Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2013

TÔI NGHĨ BÀI NÊN ĐỌC:

Giải mã nhân loại

VÔ ƯU
Tôi sẽ trả lại cho bạn sự hiểu biết tổng thể, khách quan, sáng rõ của nhân loại. Bạn hãy đọc, nghiền ngẫm, suy tư lại mọi điều. Hãy tự xét lại “Bạn là ai? Đến từ đâu? Chết sẽ về đâu? Tại sao bạn tồn tại? Giá trị của sự tồn tại đó? Nhân loại có cần mãi sống trong chiến tranh thù hận, giết chóc không? Phải chăng bạn đã đi mãi mấy ngàn năm mà vẫn quẩn quanh trong vòng xoay của 8 sự khổ - sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, yêu thương mà phải chia lìa khổ, mong muốn, tham cầu mà không được khổ, ganh ghét, không ưa nhau mà phải sống chung đụng khổ và những chống trái trong tư tưởng, nhận thức, suy nghĩ, tư duy cùng sự mất cân bằng nơi thân thể gây đau đớn, sầu muộn khổ? Phải chăng bạn đã quên mất 8 điều khổ luôn trói buộc đời bạn? Phải chăng bởi do tham đắm, si mê, nông nổi,… bạn đã quên mất những sự thật luôn đeo đẳng bên bạn? Và lòng tham đã khiến bạn mù quáng”… Bây giờ đây, đã là thuận duyên để bạn nhận diện, sống lại với sự hiểu biết đó. Bạn hãy bắt đầu chọn lựa lại tương lai của riêng mình. Và đó cũng là chiếc chìa khóa duy nhất để mở ra tương lai nhân loại, những rối ren, bấn loạn, hỗn độn nơi xã hội, trong lòng con người trên thế giới sẽ được giải tỏa và sự hòa hợp trong nhân loại ở Kỷ Nguyên Hòa Bình, Văn Minh, Tiến Bộ, Bác Ái, Bình Đẳng, Tự Do,… tương đối sẽ được chính bạn mở ra. Chúc bạn may mắn trên con đường bạn đã chọn. Hãy thong thả, nhìn nhận lại mọi vấn đề. Đừng tin rằng những điều tôi nói là sự thật, là đúng. Tôi không nói điều gì cả. Việc đúng sai nằm trong sự hiểu biết ở trong lòng bạn, trong trái tim đang co bóp nhịp sống của con người đang sống. Hãy hỏi lòng bạn để có những câu trả lời phù hợp và vẹn toàn nhất. Và hãy sống thật bằng sự hiểu biết sáng rõ trong lòng bạn. Hãy chọn lựa việc cần làm, nên làm, còn tôi thì đã chọn rồi tương lai nhân loại.
Tôi không thích chiến tranh, không thích bạo loạn, rối ren nơi xã hội loài người. Vì thế việc giới lãnh đạo Trung Quốc “cậy đông, hiếp yếu”, ngông cuồng, càn loạn trên biển Đông tôi thật không vừa ý. Và… bằng vào sự hiểu biết khách quan, đúng mực nơi lòng người trong nhân loại tôi chỉ nói một lời êm dịu “Giới lãnh đạo Trung Quốc hãy sửa sai ngay lập tức nếu không muốn người dân Trung Hoa và nhân loại cô lập và mời anh rời khỏi chiếc ghế chính trường. Sẽ không có một ai đủ tầm ở vị trí bá chủ hoàn cầu bởi lẽ chúng ta cùng là chủng loại - con người. Vì thế chúng ta đồng đẳng, ngang nhau. Không có ai là bá chủ, dân chủ, quân chủ cả. Nếu có chăng là sự tự chủ hài hòa ở mỗi con người.
Tôi cũng không kêu gọi niềm tự hào dân tộc, tự hào tôn giáo, tự hào quốc gia ảo tưởng trong lòng nhân loại bởi lẽ trong niềm tự hào có điều ngăn cách, đố kỵ và cả mối thù truyền kiếp. Đó là những sản phẩm thừa của tư duy, nhận thức con người một thời nông nổi, một trong những thứ mà tôi đang muốn đốt cháy hoàn toàn để chúng không có dịp bùng phát, nuốt chững con người bằng đau thương, thù hận. Nơi tự hào còn có sự cực đoan, bảo thủ, độc tài, chuyên quyền,… đó là những ung nhọt gớm ghiếc ngự trị nơi tâm hồn, tư tưởng của con người. Từ những ung nhọt đáng nguyền rủa đó mà loài người đã ngụp lặn trong khổ đau, hận thù vay trả,… và con người “nhào lên, lộn xuống” nơi 3 cõi 6 đường cũng do những si mê, tham lam, ảo vọng mà ra.
Thế nên, tôi muốn con người, nhân loại hãy nên cùng có trong lòng sự hiểu biết khách quan, đúng mực, sáng rõ, tổng thể. Để rồi mỗi con người có đủ sự sáng suốt cần thiết, rồi tự chọn lối đi cho riêng mình và có trách nhiệm với chọn lựa của chính mình. Dù là chọn lựa lối đi cho riêng mình nhưng đó chính thật là tương lai nhân loại. Vì khi con người thật sống thì con người và nhân loại vốn không hai. Nếu có còn một sự kêu gọi nào đó ở nơi tôi gửi về nhân loại thì tôi chỉ nói một điều “Mỗi người hãy sống với lòng tự trọng của chính mình đừng vay mượn ngôn từ hay bất cứ điều gì bên ngoài để che dấu, khỏa lấp lòng tham đang ngự trị trong tâm hồn chính mình. Bởi lẽ với tôi những người như thế tôi xem như đã chết. Vì thế hãy thật sống, tự trọng để tôi cùng nhân loại tôn trọng. Hẳn là vấn đề biển Đông, Trung Đông, khủng hoảng nợ công Châu Âu, rối ren nơi lòng đất nước Trung Hoa, Miến Điện, Trung Phi, Việt Nam, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc, Cộng Hòa Séc,… sẽ dễ dàng giải tỏa khi mỗi con người, mọi thành phần, tầng lớp xã hội sống với lòng tự trọng đúng mực và hành xử dựa vào sự hiểu biết khách quan, tổng thể,… Ngay nơi lòng tự trọng, sự hiểu biết đúng mực ở mỗi con người là Một Nhân Loại Văn Minh, Bình Đẳng, Tiến Bộ, Bác Ái,… vì thế đừng kiếm tìm sự hòa bình, giàu có, thịnh vượng ở một nơi nào đó xa xăm, mơ hồ và không có thật.
Vi phạm nhân quyền ư? Nó là gì? Tôi không cần biết đến nó. Dù vậy tôi biết rằng nó là một khái niệm, một phạm trù, một định nghĩa rối rắm, trừu tượng và con người sẽ không thể diễn giải đúng mực, mạch lạc về cụm từ giải đơn “Vi phạm nhân quyền”. Sẽ không bao giờ con người có thể chạm đến, hay nói đúng về nó. Thế nên, với tôi cụm từ đó không tồn tại, tôi không cần lao tâm, nhọc trí tìm hiểu tường tận một mớ hỗn độn ngôn từ chấp vá. Tôi là một người đang sống. Nơi cuộc sống, tôi đã từng lạc lối ra đời để biết yêu thương, buồn vui, ghét hận,… Rồi tôi trưởng thành hơn để nói về cuộc sống. Con người được sinh ra với mong mỏi về một đời sống tự chủ, tự do, biết xây dựng một cuộc đời tươi đẹp cho mình, và một xã hội văn minh, chan hòa với đói ăn, khát uống, mệt thì đi nghỉ. Con người tự do, thảnh thơi sống trong sự hiểu biết đúng mực nơi phần người của con người hiển lộ, những điều tươi đẹp, giản dị. Sự tự do đó đúng mực và hợp lòng người hơn là những định chế, chế tài, quy ước trói buộc đời sống con người bằng vào các biện pháp trừng phạt, sự răn đe, pháp luật, hiến pháp. Đôi khi những nguyên tắc ứng xử chung lại không đúng mực, đôi khi những định chế lại chứa đựng phần con của con người nhiều hơn. Điều này thể hiện nơi “Chân lý nằm trong tay kẻ mạnh hay nơi sự bất công, bất bình đẳng nơi Hiệp ước Chống phổ biến vũ khí hạt nhân” và rất nhiều những tiêu chuẩn không chuẩn khác nơi tư duy, nhận thức chủ quan, phiến diện của một nhóm người,… Vậy nên sự tự do, nhân quyền không tồn tại nơi chế tài, quy ước, nguyên tắc,… mà nó tồn tại nơi nhận thức, tư duy trong nội tâm của mỗi con người.
Cũng lại như vậy. Đừng nói với tôi về Giờ Trái Đất, Ngày Trái Đất để cứu lấy hành tinh xanh mà hãy giúp tôi có đủ sự hiểu biết đúng mực về việc nên tắt một cái bóng đèn khi tôi không cần dùng đến. Hãy giúp tôi sống được trong việc ý thức, tư duy sống vì mọi người, vì tôi! Đừng dưỡng nuôi, nhốt tôi trong chiếc lòng tham đắm, ích kỷ, si mê, xấu xa và trói buộc tôi làm những việc mà tôi không rõ biết giá trị thực của việc làm đó.
Và gì nữa? Bạn đừng nên cứ thử tên lửa đạn đạo, vũ khí hạt nhân, tập trận giết người,… đốt cháy hành tinh bằng những lò nung công nghiệp rực lửa, tiêu sài hoang phí… Rồi bạn hoặc là bạn của bạn hay thuộc hạ bạn lên tiếng kêu gọi tôi “Hãy nên tắt một bóng đèn”. Việc tắt một chiếc bóng đèn của tôi có được là bao giá trị nhưng tôi sẽ tắt ngọn đèn của tôi và tôi sẽ khêu sáng ngọn lửa chân thành trong lòng bạn. Và người bạn của bạn cũng nên học lấy niềm tự trọng. Bởi lẽ khi cất lên tiếng nói của con người thì hãy khách quan, có hiểu biết và thành thật. Nếu không mọi người sẽ coi thường và khinh bỉ. Còn bạn hãy tắt đi ngọn lửa của lòng tham, sự giả dối đê hèn, sự u mê, sự sân hận,… thì hành tinh xanh mới có chút ít cơ may tái tạo, cân bằng lại… Đừng dùng cụm từ vi phạm nhân quyền để xô đẩy đời nhau vào hố sâu ngăn cách của thù hận, đau thương, nước mắt và máu,…
Dân chủ ư? Một giấc mơ xa xỉ, viễn vông. Một điều ước muôn đời không thể trở thành sự thật. Tôi đang sống một cuộc sống rất thật. Tôi không phải đang ngủ vùi để nuôi giữ một giấc mơ đến từ sự hiểu biết cạn cợt, kém cỏi của loài người thời xa xưa với sự hiểu biết nửa vời. Dân chủ với tôi chỉ là một cái bánh vẽ vụng về mà một vài người đã vì chính họ đã phác họa ra. Họ bảo vệ nó - dân chủ như thể là bảo vệ chiếc ghế quyền lực, địa vị hay một điều gì tương tự như thế và họ là người được hưởng nhiều hơn phần lợi chứ không hẳn là vì người dân làm chủ - dân chủ. Tôi đã là một đứa trẻ lớn lên, trưởng thành để rõ biết “Dân chủ - giấc mơ chỉ là giấc mơ và một cái bánh vẽ thì tôi không thể nuốt trôi được, tôi không thể sống chỉ bằng niềm tin và hy vọng. Tôi có ít nhiều hiểu biết vì thế tôi rõ biết mình không thể yên bụng, no lòng bằng vào việc ăn chiếc bánh vẽ”. Tôi không muốn, ngàn lần không muốn “Giấc mơ con đè nát cuộc đời con”. Tôi nên thật sống và mọi người, nhân loại cần sống thật.
Có những sự thật cần được phơi bày ra ánh sáng để chúng ta hiểu rõ về nhau. Những sai lầm, những dối trá, lừa mị cần được sửa sai, những hoài nghi, đố kỵ, ganh ghét, lối sống giả dối,… cần được thông qua để nhìn nhận lại những khuyết điểm, những sự thật được che đậy kín kẽ để rồi chúng ta bỏ qua lỗi lầm và chúng ta cần chung tay xây dựng một cuộc sống yên bình, ấm no, chan hòa, bình đẳng hơn. Những tri thức chủ quan, cục bộ, kém cỏi,… ở nhận thức, tư duy phiến diện, bảo thủ ở một nhóm người sẽ được thay thế bằng một sự hiểu biết đúng mực, sáng rõ ở góc nhìn tổng thể, khách quan, xuyên suốt nơi nhân loại.
Tôi là một người dân, tôi không cần dân chủ vì nếu thật dân chủ thì rất bất công cho những nhà quản lý xã hội và xã hội sẽ bất bình đẳng ngay lập tức. Bởi lẽ khi đó tôi làm chủ và những nhà quản lý xã hội thật sự chỉ là kẻ làm thuê của tôi. Nếu không vui ông chủ này sẽ không trả lương hoặc trả lương thấp cho những người làm thuê. Tăng giờ làm, bóc lột sức lao động của dân làm thuê - người quản lý,… Những nhà quản lý sẽ vất vả, đầu tắt mặt tối để kiếm về chút đồng lương còm cỏi và nguyện cầu đủ sức nuôi gia đình, lo cho con ăn học đến nơi, đến chốn để mai này có thể làm một người dân. Một người dân làm chủ thật sự tốt hơn là làm nhà quản lý xã hội, kẻ làm thuê. Xen lẫn trong lời nguyện cầu là tiếng nguyền rủa thậm tệ giành cho tôi, người làm chủ xấu xa,… Nhưng biết làm sao được những kẻ làm chủ vẫn thường tráo trở, sống bất nhân, vô đạo như thế. Tôi là một con người bằng xương, bằng thịt thì tránh sao việc mắc phải những lỗi lầm. Vì rõ biết như thế và vì không muốn trở nên xấu xa khi “Giàu đổi bạn, sang đổi vợ” tôi không cần dân chủ. Thế nên đừng chìa cái bánh vẽ về phía tôi. Việc làm vụng về đó có đôi khi khiến tôi nổi điên, cuồng loạn,… không khéo tôi lại lạm sát, thảm sát những người vô tội sống quanh tôi… Đừng cưỡng bức tôi khiến tôi thành một tên khốn giết người, một gã sát nhân máu lạnh.
Con người đang định hướng xây dựng Kỷ Nguyên Văn Minh, Tiến Bộ, Bình Đẳng thế nên dân chủ sẽ đi ngược lại định hướng phát triển chung của nhân loại vì thế thôi bỏ đi.
Như lời đã nói, tôi chỉ cần một cuộc sống tự do, bình yên. Tôi yêu hòa bình, yêu mọi người và mong mỏi một cuộc sống bình đẳng. Học thuyết về dân chủ tôi đã không còn cần đến vì tôi biết rõ giá trị của nó. Nó không hề và mãi mãi không tồn tại khi con người luôn nói về nó bằng một lối nói khoa trương, bằng ngôn từ lừa mị.
Hãy nhìn lại lịch sử loài người! Bạn đừng đi quá xa sẽ bị lạc lối. Ôi thôi! Bạn đã đi quá xa rồi. Tiếc thay! Tôi chỉ muốn bạn dừng lại nơi xã hội loài người thời phong kiến, thời chiếm hữu nô lệ, nơi biểu hiện rõ nhất của chế độ quân chủ nơi nhân loại. Bạn đã vượt qua rồi nhưng không sao chúng ta hãy tiếp tục lùi xa vào quá khứ.
Dừng lại thôi. Chúng ta đã đến nơi phát khởi xã hội loài người. Bạn đã về thời tiền sử sơ khai, nơi xã hội loài người bắt đầu. Thời đó loài người nào đâu biết gì? Họ gắn kết nhau vì bữa đói, bữa no, hợp tác để sống sót thôi mà. Cái gì là dân chủ, quân chủ họ không cần biết và cũng không ai nói với họ về điều đó. Dù vậy họ cũng sống có phần hài hòa, bình đẳng đấy thôi. Họ không biết đến khái niệm văn minh, đạo đức, lễ nghĩa nhưng họ vẫn biết yêu thương, giúp đỡ, chia sẻ, sống hòa đồng cùng nhau. Phải chăng có ý vị của dân chủ? Nhưng không đó không là dân chủ, đó là tự chủ, tự nhiên vậy. Thế thôi ở thời tiền sử sơ khai bạn chỉ có thể ghi nhận những điều đó. Rồi xã hội loài người ngày càng thêm phức tạp, rối rắm. Một phần do lòng tham, một phần do yếu tố sống còn của thời đại và một phần quyết định, quan trọng hơn đó là do một số con người nhận ra mình khôn lanh, thông minh hơn đồng loại.
