt đỉnh điểm thăng hoa của tâm trong cái đỉnh điểm thăng hoa của thân và ngược lại. Truyện Vào chỉ gói gọn trong một câu 13 từ: “Tiếng chuông nửa đêm vọng đến thuyền khi anh vào sâu trong nàng” nhưng khả năng diễn đạt bằng hình thức liên văn bản này đã vượt khỏi sự giễu nhại thông thường, nó nhấn mạnh đến sự hợp nhất theo tinh thần nhà Phật, theo tinh thần thiền học. 
Tiện Nghi cũng là truyện thú vị trong nhóm truyện Mê: 
“Ra khỏi chuồng nhờ chấn song xiêu vẹo, con khỉ gầy tự do dạo chơi nhưng chỉ một chốc sau lại quay về chuồng, con khỉ béo hỏi, có gì lạ không, nó đáp “Sinh vật bên ngoài khốn khổ lắm, họ luôn phải đi tìm mọi thứ ở ngoài chuồng mà không hiểu rằng trong chuồng đã có sẵn mọi thứ rồi.” 
Truyện này thấm đẫm tinh thần Trang Tử, tức là cái bi kịch tự do cốt lõi bị đánh mất qua con đường thuần dưỡng vật chất và giam giữ đã tạo thành một hài kịch nhập nhằng trong ý thức. Chính ngụ ngôn về con khỉ đã gợi những suy tư triết học mà đối tượng là người, vì khỉ gần với người nhất… 
Tập truyện Lời Tiên Tri Của Giọt Sương có rất nhiều cách đọc và suy giải, cảm thụ. Trên đây chỉ là những gì tôi đọc trong phạm vi kiến văn hẹp hòi của mình, kính mong bạn đọc đừng phân tâm. Tập có tất cả 109 truyện được phân thành nhiều nhóm nhỏ: Truyện nhỏ (small-sized stories): 10 truyện, truyện lạ (stories of the strange): 12 truyện, truyện đêm (stories of the night): 14 truyện, truyện đâu (stories of somewhere): 14 truyện, truyện hư (stories of emptiness): 15 truyện, truyện mê (stories of enchantment): 14 truyện, truyện ai (stories of somebody): 12 truyện, truyện chơi (stories of jokes): 10 truyện, truyện thời (stories of time): 8 truyện. Trong phần tiếng Anh tập truyện có tên là: A dewdrop’s foretelling (Bản dịch của Từ Lê Tâm). Nó là một thế giới tâm tư rộng mở nhiều chiều nhưng được nén gọn như cách nén tinh tế của giọt sương. Đọc tức là giải nén bằng chính mình vậy!

