Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Tư, 31 tháng 8, 2016

THÊM MỘT CÁCH NHÌN VỀ TẬP THƠ“BỨC TRANH QUÊ”*


Vũ Từ Trang

















Tập thơ “Bức tranh quê” là tác phẩm tiêu biểu của nữ sĩ Anh Thơ. Ngay khi ra đời, đãđược giới văn chương đánh giá cao. Năm 1939, tập thơđược giảithưởng Tự Lực Văn Đoàn, giải thưởng danh giá của thờiđiểm đó. Thoạt đầu, “Bức tranh quê” chỉ có 30 bài, sau hơn một năm viết bổ sung, 1941, Nhà xuất bảnĐời Nay cho ấn hành, với 45 bài. Tên tuổi nhà thơ Anh Thơ càng có tiếng vang trong văn đàn và công chúng bạnđọc. Trải qua một thời gian dài, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu văn học, nhiều bài viết về tác phẩm này. Nhưng hầu hết, chỉ là nghiên cứuchung, hoặc viết riêng lẻ về một số bài thơ trong tập. Nhà thơ Anh Vũđã dụng công viết bình45 bài thơ, mỗi bài thơ thành một bài bình, bài cảm riêng. Riêng bài thơ “Sang thu”, Anh Vũđã bình thành ba bài, mỗi bài viết theo cách cảm, cách nghĩ khác nhau,tập hợp thành tập tiểu luận, phê bình “Bút lực Bức tranh quê”, 276 trang, Nhà xuất bản Hội nhà văn ấn hành, quý 3 năm 2016.
Phải nói sự ra đời thi phẩm “Bức tranh quê” khá đặc biệt. Khi nhậnđược tin cuộc thi thơ của Tự Lực Văn Đoàn chỉ còn hạn một tháng, vậy mà với sự thôi thúc nội tâm, cứ mỗi ngày viết một bài thơ, lại còn phải viết dấu diếm không để người cha biết mình làm thơ, nữ sĩđã hoàn thành tập thơ để kịp gửivề dự thi. Ban tổ chứccuộcthi thơ Tự Lực Văn Đoànđã trao giải chính thức cho tập “Bức tranh quê”, mà tác giả là cô gái bên dòngsông Thương mười tám tuổi xanh.
Anh Vũ có một phầnđời gắn với sông Thương, hẳn có sự thán phục nữ sĩ từng sống trên mảnh đất mình ở, nên những nghĩ, những cảm về tập thơ “Bức tranh quê” cứàoạt tuôn chảy.Bài thơ“Chiều xuân”, mở đầu tập thơ, với những câu thơ thậtđẹp “Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng/ Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi/ Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời.”Anh Vũcảm nhận: “Bức tranh đầu tiên, lấy bếnđò làm khung cảnh, có quán tranh, có hàng xoan, có con đò dầm dãi chờ khách…tất cả làm cái nền, cho tiếng dịu nhẹ của hoa xoan trút cành, từngđợt cánh tím rơi rơi, lại rơi rơi.”Rồi “Nữ sĩ tác giả lúcđó chưa đầy hai chục tuổiđờiđã có cái nhìn chân xác của bậc lão nông già dặn mới nhận ra cái màu đồng lúaxanh rờn vàướt lặng của sắc lúa dậy thì trong mưa thuận gió hòa.”