Xã hội bắt đầu phân chia, phân tầng và sự tự chủ, tự nhiên mất dần từ đó… Cho đến khi con người tự nhốt mình vào sự hiểu biết cục bộ, chủ quan, phiến diện,… khi mọi thứ được chuyên biệt hóa,… khi việc dạy và học trở thành một công cụ của con người dùng vào mục đích điều tiết xã hội, quản lý đất nước (Tính cục bộ) chứ không phải việc dạy và học thuận theo mục đích, giá trị ban đầu của nó. Đó là việc dạy và học nhằm vào việc học hỏi sự hiểu biết khách quan, tổng thể, đúng mực, sáng rõ. Học để làm người chứ không nhằm vào việc nuôi dưỡng, tăng trưởng lòng tham đắm, si mê, sân hận,… phần con trong mỗi con người…
Giới thiệu đôi nét về cuộc hành trình đi ngược thời gian để bạn rõ biết bạn đang đi tìm điều gì nơi lịch sử loài người. Bạn đang đi tìm thông tin để chứng thực cho sự hiểu biết khách quan, đúng mực của nhân loại và trong lòng bạn. Vì thế bạn đừng “táy máy” bắt lấy một con khủng long bạo chúa mang về thời hiện tại rồi nói với tôi rằng “Đó là kỷ vật, là quà tặng của một chuyến đi”. Tôi nói “Bạn đã ngụy biện. Bạn đang che giấu, khỏa lấp lòng tham trong bạn. Tôi biết trong bạn có lòng tham. Tôi rõ biết nó có tồn tại trong bạn cũng như trong tôi. Dù vậy tôi biết mối nguy ẩn chứa trong lòng tham. Thế nên tôi rào đón để bạn không phạm phải lỗi lầm tương tự khi cùng tôi đi ngược dòng lịch sử loài người. Và lòng tham thường hay đi kèm với sự mù quáng. Khi bạn làm việc chịu sự chi phối của lòng tham và khi không hoàn toàn hiểu biết rõ việc mình làm thì bạn sẽ gặp rủi ro nhiều hơn là phần lợi. Bạn hãy nhớ lấy điều đó! Tôi không muốn bạn thiệt thân vì sự ngu ngốc của riêng tôi.
Thế thôi, chúng ta hãy quay về thời phong kiến, chế độ chiếm hữu nô lệ, nơi mà tôi muốn bạn dừng lại trước đó. Đó là cột mốc huy hoàng của khái niệm quân chủ nơi loài người. Quyền lực tập trung trong tay một vị vua, một lãnh chúa cùng thế lực của tầng lớp thống trị. Sơ khai sự ra đời của vị vua hay vị lãnh chúa ở xã hội loài người là vì ta cần nhau. Dưới tài năng lãnh đạo của người đứng đầu đất nước ngày một phồn thịnh, ấm no. Nhưng lâu về sau lòng tham, thói quen sống hưởng thụ, phóng túng đã giết chết sự sáng suốt, khách quan của những người lãnh đạo. Gom góp quyền lực rồi tiến dần đến bạo quyền, ngang ngược, sa đọa. Tam cung, lục viện, những cuộc ăn chơi dâm loạn, trác táng. Minh quân không còn chỉ thấy nhan nhãn những hôn quân vô đạo, trái đức. Lòng người phẫn nộ đấu tranh. Để bảo vệ ngai vàng những vị vua bất nhân vô đạo ra lệnh quân đội giết chết những người chống đối cùng cả dòng tộc họ và gọi nhóm người đứng lên đấu tranh giành quyền được sống an ổn là quân phản nghịch, quân nổi loạn,… Quân đội từ lâu xa đã là một cỗ máy giết người, giết đồng loại, ăn cơm chúa phải múa tối ngày, phải giết người dân, những người đã từng đóng góp tiền của xây dựng đất nước cũng như trả lương cho quân đội. Từ lâu xa quân đội đã bị trói chặt vào nghĩa vụ thiêng liêng - Trung với chúa dù cho chúa có bạo tàn, dâm loạn vô độ. Thoát chết sau những cuộc nổi dậy của người dân vị vua càng thêm bạo ngược, củng cố quyền lực, quân đội nhằm tạo ra lá chắn bảo vệ Vương vị. Sự độc tài, cực đoan, bảo thủ, cố chấp và hoài nghi được đẩy lên cao độ… Giết, giết, giết tất cả những mối nguy tiềm ẩn và thà giết lầm hơn bỏ sót, diệt cỏ phải diệt tận gốc, tru di tam tộc, cửu tộc được áp dụng. Lòng người oán thán, cơ trời khó dung kẻ ác tâm. Những cuộc nổi dậy ngày càng nhiều, máu và mạng người đổ xuống vô số. Và rồi có những cuộc nổi dậy thành công, việc trừng phạt kẻ thủ ác không kém phần tàn khốc. Thay người lãnh đạo, một vị vua mới ra đời, một thiết chế xã hội phong kiến được thành lập. Chỉ sau một thời gian kế vị truyền ngôi thì xã hội loài người lại xuất hiện một bá vương bá đạo, bạo tàn hơn trước. Quyền lực, tài sản, tiền bạc, của báu,… có một ma lực nuốt chết sự hiểu biết của con người. Tham đắm, si mê, sân hận, hoài nghi, bạo tàn,… lại là cánh cửa dẫn những vị bá vương vô đạo vào địa ngục. Cái giá đánh đổi con đường vào địa ngục của các bá vương không hề nhỏ lại có vô số mạng người ném vào cuộc nổi dậy đẫm máu. Cứ thế… cứ thế, lịch sử loài người biết đến vô số hà sa những chế độ phong kiến bất công, tàn bạo đến nghiệt ngã. Và loài người bắt đầu trưởng thành hơn khi nhận ra quyền lực tập trung trong tay của một người thật rất nguy hại. Bởi lẽ khi người đứng đầu đó bạo quyền, độc tài, cực đoan,… thì xã hội loài người lâm nguy. Chế độ phong kiến được nội soi, phân tích và khái niệm vị vua làm chủ - quân chủ được con người thời bấy giờ cân đo, đong đếm. Sau rất nhiều cuộc chiến thảm khốc con người quyết định xóa bỏ chế độ quân chủ dựng lên học thuyết dân làm chủ - dân chủ. Chế độ Tư bản chủ nghĩa (TBCN) ra đời dựa trên học thuyết dân chủ được cho rằng “Sự tiến bộ của loài người”. Nhưng nếu dân làm chủ thì đâu cần người lãnh đạo, những người dẫn dắt cho cuộc đấu tranh không lẽ làm công không mà chẳng được gì? Dẫu sao đất nước vẫn cần có người điều hành, quản lý vì thế quyền lực được chia cho một nhóm người gồm 2 hay nhiều tổ chức khác nhau để duy trì cái gọi là dân chủ - Một cái bánh vẽ không có thật. Và 2 hay nhiều tổ chức trên thay phiên giành giựt lấy vai trò lãnh đạo mang tiếng là vì dân. Đó là những đảng phái chính trị nơi các nước TBCN. Lòng tham là đầu mối của sự tranh giành, khổ đau, thù hận và sự chống đối. Có quyền lực trong tay dại gì không sử dụng. Mượn thế tạo thời hay mượn thời tạo thế những nhà lãnh đạo nhanh chóng trở thành những nhà tư sản tài phiệt, việc giàu mau chóng luôn chứa sự bất nhân, đựng của phi nghĩa,… lòng dân phẫn nộ, phản kháng, chống đối biểu tình,… Trí khôn của những kẻ giàu bao giờ cũng không thừa. Không xong rồi … vơ vét sức dân thì sớm muộn gì dân cũng lật đổ. Thôi thì đi xâm chiếm, cướp của nhà người hẳn sẽ an toàn hơn. Một phần đánh tan sự căm phẫn trong dân, một phần ta vẫn thêm giàu mạnh. Bằng vào cách nào để dân hợp tác và đồng thuận với việc làm tàn ác, bất nhân? Lòng tham con người, ta phải dựa vào lòng tham con người mà phân định thời cuộc, kiểm soát tình hình. Lòng người ai mà không tham, ta giàu có là vậy mà có bao giờ ta lại nghĩ rằng “Thôi ta không tham nữa”. Thế là một vài mối lợi nhỏ được ném ra và nghĩa vụ thiêng liêng đã trói quân đội vào những cuộc chinh phạt, xâm chiếm. CNTB lột xác thành đế quốc, thành chủ nghĩa phát xít không có tình người. Xâm chiếm, cướp bóc, vơ vét,… đó là cách nhanh nhất để các nước tư bản trở nên cường thịnh, giàu có. Để che lấp tội ác, lòng tham, thể hiện bộ mặt văn minh, hiện đại giả dối cụm từ khai hóa, khai sáng các nước nghèo ra đời. Nhưng lòng tham không đáy của bè lũ cướp nước và tay sai đã khiến lòng người dân thuộc địa, người dân các nước bị xâm chiếm nổi loạn đòi quyền sống, đòi sự công bằng nơi xã hội. Thế là con người lại lao vào bắn giết, đâm chém lẫn nhau. Đã có những cuộc kháng chiến thành công. Giành lại mảnh đất của chính mình từ tay những kẻ xâm chiếm và bỏ ra rất nhiều đồng đội, con người ở nơi những cuộc tàn sát, thảm sát người ta gọi đó là sự thành công, là thắng lợi. Nhưng rồi họ ngỡ ngàng không biết sẽ xây dựng đất nước theo định hướng nào? Quân chủ thì không ổn rồi, người dân sẽ chống đối. Vậy dân chủ nhưng dân chủ theo đường lối TBCN thì cũng có điều không ổn, chẳng lẽ lại rủ nhau đi cướp của, giết người? Nhưng nền dân chủ đã được chọn và chỉnh sửa lại cho phù hợp. Không thể đa đảng vì giai cấp vô sản chẳng thể cạnh tranh được vai trò lãnh đạo với giai cấp tư sản, thương nhân lắm của nhiều tiền. Với tính cục bộ, bảo thủ của những người nông dân, công nhân chiếm đa số trong thành phần vùng lên giành lấy tự do, độc lập học thuyết Xã Hội Chủ Nghĩa (XHCN), Đảng Cộng Sản ra đời với khuôn mẫu độc đảng, chỉ duy nhất một đảng lãnh đạo. Ban đầu, bản vẽ của XHCN là hoàn hảo như mơ. Con người bình đẳng hướng nhân loại đến một thế giới đại đồng - Dân chủ. Định hướng như mơ của Đảng Quốc Tế Vô Sản khiến các nước TBCN chột dạ và dẫn đến cuộc đối kháng trường kỳ của 2 hệ thống chính trị được coi là tiến bộ nhất của nhân loại - XHCN và TBCN. Đi xa mới biết sức ngựa cũng như tài của người cưỡi ngựa. Lý thuyết về CNXH đẹp là vậy nhưng đáng tiếc là người thiết kế bản vẽ lại non tay, người kiến trúc sư vụng về đã không thổi được phần hồn vào bức tranh, nét vẽ đánh mất mối liên kết. Bức tranh chỉ còn là những mảnh ghép vụn rời. Bởi do hạn hẹp tri thức, tin nhận chủ nghĩa vô thần mà người kiến trúc sư đã buộc mọi người rời xa phần tâm linh vốn có nơi cuộc sống, tin sâu “Chết là hết” đã nhấn chìm, tạo ra sự sụp đổ chuỗi hệ thống XHCN trên phạm vi toàn thế giới trong thời gian rất ngắn nơi một thể chế chính trị, chỉ vẻn vẹn mấy mươi năm. Chết là hết đã nuôi lớn lòng tham con người trong mọi thành phần, tầng lớp xã hội. Một đất nước được dựng xây bằng lòng tham và nền tảng tình người đã chết, sự gắn kết con người đã mất thì đất nước đó sao có thể tồn tại? Xã hội chủ nghĩa hiện tại còn lại gì? Chỉ còn vài nước đeo đuổi XHCN bằng biến tướng của TBCN đương thời, chỉ còn lại độc đảng là dấu hiện để nhận biết XHCN? Một vài nước định hướng XHCN theo hình thức cha truyền, con nối mà vẫn tự hào cùng niềm tin dân chủ. Với cách vận hành xã hội loài người như hiện nay, vận hành điều tiết xã hội bằng lòng tham, sự thực dụng ở mọi thành phần, tầng lớp xã hội thì một số nước XHCN độc đảng còn lại cũng sẽ mau chóng chia rẽ thành đa đảng mà thôi. Lý thuyết về thế giới đại đồng theo lý luận khoa học duy vật biện chứng và chủ nghĩa vô thần đã không thể chuyển hóa thành hiện thực. Các nước TBCN vui mừng khi chuỗi hệ thống XHCN sụp đổ và vội quên lòng tham, khoa học, sự hiểu biết nửa vời, tính thực dụng ích kỷ cũng đang xô đổ hệ thống TBCN vào hàng loạt cuộc khủng hoảng triền miên, lòng người bấn loạn, xã hội rối ren. Dân chủ kiểu TBCN hay kiểu XHCN sẽ tồn tại? Dân chủ TBCN và dân chủ xã hội chủ nghĩa có khác biệt gì?
Tôi không nói về sự khác biệt. Tôi nói về sự giống nhau của dân chủ giữa TBCN và XHCN. Đó là dân chủ không có thật. Không có bất kỳ một tổ chức, một người lãnh đạo nào thật sự nhận thức được rằng “Họ là kẻ làm thuê, họ sống là vì bạn, vì người dân”. Trước hết họ phải vì họ cũng như chính bạn phải sống vì bạn. Đừng tỏ vẻ cao thượng “Tôi sống vì người tôi yêu” bởi lẽ sẽ không có điều đó và nếu có thì cũng chỉ là một phút giây nông nổi, dại khờ chứ không là cả quãng đời của bạn. Đôi khi bạn tỏ ra hối tiếc vì những điều mình đã đánh đổi yêu thương. Có đúng như thế không? Thế nên dân chủ chỉ là một lá bài để ngửa và lá bài để ngửa thì không có nhiều giá trị thật ngoài sự cơ xảo, lọc lừa. Tuy nhiên, nơi cuộc sống mọi thứ đều tương đối bạn phải chấp nhận điều đó. Và muốn biết những người lãnh đạo có sống vì dân tộc, vì đất nước hay không thì bạn hãy nhìn cách sống của họ. Chỉ một chút xíu tinh ý thôi, bạn có thể nhận ra nơi cách sống của một con người bạn sẽ biết về điều họ nghĩ. Thật phiền phức và mệt óc à? Bạn đã quen lối sống hưởng thụ, ích kỷ đến biếng lười. Thôi được chúng ta tiếp tục. Hãy nhìn dáng dấp của những người đứng đầu đất nước của bạn. Hình dáng họ khiến bạn có thể hiểu về họ. Hoặc là bạn hãy nhìn vào gia sản của họ trước và sau khi ngồi lên chiếc ghế quyền lực. Bạn thấy gì? Họ là những nhà quản lý, điều hành đất nước, họ rất bận rộn với điều đó và đồng lương của họ không thể phút chốc biến thành những nhà tài phiệt với gia sản kết xù, họ không là, chưa từng là một nhà kinh doanh tài giỏi, thành đạt. Bạn hãy nhớ về điều đó. Khi nhận ra chân tướng sự thật bạn đừng quá thất vọng, đừng quá bi quan, cũng đừng nổi loạn. Hãy bình thản sống cho riêng mình, sống vui cùng gia đình, tránh xa những va chạm không đáng có. Bạn cũng đừng bị cuốn vào những trò chơi dối gian của những người mà bạn đã hoài nghi và bạn càng không nên quẳng mình cùng gia đình rơi vào một cuộc đấu tranh, giành giật nào đó. Và nếu có thể hãy nhớ rằng nếu có thể điều đó đồng nghĩa với việc bạn không nhất thiết phải làm và chỉ làm khi bạn thấy điều đó thật cần thiết thì bạn hãy truyền trao chút ít hiểu biết này đến những người thân, những người mà bạn biết. Đó là gợi ý giúp họ rời xa điên đảo, đứng ra ngoài những cuộc chơi dối lừa, gian trá, họ tự biết khi nào sẽ không ủng hộ những người sống dối gian, giả tạo.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

