Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2013

10 đồng tiền rẻ nhất thế giới



10 đồng tiền đẹp nhất thế giới

Đồng tiền của Pháp mô phỏng bức tranh đầy màu sắc về cây cỏ, đất đai và cư dân bản địa, trong khi tiền giấy Nam Phi hiển thị 5 loại động vật có sức mạnh và kích thước to lớn.
Những đồng xu giá trị bèo bọt nhất thế giới
Những đồng xu triệu đô trên thế giới
tien1o-1362151904_500x0.jpg
Đôla Australia
Australia từng là quốc gia đầu tiên trên thế giới có tất cả các mệnh giá làm từ plastic, giúp hạn chế tiền giả.
tien2o-1362151904_500x0.jpg
Tiền pound Ai Cập
Mệnh giá của các loại tiền giấy Ai Cập có hình dáng và kích cỡ khác nhau. Trên đó có các họa tiết được khắc mờ và dát mỏng kim loại trên tiền giấy nhằm nâng cao tính bảo mật.
Ai Cập không có chuẩn quy định về tiền tệ cho đến năm 1834. Thực tế, vào năm 1834, tiền pound Ai Cập đã trở thành tiền tệ của nước này để thay thế cho đồng xu.
tien3o-1362151904_500x0.jpg
Tiền tệ France Pháp
Tiền giấy có nhiều màu sắc và cây cỏ là đặc điểm để mô tả đất đai và cư dân bản địa ở đây.
tien4o-1362151904_500x0.jpg
Maldives Rufiyaa
Quốc gia Maldives có trên 1.100 hòn đảo nằm ở Ấn Độ Dương. Tiền giấy rufiyaa với đầy màu sắc. Mỗi tờ tiền giấy mô tả những hàng dừa và một loại thuyền thường được sử dụng để di chuyển từ hòn đảo này sang hòn đảo khác.
tien5o-1362151904_500x0.jpg
Franc Thụy Sĩ
Mỗi tờ tiền giấy Franc Thụy Sĩ đều mang sắc thái khác nhau. Các tính năng bảo mật gồm có "hiệu ứng độ nghiêng”, cho phép ảnh chân dung được khắc mờ chỉ có thể nhìn thấy ở một góc đặc biệt.
tien6o-1362151904_500x0.jpg
Đôla Hong Kong
Tiền giấy của Hong Kong có nhiều màu sắc rực rỡ và bằng polymer. Các loại tiền gồm có 8 tính năng bảo mật, hầu hết trong số đó đều có thể nhìn thấy bằng mắt thường.
tien7o-1362151905_500x0.jpg
Rand Nam Phi
Các loại tiền giấy của Nam Phi có thể hiện 5 động vật thuộc loại sức mạnh và kích thước to lớn ở quốc gia này, trong đó bao gồm sư tử và voi.
tien8o-1362151905_500x0.jpg
Tiền Lempira của Honduras
Tiền giấy lempira của Honduras được đặt tên sau khi có một nhân vật xuất hiện vào thế kỷ 16 đã đứng lên lãnh đạo khởi nghĩa chống lại thực dân Tây Ban Nha.
tien9o-1362151905_500x0.jpg
Đôla New Zealand
New Zealand đã thông qua việc sử dụng tiền giấy polymer. Gần đây, tiền giấy đã được thiết kế lại toàn bộ với mục đích phản ánh sự khác biệt về khía cạnh văn hóa của đất nước này. Tiền giấy có trị giá 10 đôla New Zealand như trong hình, bao gồm hình ảnh một con vịt màu xanh có nguy cơ bị tuyệt chủng.
tien10o-1362151905_500x0.jpg
Đôla Canada
Canada là quốc gia mới nhất trong việc phát hành tiền giấy polymer. Tuy nhiên, theo Toronto Star, các loại tiền giấy sẽ bị co lại nếu chúng chịu sức nóng.
Mai Phương (theo Huffingtonpost)
 


Bằng cách so sánh giá trị quy đổi của một đồng tiền ra bảng Anh, Telegraph cho rằng tiền Việt có giá thấp nhất khi 33.000 đồng mới đổi được một bảng.

  

Theo Telegraph, một xu (Anh) ngày nay chẳng mua được gì nhưng vẫn có giá hơn đồng tiền Việt Nam. Nếu đổi ngang, khoảng 33.000 đồng mới bằng một bảng Anh (1,54 USD).
Xếp sau đó là đồng rupiah của Indonesia. Một bảng Anh đổi được 15.300 rupiah.

Xếp sau đó là đồng rupiah của Indonesia. Một bảng Anh đổi được 15.300 rupiah.

Giữ vị trí thứ 3 là tiền Columbia, 2.880 peso cho một bảng.


Tiền của Tazanian có giá hơn một chút so với Columbia. Mỗi bảng Anh có giá 2.500 shilling.

Một bảng Anh tương đương 1.730 won (đơn vị tiền của Hàn Quốc)



 Tiền của Chile, 760 peso đổi một bảng.

Có giá trị gần gấp đôi peso Chile, tiền forint của Hungary được đổi với tỷ giá 350 đồng cho một bảng.

Rupee của Pakistan có tỷ giá 152 đồng ăn một bảng.

Bạn cần 135 shilling Kenya để đổi lấy một bản 

Trong danh sách của Telegraph, tiền yen của Nhật là đồng có giá trị nhất so với bảng Anh, 126 yen tương đương một bảng 

                                                                                               St :  VnExpress
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Xem phim Tàu, nghĩ ý Ta:


Sau mỗi tập film, khi Tôn Ngộ Không chuẩn bị giơ gậy giết yêu quái thì luôn có 1 vị phật nào đó xuống nói là: "thú cưỡi của người này", "Cháu của người kia", "Con của người nọ" v.v.. Ý nghĩa: "mấy đứa làm chuyện ác toàn là con ông cháu cha".

- Trên đường đi thỉnh kinh tất cả các rắc rối điều do cái "ngu" của Đường Tăng mà ra. Ý nghĩa: mấy thằng ngu lúc nào cũng làm sếp.

- Bát Giới xu nịnh nhưng lúc nào cũng được ăn no, ngủ kỹ. Ý nghĩa: mấy thằng nịnh thường được sung sướng.

- Sa Tăng thật thà và lúc nào cũng bưng bê khuân vác, bao nhiêu việc nặng điều làm hết Ý nghĩa: thật thà thường thua thiệt.

- Tôn Ngộ Không: tài giỏi xuất chúng và bị Đường Tăng cho đeo 1 cái vòng kim cô, nhưng lúc nào cũng là thằng đầu tiên phải xông vào hang cọp cứu "sếp". Ý nghĩa: người tài luôn bị sếp kìm hãm (vòng kim cô), ko có cơ hội phát huy tài năng và gặp chuyện gì nguy hiểm gì thì cũng là thằng chịu đòn trước tiên.

- Khi lấy kinh cũng vẫn phải đút lót mới lấy được kinh thật. Ý nghĩa là cái gì mà ko có tiền thì đều ko làm dược.

st by Sao Chổi


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mùa xuân với khát vọng bình thường (Với Văn Cao)

Nguyễn Hoàng Đức 

Tình cờ, anh bạn Bùi Quang Minh mời chúng tôi đến  nhậu bình thường.
Trong một khoảnh khắc bình thường – nhưng lại mang  một số biến cố của lịch sử dồn dập đến như tiên tri và định  mệnh.
Chúng tôi gồm bốn người. Một người bạn chợt đưa ra  một chủ đề đặc biệt, khi nhắc tới bài hát “Mùa xuân đầu tiên” của Văn Cao,  bài hát được sáng tác ngay cuối năm 1975 – đất nước thống nhất và  được phát lần đầu tiên vào Xuân Bính Tí 1976 (nhưng ca khúc bị phê  bình là không đúng đường lối, không phục vụ thể chế, vì thế bản  nhạc đã bị cấm phát hành. Nhưng các chương trình Việt ngữ tại  Moskva vẫn phát bài hát, nên Mùa xuân đầu tiên đã không bị lãng  quên. Năm 2000, tức 5 năm sau khi Văn Cao mất, bài hát cùng các tác  phẩm khác của Văn Cao mới được biểu diễn trở lại).
“Mùa bình thường, mùa xuân theo én về
Mùa bình thường mùa xuân nay đã  về
Mùa xuân mơ ước ấy đã đến đầu tiên
Với khói  bay trên sông
Gà đang gáy trưa bên sông, một trưa nắng cho bao  tâm hồn.
Rồi dặt dìu mùa xuân theo én về
Người mẹ nhìn đàn  con nay đã về
Mùa xuân mơ ước ấy đang đến đầu  tiên
Nước mắt trên vai anh, giọt sưởi ấm đôi vai  anh
Niềm vui phút giây như đang long lanh.
Ôi  giờ phút yêu quê hương làm sao trong xuân vui đầu tiên.
Ôi giờ  phút trong tay anh đầu tiên một cuộc đời êm ấm.
Từ đây người  biết quê người
Từ đây người biết thương người
Từ  đây người biết yêu người…”
Đây là một bài hát khiến tôi xúc  động mỗi khi nghe lại. Tôi nghĩ, tại sao những điều bình thường và  bình dị lại rực rỡ trong mùa xuân đầy hào quang đến  vậy.
Tôi hỏi anh bạn có muốn nói gì  không?
Anh bạn nói: “Tôi ấp ủ và thao thức mỗi khi mùa  xuân đến”. Một Văn Cao, qua thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, khao khát một giấc  mộng bình thường, rất đỗi bình thường, trong nghĩa đen của  nó.