“Bức tranh quê” là tập hợp những bài thơ mô tả cảnh sắc thôn quê bốn mùa cùng với cuộc sống làmăn của con người, thì ai cũng rõ. Nhưng để hiểu cho cặn kẽ từng bức tranh phong cảnh, như bài thơ “Mưa”, Anh Vũđãphát hiện ra cáiđẹp thuận lý của nó.“Mưa có thể coi là một trong những bài thơđạt tới vẻđẹp toàn bích củaBức tranh quê.Dung dị mà đầy đặn.Thoángđãng mà thắm thiết.Quen thuộc mà chả phải ai cũng nhìn ra.”Hai câu thơ mở đầu bài thơMưa, nữ sĩ viết “Tre lả lướt nghiêng đầu cho nước gội/ Cau thẳng mình dang lá đón mưa rơi.”Anh Vũ phát hiện ra vẻđẹp bên trong của câu thơ “Thật ra kiếp phận cây, cũng nhiều nét tương đồngđời người.Cau và tre như người nam nữ song song liền kề.Được cơn mưa tưới tắm xui giục, thì sao cảđôi không muốn giao hòaâm dương cùng nhau.” Và còn bìnhthêm “Trong cơn mưa nhuần thấm lẽâm dương hòa hợp, tượng hình phồn thực chập chồng. Đủ tiến lùi, lên xuống, bù đắp, là cặp thơ tiếptheo tả rất thật…” Anh Vũcòn bình tiếp “Cảm thông nỗi người vất vả trong mưa, mới hiểu được mấy cảnh thơ về loài vật: con gà, con ruồi, con nhặng, con lợn, đâu phải là thêm thắt cho vui. Đúng là vui, là cái cười ngân ngấnđuôi mắt…Những câu thơ tỏ vẻ khách quan cứtưng tửng như thấy sao viết vậy, sao câu nào cũng như thấp thoáng bóng ai đó.”Và tácgiảđã nhậnđịnh “Chỉ sự hiểu biết thấuđáo tự nhiên đã thấy nữ sĩ tác giả công phu.”
Bài thơ “Chợ ngày thu”, nữ sĩ Anh Thơ lại nói về mưa “Đường đã lội trời còn mưa rườn rượt/ Và lại còn trận gió vội bay qua/ Trong lều quán ngưởi người chen chúc ướt…”, Anh Vũ như nhập đồng khi đọc những dòng thơ này. “Phải rồi, tự bao lâu nay trong đủ loại trời mưa đãđược nhắc tới, nào mưa to, mưa nhỏ, mưa bụi, mưa đá, mưa phùn, mưa lâm thâm, mưa lăn phăn, mưa lún phún, mưa sầm sập, mưa ướt tóc, mưa chết cò, mưa gãy cànhtrám, mưa thối đất thối cát…thì mưa rườn rượt vẫn có vẻ gì đấy riêng của mùa thu mưa ngâu, chợt mưa chợt tạnh, chẳng biết bao giờ hết cho.”Đánh giá, nhậnđịnh về tài năng của nữ sĩ Anh Thơ, Anh Vũđã khẳngđịnh “Có thể ba chữmưa rườn rượt, nữ sĩđã họcđượcởđâu đấy trong chợ búa đồngáng dân dã dân gian, người chỉ có tí công là dámđưa chữ lạ lùngấy vào thơmình, mời thiên hạ từđây cùngdùng chung thôi. Thì ngay trong bốn câu thơ trên… khuyên son cho ba chữ, rành rành dấu vết bàntaysáng tạo của bậc nữ sĩ tài hoa. Sao ba chữchen chúc ướt để bên nhau gợi cảm gợi hình đến thế nhỉ.”
“Ngày tết” là bài thơ cuối tập, nữ sĩ Anh Thơ như khép lại vòngquay của trời đất một năm, để mở ra thời khắc mới. Anh Vũ xúc động bình phẩm “Hai câu thơ mở ra thật tự nhiên và trong sáng Trước cổng làng chòm nêu vừa thức gió/ Bụi mưa phùn đã đổ xuống sân vôi…Chữchòm nêu viếtởđây đúng chất hội họa tạo hình tạo khối nên thơ… Chữthức gió thật sáng tạo. Ai biết thức gió là chòm nêu đánh thức ngọn gió, hay đích thực ngọn gió thổi đến, đánh thức chòm tre.Thật khó phân tích xácđịnh rạch ròi. Chính vì trạng thái lưỡngnan này, câu thơ cóđược hấp lực riêng.”