Khi nào Trung Quốc có thể thực sự trở thành siêu cường? (tư liệu dịch)

Sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong vài thập niên vừa qua để trở thành một nền kinh tế đứng thứ hai sau Hoa Kỳ đã làm cho cả thế giới kinh ngạc và thán phục. Tuy nhiên, những thành tựu trong phát triển kinh tế của Trung Quốc không phải là không có mặt trái của nó, trong đó có những tác hại ghê gớm về môi trường, về các chính sách xã hội, và đặc biệt là về mối quan hệ giữa chính phủ và dân chúng - tất cả đang đe dọa làm chậm lại sự phát triển của nền kinh tế lớn thứ hai thế giới này.

Xin giới thiệu với bạn đọc một bài phân tích về cái giá phải trả cho việc phát triển kinh tế tại Trung Quốc của một học giả người Anh gốc Trung Quốc vừa đăng trên tờ London Evening Standard của Anh ngày 14/10/2013. Những phân tích của tác giả không chỉ có tác dụng cảnh báo đối với Trung Quốc mà còn đúng cho cả Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay,  vì nhiều vấn đề mà Trung Quốc đã và đang đối mặt gặp phải cũng là những vấn đề của chính chúng ta.

Tựa bài viết do tôi đặt lại; tựa gốc là "TQ không thể là một siêu cường cho tới khi nào dân TQ được tự do".

Nguồn: http://www.standard.co.uk/comment/sir-david-tang-china-wont-be-a-superpower-until-its-people-are-free-8878936.html
--------  
Tốc độ phát triển phi thường của Trung Quốc trong ba thập kỷ vừa qua đã khiến nhiều người tin rằng đất nước này sẽ trở thành một siêu cường của thế kỷ 21, thậm chí một số người còn cho rằng TQ sẽ qua mặt Hoa Kỳ . Bản thân tôi cũng là người Trung Quốc và tôi cũng cảm thấy tự hào về những thay đổi nhanh chóng trong đất nước của tôi, những thay đổi đến mức không còn nhận ra được, kể từ khi tôi bắt dầu giảng dạy tại Đại học Bắc Kinh từ đầu thập niên tám mươi đến nay. Tuy vậy, những điều đó vẫn chưa đủ sức thuyết phục tôi tin rằng Trung Quốc sẽ trở thành bá chủ của thế giới trong thế kỷ 21.

Trung Quốc đang chuyển từ một xã hội nông nghiệp - nông thôn sang một xã hội công nghiệp - đô thị, và quá trình này đang làm cho vấn đề bảo vệ đất canh tác ngày càng trở nên nghiêm trọng. Bình quân mỗi người dân Trung Quốc hiện chỉ có 900 mét vuông đất canh tác trên đầu người , ít hơn đến 40 phần trăm so với mức bình quân toàn cầu. Đáng báo động hơn là nguồn tài nguyên vốn đã hạn chế này lại đang liên tục giảm dần. Nhiều khu vực nông thôn rộng lớn đang bị chính phủ các cấp - cấp quốc gia, cấp tỉnh và địa phương - biến thành các đô thị với lý do là cần phát triển.


Không chỉ là đất đai, mà không khí cũng đang có vấn đề, vì bị ô nhiễm trầm trọng. Chất lượng không khí tồi tệ trên toàn cõi Trung Quốc, đặc biệt là tại các thành phố lớn - là điều mà không ai có thể tranh cãi. Các chỉ số về chất lượng không khí đăng trên trang Twitter của Đại sứ quán Mỹ ở Bắc Kinh vào hồi hè thiệu đã đưa ra những nhận định đại loại như "vô cùng tệ hại" hoặc "không thể dùng chỉ số nào để ghi lại". Ngoài ra, sự ô nhiễm không khí đang tăng rất nhanh do khí độc từ nhà máy luyện kim loại và từ ngành công nghiệp pin. Điều này dẫn đến nhiễm độc chì , một trong những vấn đề sức khỏe phổ biến nhất ở trẻ em: hiện có đến một phần ba số trẻ em Trung Quốc bị nhiễm chì trong máu ở mức cao .


Sau nữa là nước. Những vấn đề nghiêm trọng hiện nay là sự khai thác nước ngầm quá mức dẫn đến mực nước ngầm giảm liên tục. Nguồn nước đang cạn kiệt dần. Việc khai thác các đập nước và các hệ thống thủy lợi khác đã làm ngưng dòng chảy tự nhiên của sông Hoàng Hà, gây nguy cơ hạn hán trên toàn bộ thung lũng. Thậm chí vào năm 1997, vùng hạ lưu sông Hoàng Hà đã ngưng chảy đến 230 ngày trong năm.

Vì vậy, chỉ cần xét đến các điều kiện thiết yếu của cuộc sống  thì đã có thể thấy Trung Quốc  đang phải đối mặt với những vấn đề rất lớn. Những vấn đề này thậm chí lại càng nghiêm trọng hơn vì dân số khổng lồ đến 1,3 tỷ người của Trung Quốc, kèm theo những vấn đề về nhân khẩu học của đất nước này, tất cả đã tạo ra cái mà có lúc người ta ví von là một "cơn bão hoàn hảo".


Trước hết, tổng số dân trong độ tuổi lao động của Trung Quốc chắc chắn sẽ giảm liên tục trong vòng 20 năm tới. Đến năm 2030, chỉ có ba công nhân trẻ để thay thế cho hơn bốn công nhân của thế hệ trước đó. Với một lực lượng lao động giảm đi về số lượng và già hơn về tuổi tác, chắc chắn tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc sẽ không còn giữ được như trước đây.


Thứ hai, Trung Quốc sẽ bùng nổ dân số người cao tuổi trong vòng 20 năm tới . Đến năm 2030, đất nước này sẽ có 240 triệu người từ 65 tuổi trở lên. Số lượng người cao tuổi ngày càng tăng chắc chắn sẽ đặt lên đất nước Trung Quốc một áp lực kinh tế ghê gớm mà chưa có quốc gia có mức thu nhập tương đương đã từng phải đối mặt .


Thứ ba, do chính sách một con với xu hướng ưu tiên có con trai (cùng những số liệu thống kê kinh hoàng về việc tiêu diệt trẻ sơ sinh nữ) , Trung Quốc sẽ có một sự mất cân đối lớn giữa nam và nữ. Tủ số trong năm 2005 đã là 120 bé trai trên 100 bé gái. Hậu quả là có một số lượng ngày càng tăng các thanh niên không thể lập gia đình và trở nên thất vọng.


Thứ tư, chính sách một con cũng có nghĩa là thế hệ này không có nhiều anh chị em , cô dì, chú, bác, cũng không có cháu gái và cháu trai. Với truyền thống tổ chức các hoạt động doanh thương dựa trên quan hệ huyết thống của Trung Quốc, chắc chắn thành tựu kinh tế của nước này sẽ bị ảnh hưởng.


Nhưng có lẽ câu hỏi quan trọng nhất về tương lai của Trung Quốc liên quan đến các lãnh đạo của họ, hoặc đúng hơn là các ủy viên thường vụ Bộ Chính trị. Có rất ít thông tin về việc những nhân vật này lựa chọn cách làm việc cùng nhau như thế nào, hoặc thậm chí là họ đang nghĩ những gì, hoặc đưa ra những quyết định như thế nào. Quá trình đưa ra tất cả các quyết định quan trọng của nhà nước đều không rõ ràng, và điều này tồn tại từ khi thành lập nước Cộng hòa nhân dân Trung Quốc vào năm 1949 đến giờ. Chính điều này đã gây nên một nền văn hóa "đâm sau lưng" lẫn nhau giữa những người đang cạnh tranh quyền lực, và quan trọng hơn là nó tạo ra một sự cắt đứt hoàn toàn mối quan hệ giữa chính phủ và dân chúng. Và điều này không bao giờ có thể là cơ sở để xây dựng một quốc gia phát triển thực sự bền vững. 


Những khó khăn của người dân Trung Quốc với tư cách từng cá nhân là rất căn bản. Rất thường xuyên chúng ta thấy có các hội nghị, hội thảo và các bài viết nói về Trung Quốc như một quốc gia - về các tiến bộ đã đạt được, con số tăng trưởng kinh tế , sự gia tăng của tầng lớp trung lưu - nhưng hiếm khi có ai đề cập đến vai trò của các cá nhân.

Khi tôi sống ở Trung Quốc trong thập niên tám mươi đầu tôi đã có cảm nhận rất rõ về sự tồn tại của một lối cai trị bàn tay sắt bọc nhung chiếm ưu thế ở thủ đô. Đó là một cảm giác rất rõ về sự sợ hãi của người dân đối với nhà chức trách. Ba mươi năm sau, tình hình có vẻ ít căng thẳng hơn - nhưng tôi vẫn có thể phát hiện ra cảm giác sợ hãi, hoặc ít ra là bất lực của người dân. Khi người Trung Quốc được hỏi xem họ nghĩ về Đại hội lần thứ 18 của Đảng Cộng sản năm ngoái, câu trả lời của họ là họ không quan tâm bởi vì nó không liên quan đến họ. Tôi nghĩ điều họ có ý nói rằng họ chẳng thể có tác động gì, và vì thế chẳng có lý do gì khiến họ cần quan tâm cả.


Chính là cảm giác sợ hãi này là trở ngại lớn nhất đối với một Trung Quốc đang cố gắng nổi lên như một siêu cường. 
Trung Quốc chỉ có thể thực sự trở thành một quốc gia vĩ đạikhi đất nước này có được sự trọng dụng nhân tài thực sự trong các cơ quan công quyền, cũng như sự kết nối thực sự giữa chính phủ và dân chúng, cùng với quá trình đảm bảo - dù là dần dần - các quyền tự do cơ bản cho toàn bộ người dân. Chúng ta cần nhìn thấy một đất nước Trung Quốc nơi người dân được sống thoải mái và hạnh phúc mà không phải có sợ hãi đối với chính quyền.

Tôi rất mong nhìn thấy Trung Quốc nổi lên như một siêu cường trong thế kỷ 21. Nhưng vẫn còn đây nỗi sợ hãi và sự bất hạnh bao trùm lên đa số những thường dân. Cách đây 100 Trung Quốc đã trở thành một nước cộng hòa với lời hứa dân chủ - mang lại sự kết thúc cho 4.000 năm cai trị của các triều đại phong kiến. Có thể Trung Quốc sẽ phải cần thêm 100 năm nữa để đảm bảo tự do thật sự trước khi đạt được vị thế siêu cường. Suy cho cùng, 200 năm cũng là khoảng thời gian mà nước Mỹ đã phải bỏ ra để trở thành một siêu cường từ một khởi đầu nghèo khó.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đại tướng Võ Nguyên Giáp như tôi đã biết



[clip_image002%255B4%255D.jpg]
Tác giả phỏng vấn Đại Tướng tại nhà riêng của ông tại 30 Hoàng Diệu Hà Nội (2004)


Đầu năm 1994, tôi đang làm giảng viên cho một lớp bồi dưỡng nghiệp vụ của Đài Phát thanh tỉnh Sóc Trăng thì Tuất Việt TBT báo SGGP nhắn tôi cố về sớm để giúp anh đi Điện Biên, chuẩn bị bài vở nhân kỷ niệm 40 năm ngày chiến thắng Điện Biên Phủ (1954-1994).

