NHỮNG GHI CHÉP Ở TẦNG THỨ 14 [chương 3]
|
Đã đăng: [chương 1-2]
3.
Để trang bị cho sự hiểu biết về đất nước này, trước khi đến đây tôi đã nghiên cứu các tài liệu qua sách vở và trên internet, đồng thời tôi cũng ôn lại những kiến thức mà cha tôi đã truyền đạt mỗi khi tôi có dịp trò chuyện với ông.
Việt Nam là một cường quốc về thơ!
Cha tôi khẳng định rằng có vô số người đã khẳng định chắc nịch như vậy. Trong số đó có một ông quan, kiêm thi sĩ, năm ngoái tuyên bố trong cuộc hội nghị văn hoá cấp trung ương. Khi nói, ông quan thi sĩ vung hai tay lên trời thành một vòng tròn, đầy tính biểu tượng và quyền lực.
“Thơ của chúng ta, thi ca của đất nước chúng ta, là phải có âm thanh vừa lả lướt, vừa dịu dàng, mà phải vừa cuồn cuộn, vừa vang rền! Tư tưởng thì phải cao vời, phải thanh thoát, mà chấn động lương tri, mà lay chuyển tâm thức của toàn thể nhân loại! Đó là tầm cao của Đại Việt Thi!”
Cử toạ vỗ tay tán thưởng câu nói đó suốt cả 10 phút, cũng vang rền tương xứng với lời ông nói. Sau này, tuyên ngôn đó được đưa vào dự thảo hiến pháp, và có hơn nửa dân số khắp nước, giới bình dân cũng như giới hàn lâm, đều bỏ phiếu tán đồng trong những cuộc họp tổ dân phố.
Điều đáng nói là mọi tài liệu quan trọng và khả tín mà tôi tìm được đều cho rằng ở đây có vô số những con ma thi sĩ.
Việt tộc sống bằng gạo, thịt, cá mắm, rau cỏ, và bằng thơ!
Họ làm thơ từ lúc còn bí mật hoạt động cách mạng ở trong hang, cho đến khi cách mạng thành công, thì vừa tiếp tục làm thơ vừa nghiên cứu và thực hiện mọi chính sách của quốc gia trên các cao ốc chọc trời phải đi lên bằng thang máy.
Ca ngợi lãnh tụ và chính phủ, họ làm tụng ca.
Chống quân xâm lược và kêu đòi dân chủ, họ vừa xuống đường vừa làm thơ.
Ôm hận nằm trong ngục tối chờ ngày thay đổi vận nước, họ làm “ngục thi”.
Đám cưới, đám tang thì thi ca phục vụ cho việc hiếu hỉ.
Đi giải quyết sinh lý xong thì họ làm thơ thiền để cho tâm hồn thanh thản.
Mách qué với hàng xóm thì làm thơ tự trào.
Nỉ non với vợ thì làm thơ tự thán.
Nếu kẹt đạn, chưa tìm ra tứ thì chỉ cần mua tờ báo, đại loại như tờ “Công An” chẳng hạn, là sẽ có dư cảm hứng để làm thơ chống tham nhũng.
Thi ca vô cùng quan trọng với đời sống của người Việt ở mọi mặt, đặc biệt là ở mặt tâm linh và đạo đức. Ngày nay, thơ từ từ biến mất trên các tờ báo giấy nhưng lại chiếm lĩnh các diễn đàn trên mạng.
Trong chương 2 của cuốn cẩm nang “Những ứng dụng của thi ca”, một tài liệu tuyệt mật nằm trong thư khố của quốc gia mà tôi may mắn đọc được, có tiết lộ thế này:
“Muốn nguyền rủa, trù ếm một kẻ nào, hay một gia tộc nào, hay một tổ chức nào ư? Hãy biến cái mong ước cháy bỏng ấy thành một bài thơ trên giấy, chờ đến sau nửa khuya, chính xác là 00:00:01 AM, đi lên một cây cầu có vị trí ở gần đối tượng nhất, đốt tờ giấy có bài thơ ấy thành tro, rồi uống cái mớ tàn tro ấy với một ngụm rượu trắng, rồi quay mặt về hướng đối tượng, khấn 9 lần điều mình muốn xảy ra với đối tượng, rồi đái xuống sông đúng 13 giọt nếu mình là nam, và 27 giọt nếu mình là nữ. Rồi về. Đêm đó không được ngủ. Nếu là nam thì phải nằm sấp, nữ thì nằm ngửa, vừa thì thầm đọc lại bài thơ, vừa tự xoa vuốt mình, toàn thân, suốt đêm.”