Tôi hỏi bạn, bạn ấy nói: “Tôi không thể bình luận như  một nhà phê bình âm nhạc”, nhưng đó thực sự là những điều tâm niệm  từ khi tôi cất tiếng chào đời.
Anh Minh nói: “Giai điệu thực sự mang âm hưởng của  nhạc Pháp, đầm ấm và chân thành. Tuy nhiên, một mùa xuân hơi buồn, da  diết, thương nhớ ai”.
Tôi- Nguyễn Hoàng Đức, từng nghe rất nhiều lần bài  này. Tôi thực sự cảm động. Nhưng chợt dâng lên trong hồn những điều mang  tính “nghịch lý”, tại sao trong ngày xuân trọng đại, Văn Cao lại sử  dụng cụm chữ “mùa bình thường”?!
Được biết rằng, sau gần 30 năm biệt tăm không sáng  tác một bài hát nào do từ tháng 7/ 1958, Văn Cao phải đi “học tập chính  trị” tại Tây Bắc cho đến ngày đất nước giải phóng. Tôi chợt nhận  ra, rằng: Văn Cao (con người đã vướng Nhân văn Giai phẩm), khi đất  nước “đổi đời, đổi nước, đổi mùa xuân”, mà vẫn dám hạ 3 chữ “mùa  bình thường”. Tại sao?
Người Anh có câu: “No  news is the good news” – Không có tin gì là một tin tốt lành. Rằng  chúng ta khi tỉnh dậy không có gì đột biến, nghĩa là cuộc sống vẫn  bình yên. Chúng ta vừa ngủ dậy cùng cô vợ. Cô ta dậy soi gương và  trải tóc bình thường rồi làm mọi việc giống như mọi ngày. Đó là một  việc tốt lành! Giả sử vào một buổi sáng khác, cô ta la lên:
“Ơ,  cái nốt gì trên mặt em thế này…?” Đó là một biểu hiện lo lắng  của sức khỏe. Và cũng chính là một dấu hiệu của bất  an.
Chúa trước khi bị đóng đinh trên thập giá, có nói  với các môn đệ rằng: “Thầy để lại bình an cho các con”. Có nghĩa bình an  là món quà lớn nhất Chúa muốn để lại cho mọi người. Cũng có nghĩa  là các môn đề dù phải dấn thân giữa một xã hội còn đầy bất công thì  họ vẫn còn bình an, chân vẫn còn chân, tay vẫn còn tay, đầu vẫn còn  đầu. Cuộc sống của họ vẫn còn được sống. Nhưng sự bình an Chúa hứa  không bao hàm cả việc trả
giá nếu phải dấn thân truyền đạo.  Nhưng bình an Chúa hứa mang một dự phóng vươn tới vĩnh cửu rằng ta  đã để lại hạt men bình an cho các con và muốn giữ được hạt men đấy  phải trả giá thách thức để nuôi dưỡng nó.
“Biển Thái Bình Dương  có tên là Pacific, rộng nhất và ít cồn cào nhất, đó là Thái Bình.  Nó bình an được cũng bởi vì nó rộng nhất và sâu  nhất.

Người Việt có câu “Đoản hình tức tiếng”  nghĩa là Hình bé thì tiếng the thé, còn hình lớn thì tiếng ấm êm.  “Con chó thức đêm ngủ ngày vì đêm phải trông trộm còn ngày được ngủ  yên”. Nhưng Văn Cao đã mơ ước đến một giấc mơ chưa có nghĩa rằng  trong ánh sáng chói chang nhất vẫn có những bóng đen rình rập và ám  ảnh con người. Và ông đã ước mơ buổi trưa đó là một buổi khải hoàn  bình thường như ánh sáng mà không phải
mang ác mộng như người  Trung Quốc nói “Đêm dài lắm mộng”. Như ông viết
“Một tia nắng trưa cho bao tâm  hồn”.
Giấc mộng bình thường của Văn Cao khiến chúng tô  rưng rưng cảm động và suy nghĩ. Tâm hồn ông thật rộng lớn và bất an. Nó  không khác gì chim bị bắn nhìn thấy cành nào cũng cong. Và ngay cả  ánh sáng giữa trưa hè cũng sợ phải nhìn ra ác mộng. Và giấc mơ bình  thường của ông được hát lên giữa một mùa xuân trăm hoa đua nở, vạn  vật sinh sôi, cảm thấy xa hoa làm sao. Một cái bình thường thật xa  hoa! Một giấc mơ thật bình thường dường như khó với như là lý  tưởng. Giá chúng ta được sống bình thường trong giấc mơ thái bình,  không phải lo gì về những điều vi hiến, bất hợp hiến, thiếu vắng sự  bình an khiến những người bình
thường phải nơm nớp lo  lắng.
Đó là điều chúng tôi như trùng xuống và rơi vào  thông cảm với Văn Cao. Ông là một con người rất phi thường nhưng chỉ ôm ấp  một giấc mộng bình thường như món quà Chúa để lại cho nhân gian, đó  là bình an. Một nền bình an phi bút mực nhưng được khắc dấu không  nguôi trong tâm hồn rằng: Con người ta phải biết sống công lý và  yêu thương thì mới đi đến được nền bình an đó. Sự bình thường của  ông là một bình thường ao ước. Một sự bình thường phải trả giá bằng  chính sự trải nghiệm mất mát của đời ông. Có phương ngôn rằng Không  có cái gì giá trị mà không phải trả giá. Ao ước sự bình thường của  ông liệu có giống ao ước của nhiềungười. Nếu không giống thì tại  sao nhiều thế hệ lại hát lên lời ca“bình thường” say mê như  thế???
NHĐ 21/01/2013
Tác giả gửi cho NTT blog