III. Và Ngô Phan Lưu với lối viết độ không:
Trường hợp nhà văn Ngô Phan Lưu, một trong những “cây gộc” nhà văn – nông dân của miền Trung vào những năm gần đây là lối viết trở về, ông đã xóa hết những ảnh hưởng Tây học với mong muốn có lối viết trơn, lối viết hồn cốt của minh triết Việt. Nói thêm: Trước khi làm nông dân rồi nhà văn, ông là sinh viên triết nhiều năm. Ngô Phan Lưu sinh năm 1946, hiện đang sống tại Phú Yên. Cho đến giờ này, ông đã xuất bản bốn tập truyện ngắn: Người không giăng câu Kiều, Cơm chiều, Xoa tay và cười, Con lươn chép miệng.
Thử khảo sát một số truyện của ông trong ý định không xâu chuỗi vì rằng sợ như vậy sẽ đánh mất nét độc đáo của từng truyện. Con lươn chép miệng là tên tập truyện (tôi chọn ngẫu nhiên) và cũng là tên của truyện ngắn đầu tiên trong tập. Riêng cái tiêu đề phần nào đã nói lên lựa chọn của ông, là cách nói dân dã, cách nghe dân dã, cách buồn dân dã và cách không buồn cũng của dân dã. Dường như sự nhấn mạnh “nhà văn nông dân” là một khế ước mà Ngô Phan Lưu muốn kí với cuộc đời. Đó là tín hiệu đầu tiên.
Trong truyện ngắn thay lời phi lộ của tập sách này, cái lựa chọn cục phân của thằng cu Phát cháu nội, “cục phân đã khô quắt lại, nhỏ xíu, mũi nhọn vươn cong lên trời”, để nỗi nhớ bám víu vào, tôi nghĩ tác giả không dùng cái cách “ăn cục nói hòn” quê mùa nhằm gây xúc động hay chủ ý kích thích tình cảm của mọi người, theo tôi nó ngầm dự báo một ý nghĩ, một tình trạng thay đổi, sẽ quay về trong cách viết, trong tình cảm con người, nhất là của người nông dân, cũng có thể gọi nôm na là “cách mạng”. Chắc chắn có ý nghĩa song song, nhưng tiếng lươn chép miệng ở đây là tiếng cười “dứt khoát không buồn”, nó vừa là cười chính sự lẩm cẩm bé mọn của mình vừa là cười người khác, cười mà không gây tổn hại, cười để thay đổi. Câu hỏi đặt ra: Tại sao có những điều thuộc về con người, văn bản văn chương lại chối bỏ, lại e ngại?! Tiếng cười tự nó không có ý nghĩa gì nhưng trong cuộc vận hành này nó lại có nghĩa. Một dự báo nữa từ tập truyện: Ngô Phan Lưu, một lối cười thoát khỏi các định chế, thoát khỏi các công thức, các khung, các sườn cũ, ông đã chọn lối nhếch mép thâm thúy như ban đầu, như nguồn, như muôn đời của người nông dân cùng khổ miền Trung.
Sang truyện ngắn “Giải thoát” thì cái ý nghĩ “cách mạng” lại tung tẩy sang một lãnh địa khác. Tôi không viết bài này nhằm phê bình văn bản, tôi muốn tham dự vào “cuộc chơi” cùng nhà văn Ngô Phan Lưu với cấu trúc sâu xa – trơn trắng của tác phẩm. Tôi có quyền như vậy vì nghĩ rằng người đọc không phải là người “tiêu thụ” tác phẩm mà là người “sản xuất” trên cái nền nhà văn đã viết nên. Mã hiệu đầu tiên mà chúng ta khảo sát là loại mã hiệu chú giải: “Lão Bốn Nham nay bảy mươi sáu, sống cùng vợ tại nhà số 6 hẻm 13 tổ 9 khu phố Bà Triệu”. Sao phải cụ thể, rõ ràng, chi li như vậy? Chính sự cố ý này đã tạo trong lòng người