Lúc tôi đứng chờ làm thủ tục để ra sân bay, có tiếng một người đàn ông đứng sau hỏi:
- Anh cũng biết đại tướng đi chuyến này à?

Tôi quay lại thì thấy một người đàn ông đeo lon thiếu tướng và sau ông là mấy vị đeo lon đại tá, cuối cùng là một cô đầm trẻ và rất đẹp, mắt xanh biếc. Thấy vị thiếu tướng mặt khó đăm đăm, nhìn tôi vẻ soi mói, tôi trả lời ông nửa đùa nửa thật: Có lẽ đại tướng thấy tôi đi chuyến này nên ông cũng đi (!). Sau câu trả lời của tôi, mấy vị quân nhân đứng đó đều tỏ ra bất bình. Có lẽ mấy vị ấy cho tôi là “phạm thượng” ! Sau này tôi mới biết, vị đeo lon thiếu tướng đó là ông Cao Pha, Cục phó Cục Quân báo, đã cùng Đại tướng chiến đấu trong chiến dịch Điện Biên năm xưa. Các vị Đại tá kia đều là các cựu chiến binh ĐBP. Cô đầm xinh đẹp kia là Catherina, phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng Mỹ, tất cả đều đi tháp tùng Đại tướng trong chuyến máy bay lên thăm Điện Biên nhân sắp kỷ niệm 40 năm chiến thắng ĐBP.

Lúc lên máy bay thì rộng thênh thang. Chiếc Airbus hơn 70 chỗ ngồi này chỉ chở có vợ chồng Đại tướng Võ Nguyên Gíap, mấy vị tôi vừa gặp, ngoài ra còn mấy người khác là đạo diễn Trí Việt , quê Bến Tre, một trong ba người Nam Bộ dự trận Điện Biên năm xưa, nhà văn Triều Dương ở báo Văn nghệ, Hội Nhà văn và hai bố con một ông già. Đây là chuyến chuyên cơ đăc biệt do chính Tổng cục trưởng Hàng không Việt Nam Nguyễn Hồng Nhị lái chở vợ chồng Đại tướng lên thăm lại chiến trường xưa sau 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Những người đi tháp tùng là quân nhân và nhà báo thì không có gì đáng ngạc nhiên. Còn ông già để râu dài, đeo kính râm và người thanh niên đi cùng là ai khiến tôi phải đến hỏi. Ông cụ hóm hỉnh nói, tôi là Dư Văn Tư, đã 76 tuổi, là “tư lệnh một khẩu pháo” trong chiến dịch ĐBP (khẩu đội trưởng một khẩu pháo). Sau chiến dịch Điện Biên, cụ Tư ở lại làm công nhân nông trường Điện Biên và định cư ở chiến trường cũ này. Nay cụ về Hà Nội mổ mắt nên có anh con rể đi theo. Vì là chiến sĩ Điện Biên năm xưa nên cụ được ưu tiên mua vé để đi chuyến chuyên cơ đặc biệt này, nếu không phải nằm chở ở Hà Nội 3 ngày nữa vì lúc đó chỉ hàng tuần chỉ có 2 chuyến bay dân dụng HN-ĐBP. Vậy là tôi cũng là người được “ưu tiên” mua vé đi chuyên cơ này. Và, một điều thú vị là trên máy bay hôm đó có đến hai vị tư lệnh, một Tổng Tư lệnh của cả chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và một “ tư lệnh một khẩu pháo”! Còn gì thú vị hơn cho một nhà báo mà trên một chuyến bay được gặp hai vị tư lệnh cùng một lúc như thế. Sau khi phỏng vấn “tư lệnh một khẩu pháo”, chụp hình vị tư lệnh râu dài, đeo kính đen và cậu con rể đi tháp tùng, tôi còn được biết địa chỉ của người cựu chiến binh này ở Phường Him Lam để “đến chơi làm ly quốc lủi” như lời mời của chủ nhân. Rời hàng ghế của “tư lệnh một khẩu pháo” tôi đến chào Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Gíap và phu nhân Đặng Thị Hà. Sau khi trình Đại tướng thẻ đặc phái viên báo SGGP, tôi nói: Thay mặt Tổng biên tập SGGP Vũ Tuất Việt, tôi kính mời Võ Đại tướng đến thăm tòa soạn báo dịp 40 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Đại tướng niềm nở cười. Tôi không ngờ lại thực hiện được lời mời của TBT Vũ Tuất Việt sớm như thế. Theo lời dặn của ông, sau chuyến đi Điện Biên tôi phải đến nhà riêng Đại tướng để mời dùm ông. Nhưng câu trả lời của Đại tướng phu nhân hôm đó làm tôi bất ngờ và suy nghĩ. Bà Hà nói: “Đã là báo Đảng mời thì nhất định anh Văn phải tới !”.

Tôi rất bất ngờ về chữ “phải”. Sao lại có sự khiêm tốn đến quá mức như thế? Sao lại “phải” tới đôi với một vị tướng lừng danh thế gian này! Và quả thật sau đó Đại tướng có vô TPHCM, thăm tòa soạn báo SGGP khiến Tuất Việt rất phấn khởi.

Rời hàng ghế của Đại tướng, tôi đến ngồi bên cạnh cô đầm xinh đẹp. Cô này nói được tiếng Pháp bập bẹ như tôi. Qua cuộc đối thoại có sự “giúp đỡ” của tay chân, điệu bộ, tôi được biết cô là một phóng viên nhiếp ảnh tự do của Mỹ và vừa nhận 100 cuộn phim để sẽ chụp trong 1 ngày! Thời kỳ đó có một hãng phim ảnh quảng cáo, tiếp thị bằng cách biếu các phóng viên nhiếp ảnh nổi tiếng các nước 100 cuộn phim và phải chụp hết trong 1 ngày về bất cứ đề tài gì và gửi về cho họ. Sau đó họ sẽ tùy ý sử dụng những tấm ảnh đó và trả công cho các phóng viên.Catherine là một phóng viên đã nhận 100 cuộn phim như thế. Và, cô ta sang Việt Nam, chọn đề tài Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Sau này, các bức hình về Đại tướng được đăng trên các báo Phương Tây, kể cả ở Việt Nam, tôi đọc thấy tên Catherine ở bên dưới và nhận ra là các tấm hình ấy cô đã chụp trong chuyến đi đó. Cũng không ngờ tôi trở thành “địch thủ” của Catherine trong những ngày sau. Đó là ngày đầu tiên ở Điện Biên, các nhà báo chúng tôi đi theo tướng Gíap thăm lại chiến trường xưa. Khi thăm và làm việc với Bảo tang Điện Biên, tướng Gíap ngồi nói chuyện với cán bộ bảo tang, có cả Bí thư Tỉnh ủy Lai Châu dự. Ngày hôm đó cũng là ngày Catherine thực hiện chụp 100 cuộn phim, có nghĩa là phải bấm máy 3.600 lần trong ngày. Vì thế cô bấm máy liên tục.Tướng Giáp chỉ đi ba bước là cô bấm một kiểu ảnh. Có lẽ tướng Giáp biết chuyện này nên ông luôn miệng hỏi : “quelle couronne?” (cuộn thứ mấy rồi?). Khi tướng Gíap ngồi nói chuyện với cán bộ công nhân viên bảo tàng, tôi đứng sau, luồn tay đưa cái máy ghi âm ra phía trước để ghi âm lời ông nói, Catherine đã xông lên, giằng tay tôi ra để cô chụp cho đẹp. Tôi đâu có chịu, khi Catherine chạy lại phía trước thì tôi lại luồn tay đưa cái máy ghi âm ra. Cô ta lại chạy tới hất tay tôi ra. Chuyện giằng co như thế làm mọi người rất khó chịu, kể cả tướng Giáp.Tôi quyết định phải “dậy cho Catherine một bài học”, và cũng để chấm dứt cảnh giằng co này. Vì thế, lần thứ ba cô chạy đến giơ tay định làm như lần trước, tôi đã giơ thẳng tay, đánh mạnh vào cánh tay của cô, khiến cô phải kêu á lên một tiếng rồi lùi lại… Sự việc diễn ra quá nhanh và bất ngờ khiến mọi người sửng sốt, nhưng sau đó lại đâu vào đấy. Từ đó, các cú bấm máy của Catherine đều có hình tôi đứng sau, luồn tay ra phía trước cầm cái máy ghi âm đưa ra trước mặt đại tướng.

Tối hôm đó, chúng tôi lại sang nhà khách mà Tướng Giáp nghỉ để hàn huyên vì khách sạn các nhà báo chúng tôi thuê đối diện ngay với nhà khách Tướng Giáp ở. Đúng như tôi đã dự đoán, Tướng Giáp hỏi tôi: “Sao lại xử sự như vậy lúc ban chiều?”. Tôi đã trả lời vị tướng tài ba này rất “đúng lập trường”: Thưa anh Văn – Tôi bắt chước các tướng lĩnh đi tháp tùng Đại tướng, gọi ông là “ anh Văn” – Catherine là phóng viên một nước tư bản, cô ta chụp ảnh để bán lấy tiền, tôi là phóng viên Đài TNVN, tôi ghi âm để phát cho đồng bào cả nước nghe đài biết là Đại tướng nói gì về việc gìn giữ di tích ĐBP. Tôi và Catherine ‘égal’ (bình đẳng) trong việc hành nghề, cô ta làm như thế là coi thường người khác, tôi phải dậy cho cô ta một bài học. Hơn nữa, tôi cũng muốn nói với các đồng nghiệp Việt Nam của mình là: không việc gì phải sợ phóng viên nước ngoài cả. Tất cả đều bình đẳng!. Tướng Gip đã vỗ vai tôi nói: “Très bien!” (rất tốt).

Từ hôm đó trở đi, mỗi khi gặp tôi ở hành lang khách sạn mà chúng tôi thuê, Catherine đều đi né sang một bên, tránh đối diện với tôi. Kể cũng tội nghiệp cho cô, một cô gái đẹp (!). Tấm hình Trí Việt chụp cho tôi và Catherine khi ngồi trên máy bay chuyện trò vui vẻ tôi vẫn còn giữ đến bây giờ để “nhớ” một kỷ niệm … không vui trong đời làm báo.

Thế là trong suốt ba, bốn ngày ở Điện Biên, tôi và các đồng nghiệp luôn ở bên Tướng Giáp, từ sớm cho đến chiều tối để đi thăm các chiến địa xưa: đồi Him Lam, đồi D1, A 1, nghĩa trang liệt sĩ dưới chân đồi A1, các tượng đài mới dựng lên ở Điện Biên v.v., tối về lại quây quần bên ông ở nhà khách để hỏi han, ghi chép. Có một sự kiện như là một điểm nhấn của chuyến đi năm đó là khi Tướng Gíap và chúng tôi vào thăm lại hầm De Castries, Đại Tướng xem rất kỹ di tích này. Bất chợt ông chỉ tay vào sát bức tường của một ngách hầm và hỏi: “ cái étagère lớn của De Castries ở chỗ này đâu rồi?”. Không ai trả lời. Đại tướng hỏi lại lần nữa, vẫn không ai trả lời. Đại tướng lại hỏi một lần nữa, nói gần như quát (!). Tôi vội đỡ lời : Đại tướng hỏi cái giá sách của De Castries ở đây bây giờ đâu rồi?. Có tiếng đáp ngập ngừng: Thưa… đốt rồi ạ !!!. Tất cả lại lặng im . Đại Tướng căn dặn phải giữ gìn tất cả những hiện vật của trận Điện Biên năm xưa. Nhưng “điểm nhấn” là câu hỏi cuối cùng của ông: “ Hầm tướng giặc thì được ta tạo làm di tích lịch sử để thăm quan, còn hầm của tướng ta thì bây giờ ra sao? Nhân dân sẽ hỏi các đồng chí, hầm của tướng ta đâu, không lẽ chỉ có hầm tướng giặc thôi à?”. Tất cả mọi người có mặt trong hầm De Castries hôm đó đều lặng đi. Mọi người thấy đại tướng nói đúng quá, có lý quá!.

Sáng hôm sau người ta tổ chức để Đại tướng đi thăm lại hầm Tổng Tư lệnh chiến dịch ĐBP ở Mường Phăng, cách thung lũng Điện Biên 10 km đường chim bay, đi đường bộ mất 25 km, nhưng đường bộ đã bị “lãng quên”, hư hại, xe ô tô đi rất khó khăn. Nghe tin Đại tướng đi Mường Phăng, sáng sớm hôm sau hai phóng viên Hãng Truyền hình Nhật Bản đã thuê 1 xe U-Oát lên đường từ sớm. Catherine cũng đã thuê được một xe đi từ sớm. Tôi không có tiền thuê xe đành bám theo Đại tướng để xin đi trực thăng. Nhưng thật “đau khổ”, trực thăng của quân khu nổ máy mấy lần mà cánh quạt vẫn… đứng yên (!). Người ta phải đem kìm, búa ra chữa. Tiếng búa đập vang dội cả một góc rừng (!), vậy mà máy bay trực thăng vẫn ì ra, không chịu nhúc nhích cánh quạt (!). Đến quá trưa vẫn chưa chữa xong máy bay (!), trong khi đó thì đồng bào Mường Phăng đã dậy từ sớm chờ Đại Tướng lên thăm ! Nản quá, tôi về khách sạn nằm, đọc tiếp cuốn “Lịch sử Đảng bộ Điện Biên” do Phó Ban Tuyên huấn Huyện ủy Ngô Phong, người biên soạn cuốn sch tặng tôi hôm trước.

Đến 2 giờ chiều thì máy bay trực thăng của không quân từ Hà Nội bay lên, và đến 4 giờ chiều hôm đó thì đồng bào Mường Phăng hân hoan đón Đại tướng.