Phần nhận xét hiển thị trên trang

những nhà văn “khó đọc” ba miền


 Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết? Tôi không nói văn phong, vì văn phong tức là người sao thì văn vậy, là tâm tính bẩm sinh xuất phát từ hồn vía và thân thể, vấn đề ở đây là lối viết, tức có cả yếu tố tư tưởng, cái nhìn, suy tư và cả văn hóa nền, tức là ý thức xã hội và ý thức cá nhân được hòa trộn. Khó đọc hay dễ đọc chỉ là quan niệm tương đối. Và việc chọn tác giả ba miền cũng chỉ theo cảm tính cá nhân, Nguyễn Bình phương (miền Bắc), Nhật Chiêu (miền Nam), Ngô Phan Lưu (miền Trung) đơn giản chỉ là những nhà văn tôi quen biết và đọc nhiều. Bài viết này không mang tính chọn lọc, đúc kết hay đánh giá thuần chuyên môn; với tôi, có thể những văn bản văn chương này hấp dẫn vì nó đòi hỏi người đọc phải động não nắm bắt khóa mã và tham gia nắm bắt hàm nghĩa cùng nhà văn.
 I. Nguyễn Bình Phương với kiểu hiện thực lũy thừa:
Nhà văn Nguyễn Bình Phương sinh 1965, viết tiểu thuyết khá sớm: Vào Cõi (NXB Thanh Niên, 1991), Những Đứa Trẻ Chết Già (NXB Văn Học, 1994). Bẵng đi vài năm, gần đây hàng loạt tiểu thuyết ấn tượng của anh liên tục xuất bản và tái bản: Thoạt Kỳ Thủy (NXB Văn Học), Trí Nhớ Suy Tàn (NXB Thanh Niên), Người Đi Vắng (NXB Phụ Nữ), Ngồi (NXB Đà Nẵng)… Bền bỉ với thể loại mệnh danh là “cỗ máy cái”, nhà văn đầy cá tính này đã thực sự tạo thành hiện tượng tiểu thuyết đẫm không khí Kafka Việt, một lối viết huyền ảo trong dòng chảy văn chương đương đại Việt Nam. “Tôi chỉ có một nhận thức bảo thủ là cố gắng viết cho nó gần sát với quan niệm của mình về văn chương vậy thôi.” Anh tâm sự thế. Thật khó rốt ráo quan niệm văn chương của anh, tôi chỉ thử viết những nhận xét, cảm nhận phiên phiến của mình sau khi đọc các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương.
Để có được hiện thực lũy thừa lên nhiều lần, thậm chí đến mức cực thực, đến mức trở thành linh ảo, siêu linh, đối với hệ thống nhân vật trong hầu hết tiểu thuyết của mình, Nguyễn Bình phương đã tách chẻ con người thành những phần nhỏ hơn. Cách thức này thật ra không mới, nếu ai đọc áng văn cổ Tây Du Ký thì đều biết kiểu nhân vật tượng trưng cho từng phần trong con người, nhưng với Nguyễn Bình Phương thì sự tách chẻ theo trục khác, rất riêng: Nhân vật vô thức, nhân vật bóng mờ, nhân vật đang hình thành, nhân vật biến mất, nhân vật đồng thoại…, tức nhân vật con người trong con người và cả nhân vật con người ngoài con người. Tôi tạm gọi là kiểu nhân vật Nguyễn Bình Phương.
Thử khảo sát tiểu thuyết Thoạt Kỳ Thủy, NXB Văn học, 2005:
Trong tiểu thuyết có sự pha trộn giữa kịch và thơ này, ấn tượng nhất là nhân vật Tính. Tính là dạng nhân vật vô thức. Trọng thương ngay trước khi sinh ra, Tính đóng vai trò chuyển dịch, làm hiện dần cái sự chưa điên thành sẽ điên của phân nửa cộng đồng đói nghèo, u mê, lấy bạo hành làm hành vi ứng xử căn bản, (trong khi nửa kia vốn đã điên loạn, liệt tê vì chiến tranh tàn khốc). Ngay từ khi sinh ra, Tính đã không là một “nhân chi sơ tính bổn thiện”, sự “thấy trăng” đã dự báo một sinh thể nhiễm nặng âm tính: … “Vừa ra đời, Tính đã thấy trăng. Mặt trăng to bằng chiếc nong lừ lừ rọi qua vách liếp tạo thành một quầng trong suốt. Tính co rúm lại, rồi thét lên mặc dù cô đỡ quấn Tính trong chiếc khăn to, áp vào ngực mình. Tính lạnh, mắt nhắm tịt lại” (dòng 18,19,20,21,22 trang 14, dòng 1, 2 trang 15)
Dòng vô thức chắp nối, vay mượn, hướng tới hủy diệt đã cuộn lên theo nhịp sống phi nhân của Tính trong từng ngày, từng đêm; hậu quả tất yếu là sau khi Tính lần lượt đốt cháy người thầy của mình và “chọc” hết lợn trong làng rồi “quặt đầu dao, ấn mạnh vào cổ mình” tự diệt. Ông Điện hoạn là người thầy dạy Tính chọc tiết lợn đã đánh thức máu hủy diệt trong người Tính và ánh mắt con chó nhà ông Điện đã tạo ám ảnh dai dẳng “mắt chó vàng như trăng” trong suốt lộ trình vô thức, đã khắc đậm một thế giới đồng chủng, trong đó cú, chó, lợn, người đều mang thuộc tính cùng loài.
Chính ám ảnh “mắt chó vàng như trăng” cùng với sự cố con cú bị trọng thương trôi theo dòng sông là những chi tiết nhỏ nhưng sự lặp đi lặp lại của nó đủ sức gợi người đọc đến những quy chiếu, những kết nối liên tục về một nhận thức tổng quát, về một không gian đầy máu đỏ, trăng vàng và sự điên loạn mê muội.
Có thể hiểu cái tên Tính của nhân vật này theo nghĩa “yếu tính”, vậy nên ta có một chiều khảo sát khác là nhìn từ căn nguyên, từ người gieo mầm ác là cha ruột Tính. Sau cú đạp của ông Phước vào bụng bà Liên lúc mang bầu, Tính đã học được bài học bạo lực đầu tiên, ác tính đã được tiếp nhận từ bào thai và phát triển phình lớn, từ giết công cống, giết kiến đến giết lợn và giết người để rồi kết thúc chu kỳ là tự giết mình. Tức là bạo lực khai mở, khai tính, để rồi, oái oăm thay, con người quy hướng về tự ngã- phi luân lý. Mê lộ hình thành yếu tính, kỳ thực là khởi thủy của những “bất yếu tính”. [Thoạt Kỳ Thủy gợi liên tưởng đến cách giáo dục một thời của ta. Những người còn chút lương tâm lúc đó luôn trăn trở: Sao không dạy trẻ con bài toán “một bông hoa cộng một bông hoa” mà nỡ in vào sách giáo khoa những bài toán nặng nề “một cây súng cộng một cây súng”? May mà những ấu trĩ như vậy cũng qua rồi!] Và câu hỏi đặt ra: Phải chăng Thoạt Kỳ Thủy là nguồn cội tâm lý, tâm thần của một thời đại đã qua, nơi đầy rẫy những lập ngôn sáo rỗng, những giáo dục hành xử sai lệch và những ham muốn hủy diệt, tự diệt không ngừng?!
Trong tiểu thuyết Ngồi, NXB Đà Nẵng, 2006, Khẩn, Kim là những nhân vật vong thân. Con đường hình thành, biến mất Khẩn được biểu hiện một phần qua danh tính: “…”, “…n”, “…ẩn”, “…hẩn”, “Khẩn”/ “Khẩ…”, “Kh…”, “K…”. Và Kim hiện ra, biến mất bí mật bên trong Khẩn. Kim xuất hiện trong đời sống tinh thần của Khẩn như một ám ảnh tâm linh của người “Giao Chỉ”.
Cũng không hẳn thế giới của Khẩn là một thế giới phóng đãng do bị dồn nén, nó còn là biểu hiện khủng hoảng về niềm tin cuộc sống, anh ta tin vào cõi âm nhiều hơn là tin vào điều gì đó của cõi người đang sống, anh ta bất an trong một thế giới đầy rẫy những khả nghi, bê tha, giả trá và nhiều âm khí. Khẩn sống, làm việc, ứng xử miên man trong một trạng thái bần thần, như dòng 8, trang 188 có đúc kết: “Cái dáng đứng bần thần là biểu hiện cố gắng cuối cùng duy trì tư thế của một con người”, hay trong dòng 13,14,15 trang 290: “Giữa cái dòng sáng nhấp nhánh ấy những khuôn mặt hiện ra, trôi qua, lại hiện ra lớp lớp vô tận chẳng biết về đâu, cũng chẳng biết từ đâu tới”…
Một không gian lơ lửng, ảo mờ những hình ảnh nửa là người, nửa lại chưa phải của người, nghĩa là “tâm theo cảnh mà hóa”, mà tiên khởi, trùng khởi. Nó như con dao hai lưỡi “giết chết” người đọc, lấy kiến văn tri giác, mở rộng các giác quan mà tiếp cận mới mong nhập được dòng chảy ảo mờ của chốn rốn bão nội tâm “hoảng loạn” tâm thần, nhưng cũng chính kiến văn tri giác là khối trở ngại lớn lao, cứ thử đọc tiểu thuyết Ngồi một mạch, gấp sách lại, ta sẽ thấy mình rơi vào cõi tịt mù, những đại tự sự, tiểu tự sự, những giáo thuyết, cách tân, những phân tích, diễn ngôn, chẻ tư sợi tóc, phân ly, liên hội, đồng nhất hay tích hợp… đều vuột khỏi, người đọc mất khả năng câu thúc trước tình trạng khủng hoảng, cáo chung của một ẩn dụ con người- thời đại [Khẩn].
“… Tổ sư con đĩ.
cốc cốc cốc
Tổ sư. Sao lại chửi tổ sư? cốc cốc cốc cốc. Chả biết nữa. Nhưng mà rõ ràng là mình đã gặp ở đó. Nằm trên đỉnh núi hoang vu, rờn rợn mái cong ngả màu xanh đen. Mình đã lên đấy, vượt biết bao nhiêu con suối, những con suối nhỏ bé nhưng bí ẩn bởi lẽ không thể biết chúng bắt nguồn từ đâu, và mình thấy luôn luôn gai người mỗi khi ngước lên những vòm lá sẫm tối nhộm nhoạm trải bất tận trên đầu đến mức nghẹn thở…” (dòng 21,22,23,24,25,26,27 trang 197, dòng 1,2,3 trang 198)
Rõ ràng đó là loại hiện thực cực thực, những hình ảnh, ẩn dụ vừa hiện hữu như những sắc thân hư huyễn của tự nhiên vừa như những cảnh tượng niệm tưởng tịch tĩnh mà cõi tâm linh sống động của ai đó vừa phóng tâm hướng tới.
Và nữa, các trò chơi mê tín cầu cơ, bói toán, những hiện tượng bí hiểm như ma làm, như mảnh vải may áo tự dưng có, những bức hình cũ, những nhân vật khả nghi, những truyền thuyết, những truyện dân gian hoang đường, những biến mất khả nghi [Quân, Dũng]… Tất cả xoay quanh Khẩn làm cho vòng xoáy bất an càng lúc càng xiết chặt.
“Cây cột đèn bỗng nhiên cao vút lên, già cỗi, lạnh lùng, sừng sững chống lại sự trôi chảy cuồng nhiệt của dòng ánh sáng xe máy. Khẩn nhìn xuống dưới chân hy vọng tìm thấy một vật cứng để đập thử xem độ dày của cây cột nhưng không có bất cứ một viên đá nào, xác chim chết vì khí lạnh cũng không, chỉ có những vỏ bia lăn lóc lẫn với các túi nilông đựng rác…”
(dòng 4,5,6,7,8,9,10 trang 286)
Đó là hình ảnh mang tính thực trạng, ám dụ, so với cái cột đồng ở đầu quyển tiểu thuyết, cái trục này dễ làm cho người đọc dừng lại một cách hời hợt ở phần ám chỉ xã hội. Khi đọc tiểu thuyết này, tôi thầm cám ơn chi tiết Khẩn vơ chổi đuổi chuột, chính nó đã gợi nhớ lại câu chuyện thiền, trong khoảnh khắc cùng đường con chuột đã phóng ngược lại chính ngả đường đã dồn nó, trong khoảnh khắc thả lỏng và vụt lên ấy nó đã bật lên: “A! Đây rối”. Và tôi cũng đã thốt lên như vậy khi tìm ra con đường đến “hồng tâm” trong lần đọc thứ hai.
Thế giới vong thân và sa đọa trong các tiểu thuyết Thoạt Kỳ Thủy và Ngồi là loại hiện thực song song/ lũy thừa/ đa chiều được khắc họa bằng cách tách chẻ/ nghiền vụn, thậm chí trộn nhòa, nén co, làm mờ bóng, tan biến nhân vật đến có có không không. Đó là hiện thực tạp loạn, chợt ám, trôi nổi của giai đoạn quán tưởng, giai đoạn đầu tiên bước vào công án thiền, nơi đó, con người không còn đứng được nữa. Không đứng được nữa hay lùn hóa hay giam biệt hay tự diệt, cũng là ranh giới tạp niệm và xả bỏ tạp niệm. Vì Nguyễn Bình Phương đã cân nhắc công án hiện tiền đó bằng tiêu chuẩn tri thức, nên các tiểu thuyết của anh là những toàn cảnh đẫm đời, không giáo điều, lại khá quyến dụ.