đọc một nghi vấn ngược lại, không gian bắt đầu lồi lõm, bí mật thứ nhất được gieo vào truyện là bí mật ẩn dụ về không gian. Cách thức này hơi mới một chút, hơi tinh một chút so với những “làng”, “thôn”, “chiếc hộp”, “trại”… nhằm ẩn dụ một bối cảnh khác được dùng nhiều trước đây, bởi vì trong tiếng Việt cứ nhấn nhá, dây cà dây muống một cách cố ý thì y như rằng người nghe sẽ có phản ứng nghi ngờ, nói vậy mà không phải vậy. Chiếc chìa khóa an toàn đã được tra vào ổ. Mã hiệu thứ hai khơi lộ là chiếc bình cắm hoa trên bàn thờ, tới đây thì chúng ta cứ ngỡ truyện như một câu chuyện bình dân dễ hiểu, nhưng hai lần nhà văn nhấn mạnh thủ phạm trong sự nhập nhằng giữa chuột và mèo thì cái nghĩa “dễ hiểu” trước đây đã bị bỏ rơi. Lần thứ nhất nghi ngờ chuột hay là mèo từ phía vợ Bốn Nham, lần thứ hai thì chính trong suy nghĩ của lão Bốn Nham: “Lúc ngồi co rút trông giống con mèo”. Và mập mờ về bản lai diện mục là “một con vật đa hình thể” làm cho người đọc bị dẫn đi theo hướng của nhà văn, hướng của “sương mù”, của thế giới khác. Xem như đối tượng thực muốn nói đến đã bắt đầu lộ diện ở phân đoạn thứ nhất. Phân đoạn thứ hai – đặt bẫy – làm rõ hơn về thủ phạm: “nghe được tiếng người”, “thù vặt”… chỉ là một bước bồi để rồi cố ý dẫn tới sự nhận diện đến bàng hoàng, “há hốc mồm” nhìn thủ phạm “ác độc đến ma quái” đang thản nhiên hiện ra. Sự đóng băng vì sợ, trốn chạy vì sợ là một thực trạng nhưng tại sao đến cuối truyện thì cả hai vợ chồng Bốn Nham đều hết sợ? Tìm săn – sợ hãi – tôn thờ là một quá trình chuyển biến, đảo lộn tâm lý đặc biệt, cường độ cảm xúc được đẩy lên cực mạnh, để đến khi tưởng là gỡ bỏ được dồn nén thì thật ra đó là lúc con người khác đi, làm cho bị khác đi, mất tự chủ. Phải chăng chính sự nhận diện cuối cùng mà nhà văn gọi là định thần đã làm cho họ không còn sợ hãi nữa? Không phải! Hai chữ “định thần” ở đây được hiểu theo nghĩa định thần – giả tạo, định thần – tự lừa mị. Hệ quả của sự bất lực là bệnh thần thánh hóa, hình ảnh vợ chồng Bốn Nham vái lia vái lịa là thực trạng đau đớn hơn rất nhiều thực trạng “co rúm” vì sợ hãi trước đây. Mã hiệu cuối cùng là loại mã hiệu tượng trưng đã phát huy được tác dụng và đương nhiên nó cũng thú nhận một sự thật về nguồn gốc vô thức của văn bản truyện ngắn này là bệnh sùng bái cái mạnh, cái ác trong mỗi con người chúng ta, cả tôi và cả bạn.
Văn bản cần khảo sát thứ ba là "Buổi sáng biến mất", với truyện ngắn này ông được trao giải nhất báo Văn Nghệ 2007. Như ông tâm sự: Văn chương phải khảo sát những gì có thể xảy ra trên cái nền hiện thực đã xảy ra, nên việc đọc của tôi sự thực là khảo sát của những khảo sát.