Nguyễn Trí Việt, dân Bến Tre dự trận ĐBP, anh là Chính trị viên Đại đội xung kích 245, Tiểu đoàn 11 Phủ Thông, Trung đoàn 141 Ba Vì, Đại đoàn 312, từng chỉ huy kéo pháo vào kéo pháo ra ở ĐBP năm đó. Từ sớm hôm đó anh đã thuê được một chiếc mô tô Minsk, thứ xe mô tô do Liên Xô sản xuất leo đồi rất tốt để lên Mường Phăng. Anh kể, từ sáng sớm đồng bào Mường Phăng đã tập hợp trên một bãi đất rộng mà xưa kia Đại Tướng từng duyệt binh sau chiến thắng Điện Biên để đón Đại tướng. Nhiều người mang theo trứng gà và mật ong để biếu Đại tướng. Đồng bào đã kiên trì đứng từ sáng tới 4giờ chiều dưới nắng để chờ, ai cũng sợ bỏ đi thì không kịp quay lại để nhìn thấy đại tướng. Hai phóng viên truyền hình Nhật Bản đã đứng cả ngày, cởi áo để che nắng cho máy quay phim chở Đại tướng đến là bấm máy… Trí Việt nói một hơi rồi anh vén quần lên , chỉ vào vết thương ở đầu gối nói: Tao ngồi sau xe Minsk, gặp cái ổ gà lớn quá, xe sóc, văng tao té xuống đất, đầu gối va vào cục đá, máu túa ra… Vậy là hai lần tao bị thương trong đời đều ở Điện Biên, cách nhau 40 năm, trước là ở đồi Him Lam, sau là trên đường vào Mường Phăng!

Vậy là cho đến năm 1994, khi bước lên chiếc chuyên cơ đi Điện Biên, thấy vợ chồng Tướng Gíap ngồi thủ thỉ nói chuyện với nhau ở hàng ghế giữa máy bay, người am hiểu chính trường ở Việt Nam mới hết lo cho số phận của ông tướng nổi danh cả thế giới này.

Vì, các đối thủ nổi danh của ông đã chết hết, hoặc còn sống thì cũng không còn đủ thế lực để tác oai, tác quái với ông nữa. Những người yêu mến ông trong bộ máy quyền lực đã hết sợ ‘mang vạ” vào thân nên đã mỉm cười với ông. Hiển nhiên là ông đang ngồi trên chuyến chuyên cơ này để về thăm lại chiến trường xưa.

Kể từ sau 1975, khi Lê Duẩn, Lê Đức Thọ nắm toàn bộ quyền lực trong tay thì số phận của“ Vainqueur de ĐBP” (người chiến thắng ĐBP) như báo chí Phương Tây thường gọi là vô cùng cay nghiệt. Nhất là từ sau Đại hội Đảng lần Thứ 5, ông bị loại hẳn ra khỏi Bộ Chính trị, cho đến năm 1983 được Hội đồng Bộ trưởng phân làm “ Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc gia Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch”, thì sự cay đắng đã được đẩy đến tận cùng.

Nhưng ông đã tôn thờ chữ “ nhẫn” để tồn tại và… thời gian đã ủng hộ ông.

Tôi nhớ, vào đầu năm 1991, một nhân vật của kịch Lưu Quang Vũ trên sân khấu nói một câu rất bình thường: - Vậy là những kẻ khốn nạn cuối cùng cũng phải chết! Cả rạp đã vỗ tay rần rần. Đó là khán giả Hà Nội đã vỗ tay mừng cho Tướng Giáp vì năm 1990 “ kẻ khốn nạn” luôn hãm hại Tướng Giáp vừa qua đời.
Trong suốt một thời gian dài tôi đã đọc biết bao thông tin về sự trù úm, hãm hại Tướng Giáp. Người ta hãm hại ông không phải vì sợ ông tranh quyền, cướp vị mà vì sự tồn tại của ông làm lu mờ họ. Khi ông là Đại tướng thì có kẻ mới là viên đại tá vô danh. Vì thế, dù có mưu mô cơ cấu cấp dưới của ông lên đến vị trí cao ngất thì cũng không thể vì thế mà tỏa hào quang. Thôi thì, bôi đen hào quang đi vậy ! Vụ án “ Bà Sáu Sứ” do Tổng cục II dựng lên là một âm mưu bôi đen không thành đối với Tướng Giáp. Nhờ một ông họ Võ khác là Võ Viết Thanh đã hành động theo lẽ phải và đạo lý…Sẽ còn nhiều bút mực đổ ra để các nhà sử học sau này bàn luận về cuộc đời và sự nghiệp của Võ Nguyên Gíap.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Tụ, hiệu là Hà Sỹ Phu đã có bài thơ tặng Đại Tướng nhan đề:
Trăm năm nguyên giáp
Tính sổ trời cho đã bách niên
Thử cân hạnh phúc với ưu phiền
Tiếc trang độc lập còn dang dở
Thương chữ quyền dân chửa đáp đền
Một đời ái quốc văn thành võ
Chưa cởi chiến bào giáp vẫn nguyên

Nhưng cũng có người đưa ra ý kiến rằng, với Võ Nguyên Gíap thì lịch sử có những “tiêu chuẩn riêng của nó”. Tôi hiểu tác giả viết trên trang mạng Bauxite này muốn nói, độc lập phải đi liền với tự do và dân chủ.

Riêng tôi, chỉ muốn cung cấp cho bạn đọc những điều mắt thấy tai nghe về những điều trắng trợn đến vô lý mà người ta đã đối xử với Đại tướng. Những điều mà chỉ có thể xầy ra trong một thể chế độc tài, chuyên chế của một vài cá nhân mà thôi. Và, trong một thể chế như thế thì dù một người có tài, có đức, hào quang cùng mình như Võ Nguyên Gíap vẫn không thoát được hiểm họa. Một thể chế đem đến bi kịch cho tất cả mọi người.

…Vào những năm tám mươi ở Tiền Giang, Giám đốc xí nghiệp dược liệu Quân khu 9, trong đó có Trại nuôi rắn Đồng Tâm nổi tiếng khắp vùng là Trần Văn Dược, tức Tư Dược. Một lần Đại tướng đến thămTrại rắn Đồng Tâm, phóng viên nhiếp ảnh của Phân xã Tiền Giang là anh Thái, sau cuộc viếng thăm của Đại tướng, có đem một tấm hình Đại tướng và Tư Dược phóng to để biết Trại Đồng Tâm làm kỷ niệm. Tư Dược đem tấm hình ấy trưng bày ở phòng khách của Trại. Cái tin này đã được báo về Quân khu 9.Lệnh của Quân khu đưa về là Tư Dược phải cất gỡ cái hình đó xuống (!). Tư Dược gỡ xuống và đem về phòng làm việc riêng của mình treo. Ông tuyên bố: “ứa nào vào phòng ông gỡ tấm hình này xuống thì ông nổ sung liền!” Khi tôi đưa nhà báo Hữu Thọ - Báo Nhân Dân và nhà báo Thái Duy – Báo Đại Đòan kết đến Trại rắn tham quan, Tư Dược kể lại chuyện này với hai nhà báo ở Trung ương. Thái Duy, tức nhà văn Trần Đình Vân, tác giả cuốn sách “ Sống như Anh” viết về anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi – đã nổi nóng đập bàn quát : “Đứa nào ra cái lệnh ấy, anh nói tên nó cho tôi, tôi sẽ đưa nó lên mặt báo!”

Khi tôi đưa đoàn cán bộ biên tập của Nhà xuất bản Trẻ Thành phố HCM xuống tham quan Trại rắn nhấn cuốn sách “Rắn độc trong tay người” của tôi viết chung với một người bạn, được Nhà xuất bản Trẻ phát hành viết về người giám đốc tài ba này thì… ông vừa bị cách chức. Tôi kể lại câu chuyện tấm hình có hình Đại tướng… mọi người đã khuyên tôi: là một nhà báo anh phải ghi chép để viết về câu chuyện bẩn thỉu này!

Trước lúc ra đi, Tư Dược có nhắn tôi và nhà báo Hải Bình ở Phân xã Tiền Giang đến gặp ông… để trăn trối… về tấm lòng của một chiến sĩ với vị Tổng Tư lệnh của mình.

Ở tận phía Nam của Đất nước thì câu chuyện về Tướng Gíap là thế. Còn ở miền núi xa xôi Tây Bắc thì Ngô Phong tâm sự với tôi, dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên, anh nhận được chỉ thị là không được đón Đại tướng Võ Nguyên Gíap lên Điện Biên. Anh và các cán bộ lãnh đạo của huyện Điện Biên buồn lắm nhưng không biết làm sao cả. Vì thế, đợt kỷ niệm 40 năm này, không thấy có chỉ thị đó nên anh, với tư cách là Ban Tuyến huấn huyện Điện Biên đã về tận Hà Nội, đến tận nhà riêng Đại tướng để mời ông lên thăm lại chiến trường xưa. Ngô Phong là người rất “dễ thương” theo cách nói của Nam Bộ. Anh chính là con đẻ của chiến thắng Điện Biên Phủ theo đúng nghĩa “con đẻ”. Bố anh là bộ đội đánh trận Điện Biên sau đó ở lại xây dựng Nông trường Điện Biên và lấy mẹ anh là người Thái. Anh ra đời sau 1954. Đến dịp kỷ niệm này, anh cũng tròn 40 tuổi mụ! Anh cũng chính là người chấp bút cuốn “Lịch sử Đảng bộ Điện Biên” vừa mới phát hành nhân dịp 40 năm. Anh dẫn tôi đi nhiều nơi quanh huyện Điện Biên. Anh tâm sự, cán bộ tuyên huấn ở huyện vất vả lắm. Địa bàn củahuyện còn rộng hơn một tỉnh dưới xuôi. Có xã như xã Háng – Lìa chót đầu huyện, cách Mường Thanh, trung tâm của Điện Biên đến 93 km, và ….chỉ có thể đến đó bằng ngựa. Vậy mà anh vẫn phải tháng nào cũng đến thăm cán bộ, đồng bào ở một xã như thế. Anh cho tôi hay, các giáo sĩ đạo Tin Lành đã đến ở đó và giảng đạo thì cán bộ tuyên huấn phải đến tận nơi là đương nhiên. Anh rủ tôi ở lại để cùng anh lên thăm Háng Lìa, nhưng phải mất ba ngày đi bộ ròng rã !!! Ngô Phong còn kể cho tôi nghe nhiều chuyện cảm động ở Điện Biên. Như ở Mường Phăng, tuy là Nhà nước không có chủ trương (hay nói đúng hơn là những người ở trên cao muốn xóa đi mọi dấu tích về Tướng Gíap ), vậy mà nhân dân Mường Phăng vẫn tự giác giữ gìn di tích lịch sử này. Có cụ già đã 40 năm nay tình nguyện trông coi hầm chỉ huy của Đại Tướng, hàng ngày quét dọn, chăm sóc như nhà của mình.

Sau chuyến đi Điện Biên mùa xuân 1994, về đến Hà Nội, tôi có viết một cái tin cho Đài TNVN về chuyến trở lại Mường Phăng của Đại Tướng, nhưng Đài không phát. Và tôi còn được biết không có một đài báo của TW nào ở Hà Nội, kể cả Báo Quân đội Nhân dân cử phóng viên đi chuyến ấy. Vậy là còn thua cả tờ “Mực Tím” chuyên viết cho thiếu nhi ở TPHCM cũng cử phóng viên lên tận Điện Biên dịp đó.

Tôi đến tá túc ở Cơ quan đại diện Báo SGGP ở Hà Nội tại đường Lê Văn Hưu và viết ngay tin bài gửi về TPHCM như chỉ đạo của Tổng Biên tập Tuất Việt là “làm một vệt dài” về Điện Biên Phủ cho tới ngày kỷ niệm chính 7.5.1994. Tối hôm ấy thì nhà văn Triều Dương lò dò tới. Anh nói với tôi với vẻ mặt rất nghiêm túc: Ông Văn – tức Đại tướng – bảo tôi đến dặn anh rằng, Đại tướng rút lui ý kiến hôm chỉ đạo về cái tượng hai người phụ nữ ở Điện Biên. Anh về Sài Gòn khi viết nhớ là không đưa ý kiến đó của Đại tướng vào bài viết. Tôi hỏi Triều Dương vì sao vậy, hôm đó Đại tướng nói rất mạnh mẽ, quyết liệt cơ mà! Triều Dương nói: Nhưng vè đến Hà Nội ông Văn biết được rằng Bộ Chính trị đã duyệt cái tượng đó rồi, nên ông rút lui ý kiến đó. Ông Văn dặn tôi, nhớ dặn kỹ cậu Phú Khải đề nó đừng viết cái ý đó. Trước khi ra về, Triều Dương còn bảo tôi: Tôi đi đến đây chỉ có mỗi việc đó, anh nhớ đừng quên.

Tôi nhớ lại, lúc đứng trước cái tượng đài khá lớn, dựng hình tượng hai người phụ nữ, một người mặc áo cánh, búi tóc, tượng trưng cho phụ nữ Đồng bằng Bắc Bộ, đứng sát là một phụ nữ chít khăn phiêu, mặc áo của phụ nữ dân tộc Thái, tượng trưng cho đồng bào các dân tộc Tây Bắc … Đại Tướng giận dữ nói: Tôi đã chỉ đạo các anh rằng, chiến thắng Điện Biên Phủ là công lao của cả nước. Cả nước chia lửa với Điện Biên Phủ, cả nước căng địch ra mà đánh nên chúng không thể điều quân đến cứu nguy cho ĐBP. Vì thế khi dựng tượng đài ở Điện Biên Phủ phải có hình ảnh của ba miền Trung – Nam – Bắc. Mai kia đồng bào Khu 5, đồng bào Nam Bộ… ra đây thăm Điện Biên, người ta hỏi hình ảnh của chúng tôi đâu trong chiến thắng này thì các anh sẽ trả lời làm sao? Điện Biện Phủ chỉ có công của Bắc Bộ và Tây Bắc thôi à?

Đại Tướng đã nói rất gay gắt: Tôi đã dặn kỹ các anh rồi sao không thực hiện , sao lại làm thế này? Tất cả các bộ ngành bảo tàng ở Điện Biên lúc đó đều có mặt nhưng không ai nói gì cả (!), không một lời giải thích, vì thế Đại Tướng càng tỏ ra giận dữ, xem như mọi người đã chống lại ông.

Vậy mà ….bây giờ Triều Dương đến…lại nói thế ….?