“Bức tranh quê” là bức tranh phong cảnh liên hoàn về làng quê vàđời sống con ngườiở làng quê. Trong mỗi câu thơ, mỗi bài thơlà một bức tranh phập phồng cảm xúc của nữ sĩ.Nó là riêng biệt của nữ sĩ. Nếu Nguyễn Bính nhìn làng quê bằng con mắtcủaanh chàng lãng tửđã từ làng lang bạt ra phố phường;Đoàn Văn Cừ tái tạo làng quê bằng nhịpđiệuhồ hởi, kể lể, liệt kê; thì bức tranh làngquê của Anh Thơ ngập tràn hồn vía của người nhìn ngắm làng. Với “Bức tranh quê” của nữ sĩ Anh Thơ, sau ba phần tư thế kỷ, Anh Vũđã nhận ra “Từđây con sông, bờđê, bãi dâu đồng lúa, mặt ao bờ tre, gốcđa bến tắm, con thuyềnđường dọc, chiếcđò sang ngang…Từđây ông lão bắt rận, bà già vá khâu, người mẹ về chợ, anh tuần canh đêm, cácả, các chàng, thằng cu, cái hĩm…Từđây đàn trâu đàn bò, con chó con lợn, đàn gà, bầy chim, cò mẹ cò con, chim sâu chim sẻ, đom đóm, chuồn chuồn, bướm vàng bướm trắng… Từđây vi vu sáo diều, thậm thình cối xay cối giã,cái cũi cái lồng, cái hom cái giỏ…Tất cả từđây, thêm hình thêm vóc, thêm cốt thêm hồn, tự nhiên thiên nhiên, mây chiều ráng sớm, miên man hương lý hương hồng, bèo rau dập dềnh, xuân thu đắp đổi, đêm ngàyâm dương. Và sao và trăng…Nếu không phơi ra, sao thành bíẩn.Không dài không rộng, lấyđâu cao sâu”. Anh Vũ nhậnđịnh “Mỗi bài thơ là một bức tranh đầy đặn hình sắc, xao độngâm thanh…Đặc biệt hơn cả là sự chân thành đến mộc mạc, với nhiều chi tiết hồn nhiên tới mứcnhưvụng về, lại như có ma lựcámảnh…Đó là kết quả sự gặp gỡ một tâm hồn nhi nữ không vướng mưu cầu riêng tư, màđơn giản, trinh khiết, luôn hướng tới mỹ cảm thánh thiện, với sự dồn nén bao ước nguyệnđơn sơ và khao khát phía chân trời xa rộng.” Về bút pháp thi phẩm “Bức tranh quê”,Anh Vũ khẳngđịnh“Cả tập thơ chung một thể tám chữ, chung một độ dài mười hai câu, đã là những lý do gợi tới sự liên hoàn củaBức tranh quê.”
Bằng tình cảm trân trọng, yêu quý với một nữ sĩ tài hoa, trên mình, trước mình, từng cùng sống trên mảnhđất Phủ Lạng Thương (Bắc Giang), nhà thơ Anh Vũđã dồn cảm xúc của mình trên từng trang sách tiểu luận phê bình “Bút lực Bức tranh quê”, đã góp thêm một góc nhìn về một tác phẩm văn họcđãđược khẳngđịnh với thời gian. Cũng có thể vì quá trọng, quá yêu tác phẩm của nữ sĩ Anh Thơ, mà Anh Vũ gắn bút pháp “Bức tranh quê” cóthấp thoángnhững phẩm chất tượng trưng, siêu thực, hậu hiệnđại…thì, xem ra, chưa đủ sức thuyết phục ngườiđọc. Tuy rằng, ông có viết “Bao bíẩn mới chỉ gọi là sơ sơ nhận diện, đang chờ bạn tiếp tục cuộc khám phá mới”. Tiếc thay, viết đến những trang cuối này, nhà thơ Anh Vũđã phải buông bút, vì cái chết đếnđường đột. Những muốn hoàn chỉnh tập bản thảo của mình hơn, cũng không còn cơ hội nữa.Tập bản thảo“Bút lực Bức tranh quê” này, được gia đình nhà thơ Anh Vũ tổ chức in ấn, cho ra mắt bạnđọc, nhân ngày giỗ của ông.
Tháng 8-2016