Mô típ gieo ẩn dụ không gian được lặp lại, “Xóm ao”, nghe chừng cái liên văn bản ca dao “ta về ta tắm ao ta” chuẩn bị được lộn trái. Cái cách nói tưng tửng: “đội banh Nhà thương”, “gôn Tử thần” nhằm làm cân bằng cho những thổn thức của/ trong căn nhà rã nát mà tác giả sẽ mở ra: “Đau đớn mà đòi sống, đúng là người ngu. Phải đòi chết cơ, như chú đã đòi. Có lẽ, cạnh những chân lý năm tháng dài hạn, còn có chân lý phút giây ngắn hạn. Mà cái chân lý phút giây ngắn hạn ấy lại có thể là chân lý vĩnh hằng.” Sự tàn nhẫn không sinh ra từ nghèo khổ, nó nảy nòi từ cái phần ác bên trong con người, nhưng nghèo khổ chính là môi trường, chính là cái cớ để sự tàn nhẫn phình to, chiếm đoạt đời sống, sự sống.
Thử đọc thành lời đoạn thoại mà qua đó nó nói đến những thứ không phải là xương thịt của nhân vật Khiêu đã rã nát, một loại rã nát từ bên trong: “- Nói thế sao được, hả chú? Cứ xem lão Phiệt đấy, cũng trầm trọng chí tử liên miên, mua hòm trước có đến ba lần, đều cất đấy chờ mọt ăn. Vậy mà nay vẫn sừng sững chén thịt chó”.
Chú Khiêu quay mặt lơ đãng ra cửa sổ, nơi có tiếng hót trong veo, ríu rít của mấy chú chim sâu trong khóm lựu xơ xác. Chú lại nói, giọng yếu ớt:
“Mua hòm trước là… người khôn. Không mua hòm trước là… kẻ dại. Chú đã dại. Chết rồi, Ai mua?”
"Thuấn lại nín lặng. Cái nín lặng buộc anh nín lặng. Lại cũng ở tầng sâu câu nói ấy, trùng trùng cay đắng oán hờn.” Đến đây thì người đọc không cười được nữa, hoặc cười thì là kiểu cười méo xệch, kiểu cười bẽ bàng, cười hiểu ra cái sự đời thật khốn nạn cùng với tác giả. Đó, cái “xóm Ao” mà con người luôn muốn quay về nay đã ra nông nỗi. Nhà thương, lòng thương, tình thương lần lượt tan rã, biến mất như sự biến mất của buổi sáng cuộc đời, biến mất ngay cả cái không tính ban sơ. Một cảnh báo chấn động được viết ra chỉ bằng lối kể rất đặc thù của người nông dân, không hoa hòe hoa sói, không vận dụng một thi pháp sách vở, vay mượn nào…
Một truyện ngắn lý thú ông viết gần đây là “Con kỳ nhông nhựa”. Lão Lú của xóm Rọ Hươu chuyên kể chuyện ma láo đã “nắm thóp” tâm lý đám đông, đám đông: dễ bị kích động, dễ trở thành ngây ngô, dễ tin, dễ không tin và cũng dễ bị lừa. Ma láo nhưng đề phòng thật, người được đặt vào thế giới ma, ma lại đặt vào thế giới người, nhờ vào tài quan sát nhạy bén Ngô Phan Lưu đã khai thác rất tinh các mô típ kể chuyện quen thuộc của dân gian để biến nó thành lối viết của mình, do vậy đọc văn Ngô Phan Lưu ta biết, không lẫn vào đâu, đây là một nhà văn nông dân Việt Nam chính hiệu. Ấy là độ không của lối viết vậy.
Mỗi người mỗi kiểu, không ai giống ai, thuật ngữ gọi là cá tính sáng tạo, chỉ có một điểm chung của ba nhà văn trên: Họ đều là những nhà văn xuất sắc trong việc nắm bắt những phẩm chất định tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Thật ra, ở đầu bài viết, tôi đặt vấn đề hình thức nhưng rồi chính tôi cũng cảm thấy không ổn, tôi vẫn thích gọi văn họ là những thể văn vì dường như khó phân biệt rạch ròi hình thức và nội dung, nó dường như không có một gián cách nào, nó có trong nhau, quyện trong nhau thành một thể mang giá trị thẩm mỹ chấn động. 
 