Kẻ thù sẽ tiêu tùng trước khi mình chết. Chắc chắn vậy.
*
Theo các tài liệu mà tôi nghiên cứu lâu nay, hai nhà thơ Việt lớn nhất của thời hiện đại được nghiên cứu rộng rãi và đưa vào chương trình giáo dục là một lãnh tụ và một tay cuồng sĩ rách rưới sống với lũ chuột cống ngay trên các vỉa hè ở Sài Gòn.
Tôi có xem hình họ chụp. Ông lãnh tụ mắt sáng như sao, trán rộng, hơi hói, mặt gầy choắt nhưng quắc thước với bộ râu lưa thưa dưới cằm. Ông cuồng sĩ thì chỉ để lộ ra một cái răng khôn duy nhất, chiếc răng vừa mọc ở tuổi 90, khi ông nở nụ cười móm mém. Ông đeo quanh người 109 cái bàn chải đánh răng, có hầu hết các thương hiệu trên thế giới, có hầu hết các chủng loại dành cho mọi loại răng, và đủ mọi màu sắc, để làm vệ sinh cho chiếc răng duy nhất này.
Quy luật của thế giới thi ca cũng không khác gì những quy luật của cuộc đời thật, nghĩa là phải có kẻ mạnh làm đại ca và kẻ yếu để sai vặt.
Hồi cuối thiên niên kỷ trước, hai thi hào bày cuộc thi thố với nhau bằng thơ để phân cao thấp. Họ hẹn ngày và tổ chức cuộc thi tài công khai ở bên một cái hồ sen tại Văn Miếu của thủ đô Hà Nội, có phát truyền hình trực tiếp và cho phép giới báo chí quốc tế dự khán.
Luật của cuộc thi là mỗi người thay phiên nhau làm một bài thơ về bất cứ điều gì nảy ra trong đầu họ. Phải làm thật nhanh, thật độc đáo, thật sáng tạo.
Mỗi người ngồi ở một đầu chiếc bàn rộng, ở giữa là cái đồng hồ tính giờ như trong các cuộc thi đấu cờ tướng quốc tế. Hội đồng trọng tài gồm có 3 bậc trí giả khả kính về tư cách, và am tường về thi ca và văn hoá: một người Hoa, một người Nga, và người cuối cùng, cũng là trọng tài chính, là người Việt, ông này là Uỷ viên bộ Chính trị, phụ trách về văn hoá và tư tưởng. Quy trình thi cũng khá giống như các cuộc thi đấu cờ. Người này xướng lên một bài thơ xong thì bấm giờ, tới phiên người kia đáp trả bằng bài thơ của mình, rồi bấm giờ. Cuộc đấu bất phân thắng bại, kéo dài từ 8 giờ sáng đến xế chiều không ngưng nghỉ, chỉ thỉnh thoảng có người mang nước sâm lên cho hai đấu thủ uống lấy sức và mang bô cho họ đái, tất nhiên là uống vào và đái ra tại chỗ. Khi đái thì có người giúp, dùng một tấm vải nhiễu đỏ để che lại. Dăm phút lại có người giúp lau những giọt mồ hôi rịn ra trên hai gương mặt căng thẳng.
Sau cùng, ông lãnh tụ, tay chỉ vào mặt đối thủ, miệng chiếu bí ông cuồng sĩ bằng một bài thơ chỉ có 3 chữ nhưng ý tưởng thì vô cùng mênh mông, sâu thẳm, và quyết liệt, như một đường kiếm của sát thủ bậc thầy. Bài thơ như thế này:
“cương là ngủm”
Ông cuồng sĩ ngay lập tức phun nước bọt, quẹt tay chùi mép, rồi xướng lên một bài thơ 2 chữ để phản đòn:
“củ buồi”
Ông lãnh tụ ú ớ trong giây lát, nhưng vẫn làm kịp một bài thơ, buông ra chỉ một chữ sắc nhọn:
“ngủm”
Dứt lời, ông rút súng bắn gãy cái răng duy nhất của đối thủ. Xong, ông ra lệnh cho các đồng chí thuộc hạ tống ông này vào trại cải tạo.