(*)Đọc “Bút lực Bức tranh quê, tiểu luận phê bình của Anh Vũ, NXB Hội Nhà Văn, 2016”

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Putin nghĩ gì, làm gì và liệu Nga sẽ sụp đổ?


Lời người dịch: Dù Putin lo bảo vệ quyền lực cá nhân cho đến cuối đời trong lo sợ, nhưng lại hô hào dân chủ giả hiệu và tinh thần dân tộc cực đoan để tìm sự ủng hộ của dân chúng. Vì Putin ủng hộ cho chế độ phi nhân tại Syria và xâm chiếm Bán Đảo Crimea để phô trương sức mạnh quân sự cho thế giới và dân chúng, nên gây nhiều hậu quả bất lợi cho nước Nga. Do ảnh hưởng của giá dầu xuống thấp và các biện pháp phong toả mà tình hình kinh tế suy vi, Nga không thể tiếp tục tài trợ cho các phiêu lưu quân sự và gia tăng phúc lợi cho dân chúng. Bất ổn xã hội tăng cao và động loạn triền miên nên Nga không thể phát huy tinh thần dân chủ và đoàn kết chính trị. Sụp đổ của Nga như Liên Bang Xô Viết và các nước Đông Âu sẽ là một hồi kết để hạ màn cho chế độ của Putin, nhưng đó là một triển vọng khó lường đoán. Dù có tình huống nào khác tốt hơn có thể xảy ra thì người dân Nga cũng sẽ phải còn tiếp tục sống trong đau khổ.
Các lý giải tổng hợp này của Anders Åslund cũng đúng cho Việt Nam, nhưng tình hình của Việt Nam còn trầm trọng hơn nước Nga nhiều. 




Kommersant Photo/Getty Images


Khi cơn sốt chiến tranh trở lại Ukraina, thì lý do tại sao Tổng thống Nga Vladimir Putin, từ một con người mơ ước tạo ra hiện đại hóa lại thành một kẻ chuyên quyền hung hăng, là một vấn đề được làm sống lại. Cho dù với lý do nào đi nửa – nổi lo sợ cho sự an toàn của riêng mình hoặc ý nghĩa về sự bất bình thuộc lịch sử, hoặc là cả hai – khi Putin không có khả năng để cải cách cho nền kinh tế của Nga, thì dường như chắc chắn là ông sẽ sụp đổ.

Tổng thống Nga Vladimir Putin ở vào thời điểm gây được nhiều chú ý trong chiến dịch tranh cử tổng thống Mỹ cũng giống như Hillary Clinton và Donald Trump. Như theo các chuyên gia an ninh khả tín cho biết rằng Putin có tay chân thâm nhập được các vào máy vi tính của Đảng Dân chủ và lọt qua các kết quả cuả WikiLeaks, nên Putin dường như đang cố làm thiên lệch cuộc bầu cử theo cách của Trump. Bên cạnh việc kêu gọi Nga thâm nhập vào các điện thư của Clinton, Trump dường như đã trả ơn cho Putin bằng cách chấp nhận các lý do của Putin trong việc sáp nhập Crimea và phủ nhận sự hiện diện của quân đội Nga ở miền Đông Ukraine. Nhìn trong con người của Putin, nhiều nhà quan sát thấy có cả lý tưởng lãnh đạo của Trump: độc đoán, không kềm chế và có phong cách riêng.

Trở lại về vấn đề của Nga, Putin đã thậm chí vượt trội hơn Trump trong việc chế ngự các tin tức. Tất nhiên, ông có bộ máy tuyên truyền hùng hậu của Điện Kremlin trong tầm tay, một trong số bộ máy này là không ngừng phóng chiếu hình ảnh của ông như là một Nga Hoàng toàn năng và toàn trí qua hình thức sùng bái cá nhân trong phong cách mới của truyền hình. Tuy nhiên, bất chấp sự hiện diện của một Sa Hoàng khôn ngoan này, nền kinh tế Nga đã gần như nổ tung, dường như đang đi theo một tiến trình trì trệ như thời Leonid Brezhnev, nếu không nói là tệ hơn.