Chân núi Tà Cú, hoàn thành bài viết 04/06/2013 N.H.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cu Vinh vừa bình vừa Luận:

y hôm xem ti vi từ ti vi to đến ti vi nhỏ, chợt trong đầu xuất hiện một sự liên hệ không...nhẹ: Là cứ mỗi cơn bão, mỗi trận lũ, dù năm đó mấy cơn thì mấy cơn, các bác, các chú, các anh, các chị trong các bạn chỉ đạo vô cùng đông đảo từ to tới nhỏ, ai cũng khoác trên mình áo mưa mới, áo phao mới, mũ mới, ủng mới, giày dép mới, mới tỉnh tươm, và dù không mưa thì các bác, các chú, các anh, các chị vẫn mang, nhìn cái biết ngay ban chỉ đạo. Mình là cái thằng quê mùa, mắc phải cái bệnh hay vị chi là, nhẩm nhẩm, tính tính, mỗi lúc cơn bão, cơn lũ đến, tính tính đếm đếm cả ngàn, cả ngàn các bác các chú, các anh, các chị được cấp phát đồ quân tư trang, gọi chung là quân tư trang chỉ đạo, không nhiều nhặn lắm đâu nhỉ, bà con nhỉ, nhưng cũng cả núi tiền. Chuyện nhỏ ấy có thực sự như con...thỏ không ta? 
Thứ hai là....Vui lắm nha, các anh các chị nhà các loại đài, bão chưa, mưa chưa, lũ chưa nhưng hễ đưa tin ở hiện trường là y như phải tìm cho được cái bối cảnh rất chi là sắp bão, rất chi là sắp lut, trời có khi đang nắng nha, vẫn có chị xắn quần kiếm cái vũng nước để nói nha, nhiều chỗ khô ráo đẹp đẽ vẫn đưa nhân vật lội lội ở chỗ ngập rồi mới phỏng vấn nha. Một lần mình thấy thế này, lũ ngập thật, nhưng cái chỗ mọi người đứng thì cao ráo lắm, thế mà em nhà đài vẫn cương quyết ấn bác lãnh đạo ra sân, ấn cho tới khi nước ngập tới đầu gối thì mới chịu vừa phỏng vừa vấn khăn. Có đôi khi giữa bao nhiêu bề bộn công việc, người ta vẫn không quên diễn nhỉ.
Tin mới nhất mà mới nghe phát biết cũ mèm vì ai cũng biết chắc chắn là như rứa, đó là cả 6 điều tra viên vụ án oan 10 năm của ông Nguyễn Thanh Chấn đều nhất mực từ chối....ép cung. Nhất mực. Nhất mực. Nhất mực. Bây giờ thì hóa ra ông Chấn điên nhỉ, bỗng không ai ép cung ông, mọi người đều nhẹ nhàng với ông, tìm mọi cách gỡ tội cho ông, động viên ông dịu dàng, nhẹ nhàng, êm ái, thế mà cái ông này cứ nhảy đựng lên chính là em giết người, chính là em đã cầm dao, chính là em đã cướp, giết hiếp một phụ nữ....rồi 10 năm sau, ổng khóc vì được giải oan. Ô hô. Cái ông này hay nhỉ, người ta có ép đâu, người ta có khảo đâu, người ta có bức đâu, người ta có mần chi mà ông tự nhận giết người? Nhỉ?
Lai đọc lung tung lang tang đủ thứ ý kiến lung tung lang về các nhà ngoại cảm zởm hay không zởm, lừa hay không lừa, chợt nhận ra điều này: Hóa ra sức mạnh của bác các cô có họ và tên là Ngoai Văn Cảm, hoặc Ngoại Thị Hồng Cảm to ghê ta, nói chuyện khơi khơi với người thiên cổ, nói chuyện tay đôi khơi khơi với cả mấy ông Vua ngày xửa ngày xưa, rồi không biết răng, cứ tìm được 2 mộ thì ông ngoại cảm, bà ngoai cảm chia ra thành bốn cốt và khẳng định, nghe tui đi, tin tui đi, liệt sĩ họ cho nhau, họ chia sẻ xương cốt cho nhau, đưa về đi, chôn cất đi, và nói như cái ông Khanh tiến sĩ ở cái Hiệp hội tâm linh chi chi đó, mấy ngày này gắng sức bảo về các chị, các anh ngoại cảm, rằng, mộ liệt sĩ bị chia hai, chia ba là ý nguyện của các liệt sĩ bàn bạc đề xuất với nhà ngoại cảm, chứ không ai lừa, không ai đảo, không ai xén, không ai bớt, đó là nhân văn, nhân văn, nhân văn. Nghe mà muốn cho ông ấy một động tác để ông được...văng răng.
------------
Ảnh này vay không lãi trên fb của Mai Thanh Hải, xem, rưng rưng, mới thấy cuộc sống hóa ra cũng đơn giản, cũng dễ giải thích, càng chứng minh hùng hồn câu khẳng định của Bác Trọng khi phát biểu thảo luận tại tổ ở Quốc hội, đến cuối thế kỷ cũng chưa chắc có Chủ nghĩa xã hội hoàn thiện, nghe rồi mới biết mình chã hiểu cóc khô gì, cứ tưởng có rồi, may có bác thông tin thế nên giờ yên tâm ghê, như các cháu này, khi biết tương lai luôn thuộc về tay mình, các cháu yên tâm ngủ ngon lành, nhỉ?