Các trọng tài tuyên bố cuộc thi đấu chấm dứt ở đó. Họ tròng vòng hoa vào cổ ông lãnh tụ. Cả nước mở hội ăn mừng, pháo hoa bắn rực trời suốt 5 đêm.
Ông cuồng sĩ không bao giờ được chạm tới giấy bút, rượu, và mãi mãi bị cấm đi lên bất cứ cây cầu nào. Người ta không cho phép ông, họ canh giữ, theo dõi nghiêm ngặt. Họ sợ ông báo thù bằng một cuộc đi đái. Sợ, trong một đêm quạnh quẽ nào đó, ông lặng lẽ vén quần, nhỏ xuống mặt nước dưới cầu đúng 13 giọt, như tài liệu tôi đã dẫn ở trên.
Không còn cái răng nào, 109 cái bàn chải răng trở nên vô dụng. Ông viết một di chúc bằng thơ, hiến tặng 109 cái bàn chải răng cho viện Bảo tàng Văn hoá Dân tộc. Ngày nay, 109 cái bàn chải răng và tờ di chúc được đặt vào những cái hộp làm bằng gỗ trầm hương, lót đáy bằng nhung đỏ, trưng bày trong dãy tủ kính. Người ta cài đặt hệ thống an ninh điện tử hiện đại nhất để bảo vệ chúng. Những hiện vật này trở thành di sản quý giá của quốc gia.
Sau khi thi-cuồng-sĩ qua đời ở tuổi 102 vì một thứ bệnh xã hội có tính truyền nhiễm cao, chính phủ trưng cầu dân ý cách xử lý cái di hài của ông: nên ướp xác bỏ vào lồng kính cho nhân dân chiêm ngưỡng thờ cúng hay thiêu đi rồi rải tro ra khắp các miền trên đất nước như sở nguyện lúc ông còn sinh tiền? Cuộc trưng cầu dân ý bất thành do không có sự đồng thuận. Sau cùng, không ai biết được điều gì xảy ra với cái di hài đã từng 39 kg bị sụt xuống còn 37,5 kg của ông. Đó lại là một trong những bí mật quốc gia, chỉ dăm người có thẩm quyền được biết, và vĩnh viễn không bao giờ được tiết lộ với nhân dân.
Vị thi sĩ kiêm lãnh tụ qua đời trong lặng lẽ sau đó một năm, nguyên nhân không rõ. Trước đó, ông bị đám đệ tử truất phế một cách êm thắm. Dù rất nỗ lực chuộc lại lỗi lầm với chế độ nhưng ông vẫn thất sủng với những kẻ mới thay thế ông — bọn thi sĩ hậu sinh, tập tành gieo vần bằng các chương trình do máy vi tính xử lý — và ông bị tước hết mọi danh vị mà ông từng có; tất nhiên ông không còn chút quyền lực nào. Không còn ai có quyền nhắc hay nhớ đến ông, dưới mọi hình thức. Người ta tháo bỏ mọi công trình, tượng đài khắc hoạ về chân dung và cuộc đời ông. Cả những bài thơ đã từng được xem như châu ngọc của nền văn chương Việt và được đưa vào chương trình giáo dục cũng bị xoá bỏ trong đợt cải tổ giáo dục lần thứ 28. Tuy nhiên, trong giới văn nghệ under-ground, người ta vẫn thầm lặng tổ chức những buổi tưởng niệm và đọc thơ của hai ông, như một cách thế thể hiện tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc.
Người ta cũng giấu biệt việc cái thi hài 79 kg của ông được xử lý như thế nào. Đó lại là một bí mật quốc gia khác. Kẻ nào nhắc tới ông, kẻ ấy vừa phạm một trọng tội, dù cái tội đó không có trên bất cứ một văn bản luật pháp nào.
(Còn tiếp)
|
Phần nhận xét hiển thị trên trang