 II. Nhà văn Nhật Chiêu với thể sương:
Nhà văn, dịch giả Nhật Chiêu là người Sài Gòn gốc, ông sinh năm 1951, dạy Đại học Xã hội – Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh hơn hai mươi năm qua, là tác giả của hàng trăm bài viết, biên khảo, dịch thuật, tác phẩm văn chương. Có thể liệt kê sơ bộ: 
-Con lừa vàng, Lucius Apuleius, dịch, Nxb Hậu Giang, 1987. 
-Tình trong bóng tối, Tanizaki Junichiro, dịch, Nxb Văn nghệ, 1989. 
-Tagore – người tình của cuộc đời, viết chung với Hoàng Hữu Đản, Nxb Hội nhà văn, 1991. 
-Những kiệt tác văn chương thế giới, viết chung, Nxb Thanh niên, 1991. 
-Tiếu lâm Nhật Bản, dịch, Nxb Văn hoá dân tộc, 1993. 
-Basho và thơ Haiku, biên khảo, Nxb Văn học, 1994. 
-Nhật Bản trong chiếc gương soi, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1995. 
-Tuyển tập truyện ngắn hiện đại Nhật Bản, chủ biên và dịch, 2 tập, Nxb Trẻ, 1996. 
-Đại cương văn hoá phương Đông, viết chung, Nxb Giáo dục, 1996. 
-Câu chuyện văn chương phương Đông, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1997. 
-Thơ ca Nhật Bản, biên khảo, Nxb Giáo dục, 1998. 
-Văn học Nhật Bản, biên khảo, Nxb Giáo dục, 2000. 
-Người ăn gió và quả chuông bay đi, truyện ngắn, Nxb Văn Học, 2007 
-Mưa mặt nạ, truyện ngắn, Nxb Văn Nghệ tp HCM, 2008 
-Viết tên trên nước, truyện ngắn, Nxb Thanh Niên, 2010 
-Lời tiên tri của giọt sương, truyện tuyệt ngắn, Nxb Hội Nhà Văn, 2011
Nhân đọc Lời Tiên Tri Của Giọt Sương là tập truyện tuyệt ngắn của nhà văn Nhật Chiêu vừa được xuất bản bởi NXB Hội Nhà Văn và Phương Nam book, tôi mạo muội viết chút cảm nghĩ của mình. Tôi tạm gọi thể loại này là Thể Sương trong truyện ngắn: Thứ nhất đương nhiên là vì cực hạn, thứ hai vì nó chứa một hiện thực vạn vật bình đẳng, nghĩa là Nhật Chiêu đã mang đến văn đàn một cái nhìn, góc nhìn không biên kiến, thậm chí có thể đảo chiều, phóng to, thu nhỏ, tự do đến vô cùng, nén chặt chỉ còn một, như hình soi trong một thấu kính đa diện mà với góc nhìn nào thì cái tâm nhất như của nhà Phật cũng trùm lợp, thấy cùng lúc nhiều góc độ nhưng chỉ là một. Tất nhiên con người, tính người vẫn giữ được là một sinh thể xã hội, chịu sự tương tác với các điều kiện sống.
Cái nền để giọt sương chứa đựng hiện thực này trụ được là tư tưởng Phật giáo. Nhiều người cho rằng Nhật Chiêu ảnh hưởng rặt phương Đông, tôi đọc, nhất là trong tập này, thấy rằng ông đã chọn lọc qua lăng kính của mình tất cả, không nề hà Đông Tây, không định kiến, biên kiến, thời đoạn, chủ nghĩa. Có một thiền sư đã nói rằng: “Bao lâu mồ hôi chưa đẫm ướt lưng nhà ngươi chưa thể thấy chiếc thuyền trôi ngược gió, bao lâu mồ hôi chưa đẫm hết mình mẩy đừng có mong tìm ra điện ngọc trên đầu ngọn cỏ”. Truyện tuyệt ngắn của Nhật Chiêu khi thì như một công án thiền, khi thì như một “điện ngọc trên đầu ngọn cỏ”, khi thì như trò chơi tranh ảo giác, cái này lồng trong cái kia. Nheo mắt để nhìn, dồn hết tâm lực để đọc tưởng là kiến giải được hóa ra chỉ loay hoay ngoài cửa. Gấp sách đã lâu, đang làm việc khác chợt nhớ lại, liên tưởng, suy tưởng, bất ngờ mắt sáng lên, bất ngờ dòng điện hanh thông rần rật chảy chảy tuôn tuôn trong hồn, người đọc thoát nhanh khỏi anh thị giả ngây ngô trước đó.
Lời Tiên Tri Của Giọt Sương là tập mới nhất Nhật Chiêu dụng công khai phá Thể Sương, nếu cắt nghĩa theo các khái niệm cơ bản của thi pháp lí thuyết thì đây là một dạng thức sáng tác mới lạ trong văn học hiện đại Việt Nam, nhưng bản lai diện mục của nó nằm trong kinh Phật từ xưa. Nó là cuộc trở về, cuộc LƯU LẠC TRỞ VỀ của văn chương Việt.
Thử xét một truyện như là một chấn động trong tâm tư tác giả. Truyện chỉ gồm tên truyện “Godot nói”, nội dung: “TA LÀ MỘT SÂN KHẤU TRỐNG, tự chờ đợi.” Cái liên văn bản về vở kịch phi lí Waiting for Godot của Samuel Beckett là gốc đã đành. Từ vở kịch ấy, Nhật Chiêu đã không cố ý cô lại nội dung, ông ghi ra sự chấn động lớn của chính ông trong đời sống con người, không có gì bi kịch bằng, mơ hồ bằng, lừa mị bằng nỗi chờ đợi chính mình. Godot không chờ ai cả, ngay cả Chúa (God) cũng không có cuộc hẹn nào và cũng không chờ đợi gì, Godot chờ chính mình. Chờ chưa hẳn là để gặp mà chờ để chiến thắng, chiến thắng chính mình. Theo tư tưởng Phật giáo thì đây là chiến thắng khó khăn nhất- chiến thắng Phật. Ngay cả chờ đợi sự chết cũng có yếu tố từ bên ngoài, tức khả năng gặp là có thể, còn tự chờ đợi một điều thay đổi, tiến triển lên tới được điểm gặp gỡ nơi chính mình thì thật sự là khó, phi lí, thậm chí không thể. Lúc bấy giờ, nhận thức: TA LÀ MỘT SÂN KHẤU TRỐNG là một nhận thức tự kỷ ám thị nặng nề đau xót trong bi kịch xã hội. Vượt qua diễu nhại thông thường, làn sóng chấn động đó sẽ lan sang độc giả nắm được “độc pháp”, ta buông bỏ hoặc quên đi những kiến văn ban đầu mà không hay. “Godot nói” đã thêm một chiều nữa vào “Chờ Godot”. Gấp sách, ta hoang mang hơn về cái gọi là tự “hoang đảo” chính mình.
Truyện khác: Mĩ học. “NÀNG NGƯ NỮ HỎI MỘT CON CÁ GIÀ, ta có đẹp không, nó đáp “chỉ có nửa thân dưới là đẹp, cô là một con cá đẹp phải sống với quái vật ngay trong bản thân mình” và câu nói ấy đã làm Ngư nữ chết tươi cùng với niềm đam mê vô ích.”
Biểu hiện đặc thù của quan hệ giá trị con người đối với thế giới được đặt trong cái nhìn bình đẳng mà tôi đã nêu trên. (Quan điểm kinh điển: Thẩm mỹ không tự có, nó tồn tại, sinh thành nơi con người như là một cách tư duy thế giới). Trao cho “con cá già” hay là một sinh vật khác con người sự tự biểu hiện tức thừa nhận những tình cảm thẩm mỹ khác, những lý tưởng thẩm mỹ khác, những thị hiếu và quan điểm thẩm mỹ khác, nghĩa là ý thức thẩm mỹ khác, rộng mở. Truyện đánh thức chúng ta ra khỏi giấc ngủ mà ở đó chúng ta đã quen với hơi ấm của chiếc mền được dệt bằng thói quen, chúng ta mong muốn trở về với sự công bằng, bình đẳng, tất cả đều là tiểu vũ trụ và mong muốn nắm bắt được mối quan hệ đích thực trong tự nhiên mà tư tưởng Phật giáo gọi là “đế võng”. Hoàn toàn không suy lý, những cảm thức của Nhật Chiêu trong nhóm truyện mê này muốn nhấn mạnh một quan điểm mĩ học rộng mở, Ngư nữ chết chính là cái chết quy luật của những quan điểm mĩ học chưa toàn diện.
Truyện khác: Vong. “LÀ NGƯỜI CUỐI CÙNG được phóng vào vũ trụ, anh nhìn thấy trái đất nổ tan.” Rất nhiều áng văn xưa nay nói về nỗi cô đơn nhưng xét cho cùng “mảnh đất” để quay về của những nỗi nhớ da diết, của những lạc loài đớn đau ấy vẫn còn, vẫn chưa mất, vẫn còn sợi dây bám víu, dù là mong manh như sợi khói, dù là xa ngái đến vạn dặm trùng khơi. “Vong” của Nhật Chiêu thì nỗi cô đơn đã được đẩy đến tận cùng: Vong quê hương, tức là những sợi dây cuối cùng cũng bị cắt đứt bởi cuộc “nổ tan” kinh hoàng cuối cùng. Đây là một truyện ngắn thâm hậu mà khi còn ở dạng phát thảo ban đầu, ông thường nói với tôi khi uống cà phê. Tôi nghĩ NGƯỜI CUỐI CÙNG ấy chính là biểu tượng của sự cô đơn tột cùng và nỗi tự do tột cùng. Trong cái khoảnh khắc tột cùng kia, mọi lời nói, mọi suy tư đều trở nên phi thực và chẳng mang một ý nghĩa gì. Nó như thơ mà không phải thơ. Nó ở giữa tiếng nổ của ý thức tự do và một cuộc đối mặt với thực tại biến động. Nó ở giữa cái ai cũng biết và cái chưa ai biết. Nó nhân danh con người- vừa là tác giả vừa là nạn nhân. Nó cho phép mọi suy luận liên quan đến điều này, bởi chưa từng có một kinh nghiệm trong sự mong manh đỉnh cao của thân phận con người. Không cần đến sự thăm dò, phóng chiếu này như một công án đánh thẳng tới sự “hốt ngộ”. 
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự 
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền… 
Có lẽ ai cũng nhớ mang máng hoặc thấm đẫm tiếng chuông của tinh thần thoát tục Phong Kiều Dạ Bạc này, bởi thế khi đọc truyện Vào của Nhật Chiêu, ta không thể không liên tưởng. Cái tuyệt bút của Nhật Chiêu là ông đã đặt đỉnh điểm thăng hoa của tâm trong cái đỉnh điểm thăng hoa của thân và ngược lại. Truyện Vào chỉ gói gọn trong một câu 13 từ: “Tiếng chuông nửa đêm vọng đến thuyền khi anh vào sâu trong nàng” nhưng khả năng diễn đạt bằng hình thức liên văn bản này đã vượt khỏi sự giễu nhại thông thường, nó nhấn mạnh đến sự hợp nhất theo tinh thần nhà Phật, theo tinh thần thiền học. 
Tiện Nghi cũng là truyện thú vị trong nhóm truyện Mê: 
“Ra khỏi chuồng nhờ chấn song xiêu vẹo, con khỉ gầy tự do dạo chơi nhưng chỉ một chốc sau lại quay về chuồng, con khỉ béo hỏi, có gì lạ không, nó đáp “Sinh vật bên ngoài khốn khổ lắm, họ luôn phải đi tìm mọi thứ ở ngoài chuồng mà không hiểu rằng trong chuồng đã có sẵn mọi thứ rồi.” 
Truyện này thấm đẫm tinh thần Trang Tử, tức là cái bi kịch tự do cốt lõi bị đánh mất qua con đường thuần dưỡng vật chất và giam giữ đã tạo thành một hài kịch nhập nhằng trong ý thức. Chính ngụ ngôn về con khỉ đã gợi những suy tư triết học mà đối tượng là người, vì khỉ gần với người nhất… 
Tập truyện Lời Tiên Tri Của Giọt Sương có rất nhiều cách đọc và suy giải, cảm thụ. Trên đây chỉ là những gì tôi đọc trong phạm vi kiến văn hẹp hòi của mình, kính mong bạn đọc đừng phân tâm. Tập có tất cả 109 truyện được phân thành nhiều nhóm nhỏ: Truyện nhỏ (small-sized stories): 10 truyện, truyện lạ (stories of the strange): 12 truyện, truyện đêm (stories of the night): 14 truyện, truyện đâu (stories of somewhere): 14 truyện, truyện hư (stories of emptiness): 15 truyện, truyện mê (stories of enchantment): 14 truyện, truyện ai (stories of somebody): 12 truyện, truyện chơi (stories of jokes): 10 truyện, truyện thời (stories of time): 8 truyện. Trong phần tiếng Anh tập truyện có tên là: A dewdrop’s foretelling (Bản dịch của Từ Lê Tâm). Nó là một thế giới tâm tư rộng mở nhiều chiều nhưng được nén gọn như cách nén tinh tế của giọt sương. Đọc tức là giải nén bằng chính mình vậy!