Nguyễn Hòa đặt vấn đề với Nguyễn Huệ Chi, về văn học Lý Trần - 1

 (Nguyễn Hòa viết và nói)

Trên CAND (dẫn lại từ trang của Hồng Thanh Quang), mới thấy có bài Đồng hành với nhà văn. Đó là bài tựa như nói chuyện giữa Hồng Thanh Quang với Nguyễn Hòa. Trong đó, có đoạn (đoạn chữ in nghiêng là của ông Quang, còn lại là của ông Hòa):

"- Đã có những đánh giá rất khác nhau về giải thưởng năm nay của Hội Nhà văn Hà Nội. Cá nhân anh đánh giá thế nào về sự chọn lựa của lãnh đạo Hội Nhà văn Hà Nội? Xin anh lý giải chi tiết những quan điểm của anh về các tác phẩm đã được giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2013?

- Hội Nhà văn Hà Nội trao giải thưởng căn cứ vào tiêu chí của họ, và như ông Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội đã nói, thì các tác phẩm được trao giải năm nay đều “xứng đáng”. Đánh giá khác nhau như thế nào, tôi không bình luận, ở đây tôi chỉ đưa ra nhận xét cá nhân. Sau khi thấy Hội Nhà văn Hà Nội đã trao Giải thưởng thành tựu cho hầu hết tác giả tham gia “Nhân văn giai phẩm”, tôi tự hỏi: “Danh sách “Nhân văn giai phẩm” cạn kiệt rồi, năm 2013 là ai đây?”, và tôi bị bất ngờ với “giải thưởng thành tựu” dành cho sự nghiệp văn học của… Giáo sư (GS) Nguyễn Huệ Chi! Cũng ngẫu nhiên, đúng thời điểm GS Nguyễn Huệ Chi nhận giải thưởng thì tôi công bố bài Đôi điều gửi tới GS Nguyễn Huệ Chi, trong đó đưa ra một số câu hỏi và đề nghị Giáo sư trả lời, trong đó có mấy câu hỏi khá hệ trọng mà GS Mai Quốc Liên, GS Nguyễn Đình Chú đặt ra đã lâu nhưng chưa thấy GS Nguyễn Huệ Chi nói gì. Đồng thời, căn cứ vào việc GS Nguyễn Huệ Chi không nói rõ nguồn tài liệu ông sử dụng trong một bài viết, tôi đặt câu hỏi: Giáo sư “đạo văn” hay “phóng tác” từ Thượng sĩ hành trạng của Trần Nhân Tông? Câu hỏi chưa được trả lời, tức là nghi vấn vẫn tồn tại. Trao giải thưởng cho một tác phẩm như thế, liệu có phải là lựa chọn đúng? Đến đây, tôi nhớ tới sự kiện ngày 9-10 vừa qua, các ông bà Nguyên Ngọc, Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Thị Bình chủ trì một cuộc tọa đàm về tác phẩm của tác giả Tràng Thiên. Tôi không hiểu tại sao họ không nói rõ đó là Võ Phiến - bút danh chủ yếu của Đoàn Thế Nhơn và được biết nhiều hơn so với bút danh Tràng Thiên? Nếu ở đây không có chuyện gì mập mờ, tại sao họ không nói rõ đó là Võ Phiến nhỉ?"

1. Nói thật, tôi rất ít đọc Nguyễn Hòa. Thấy bác này hay lên báo, thỉnh thoảng phán này phán nọ, nhưng cũng không mấy quan tâm. 

Ở Nguyễn Hòa, cái đáng nói là tính xung kích. Điểm đó thật đáng trân trọng. Nhưng nhìn ngược lại, thì, Nguyễn Hòa cũng chỉ có mỗi tính xung kích ấy thôi. 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Người Ăn Mày



Một người ăn mày đến trước một trang viên, gặp nữ chủ nhân để ăn xin. Người ăn mày này rất tội nghiệp, cánh tay bị cụt, tay áo trống trải đung đưa, người nào trông thấy cũng đều khẳng khái bố thí cho. Tuy nhiên, vị chủ nhân này lại không hề khách khí, chỉ ra đống gạch trước cửa nói với người ăn mày: “Ngươi giúp ta chuyển đống gạch      này ra nhà sau đi”.

Người ăn mày giận dữ nói: “Tôi chỉ có một tay, bà còn nhẫn tâm bảo vác gạch. Không muốn cho thì thôi vậy, cần chi phải trêu ghẹo người khác?”

Vị chủ nhân không chút nổi giận, cúi người xuống bắt đầu dọn gạch. Bà ta cố ý chỉ dùng một tay để chuyển, sau đó bà nói: “Ngươi thấy đấy, không phải chỉ dùng hai tay mới có thể sống được. Ngươi có thể làm, vậy tại sao lại không làm chứ?”