Với thành tích về chủ trương phiêu lưu quốc tế và vụng về trong kinh tế, chuyện không có gì là ngạc nhiên khi Putin đã cuốn hút và gây quan tâm cho các nhà bình luận của Project Syndicate về 16 năm cầm quyền của ông. Ivan Krastev của Center for Liberal Strategies ở Sofia có thể nắm bắt được quan điểm của các nhà bình luận này một cách hay nhất: “chúng ta bị mê hoặc bởi Tổng thống Nga không phải vì Putin là hợp lý, hoặc thậm chí vì ông là mạnh hơn, nhưng vì ông chủ động sáng kiến”, trong khi các nhà lãnh đạo phương Tây dường như quá nhút nhát và/hoặc bị tê liệt trong hành động.

Thuần lý trong ngang bướng

Vladimir Putin là ai và điều gì thúc đẩy ông ta? Khi Putin nắm quyền vào năm 2000, ít ai biết về ông mà mọi người có xu hướng nhìn thấy những gì họ muốn biết. Sau khi nhìn vào đôi mắt của Putin, cựu Tổng thống Mỹ George W. Bush nói rằng ông có thể “nhận được một ý nghiã trong tâm hồn của Putin”, ông nhìn thấy Putin là “một người dấn thân cao độ vì lợi ích tốt nhất của đất nước”. Chris Patten, Ủy viên Ngoại vụ của Liên Âu và có quan hệ với Putin, qua các cuộc gặp gỡ này, ông có một ấn tượng tối tăm hơn nhiều: “Putin nhìn chúng tôi trong ánh mắt và nói dối, gần như chắc chắn ông nhận thức rằng chúng tôi biết ông đang nói dối”.

Ngày nay, việc đánh giá tốt đẹp về Putin mà Bush thêu dệt đã đột nhiên biến mất trong số các nhà lãnh đạo của thế giới, một vài người trong giới này như Thủ tướng Đức Angela Merkel chẳng hạn, họ đã có những kinh nghiệm tương tự như Patten. Nhưng đánh giá càng đáng ngờ nhiều hơn này đã chỉ đem lại những vấn đề khác. Có phải Putin là một bậc thầy về chiến lược luôn dẫm chân lên các đối thủ, gần đây nhất là ông tìm cách gần gủi hơn với Tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ Recep Tayyip Erdoğan trong khi đồng thời tăng thêm căng thẳng mới với Ukraine không? Hoặc có phải Putin là một kẻ vụng về liên tục, người không nhận ra các chiến thắng về mặt chiến thuật ở Ukraina và Crimea, hoặc trong việc ký kết thỏa thuận về năng lượng với giá hạ cho Trung Quốc, tất cả là những thất bại về mặt chiến lược mà nó đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho các lợi ích lâu dài của Nga không?

Adam Michnik, nhà lãnh đạo của phe đối lập chống Cộng sản của Ba Lan trước năm 1989, ông thấy tính cách hung hãn quốc tế của Putin như là nổi lên từ “quan điểm bất thường mà cả thế giới đã phân biệt đối xử chống lại Nga trong ba thế kỷ qua.” Tuy nhiên, Michnik nhấn mạnh rằng theo quan điểm bất động của phương Tây, quan điểm lệch lạc này về lịch sử đã khiến Putin nắm lấy các chính sách có thể được cấu trúc theo một cách thuần lý. Trong xâm lược và thôn tính Crimea, “việc thu tóm bằng bạo lực đã xãy ra – và Putin biết điều đó.”

Một trong những người chỉ trích Putin gay gắt nhất trong nước (mà gần đây bị phải chạy khỏi nước Nga), đó là nhà phân tích chính trị Andrei Piontkovsky, ông đi xa hơn trong khi nhấn mạnh đến tính cách thuần lý của Putin. Ông lập luận là “Putin được hướng dẫn bởi một mục tiêu duy nhất.” Và mục tiêu đó không phải là “tham vọng đế quốc.” Thay vì thế, “mọi chính sách lệ thuộc với mục tiêu cầm quyền Nga của Putin là cho đến khi nào mà ông còn sống”. Các hành động của ông ta không được thúc đẩy bởi một ham muốn đầy bệnh hoạn cho quyền lực, nhưng đang “dựa trên các mối quan tâm hoàn toàn thực tế về sự an toàn cá nhân của mình,” Piontkovsky khẳng định như vậy. Nói một cách đơn giản, Putin “hiểu các quy luật của hệ thống độc tài mà ông đã giúp xây dựng lại nước Nga.”