III. Và Ngô Phan Lưu với lối viết độ không:
Trường hợp nhà văn Ngô Phan Lưu, một trong những “cây gộc” nhà văn – nông dân của miền Trung vào những năm gần đây là lối viết trở về, ông đã xóa hết những ảnh hưởng Tây học với mong muốn có lối viết trơn, lối viết hồn cốt của minh triết Việt. Nói thêm: Trước khi làm nông dân rồi nhà văn, ông là sinh viên triết nhiều năm. Ngô Phan Lưu sinh năm 1946, hiện đang sống tại Phú Yên. Cho đến giờ này, ông đã xuất bản bốn tập truyện ngắn: Người không giăng câu Kiều, Cơm chiều, Xoa tay và cười, Con lươn chép miệng.
Thử khảo sát một số truyện của ông trong ý định không xâu chuỗi vì rằng sợ như vậy sẽ đánh mất nét độc đáo của từng truyện. Con lươn chép miệng là tên tập truyện (tôi chọn ngẫu nhiên) và cũng là tên của truyện ngắn đầu tiên trong tập. Riêng cái tiêu đề phần nào đã nói lên lựa chọn của ông, là cách nói dân dã, cách nghe dân dã, cách buồn dân dã và cách không buồn cũng của dân dã. Dường như sự nhấn mạnh “nhà văn nông dân” là một khế ước mà Ngô Phan Lưu muốn kí với cuộc đời. Đó là tín hiệu đầu tiên.
Trong truyện ngắn thay lời phi lộ của tập sách này, cái lựa chọn cục phân của thằng cu Phát cháu nội, “cục phân đã khô quắt lại, nhỏ xíu, mũi nhọn vươn cong lên trời”, để nỗi nhớ bám víu vào, tôi nghĩ tác giả không dùng cái cách “ăn cục nói hòn” quê mùa nhằm gây xúc động hay chủ ý kích thích tình cảm của mọi người, theo tôi nó ngầm dự báo một ý nghĩ, một tình trạng thay đổi, sẽ quay về trong cách viết, trong tình cảm con người, nhất là của người nông dân, cũng có thể gọi nôm na là “cách mạng”. Chắc chắn có ý nghĩa song song, nhưng tiếng lươn chép miệng ở đây là tiếng cười “dứt khoát không buồn”, nó vừa là cười chính sự lẩm cẩm bé mọn của mình vừa là cười người khác, cười mà không gây tổn hại, cười để thay đổi. Câu hỏi đặt ra: Tại sao có những điều thuộc về con người, văn bản văn chương lại chối bỏ, lại e ngại?! Tiếng cười tự nó không có ý nghĩa gì nhưng trong cuộc vận hành này nó lại có nghĩa. Một dự báo nữa từ tập truyện: Ngô Phan Lưu, một lối cười thoát khỏi các định chế, thoát khỏi các công thức, các khung, các sườn cũ, ông đã chọn lối nhếch mép thâm thúy như ban đầu, như nguồn, như muôn đời của người nông dân cùng khổ miền Trung.
Sang truyện ngắn “Giải thoát” thì cái ý nghĩ “cách mạng” lại tung tẩy sang một lãnh địa khác. Tôi không viết bài này nhằm phê bình văn bản, tôi muốn tham dự vào “cuộc chơi” cùng nhà văn Ngô Phan Lưu với cấu trúc sâu xa – trơn trắng của tác phẩm. Tôi có quyền như vậy vì nghĩ rằng người đọc không phải là người “tiêu thụ” tác phẩm mà là người “sản xuất” trên cái nền nhà văn đã viết nên. Mã hiệu đầu tiên mà chúng ta khảo sát là loại mã hiệu chú giải: “Lão Bốn Nham nay bảy mươi sáu, sống cùng vợ tại nhà số 6 hẻm 13 tổ 9 khu phố Bà Triệu”. Sao phải cụ thể, rõ ràng, chi li như vậy? Chính sự cố ý này đã tạo trong lòng người đọc một nghi vấn ngược lại, không gian bắt đầu lồi lõm, bí mật thứ nhất được gieo vào truyện là bí mật ẩn dụ về không gian. Cách thức này hơi mới một chút, hơi tinh một chút so với những “làng”, “thôn”, “chiếc hộp”, “trại”… nhằm ẩn dụ một bối cảnh khác được dùng nhiều trước đây, bởi vì trong tiếng Việt cứ nhấn nhá, dây cà dây muống một cách cố ý thì y như rằng người nghe sẽ có phản ứng nghi ngờ, nói vậy mà không phải vậy. Chiếc chìa khóa an toàn đã được tra vào ổ. Mã hiệu thứ hai khơi lộ là chiếc bình cắm hoa trên bàn thờ, tới đây thì chúng ta cứ ngỡ truyện như một câu chuyện bình dân dễ hiểu, nhưng hai lần nhà văn nhấn mạnh thủ phạm trong sự nhập nhằng giữa chuột và mèo thì cái nghĩa “dễ hiểu” trước đây đã bị bỏ rơi. Lần thứ nhất nghi ngờ chuột hay là mèo từ phía vợ Bốn Nham, lần thứ hai thì chính trong suy nghĩ của lão Bốn Nham: “Lúc ngồi co rút trông giống con mèo”. Và mập mờ về bản lai diện mục là “một con vật đa hình thể” làm cho người đọc bị dẫn đi theo hướng của nhà văn, hướng của “sương mù”, của thế giới khác. Xem như đối tượng thực muốn nói đến đã bắt đầu lộ diện ở phân đoạn thứ nhất. Phân đoạn thứ hai – đặt bẫy – làm rõ hơn về thủ phạm: “nghe được tiếng người”, “thù vặt”… chỉ là một bước bồi để rồi cố ý dẫn tới sự nhận diện đến bàng hoàng, “há hốc mồm” nhìn thủ phạm “ác độc đến ma quái” đang thản nhiên hiện ra. Sự đóng băng vì sợ, trốn chạy vì sợ là một thực trạng nhưng tại sao đến cuối truyện thì cả hai vợ chồng Bốn Nham đều hết sợ? Tìm săn – sợ hãi – tôn thờ là một quá trình chuyển biến, đảo lộn tâm lý đặc biệt, cường độ cảm xúc được đẩy lên cực mạnh, để đến khi tưởng là gỡ bỏ được dồn nén thì thật ra đó là lúc con người khác đi, làm cho bị khác đi, mất tự chủ. Phải chăng chính sự nhận diện cuối cùng mà nhà văn gọi là định thần đã làm cho họ không còn sợ hãi nữa? Không phải! Hai chữ “định thần” ở đây được hiểu theo nghĩa định thần – giả tạo, định thần – tự lừa mị. Hệ quả của sự bất lực là bệnh thần thánh hóa, hình ảnh vợ chồng Bốn Nham vái lia vái lịa là thực trạng đau đớn hơn rất nhiều thực trạng “co rúm” vì sợ hãi trước đây. Mã hiệu cuối cùng là loại mã hiệu tượng trưng đã phát huy được tác dụng và đương nhiên nó cũng thú nhận một sự thật về nguồn gốc vô thức của văn bản truyện ngắn này là bệnh sùng bái cái mạnh, cái ác trong mỗi con người chúng ta, cả tôi và cả bạn.
Văn bản cần khảo sát thứ ba là "Buổi sáng biến mất", với truyện ngắn này ông được trao giải nhất báo Văn Nghệ 2007. Như ông tâm sự: Văn chương phải khảo sát những gì có thể xảy ra trên cái nền hiện thực đã xảy ra, nên việc đọc của tôi sự thực là khảo sát của những khảo sát.
Mô típ gieo ẩn dụ không gian được lặp lại, “Xóm ao”, nghe chừng cái liên văn bản ca dao “ta về ta tắm ao ta” chuẩn bị được lộn trái. Cái cách nói tưng tửng: “đội banh Nhà thương”, “gôn Tử thần” nhằm làm cân bằng cho những thổn thức của/ trong căn nhà rã nát mà tác giả sẽ mở ra: “Đau đớn mà đòi sống, đúng là người ngu. Phải đòi chết cơ, như chú đã đòi. Có lẽ, cạnh những chân lý năm tháng dài hạn, còn có chân lý phút giây ngắn hạn. Mà cái chân lý phút giây ngắn hạn ấy lại có thể là chân lý vĩnh hằng.” Sự tàn nhẫn không sinh ra từ nghèo khổ, nó nảy nòi từ cái phần ác bên trong con người, nhưng nghèo khổ chính là môi trường, chính là cái cớ để sự tàn nhẫn phình to, chiếm đoạt đời sống, sự sống.
Thử đọc thành lời đoạn thoại mà qua đó nó nói đến những thứ không phải là xương thịt của nhân vật Khiêu đã rã nát, một loại rã nát từ bên trong: “- Nói thế sao được, hả chú? Cứ xem lão Phiệt đấy, cũng trầm trọng chí tử liên miên, mua hòm trước có đến ba lần, đều cất đấy chờ mọt ăn. Vậy mà nay vẫn sừng sững chén thịt chó”.
Chú Khiêu quay mặt lơ đãng ra cửa sổ, nơi có tiếng hót trong veo, ríu rít của mấy chú chim sâu trong khóm lựu xơ xác. Chú lại nói, giọng yếu ớt:
“Mua hòm trước là… người khôn. Không mua hòm trước là… kẻ dại. Chú đã dại. Chết rồi, Ai mua?”
"Thuấn lại nín lặng. Cái nín lặng buộc anh nín lặng. Lại cũng ở tầng sâu câu nói ấy, trùng trùng cay đắng oán hờn.” Đến đây thì người đọc không cười được nữa, hoặc cười thì là kiểu cười méo xệch, kiểu cười bẽ bàng, cười hiểu ra cái sự đời thật khốn nạn cùng với tác giả. Đó, cái “xóm Ao” mà con người luôn muốn quay về nay đã ra nông nỗi. Nhà thương, lòng thương, tình thương lần lượt tan rã, biến mất như sự biến mất của buổi sáng cuộc đời, biến mất ngay cả cái không tính ban sơ. Một cảnh báo chấn động được viết ra chỉ bằng lối kể rất đặc thù của người nông dân, không hoa hòe hoa sói, không vận dụng một thi pháp sách vở, vay mượn nào…
Một truyện ngắn lý thú ông viết gần đây là “Con kỳ nhông nhựa”. Lão Lú của xóm Rọ Hươu chuyên kể chuyện ma láo đã “nắm thóp” tâm lý đám đông, đám đông: dễ bị kích động, dễ trở thành ngây ngô, dễ tin, dễ không tin và cũng dễ bị lừa. Ma láo nhưng đề phòng thật, người được đặt vào thế giới ma, ma lại đặt vào thế giới người, nhờ vào tài quan sát nhạy bén Ngô Phan Lưu đã khai thác rất tinh các mô típ kể chuyện quen thuộc của dân gian để biến nó thành lối viết của mình, do vậy đọc văn Ngô Phan Lưu ta biết, không lẫn vào đâu, đây là một nhà văn nông dân Việt Nam chính hiệu. Ấy là độ không của lối viết vậy.
Mỗi người mỗi kiểu, không ai giống ai, thuật ngữ gọi là cá tính sáng tạo, chỉ có một điểm chung của ba nhà văn trên: Họ đều là những nhà văn xuất sắc trong việc nắm bắt những phẩm chất định tính quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Thật ra, ở đầu bài viết, tôi đặt vấn đề hình thức nhưng rồi chính tôi cũng cảm thấy không ổn, tôi vẫn thích gọi văn họ là những thể văn vì dường như khó phân biệt rạch ròi hình thức và nội dung, nó dường như không có một gián cách nào, nó có trong nhau, quyện trong nhau thành một thể mang giá trị thẩm mỹ chấn động. 
 