Đêm hôm đó tôi nằm thao thức mãi… nghĩ về sự cẩn trọng của Đại Tướng !. Bộ Chính trị là cái gì? Đại Tướng chỉ đạo như vậy là quá đúng với sự thật về chiến thắng Điện Biên Phủ, là công bằng lịch sử. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, tôi thấy Tướng Gíap có lý! Ông đã chịu quá nhiều những âm mưu thủ đoạn chĩa vào ông trong nhiều năm qua từ những “đồng chí” của mình. Chỉ một sơ suất nhỏ, người ta có thể vin vào đó để vu cho ông là chống lại tập thể Bộ Chính trị, chống đảng… và… và…

Nhờ có sự cẩn trọng đến từng... chi tiết… của đời sống mà ông mới tồn tại được đến cái ngày gặp lại đồng bào, đồng chí của ông ở Điện Biên Phủ như tôi đã thấy. Kể từ sau vinh quang chói lọi “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”, ông sống trong thiên la địa võng của những hiềm tị và mưu mô.Trên đỉnh cao thì bao giờ dưới chân nó cũng là vực thẳm. Đỉnh càng cao thì vực dưới chân càng sâu.Tướng Gíap đã đứng bên bờ vực thẳm đó biết bao tháng năm mà không bị nạn nhờ ông biết cẩn trọng. Ngay khi các đối thủ của ông không còn trên cõi đời này, nhưng ông hiểu rằng tay chân của họ còn đó. Ông thận trọng là có lý. Các cụ ta xưa nói “anh hùng đa nạn” là như thế. Tôi càng nhận ra điều này về sau khi kỷ niệm 50 năm chiến thắng ĐBP tôi lại từ Sài Gòn ra Hà Nội, được ông tiếp tại nhà riêng gần một tiếng đồng hồ, sau đó tôi lại lên Điện Biên… Nhưng bài tôi viết về ông và trận Điện Biên để kỷ niệm 50 năm chiến thắng ĐBP, tờ báo đáng phải đăng nhất là tờ QĐND mà tôi gửi tới thì lại từ chối không đăng (?!). Báo Cần Thơ số ra ngày 6.5.2004 đã đăng bài đó. Đó là bài báo tôi viết mất nhiều công sức nhất sau hai lần lên Điện Biên Phủ, hai lần gặp Đại Tướng, sau nhiều thời gian đọc hàng chục cuốn sách do ta và tây viết về trận ĐBP, sau nhiều lần gặp nhà văn Hữu Mai, người chấp bút các hồi ký của Tướng Gíap để hỏi chuyện…Tôi phải cám ơn Báo Cần Thơ và Tổng Biên tập Trần Huy đã đăng bài báo nhan đề “Võ công Điện Biên Phủ và thiên tài quân sự Võ Nguyên Gíap”. Đó là lần đầu tiên cụm từ “thiên tài quân sự” được gắn với tên tuổi Võ Nguyên Gíap mà đài báo, sách vở của chế độ từ trước đến nay vẫn “ thực hành tiết kiệm” với Đại Tướng.

Trong bài đó tôi viết: “… Công bằng mà nói, Tướng Gíap được chỉ huy một quân đội cách mạng sẵn sàng quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Sức mạnh vô địch của đội quân đó là lòng yêu nước nồng nàn và rực lửa căm thù. Căm thù bọn người đã đốt nhà, giết vợ con, cha mẹ họ, đã đày đọa cả dân tộc họ trong một thế kỷ ôm mối hận làm dân nô lệ, làm kẻ mất nước …Vì thế khi có thời cơ họ đã chiến đấu không tiếc xương máu để rửa mối hận đó ! Và, người chỉ huy đội quân không tiếc xương máu đó lại là người biết tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội, biết nuôi dưỡng sức mạnh từ việc chăm sóc bát cơm nóng cho quân lính dưới chiến hào. Những giọt máu hào hùng và những giọt máu được tiết kiệm …đã làm nên màu đỏ rực ánh mặt trời chiến thắng chiều 7.5.1954 ở ĐBP.

Vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, Tướng Gíap đã thành công ở Điện Biện Phủ. Đó là những sư đoàn chân đất, như cách nói của giặc Pháp, biết dấu mình trong chiến hào đánh lấn, nương mình vào lòng đất mẹ quê hương để đương đầu với bom đạn sắt thép bạo tàn của kẻ thù mà đánh “trận địa chiến hào tấn công” chưa hề có trogn lịch sử quân sự. Đó là sáng tạo của những người du kích Đồng bằng Bắc bộ có kinh nghiệm đào hầm bí mần chống càn giữ làng, là cách đánh du kích chỉ Việt Nam mới có; người chỉ huy đề ra phương châm chiến lược, người lích đề xuất cách đánh đào xuyên hàng rào kẽm gai. Đó là dân chủ Điện Biên Phủ! “Trận địa chiến hào xiết vòng vây lửa” ở Điện Biên Phủ là võ công hiển hách của quân dân ta ở thế kỷ 20. Là một cống hiến cho khoa học lịch sử quân sự thế giới, là thiên tài quân sự Võ Nguyên Gíap, là “thiên biến vạn hóa” của tư tưởng quân sự cha ông ta được vận dụng ở thời đại Hồ Chí Minh.

Thông thường trong chiến tranh, phía tấn công phải có lực lượng gấp 5 lần trở lên so với phía phìng ngự. Nhưng so sánh lực lượng hai bên ở Điện Biện Phủ thì thấy: ban đầu địch có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh, gồm phần lớn những đơn vị tinh nhuệ nhất. Địch còn có hai tiểu đoàn pháo 105 ly, 24 khẩu, 2 tiểu đoàn sung cối 120 ly 20 khẩu, 1 đại đội pháo 155 ly 4 khẩu, 1 đại đội xe tăng 18 tấn 10 chiếc. Không quân thường trực tại sân bay có 7 khu trục, 5 trinh sát, 4 vận tải và 1 trực thăng . Ngoài ra 2/3 lựclượng máy bay ném bom tiêm kích và 100% máy bay vận tải toàn Đông Dương yếm trợ cho Điện Biện Phủ .Tổng quân địch ở Điện Biên Phủ là 12.000 người. Lực lượng ta có 9 trung đoàn bộ binh ( 27 tiểu đoàn), 1 trung đoàn sơn pháo 24 khẩu, 2 tiểu đoàn lựu pháo 105 ly 24 khẩu, 4 đại đội sung cối 120 ly 16 khẩu, 1 trung đoàn cao xạ pháo 37 ly 24 khẩu, 2 tiểu đoàn công binh . Ta hơn địch về số tiểu đoàn (27/12) nhưng quân số mỗi tiểu đoàn của ta chỉ bằng 2/3 mỗi tiểu đoàn của địch. Ta cũng hơn địch về số lượng pháo (64/48) nhưng đạn pháo dự bị của ta lại rất hạn chế. Ta không có xe tăng và chỉ có 1 trung đoàn pháo cao xạ 37 ly để đối phó với toàn bộ không quân địch ở Đông Dương. Xét toàn cảnh ta vẫn ở vào thế yếu đánh mạnh.

Nhưng ta chủ động tấn công, tự quyết định đánh hay không đánh, chủ động lựa chọn điểm đánh và thời gian đánh. Đánh hay không đánh đều có lợi cho ta vì đương nhiên ta đã kìm chân được một lực lượng lớn địch ở đây để giành được thắng lợi trên nhiều chiến trường Đông Xuân 53-54. Địch ở Điện Biên Phủ tuy mạnh, nhưng bị nhốt trong các cũi thép gai và hầm hố một cách thụ động, không thể đem toàn bộ sức mạnh để đánh trả, cứu nguy cho một cứ điểm bị tấn công. Ta đem toàn bộ sức mạnh để đánh môt điểm ta bao vây chia cắt địch ra mà đánh dần, linh hoạt và cơ động hoàn toàn. Như vậy nếu xét trong một trận đánh vào một vị trí nhất định, trong một thời điểm quyết định , thì ta vẫn mạnh hơn địch. Mạnh sẽ thắng yếu. Tài thao lược của Tướng Gíap là ở chỗ phân tích sắc bén thế và lực trong những tình huống cụ thể ở Điện Biên Phủ để tìm ra cách đánh thích hợp, “đánh chắc tiến chắc” để đi đến đại thắng ! Đó là gì nếu không phải là biện chứng pháp quân sự Macxít.

Một Việt kiều ở Pháp có tâm sự với người viết bài này… Ông ta được một sử gia Mỹ cho hay: Ngay cả Napôlêông khi bước vào đường binh nghiệp thì đã có sẵn một đội quân để chỉ huy. Tướng Gíap phải xây dựng quân đội từ mấy chục người thành những binh đoàn để lần lượt đánh thắng nhiều danh tướng của cường quốc Pháp như Đờ Lát, Xa Lăng cho đến Na Va ở Điện Biên Phủ… điều đó chưa thấy trong lịch sử quân sự thế giới… Và đây cũng là lần đầu tiên một nước nhỏ đã đánh thắng một đế quốc hùng mạnh, mở đường vùng lên cho các dân tộc đang bị nô lệ.”.

… Võ Nguyên Gíap là người lẽ ra “đã chết từ lâu rồi” với những hiềm tị, ganh ghét của các “ đồng chí” của ông. Nhờ ông biết tôn thờ chữ “ nhẫn”, nói đúng hơn là “nhẫn nhục” để sống đến hôm nay.Nhà văn Trần Đình Hiến, từng 10 năm làm tham tán văn hóa tại Đại sứ quán ta tại Trung Quốc, dịch giả hàng đầu các tác phẩm văn học Trung Quốc đương đại sang Tiếng Việt của các tác giả như Mạc Ngôn, Gỉa Bình Ao, Vệ Tuệ v.v. trong một quán càfê gần trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam ở đường Nguyễn Đình Chiểu, Hà Nội, sáng ngày 16/4/2013 vừa qua, có cả bác sĩ, tù nhân lương tâm Phạm Hồng Sơn và tôi cùng ngồi đàm đạo, ông đã kể: - Sau chiến tranh biên giới với Trung Quốc 1979, tên Trọng Hy Đông ở Uỷ ban Kiều vụ, Quốc vụ Viện TQ, hàm ngang bộ trưởng, sang Việt Nam để giải quyết các vấn đề hậu chiến tranh như tù binh v.v., ông được mời đến để phiên dịch cho cuộc làm việc giữa hai bên. Khi xe của Đại Tướng Võ Nguyên Gíap vừa đến cũng là lúc xe của Lê Duẩn vừa tới, Lê Duẩn đã chỉ vào mặt Võ Đại tướng và nói như quát: - Cuộc họp không có anh! Võ Nguyên Gíap nói: - Vậy tôi về. Thế là cụ Võ lủi thủi lên xe ra về. Kể đến đây nhà văn Trần Đình Hiến kết luận: Tôi không thể ngờ những người lãnh đạo tối cao của đất nước lại đối xử với nhau như xã hội đen như thế ! Nhất là lại công khai trước mặt tất cả mọi người!

Vô sản gắn liền với vô học là ở chỗ đó!

Đánh giá về cuộc đời và sự nghiệp của Võ Nguyên Gíap là một việc lớn, sẽ còn tốn nhiều giấy mực của các sử gia Việt Nam và thế giới. Việc đó dành cho các cây bút lớn! Riêng với tôi, một nhà báo nhiều lần được gặp Võ Đại tướng, trong nhiều trường hợp, kể cả gặp riêng tại nhà riêng của ông ở 30 Hoàng Diệu, Hà Nội, gặp một thời gian dài trong chuyến ông lên thăm ĐBP sau 40 năm chiến thắng ( 1994)… rồi lại đọc kỹ các hồi ký của ông do nhà văn Hữu Mai chấp bút, đàm đạo với Hữu Mai, đọc kỹ các tác giả nước ngoài viết về Điện Biên Phủ… tôi có nhận xét rằng, ông là một vị tướng biết tiết kiệm từng giọt máu của đồng đội để làm nên chiến thắng, chăm lo cho binh lích của mình từng từng miếng cơm nóng trong bữa ăn ngay giữa chiến trường máu lửa. Ông là con người võ mà văn – văn mà võ!

Về tác phong, cái con người được báo chí Phương Tây gọi bằng cái tên “ Vainquer de Điện Biên Phủ” ( kẻ chiến thắng ĐBP) lại là một người có tác phong rất Tây, nói rất Tây, ăn rất Tây… Những ngày tháp tùng ông năm 1994 đi thăm lại chiến trường xưa sau 40 năm… lâu lâu tôi lại thấy người sĩ quan tùy tùng của ông đưa cho ông một quả chuối và một hộp pho-mai… ông điềm tĩnh bóc chuối và lấy khoanh pho-mai ra ăn trước đông đủ cử tọa rồi lại tiếp tục làm việc. Tấm hình chụp Đại Tướng đang ăn chuối với pho-mai trước mọi cử tọa, tôi vẫn còn giữ đến bây giờ, xem nó như một cú bấm máy “đáng tiền” trong đời làm báo của tôi! Ăn chuối với pho-mai cho người già sức khỏe tốt, có lẽ vì thế mà Đại tướng sống đến trăm tuổi. Tôi xin mở ngoặc ở đây để chứng minh điều tôi nói. Một lần, trong một ngày hội đua ghe ngo truyền thống của đồng bào Khơ-me ở Sóc Trăng, trước cuộc đua có tổ chức biểu diễn lướt ván của vận động viên từ TPHCM xuống góp vui.Người ta giới thiệu có một vận động viên đã trên 70 tuổi tham dự.Mọi người đã sửng sốt về tài nghệ lướt ván của vận động viên U80 này. Tôi phải len xuống sông để gặp ông, ông cho biết, nhờ ăn chuối với pho-mai… trừ bữa nên “khỏe là vậy”!

Lại nói vể tác phong “rất Tây” của Đại Tướng, khi giao tiếp, để phụ trợ cho lời nói, ông thường nheo mắt , nhún vai, khoát tay…, khi cần chọn một từ dùng cho thật chính xác, ông thường dừng lại, suy nghĩ ít giây, và chen vào đó một từ Tiếng Pháp (!). Người Pháp có câu ngạn ngữ tự hào về tiếng nói của mình: “cái gì không trong sáng không phải là Tiếng Pháp”! Có lẽ ông bị “ảnh hưởng” về sự trong sáng ấy của Tiếng Pháp chăng ? Nhưng người có tác phong rất Tây ấy lại là người Việt Nam đánh Tây cấp… đại tướng. Nếu cứ xét, cứ nhìn theo “con mắt giai cấp” thì ông Gíap là người có vấn đề. Và buồn thay, người ta đã lợi dụng sự ngu ngơ này của số đông để có lần, ở Đại hội Đảng lần thứ 6, tung ra tin “ông Gíap là con nuôi của một tên thực dân Pháp”!