Người ăn mày lặng người đi, hắn ta nhìn vị nữ chủ nhân với ánh mắt kỳ dị, trái cổ nhô nhọn giống như một quả trám chuyển động lên xuống 2 lượt. Cuối cùng, hắn cúi người xuống, dùng cánh tay còn lại bắt đầu chuyển gạch. Một lần chỉ có thể chuyển đi hai viên gạch. Hắn chuyển như thế đúng hai tiếng đồng hồ thì hết đống gạch. Mệt, hắn thở như bò kéo xe, trên mặt dính đầy bụi, mấy chòm tóc rối bị mồ hôi ướt dính xéo trên góc trán.

Nữ chủ nhân đưa cho người ăn mày một cái khăn lông trắng như tuyết. Người ăn mày đón lấy lau mặt và cổ một lượt rất kỹ; chiếc khăn lông trắng đã biến thành chiếc khăn lông đen. Người phụ nữ lại đưa cho hắn 20 đô-la, người ăn mày cảm kích nói:  “Cảm ơn bà”  - “Ngươi không cần cảm ơn ta, đây là tiền công ngươi kiếm được dựa vào sức lực của mình”.

Người ăn mày nói: “Tôi sẽ không quên bà, để cho tôi giữ làm kỷ niệm vậy”.

Nói xong, hắn cúi người chào thật thấp và sau đó lên đường.


Qua nhiều ngày sau lại có một người ăn mày khác đến trang viên này. Người phụ nữ đó lại dẫn người ăn mày vào nhà sau, chỉ đống gạch, và nói: “Chuyển đống gạch này ra trước nhà, ta sẽ trả cho ngươi hai mươi đô-la”.

Người ăn mày với hai tay còn nguyên vẹn này bỏ đi, không biết là do không thèm 20 đô-la hay do điều gì khác.


Người con của người phụ nữ không hiểu, liền hỏi mẹ:  “Lần trước mẹ kêu ăn mày chuyển đống gạch này từ trước nhà ra sau nhà. Lần này mẹ lại kêu ăn mày chuyển gạch từ sau nhà ra trước nhà. Rốt cuộc mẹ muốn đống gạch ở sau nhà hay là ở trước nhà?”.

Người mẹ nói với con rằng:  “Gạch đặt trước nhà hay sau nhà đều như nhau, nhưng chuyển hay không chuyển, đối với người ăn mày mà nói, thì lại không giống nhau”.

Sau này cũng có mấy người ăn mày đến xin ăn, đống gạch đó được chuyển đi mấy lượt.


Nhiều năm sau, có một người rất chỉnh tề đến trang viện này. Ông ta mặc veston, mang giày da, trông chững chạc hiên ngang như những người thành công với sự tự tin và tự trọng, chỉ có điều là người này chỉ có một cánh tay trái. Ông ta cúi người xuống, nói với vị nữ chủ nhân nay đã có phần già đi:  “Nếu không có bà, tôi vẫn chỉ là một kẻ ăn mày. Thế nhưng bây giờ tôi là Chủ tịch Hội đồng Quản trị của một công ty”.

Người phụ nữ đã không còn nhớ ra ông là ai, bà hờ hững nói:  “Đấy là do chính bản thân ông làm ra mà thôi”.

Người Chủ tịch Hội đồng Quản trị một tay mời người phụ nữ cùng cả nhà bà dọn đến thành phố để sống những ngày thoải mái. Người phụ nữ nói:  “Chúng tôi không thể nhận sự chăm sóc của ông được” - “Tại sao?” - “Bởi vì cả nhà chúng tôi ai cũng có hai tay”.

Người chủ tịch tuy đau lòng nhưng vẫn kiên trì:  “Thưa bà, bà giúp tôi hiểu được thế nào là Nhân, thế nào là Cách.  Căn nhà đó là tiền công mà bà đã dạy cho tôi”.

Người phụ nữ nói: “Vậy thì ông đem căn nhà ấy tặng cho người nào không còn cánh tay nào cả !”./.

Phần nhận xét hiển thị trên trang