Chân núi Tà Cú, hoàn thành bài viết 04/06/2013 N.H.

bài đã đăng của nguyễn hiệp

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TẢN MẠN 40 NĂM ĂN, UỐNG VÀ SỐNG


Bài đọc liên quan:

Hơn nửa thế kỷ sống ở nước Việt cũng có lắm điều để nói về ăn, uống và sống theo cái nghĩa văn hóa xứ mình.

Nhớ những ngày còn niên thiếu, trước 30/4/1975, ở thành phố biển Quy Nhơn trong bom rơi, đạn lạc. Lúc mà con người ta sống nay, mà không biết ngay mai thức dậy có còn thấy cuộc sống sôi động quanh ta không? Có những buổi tối cuối tuần cùng gia đình vào Snack Bar để ăn tối với những gia đình quân nhân thời chiến.

Những buổi tối ấy, rất sôi động với nhạc của vũ trường kiểu sân khấu nhỏ, những ồn ào với không khí bàn luận thời sự, chính trị nước nhà của thế hệ cha ông. Nhưng cũng có những lúc mà có vài chú lính với huy hiệu chiếc hòm và 3 cây đèn cầy trên ngực, vai áo bước vào Snack Bar, thì hầu như mọi âm thanh ngưng bặt. Rồi mọi người yên lặng, nhìn nhau, lủi thủi rút lui như những con cừu. Vì sợ họ đổ quặu, nhặn xị rút súng bắn thì tiêu.

Ngày ấy, lính này được đặt cái tên rất oai và rất ghê rợn - Hồn ma biên giới. Họ là những người lính nhảy toán ra Bắc Việt, đa số ra đi không có ngày về. Nên trước khi đi, họ được nhận tiền tử sĩ để tiêu xài, rồi đi, và họ chả còn sợ ai, và họ quậy, kể cả quân cảnh cũng không muốn đụng đến họ nữa là, nói chi đến cảnh sát hay quân chủng khác.