Về tướng Gíap, tôi cũng có nhận xét, thử nêu ra để bạn đọc tham khảo: Ông Gíap “có đóng góp riêng cho môn ngôn ngữ học”! Tôi nghĩ vậy. Ông đã biến một danh từ chung của Việt Nam thành một danh từ riêng. Hiển nhiên là ở Việt Nam, nếu một ai đó nói: Tôi vừa được gặp đại tướng, thì người ta hiểu rằng người đó vừa được gặp ông Võ Nguyên Gíap, chứ không ai lại hiểu rằng anh ta vừa khoe được gặp ông Lê Đức Anh, ông Mai Chí Thọ, ông Lê Hồng Anh… mặc dù các ông ấy đều là đại tướng. “Đại tướng” từ một danh từ chung, đã trở thành một danh từ riêng trong ngôn ngữ của người Việt đương đại, chỉ để dành cho Võ Nguyên Gíap. Những ý kiến cho rằng, phải phong cho ông Gíap là Nguyên soái chỉ là những suy nghĩ chưa chín. Chỉ có nhân dân mới là người sáng suốt nhất khi đã biến một danh từ chung thành một danh từ riêng: “Đại Tướng”. Với người Pháp thì danh từ riêng “Điện Biên Phủ” lại được người ta biến thành một động từ chỉ hành động “đánh mạnh”, “đánh thật mạnh”, “đánh cho không còn mảnh giáp” v.v. và v.v. Danh từ Điện Biên Phủ biến thành động từ “dienbienphuer”. Cái đuôi“er” của Tiếng Pháp gắn vào chữ Điện-Biên-Phủ viết liền trở thành “đánh mạnh”! Nếu một vị sĩ quan Pháp ra lệnh: - Dienbienphuer, có nghĩa là… tấn công mãnh liệt vào đối phương ! Có lẽ chính vì thế mà nhân kỷ niệm 50 năm chiến dịch Điện Biên Phủ, ở Paris đã có một cuộc hội thảo lớn, có mời nhiều nhà sử học, quân sự, ngoại giao tên tuổi từ nhiều nước đến dự. Cuộc hội thảo đó có tên là “chia sẻ hồi ức Điện Biên Phủ”. Người Pháp có mời Việt Nam. Nhưng tôi xem trong danh sách đi dự cuộc hội thảo năm đó ở Paris (2004) của Việt Nam thì toàn là những nhân vật “vô danh tiểu tốt”, và …không có Đại tướng !

L.P.K.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Lí do để sống


1

Giữa đám đông đang nở ra ngàn ngạt người, gã đứng im lặng, vừa như dửng dưng vừa bối rối vì thấy mình thừa thãi.
Đôi chân trên mặt đất như hai cái cây gầy khẳng, không gió và khắc khổ.
Trong đám tang, gã lạc ra như đứa trẻ không thuộc một nhóm chơi nào, không cười không nói, không biết lộ vẻ buồn đau. Cả trong nỗi buồn đi đưa tiễn một người, người ta cũng cần có nhóm. Không dễ gì sống và biểu lộ cảm xúc của mình thuần giản như một niềm yêu mến.
Gió thổi qua tai nhẹ như một nụ cười, một hơi sương, một tiếng nói vừa vỡ ra. Những tiếng nói ly biệt chỉ là một đảo ngược, một cái bóng của niềm vui gặp gỡ.
Gã thấy phơ phất cái miệng cười của Thần Chết, với chính gã. Tay Thần Chết này chuyên đến các đám tang để đi săn những người mơ, nên chỉ những người mơ mới nghe được tiếng nói của hắn.
Thần Chết nói, chỉ có giấc mơ là đáng kể.
Vậy là gã không còn Người Bảo Trợ. Nhà thơ ra đi bất ngờ khi chưa kịp viết lời giới thiệu cho tập thơ đầu tay trong tương lai của gã. Mà nếu không có lời giới thiệu ấy, gã cảm thấy tập thơ trở nên xoàng xĩnh, vô vị, nhất là dễ dàng chìm lỉm trong hàng vạn tập thơ khác.
Cái đầu gã bay bay.
2
Nụ cười của tử thần
bằng miệng
bằng mắt
nếu quay nghiêng trong ánh sáng
một loang loáng nắng hoen
Cái chết nào có đáng gì, Thần Chết nói, nhà thơ là ai? Đó là kẻ rộn ràng trong đám đông, ríu rít như con chim chích chòe chỉ để tự vệ. Đó là kẻ sợ đám đông như sợ một cơn lũ cuốn. Đó là kẻ ngồi rũ mỏi, một mình, mắt vô hồn. Đó là kẻ xa lạ hoàn toàn với tất cả cái đời sống thường nhật đang bày ra kia. Đó là kẻ nhận lấy sự bất động trong cỗ áo quan không một hối tiếc vì số phận. Đó là kẻ chỉ tìm cuộc sống thực sự của mình dưới những trang giấy. Cậu phải vật lộn với đời sống để giữ được giấc mơ, vậy thì tại sao không chết đi? Đó là lí do duy nhất để ta săn cậu lúc này.
Sao ông không đợi đến khi tôi thành danh?
Nhạt hoét. Như với nhà thơ mà cậu yêu mến này, khi ông ta đã nổi tiếng, đã là nhà thơ lớn, các giấc mơ cũng không còn đáng kể lắm đâu. Ta để ông ấy chết, là vì chính ta cũng vì yêu mến quá mà muốn giấc mơ thi sĩ của ông ta thành sự thực. Nhưng khi thành rồi, thì đâu còn là giấc mơ nữa?
3
Những ngón tay di qua di lại trên tấm kính của bàn café. Có bóng con chim lộn nhào vào đám lá rụng theo gió. Giấc mơ nào buồn nhất trong đời? Rồi người ta cũng phải quên các giấc mơ đi?
Trên tấm cửa kính của quán café, thấy mờ mờ hình ảnh gã vò chiếc đầu như vò một búi cỏ. Trên búi cỏ đó, cái miệng của Thần Chết mỉm cười.
4
Những giấc mơ bị quên nhưng người trong giấc mơ vẫn loanh quanh đâu đó.
Gã khiêm nhường cúi chào nhà thơ mà gã yêu mến. Ông cười ha hả.
Gã nhìn bâng quơ để giấu sự bối rối.
Con nhện non buông tơ xanh lủng lẳng đu mình. Đó là tín hiệu của may mắn, Thần Chết nói.
Một con chó đi tơ để rong máu trên nền gạch vỉa hè bên ngoài. Những vệt máu sẫm màu lại thật nhanh. Đó lại là điềm báo, Thần Chết nói.
Nhà thơ cười ha hả và đi ra.
Tiếng nói của nhà thơ vọng lại: Tôi chết rồi, ai người ta còn cần coi trọng lời một người đã chết? Tôi không thể là Người Bảo Trợ cho cậu nữa, hiểu không? Chỉ có một cách: cậu đi cùng tôi, ngay bây giờ, thì người ta sẽ còn nhắc nhỏm đến cậu.
Thần Chết nói, tin ta đi, chỉ có giấc mơ là đáng kể. Hãy giữ gìn nó. Nếu cậu sống mà chẳng giữ được giấc mơ, thì đó chính là lí do để đi theo ta.
5
Gã thấy mình cố sức leo lên một cái cột nhà, bám vào trần như một con nhện hay con chuột bị truy đuổi run rẩy cố bám móng chân của mình vào và treo ngược mình trên đó. Lập tức, lũ thạch sùng cất tiếng cười nhạo báng vì cái vẻ cố sức tội nghiệp của gã, một cố sức để không chết.
Thần Chết đang ném ánh mắt tinh nghịch về phía gã.
Cơn sốt lên hầm hập. Gã sợ sệt. Gã muốn nổ tung. Muốn chối bỏ. Không, gã thề với Thần Chết, tôi chẳng có giấc mơ nào, chẳng có tham vọng nào.
Những vệt mần đỏ đang nổi mỗi lúc một dày đặc trên cơ thể gã. Thần Chết nói, những giấc mơ đang phát sốt.
Không, gã thét lên, ông là kẻ giả dối lừa bịp, ông đi săn người mơ, và ông đẩy tôi vào tình thế của giấc mơ bất lực. Ông tưởng tôi yếu đuối.
Không, Thần Chết nói, sống làm gì trên mặt đất, chỉ có giấc mơ là đáng kể, hãy tin ta.
Gã nghe tiếng nói của nhà thơ – Người Bảo Trợ phản trắc vì cái chết: Đúng thế đó, chỉ có giấc mơ là đáng kể. Cả đời ta chẳng còn gì. Cái tưởng là còn lại, là ngôn từ, cũng chẳng còn. Thực tế, chỉ còn lại một giấc mơ dài về ngôn từ mà thôi.
Không, gã nói, tôi còn muốn sống. Tôi còn muốn đi tìm cuộc sống.
6
Những cái chết đều vô lí, mọi cái chết đều vô lí theo một cách nào đó dù nó là không thể khác.
Từ quán café, gã đứng lên, trúng gió rồi chết, khi chưa kịp để lại một tác phẩm để đời nào. Sau này, tất cả gia tài thơ ca của gã người ta tìm được chỉ là những bản nháp, những bản nháp mụ mị và bốc mùi phân chuột, phân gián, những bản nháp của một giấc mơ bị bỏ quên.
7
Đêm hư không và mênh mông. Lang thang cùng Thần Chết, kẻ săn người mơ, lần đầu tiên, gã cảm thấy ý nghĩa của việc ngắm nhìn người sống sau khi chết. Gã đã thành người bạn đồng hành của Thần Chết.
Cậu thấy chưa, Thần Chết nói, đôi khi người ta vẫn nhắc về cậu như một thiên tài không may ra đi quá sớm, khi muốn điểm lại lịch sử văn học. Người ta đã gom những bản thảo nhàu nát của cậu để in một tập thơ trang trọng và tiếc nuối. Có những người đang nghiên cứu về cậu. Đó, cái còn lại của cậu, chính là một giấc mơ chưa thành. Đó cũng là điều ý nghĩa nhất cậu làm được trong đời sống.
Giả sử không chết vì trúng gió, có lẽ một đêm nào đó, gã cũng bật dậy, lao đi tìm một gương mặt trong mơ đi theo một câu chuyện trong mơ một tiếng gọi một chỉ dẫn của một cái gì vô hình.
Cái chết nào có đáng gì.
Thần Chết nói, tiếc rằng đã quá lâu rồi chúng ta chẳng săn được giấc mơ nào đáng kể cả.
12.06.07 – 26.05.2010

N.T
Phần nhận xét hiển thị trên trang

KẺ SĨ XƯA VÀ NAY: NỖI CÔ ĐƠN TRIỀN MIÊN


Nguyễn Quang Thân

Văn hóa bao giờ cũng chuyển mình rất chậm, qua chọn lọc lâu dài của thời gian, không như giá trị vật chất hay kỹ thuật. Văn hóa là những gì còn được ghi nhớ sau bao thứ bị con người quên đi, nó giống như hạt ngọc còn lại trong con lòng con trai ngọc sau khi cái xác trai thối rữa tan biến thành cát bụi trooi theo dòng nước. Khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà, sĩ phu Bắc Hà” là một trong những hạt ngọc khá độc đáo còn lại trong văn hóa Việt.
Kẻ sĩ Bắc Hà được nhắc tới và nói đến nhiều có lẽ từ thời Lê Mạt nhiễu nhương, tiếp đến là Trịnh Nguyễn phân tranh rạch đôi sơn hà Nam – Bắc và sau đó là triều đại Quang trung Nguyễn Huệ chói lòa rồi tắt nhanh như sấm sét. Chưa bao giờ đất nước và lòng người bị chia rẽ, phân tâm như thời ấy. Dân chúng lầm than đói khổ, nông dân khởi nghĩa và giặc giã nổi như rươi, kỷ cương rối loạn, văn hóa suy đồi. Hào quang khí phách Chu Văn An nhiều trăm năm trước vẫn le lói trong tâm thức kẻ sĩ. Khác hẳn với xã tắc trước đây là một mối “vững âu vàng”, từ thời thịnh Trần, sau đó là cuộc khởi nghĩa Lam Sơn tạo dựng một triều vua có thể nói là thịnh trị nhất trong lịch sử. Kẻ sĩ từ Lý Thường Kiệt đến Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Đặng Dung và bao sĩ phu khác hầu như chỉ có một con đường để chọn là đuổi giặc xâm lược phương Bắc, cứu dân, cứu nước. Chưa có “Nam Hà” nên cũng chưa ai nói tới “sĩ phu Bắc Hà”.
Nhưng từ Nguyễn Bỉnh Khiêm và sau đó khá lâu là Nguyễn Thiếp, giới sĩ phu đã vấp phải trước mắt mình những ngã ba đường khắc nghiệt của lịch sử. Vốn được nuôi dưỡng bằng bầu sữa Nho giáo hàng trăm năm với tinh thần trung quân miễn bàn, họ bỗng choáng ngợp trước quá nhiều ông vua để thờ, nhiều triều vua để chọn. Khi khuyên Nguyễn Hoàng vào Nam “vạn đại dung thân”, Trạng Trình đã đánh dấu một giai đoạn lịch sử mới. Một đất nước đang tan rã, đang phân liệt và kẻ sĩ vốn chỉ biết có nhà Lê đang tự hỏi mình về tính chính thống còn hay mất? Trong cuồng phong loạn ly với những cơn xoáy mãnh liệt, nhân cách con người và trước hết là của giới tinh hoa có học được hình thành. Nhà thơ Aragon rất có lý khi viết câu thơ: “ Khi tấm kính nhân dân bị che mờ thì mặt người soi vào càng thấy rõ”. Kẻ sĩ được đặt trước những nan vấn đụng chạm đến cả đức tin đạo Nho khi cung Vua phủ Chúa tràn ngập rác rưởi, dâm loạn và thối nát. Những Thị Huệ, Đặng Mậu Lân hay Huy quận công chà đạp lên nhân phẩm của một xã hội từng có kỷ cương đang rữa nát. Kẻ sĩ – người có học, được coi là lương tri của thời đại không thể không tự dằn vặt là mình đang buộc phải “trung” với loại vua nào, chúa nào. Nhưng chữ nghĩa và đạo đức thánh hiền cùng tính cách học trò thừa bạc nhược, không cho phép họ hành động, không cho họ làm những gì họ nghĩ, họ muốn làm. Mấy ai được như Nguyễn Hoàng dứt áo ly khai? Mấy ai được như Nguyễn Hữu Cầu, bỏ văn lấy võ với khát vọng san bằng bất công, sắp xếp lại giang sơn? Hay như Lý Trần Quán tự chôn sống mình để bảo toàn khí tiết?
Cặp bài trùng bạn đồng môn Phạm Đình Trọng – Nguyễn Hữu Cầu (Quận He) thời Lê Trịnh và Thần Siêu – Thánh Quát thời Minh Mạng cũng như mối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng thiên tài Nguyễn Du, cục máu đông không thể tan, với hàng chục năm lận đận tìm đường chống Tây Sơn, tỏ lòng trung với nhà Lê đã bộc lộ hết sức rõ ràng sự giàng xé tâm can kẻ sĩ Bắc Hà đương thời. Những kẻ sĩ khí phách như Nguyễn Hữu Cầu vứt đường công danh làm giặc, như Cao Bá Quát, thiên tài thi ca vẫn ước ao “Ngã dục đăng cao/Hạo ca ký vân thủy” (Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất/Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước...), dám cầm gươm nổi loạn để kết thúc cuộc đời trên chiến trường. Hay như Nguyễn Du bảo hoàng hơn cả vua, ôm mối trung quân,  muốn “làm giặc” chống “giặc Tây Sơn” tuy cầm gươm không nên cơm cháo gì, nhưng cây bút lông của ông đã viết trọn những trang huy hoàng nhất của văn thơ nước Việt. Dù có người làm “giặc” nhưng ngay cả người đương thời vẫn coi họ là “kẻ sĩ”, có nhân cách lớn của “kẻ sĩ”.
Nhưng kẻ sĩ Bắc Hà không chỉ làm giặc. Một số lớn bị quan niệm bảo hoàng và cả nợ áo cơm trói buộc, bị giằng xé đau đớn suốt cuộc đời trong nỗi cô đơn. Nguyễn Siêu không đủ gan làm giặc nhưng mang tâm trạng u uất, bất lực, đành để tâm trau giồi văn thơ cứu lấy tinh hoa văn hóa, chỉ còn biết “tả thanh thiên” (viết lên trời xanh) đối thoại với trời xanh những điều không thể viết thành chữ thành lời. Hay Nguyễn Công Trứ, nhà thơ lớn của dân tộc, có cái ngông, cái phản kháng trong bản chất, một nhân cách độc đáo của kẻ sĩ, tuy bảy nổi ba chìm trong hoạn lộ nhưng vẫn không dứt được tấm áo xanh quan văn và cả cân đai quan võ, không thể thoát ra khỏi sức hút của bộ máy quyền lực mà trong thâm tâm ông khinh ghét. Và mãi tới sau này, khi triều Nguyễn đã ổn định trong cái ô “bảo hộ” của thực dân Pháp, khi nước đã mất không tìm thấy ngày mai, những kẻ sĩ Bắc Hà như Nguyễn Khuyến, Tú Xương vẫn có cái tài ấy, cái ngông, cái phản kháng, cái thâm nho ấy, nhưng chi còn biết giữ được nhân cách kẻ sĩ bằng cách trút tâm sự vào những vần thơ trào lộng để đời mà thôi.
Một số kẻ sĩ lại có cách xuất xử khác thường. Trong làn sóng ngầm dữ dội và quyết liệt chống Quang Trung ở Bắc Hà với Lý Trần Quán, Trần Phương Bình, Nguyễn Hành, Phạm Thái, Bùi Dương Lịch, kể cả Nguyễn Du…thì một số sĩ phu Bắc Hà như
Ngô Thì Nhậm (1746 - 1802) , Phan Huy Ích (1751 - l822) , Nguyễn Thế Lịch (1748 - 1817), Vũ Huy Tấn (1749 - 1800) cùng nhiều người khác, tự nguyện và cũng rất hồ hởi ra trình diện và cộng tác với triều Tây Sơn mà có vẻ như không hề có mặc cảm “thờ hai vua”. Họ rất được nhà vua áo vải trọng dụng. Sau khi Gia Long lên ngôi, họ bị làm nhục, trả thù tàn nhẫn. Nhưng sau đó, con cháu họ như Phan Huy Chú, Phan Huy Vịnh ( con và cháu Phan Huy Ích) lại cộng tác và làm quan to với nhà Nguyễn, như quên mối thù xưa và khí phách kẻ sĩ. Thực ra, đây là một đặc điểm của kẻ sĩ Bắc Hà. Những người này có thể bị đời sau cho là “cơ hội”, “sọc dưa”. Nhưng họ là những đại sĩ phu, học rộng tài cao. Họ chỉ đơn giản tranh thủ cơ hội để được đưa cái sở học của mình ra gìn giữ ngôi đền văn hóa nước nhà vì họ là kẻ sĩ. Nếu không thế làm sao đời sau có được 28 tập Lịch triều hiến chương loại chí và bài dịch Tỳ bà Hành bất hủ?
Từ Nguyễn Hữu Cầu, Cao Bá Quát đến Phan Huy Ích, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Công Trứ cho tới Nguyễn Khuyến, Tú Xương và sau nữa là Tản Đà…mỗi người một vẻ, kẻ sĩ Bắc Hà khác nhau rất nhiều về cách xuất xử, về hành vi cũng như tính cách cá nhân, thậm chí đối lập như nước với lửa. Nhưng chính khối mâu thuẫn ấy đã tạo nên một viên ngọc văn hóa, đó là nhân cách “kẻ sĩ Bắc Hà” với tính cách thâm thúy, học rộng tài cao, có sở hữu chung là cái ngông, cái thâm nho, có minh triết lẫn tù mù trí tuệ, tuy mỗi người biểu hiện những tính cách đó khác nhau, thậm chí trời vực. Có số ít kẻ sĩ dấn thân thà chết không chịu nhục, bên cạnh đó cũng không ít người chấp nhận sống cảnh hàn nho, coi trời bằng vung nhưng luôn “mong được vua yêu”( Mười mấy năm qua ấn với thao/Thân này mong được đức vua yêu – Nguyễn Khuyến), nói là hèn nhát trước đòi hỏi của thời cuộc cũng không oan.
Tuy thế, qua văn thơ, giai thoại, hành vi, họ đã tạo ra được một khái niệm văn hóa trường tồn cùng lịch sử, đó là khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà” với tất cả các mặt đối lập hay dở phong phú để hậu thế có thể tranh cãi, bình luận thậm chí chế riễu và chiêm nghiệm học hỏi.
Có người nói rằng “kẻ sĩ Bắc Hà” đã chết. Chết với cảnh đầu rơi máu chảy của thi hào họ Cao, với chiếc roi tẩm thuốc độc của Đặng Trần Thường, cái nhẫn nhịn “mấy năm làm quan không nói một lời tâu vua” của Nguyễn Du, cuộc đời ưu thời mẫn thế, luôn bất mãn nhưng bất lực của Nguyễn Khuyến, Tú Xương…
Thực ra không hẳn thế. Khái niệm “kẻ sĩ Bắc Hà” xưa đã trở thành truyền thống kẻ sĩ. Bất mãn, phản biện và phản kháng để giữ nhân cách (tu thân) và sau đó là thay đổi hay uốn nắn thời cuộc (bình thiên hạ) theo những nguyên lý truyền thống họ được giáo dục và truyền đạt là đặc điểm của trí thức mọi thời chứ không riêng gì kẻ sĩ Bắc Hà. Dù mang nhiều mặt đối lập, dù là một khối mâu thuẫn lớn, dù khí phách lẫn hèn nhát, truyền thống kẻ sĩ vẫn là một điểm son, một hạt ngọc có ảnh hưởng tích cực là chủ yếu trong tâm thức văn hóa Việt.
Thế kỷ hai mươi, “khi tấm kính của nhân dân bị che mờ”, nước mất nhà tan hay kẻ thù mang gươm súng trở lại hòng “đô hộ nước ta một lần nữa”, chắc chắn lịch sử sẽ không quên một lớp kẻ sĩ (không chỉ Bắc hà) đã thật sự phát sáng trên con đường cứu dân cứu nước. Tuyệt đại đa số trí thức hàng đầu, hậu duệ của tầng lớp kẻ sĩ ưu thời mẫn thế dù đã phiêu bạt nước ngoài hay còn ở lại trong nước đã tự nguyện hiến dâng cho đại nghĩa dân tộc. Đó là lớp “sĩ phu” Tây học nhưng còn khá đậm tinh thần Nho giáo, dù mác-xít hay không, vẫn chấp nhận hy sinh mọi thứ để đứng dưới cờ kháng chiến như Hồ Đắc Di, Tạ Quang Bửu, Hoàng Xuân Hãn, Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Văn Huyên, Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Khắc Viện…Lớp kẻ sĩ thời đó, như ta biết về sau này, tuy bị ảnh hưởng sâu đậm của trí thức phương Tây ở thế kỷ ánh sáng như Voltaire, Diderot nhưng vẫn mang đầy đủ tính cách “kẻ sĩ” truyền thống, vẫn “ngông”, vẫn có bản chất phản biện và tính cách mạnh mẽ do hấp thụ hoặc sống nhiều năm trong xã hội phương Tây. Nhưng họ đã từ bỏ bản thân mình, kể cả cuộc đời vật chất lầu son gác tía để đi theo và cố gắng thích nghi với kháng chiến. Sự hy sinh ấy không phải là nhỏ nhưng niềm tin vào cuộc hồi sinh của dân tộc đã làm họ lạc quan, thúc đẩy họ luôn hướng về phía trước. Nhà thần học Nguyễn Khắc Dương nhớ lại : “Anh (Tạ Quang Bửu) đưa mắt nhìn quanh anh em rồi trầm giọng xuống  nói rằng : “Anh rất thương các em, con đường học vấn của các em thế là dang dở. Rồi đây một số trong các em sẽ phải lên đường với một hành trang chưa đầy đủ như lớp các anh, dù sao cũng tạm gọi là một phần nào thành đạt. Trong các em rồi nhiều kẻ sẽ bị hy sinh dù là dưới dạng nào trên nẻo đường nào. Nhưng các em cứ mạnh dạn đi theo con đường của mình và nên biết những biến chuyển lớn lao của lịch sử bao giờ cũng đòi hỏi rất nhiều hy sinh dưới rất nhiều dạng. Và dù hy sinh dưới dạng nào (có khi những dạng đối nghịch nhau) thì những hy sinh của các em cũng trực tiếp hay gián tiếp góp phần vào sự nghiệp xây dựng tương lai”. ( Trích trong cuốn Thầy Nghệ - NXB Hà Nội). Ta thấy rõ, sự giải phóng cá nhân từ văn hóa phương Tây trong tâm thức lớp kẻ sĩ thế kỷ hai mươi như dòng sông lớn hòa tan, làm nhạt dần chất “kẻ sĩ Bắc Hà” mà chúng ta hằng biết.
Sau thắng lợi vang dội thống nhất đất nước cũng như những sai lầm của quá khứ trước đổi mới, sau những thành tựu lớn lao về kinh tế sau 20 năm chuyển mình sang kinh tế thị trường, đất nước đang hiện hữu một xã hội có quá nhiều vấn nạn. Nhiều sự thật đáng buồn đang diễn ra trước mắt nhân dân. Bên ngoài lũ bành trướng lăm le nuốt trọn biển Đông và các quần đảo cha ông để lại cho chúng ta, bên trong nạn tham nhũng hoành hoành và cái hố giàu nghèo được khoét sâu và mở rộng chưa từng có. Đó là nguồn gốc của tội ác đang xẩy ra mỗi ngày được “nâng cấp”, được trưởng ác dần lên, của tình trạng đạo đức truyền thống đang suy đồi, giáo dục bế tắc, có thể nói là khủng hoảng, văn hóa đặc biệt là văn học nghệ thuật đang xuống cấp nghiêm trọng. Tất cả đều làm mọi người lo lắng. Thất phu hữu trách nhưng trước hết là trí thức, những người có học đang phải đối mặt với vấn nạn. Dấn thân luôn nằm trong bản chất của họ.
Kẻ sĩ thời nay đã có sẵn trong máu truyền thống kẻ sĩ thời Nho giáo thịnh hành hay từ lớp cha anh Tây học vừa khuất bóng chưa bao lâu. Cái sở học của họ không như cha ông. Họ đang sống trong một thế giới hòa nhập, đặc biệt là xa lộ internet và có thể không sợ vô lễ khi cho rằng họ học cao tài rộng hơn cha anh ( đương nhiên với sự phát triển của thế giới văn minh), tính độc lập suy nghĩ và chất phản biện vốn có sẵn trong con người kẻ sĩ mọi thời đại cũng mạnh mẽ hơn nhiều. Bởi vì chất Nho giáo chưa hề tồn tại hoặc nếu có ( những người xuất thân gia đình nho giáo) thì cũng đã nhạt nhòa.
Nhưng kẻ sĩ thời nay như ta quen nghĩ về họ đã làm được gì, đã xuất xử thế nào? Rõ ràng là họ chưa làm được gì nhiều. Bởi vì, trước hết nếu không nói là duy nhất, kẻ sĩ thời nay cũng không may mắn hơn kẻ sĩ thời xưa là không có được một cơ chế, một môi trường phản biện lành mạnh để họ có điều kiện giúp dân giúp nước. Thời xưa đàn hặc, viết sớ, tâu trình vua không nghe hoặc may ra trăm lần mới có một lần nghe. Nỗi đau không chỉ riêng của Chu Văn An, thật điển hình. Kẻ sĩ mặc nhiên rơi vào một nỗi cô đơn triền miên. Người lạc vào hẽm núi, kêu cứu vẫn còn có thể nghe được tiếng vọng. Nhưng kẻ sĩ bày tỏ tâm can thậm chí cũng không nghe thấy tiếng dội của lòng mình, còn hy vọng gì mắt xanh của vua. Nay cũng không khác lắm ngày xưa. Nhiều kiến nghị tâm huyết đã bị rơi xuống cái vực "im lặng đáng sợ"!
Không ít kẻ sĩ nản chí đầu hàng vì không chịu nổi sự cô đơn. Thói quen thụ động và nhút nhát dẫn tới dễ dàng chấp nhận vô điều kiện mọi thứ gọi là chính thống. Có người coi Trời bằng vung nhưng vẫn có kẻ coi vung bằng Trời.
Dù vậy, kẻ sĩ chưa chết. Tinh thần và khí phách của kẻ sĩ Bắc Hà chưa chết và sẽ không chết. Roi tẩm thuốc độc của Đặng Trần Thường chỉ giết được thể xác một Ngô Thời nhiệm chứ không nhục mạ được tinh thần kẻ sĩ. Hơn bao giờ hết, trên con đường dẫn tới một Việt nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh, xã hội vẫn cần một tinh thần phản biện kẻ sĩ, khí phách không nhân lượng với cái ác của kẻ sĩ. Không thể tưởng tượng được một xã hội không còn kẻ sĩ dù trong số họ hoặc trong mỗi người không phải bao giờ cũng loại trừ được những cái dở, cái hèn, cái bàng quan.
Cô đơn luôn đồng hành một cách tự nhiên với những người nhìn thấy trước và mạnh dạn bước lên trước thời đại. Có câu nói: “Nguy hiểm nhất là người chỉ đọc một cuốn sách”. Nhưng còn nguy hiểm hơn là những người được giao trọng trách trong xã hội, dắt dẫn dân chúng mà chưa từng đọc một cuốn sách. Vì thế, kẻ sĩ luôn vẫn là nguyên khí của mọi thời.

Phần nhận xét hiển thị trên trang