Thế rồi, sau 30/4/1975 một lối sống khác xuất hiện ở thời bao cấp. Hầu hết dân Việt ở tỉnh lẻ, quán xá là trò xa xỉ. Sài Gòn lại khác, quán cóc vỉa hè là một văn hóa sống mới cho phù hợp với thời kinh tế eo hẹp. Nhưng cà phê thì mùi và vị của bắp rang nhiều hơn cà phê, vì làm gì có được cà phê thật đến được mọi nơi, khi mà mang trong người chỉ 1kg cà phê đi từ tỉnh này sang tỉnh nọ là buôn lậu?

Ăn cũng thế, không được ăn cơm trắng. Ăn cơm trắng là lũ tiểu tư sản, Việt gian, phản động. Người Việt chân chính là giai cấp bần cố nông, phải ăn cơm độn bắp, độn khoai. Thời đó, nhà mình luôn có 2 nồi cơm, một nồi cơm trắng, một có độn mì hoặc lan, hoặc bắp. Ăn cơm luôn phải khóa cổng, khi có khách đến trong lúc đang ăn, thì con ra mở cổng, mẹ đổi nồi cơm độn khoai ra để chứng tỏ mình trung thành với cách mạng vì là giai cấp bần nông.

Học sinh đến trường cũng thế, nam sinh không được bỏ áo trong quần, nữ sinh không được mặc áo dài hoặc váy, không được mang giày hay sandal, thậm chí không dám mặc quần áo mà không có miếng vá, để chứng tỏ mình là bần nông. Nhưng rồi vải cũng không có may, cả xã hội mặc đồ rách là chuyện thường tình. Cô giáo cũng không được mặc áo dài khi lên lớp, mà phải là áo cổ cánh sen hay tai bèo, quần satanh hoặc Lãnh Mỹ A đen đứng lớp mới là đúng lập trường quan điểm. Thầy giáo cũng thế, cấm cãi.

Lúc này, một câu nói nổi tiếng mà ai cũng thường nghe là, ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn!

Thế rồi, khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, xã hội được nới dây trói, con người ta bắt đầu được sống đúng theo nghĩa bản năng vật chất. Văn hóa ăn, uống và sống bắt đầu trở lại thời miền Nam trước 30/4/1975. Ban đầu còn giữ thuần phong mỹ tục. Nhưng rồi, thuần phong mỹ tục cũng dần rơi rụng.

Con người ta bắt đầu sống vội, sống hối hả. Nó giống như cái lò so sau khi nén và buông ra, phản ứng dội về văn hóa sống bắt đầu tràn đến những văn hóa ăn nhanh, đi vội, sống bạt mạng. Hối hả học hành bằng cấp giả. Vội vã đi đường không tuân thủ luật để tai nạn giao thông. Nhanh nhạy làm ăn, tập trung vào đầu tư ngắn hạn và thứ cấp kiếm lãi, mà không nghĩ đến đầu tư dài hạn, vững bền. Nhanh chóng bán được bất cứ cái gì có thể bán từ tài nguyên rừng, đến biển và kể cả đất đai tổ tiên để lại, và cũng không chừa lại môi sinh để sống, cũng bán tuốt cả lương tâm và nhân cách.

Ăn, uống cũng thế. Văn hóa ẩm thực ăn vội, uống bừa của một xã hội công nghiệp du nhập - với Pizza, Strabucks, Kentucky Fired Chicken, fastfood, etc... Con người ta không còn cái văn hóa ẩm thực để thưởng thức, và ăn là thuốc. Tuy hòa bình, êm tiếng súng, nhưng văn hóa sống nước Việt hôm nay ăn, uống và sống không nghĩ đến ngày mai. Nó không khác thời chiến tranh sợ tên rơi, đạn lạc.

“Phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy”- Friedrich Engels.

Nghĩ cho cùng, cái quy luật phủ định của phủ định trong triết học nó được hiện thực hóa ở nước Việt trong 38 năm qua rất khách quan và hiện thực - khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn, phát triển theo hình xoắn trôn ốc. Nhưng 38 năm qua, sự phát triển ấy là một vòng xoắn trôn ốc đi lên của sự đồi bại về văn hóa ăn, uống và sống.

Văn hóa là cái gì, nếu không là những thói ăn, nết ở, nếp nghĩ, hành động diễn ra lập đi, lập lại thường nhật quanh ta. Nhưng văn hóa cũng có tốt, có xấu. Đó là hai mặt nhị nguyên của văn hóa. Nếu không được xã hội chắt lọc, giữ gìn, ắt có ngày chúng ta sẽ bị hòa tan, chứ không còn giao lưu và hòa nhập để phát triển.

Asia Clinic, 14h22' ngày thứ Sáu, 05/9/2013

Phần nhận xét hiển thị trên trang

SYRIA MỘT CUỘC NỘI CHIẾN KIỂU MỚI NHƯ VIỆT NAM?

BS HH.
Bài đọc liên quan:

Cách đây 2 năm, khi Mùa Xuân Ả Rập làm cuộc domino sụp đổ chính trị ở cả Trung Đông và Bắc Phi, tôi đã có bài dự đoán - Syria - Nơi khởi nguồn lại tranh bá đồ vương. Nay tình hình ở Syria đã dần lộ rõ những gì tôi đã tiên đoán sau 2 thập niên chiến tranh lạnh chấm dứt. Chúng ta hãy làm một tổng kết để có cái nhìn về tương lai chính trị và kinh tế toàn cầu.

Sau gần 4 thập niên từ giã Thái Bình Dương bằng cú đi đêm với Thông Cáo Thượng Hải với Trung Hoa, Hoa Kỳ chuyển trục sang Trung Đông để nắm giữ nguồn năng lượng toàn cầu, và giúp đồng minh châu Âu cũng như Do Thái trụ vững với Liên Xô. Kết quả là kết thúc chiến tranh lạnh bằng Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Hoa Kỳ múa gậy vườn hoang suốt 2 thập niên. 

Nhưng một lực lượng mới xuất hiện dưới sự bảo trợ trực tiếp của Ba Tư, và gián tiếp của Trung Hoa và Nga. Các tổ chức Hồi giáo cực đoan làm những cuộc khủng bố khắp nơi, trong đó, trọng tâm là Hoa Kỳ - sự kiện 11/9 với toà nhà World Trade Center bị al Qadea đánh sập. Nó đã đẩy cuộc chiến đi sang ngả rẽ khác - hao tốn tiền của để chống khủng bố - và làm kinh tế Hoa Kỳ suy sụp, thế giới mất lòng tin với sức mạnh mềm của Hoa Kỳ.

Một cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu bắt đầu từ Hoa Kỳ vào năm 2008 đến nay đã 5 năm. Tất cả những điều đó đã làm cho giá dầu và khí thế giới tăng cao gấp 3 lần. Nước Nga của Putin đã gặp thời để hưởng lợi, khi họ là nguồn cung cấp chính cho châu Âu về dầu và khí. Sau Mùa Xuân Ả Rập, Nga lại là nguồn cung cấp chính năng lượng cho Trung Hoa. Ngoài công nghiệp vũ khí xuất khẩu để sống, thì xuất khẩu năng lượng chiếm đến 17% GDP của Nga.

Trong khi đó, 30 năm nằm yên chờ thời của Trung Hoa đã giúp nước này vượt qua mặt Nhật, chiếm vị trí siêu cường kinh tế thứ hai thế giới. Một mối đe dọa đối với vai trò điều hành toàn cầu của Hoa Kỳ.

Nước Mỹ cần lấy lại lòng tin của thế giới. Một quyết định thay đổi có tính lịch sử của nước Mỹ, khi đảng dân chủ phải chọn một người da màu để ngồi vào nhà Trắng. Một giấc mơ mà 50 năm trước mục sư Luther King đã đọc diễn văn tại trước quảng trường thủ đô Washington lịch sử.

Obama vào nhà Trắng làm cho thế giới nhìn nước Mỹ quay ngoắt 180 độ. Thế giới Hồi giáo trở nên yêu mến nước Mỹ, vì ở ngay nơi chống Hồi giáo cực đoan lại có một người đứng đầu đã từng là con chiên của mình. Dân da màu trên khắp thế giới trở nên yêu mến nước Mỹ, và quên đi nước Mỹ là trung tâm gieo rắc chiến tranh đến toàn cầu, vì chỉ có ở đó mới có mọi cơ hội cho bất kỳ ai, bất kỳ màu da hay chủng tộc nào có một ước mơ chính đáng. Và Mùa Xuân Ả Rập tự nó xuất hiện mà không cần ai phải tạo ra. Sức mạnh mềm của Hoa Kỳ trở lại thời kỳ Hoàng Kim như chưa bao giờ mạnh hơn.

Với phát minh kỹ nghệ mới - làm ra năng lượng từ đá phiến sét - một thời kỳ an toàn năng lượngcho riêng Hoa Kỳ, và còn có thể sẽ chiếm vị trí hàng đầu về xuất khẩu dầu khí trong tương lai gần vào 2020. Tăng trưởng kinh tế đang phục hồi. Hoa Kỳ bỏ Trung Đông để xoay trục trở lại Thái Bình Dương sau 40 năm xa cách. Hai chiến lược bao vây Trung Hoa - gồm TPP và TAP - đang bắt đầu chuyển động.

Nhưng mọi việc không đơn giản như mong muốn của Hoa Kỳ. Nơi không có gì để Hoa Kỳ quan tâm - Syria - lại là nơi níu chân Hoa Kỳ ở lại Trung Đông, bằng vào cuộc thảm sát bằng khí độc sarinmà Putin đã dùng để giải thoát con tin năm 2002 ở Mạc Tư Khoa. Và Syria lại là nơi làm phân tán sức mạnh của Hoa Kỳ khi chuyển trục. Với 11 hàng không mẫu hạm, cho tới giờ, Trung Đông vẫn đòi hỏi Hoa Kỳ phải cắm lại ở đây đến 6 chiếc, khi chiến sự lớn chưa diễn ra. 

Hai hôm nay bắt đầu cuộc gặp G20 - chủ yếu là bàn định kinh tế thế giới của 20 nền kinh tế mạnh nhất toàn cầu - nhưng vấn đề Syria lại là vấn đề chính trên bàn hội nghị thượng đỉnh của các quốc gia. Những phân tích gia gồm nhà báo và giáo sư chuyên về phân tích ngôn ngữ cơ thể - Body Language Analysis - của Hoa Kỳ đưa ra 5 phân tích trong động thái gặp nhau giữa ông Putin và ông Obama ngay trước khi vào phòng đàm phán:

1. Obama không cài cúc áo veston trước mà chờ ra khỏi xe mới cài và chỉ cài 1 cúc cho thấp ông ta muốn thể hiện quyền lực cho Putin thấy là tao tới đây để trói mày.

2. Có đến 18 cái bắt tay giữa 2 người. Obama để tay mình ở dưới là cho thấy ông ta ở thế chủ động nâng lên và hạ xuống trong lúc bắt tay.

3. Khuôn mặt Obam và Putin không thân thiện, chứng tỏ đây là cuộc đàm phán không cùng quan điểm về Syria.

4. Obama chồm người về phía trước để người của ông ta che cả người của Putin bằng cái bóng của Obama để cho thế giới thấy Putin chỉ là chiếc bóng của Obama.

5. Trước khi bước vào tòa nhà hội nghị, Obama đưa tay phải vỗ vai Putin cho thấy Obama thể hiện quyền lực của kẻ cả.


Nhưng, trước khi vào G20, ông Putin đã cho Adward Snowden được tỵ nạn chính trị tại nước Nga dưới sự hỗ trợ của Trung Hoa, để nhân viên tình báo Hoa Kỳ bị cho là phản quốc bay từ Hongkong sang Mạc Tư Khoa. Đó là một hành động cho thấy Trung Hoa và Nga đang liên kết lại để làm một cực chống Hoa Kỳ. Và nó chứng minh rằng thế giới lại phân cực, thế giới lại vào chiến tranh lạnh lần 2, mà Syria là nơi thử bom đạn sau 40 năm các cường quốc chưa có dịp thử lửa như ở Việt Nam.

Khác với những sai lầm của Hoa Kỳ ở chiến trường Việt Nam cách đây 40 năm về trước. Các cuộc chiến gần đây, việc đổ bộ quân lính vào chiến trường đã chỉ còn là việc dọn dẹp chiến trường. Cuộc chiến chính khi Hoa Kỳ tham gia là các cuộc không kích, địa kích và truy lùng thủ phạm diễn ra bằng hải quân và không quân bằng máy bay không người lái.

Người ta thống kê rằng ở Địa Trung Hải hiện có đến 6 tàu chiến và 1 hàng không mẫu hạm duy nhất của Nga. Có đến 1 hàng không mẫu hạm, 6 tàu chiến, và 2 tàu ngầm của Hoa Kỳ. Trong khi đó, có 1 hàng không mẫu hạm của Pháp đang hoạt động để chuẩn bị chiến tranh, chưa kể những tàu chiến đấu khác. Ngoài ra, ở vịnh Ba Tư có 2 hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ để ngăn chặn sự tiếp tay của Ba Tư.

Hình ảnh mô tả tập trung lực lượng của Hoa Kỳ, Nga, Pháp và có cả tàu ngầm của Anh Quốc tại Địa Trung Hải và Vịnh Ba Tư chuẩn bị cho chiến sự ở Syria.

Thông tin mới nhất cho biết, Ba Tư sẽ cung cấp sức người, sức của cho Syria. Nga cung cấp vũ khí tối tân cho Syria thông qua hải quân. Còn Trung Hoa thì cung cấp tiền bạc và dàn radar tầm soát tên lửa từ xa đến 500km cho Syria, và đang gửi tàu chiến đến Syria. Mọi động thái chỉ còn chờ giờ phát hỏa vào quyết định ngày 09/9/2013 này của quốc hội Hoa Kỳ, sau khi có 10 phiếu đồng thuận của các thượng nghị sĩ Hoa Kỳ cho phép ông Obama khai hỏa, so với 7 phiếu chống, và 1 phiếu trắng trong cuộc họp vào ngày 04/9/2013 vừa qua. Phần còn lại là ở Hạ viện và người dân Hoa Kỳ quyết định chủ yếu về ngân sách để phát hỏa chiến tranh.

Ở đầu bên kia của Nga, ông Putin tuyên bố, các cường quốc không được đơn phương tuyên chiến ở Syria, vì nó trái với luật pháp của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, khi chưa có chứng cứ về việc chính quyền al Assad là kẻ thảm sát dân thường bằng khí độc. Ngoài ra, ông Putin còn công khai tuyên bố rằng, ông ủng hộ ai thì người đó là người tốt - Bashar al Assad.

Song, nếu chiến sự Syria diễn ra thì, kẻ có lợi nhất là Nga nhờ vào giá dầu tăng cao, và bán vũ khí cho Syria. Hoa Kỳ và Trung Hoa sẽ thiệt thòi. Nhưng kẻ thiệt thòi nhất là Trung Hoa do giá năng lượng tăng cao trong lúc Trung Hoa đang khủng hoảng kinh tế trầm trọng do nền chính trị đơn nguyên tập quyền gây ra. Với Hoa Kỳ, vấn đề chính vẫn là vấn đề chứng tỏ vị trí đại ca toàn cầu, mà phải nai lưng ra gánh vác.

Trong khi đó, đồng minh thân tín nhất của Hoa Kỳ ở châu Âu, mà lâu nay luôn ủng hộ Hoa Kỳ trong các cuộc chiến là Anh Quốc lại bị quốc hội từ chối tham chiến. Đức sau chiến tranh thế giới 2 không còn là một cường quốc quân sự, mà họ núp bóng Hoa Kỳ để hưởng hòa bình làm kinh tế.

Trong cơn bỉ cực kinh tế toàn cầu diễn ra 5 năm qua, hiện nay khủng hoảng kinh tế đang lan khắp thế giới, không chừa bất kỳ quốc gia nào. Tình hình kinh tế chính trị toàn cầu hiện nay không khác tình hình khủng khoảng kinh tế 1907 và 1929 đã gây ra 2 cuộc chiến tranh thế giới 1 và 2.

Liệu cuộc chiến ở Syria có diễn ra không? Theo tôi sẽ có 3 kịch bản cho Syria:

1. Kịch bản đầu tiên nhẹ nhàng nhất là sẽ không có chiến sự xảy ra. Lúc đó ông Putin phải thỏa hiệp với ông Obama trên bàn đàm phán là, Bashar al Assad phải ra đi và chịu trách nhiệm trước tòa án tội phạm quốc tế. Một nhà nước Syria mới hình thành có liên minh giữa chính phủ cũ và quân nổi dậy. Song một lo ngại cho chính quyền mới không kiểm soát được tình hình hậu triều đại al Assad là có thể xảy ra. Kịch bản này vẫn có thể diễn ra và G20 đang họp sẽ là nơi quyết định.

2. Kịch bản thứ hai là, chiến sự xảy ra trong giới hạn tại Syria nhanh và thần tốc trong vòng một vài tháng trở lại để các cường quốc thử bom đạn như ở Việt Nam, và chiến tranh lạnh vẫn còn tiếp diễn kéo dài sau đó. Khả năng này rất có thể.

3. Kịch bản cuối cùng là, một cuộc chiến kéo dài nhiều năm như ở Việt Nam và lan rộng khắp nơi. Điều này ít xảy ra.

Như tôi đã viết nhiều bài trên blog này, sau chiến tranh Việt Nam, vị trí độc tôn của Hoa Kỳ được giữ vững. Chế độ cộng sản tự sụp đổ ngay trên mảnh đất sinh ra nó - Liên Xô. Không nghi ngờ gì về sự thay đổi vị trí siêu cường khi mà cuộc chiến Syria sẽ có hay không diễn ra.

Ba kịch bản trên có xác suất diễn ra bằng nhau trong sự ràng buộc của tình hình hiện nay về kinh tế toàn cầu và những quyết định nông nỗi hoặc bốc đồng của các chính khách. Nhưng có một điều chắc chắn rằng, dù kịch bản nào diễn ra thì, nó đều ảnh hưởng đến vị trí siêu cường của Hoa Kỳ và sự sụp đổ và suy yếu của Trung Hoa trong tương lai gần. Lúc ấy, các chư hầu của Trung Hoa sẽ sống ra sao?

Asia Clinic, 11h15' ngày thứ Sáu, 06/9/2013

Phần nhận xét hiển thị trên trang