Nina Khrushcheva của Trường phái mới đồng ý khi lập luận là lo sợ của Putin cho sự an toàn cá nhân là biện minh có cơ sở. Bởi vì “Putin đã thể hiện là ít kiềm chế khi săn đuổi các đối thủ,” dù ông hiểu rằng có “các thỏa thuận bất thành văn giữa các giới lãnh đạo là không bao giờ có thể từ bỏ quyền lực một cách tự nguyện mà không lo sợ cho sự an toàn trong tương lai”. Vì vậy, số phận của người hùng là một loại hoang tưởng thường trực mà nó đòi hỏi Putin duy trì quyền lực cho đến ngày cuối đời của mình.

Để đạt được mục tiêu này, Putin đã làm vô dụng một nền dân chủ còn non trẻ của Nga và thậm chí bịa ra một ý thức hệ giả tạo – “một nền dân chủ với chủ quyền tối thượng” mà trong đó, như cựu Tổng thư ký Liên minh Bắc Đại Tây Dương (NATO) Anders Fogh Rasmussen nói: “tổng thống loại bỏ tất cả đối lập, hạn chế tự do của truyền thông vàrồi thì ông nói với người dân rằng họ có thể lựa chọn các nhà lãnh đạo của họ.”

Mối quan tâm của Putin cho an toàn cá nhân cũng đi theo một con đường dài hướng tới việc giải thích lý do tại sao ông đã kích động sự nhiệt tình tinh thần dân tộc ở trong nước. Vladislav Inozemtsev của Moscow’s Higher School of Economics thấy trong con người của Putin và cách cai trị của ông là một dấu hiệu lờ mờ của chủ nghĩa phát xít, mà theo định nghĩa của nhà sử học Robert O. Paxton là: “Mối bận tâm đầy ám ảnh về sự suy sụp của cộng đồng, ô nhục, hoặc mang tâm trạng là nạn nhân, tinh thần sùng bái cho đoàn kết, tinh thần nhiệt huyết và thuần khiết.”

Viễn kiến này hỗ trợ cho sự khẳng định của Harold James thuộc Đại học Princeton. Đó là một lỗi lầm nghiêm trọng để biến “chính sách của Điện Kremlin thành một bi kịch tâm lý mà chỉ có thể hiểu được thông qua một cuộc thăm dò sâu xa về tinh thần của nước Nga.” Kết quả của một tìm kiếm như thế chỉ là “các quan niệm sai lầm tràn lan về những gì đã thúc đẩy làm cho Putin thay đổi từ một lập trường có vẻ như đang hiện đại hóa, hòa giải, và thậm chí thân phương Tây” trong đầu nhiệm kỳ tổng thống chuyển sang một “chủ nghĩa xét lại hung hăng” ngày nay.

Đáp ứng trước sự đe doạ của một quyền lực đang suy vong

Joseph S. Nye của Đại học Harvard, người có tiếng nói hàng đầu trong học giới về chính sách đối ngoại của Mỹ, ông nhìn thấy “một tình trạng suy vong trường kỳ” của nước Nga, nhưng trong đó “Nga vẫn còn đặt ra một mối đe dọa rất thực tế với trật tự quốc tế ở châu Âu và các nơi khác.” Vấn đề vượt qua khỏi Putin là: “Các quốc gia đang suy vong – thí dụ như Đế quốc Áo-Hung vào năm 1914 – có xu hướng trở nên ít sợ rủi ro và do đó mà họ tạo ra nguy hiểm hơn nhiều.” Thực ra, đối với Nye, mối đe dọa của Nga đặt ra “vượt xa khỏi Ukraine,” nơi mà Putin thôn tính Crimea và sự xâm nhập vào khu vực phía đông Donbas đã đặt ra một thách thức nghiêm trọng nhất đối với trật tự thế giới từ năm 1989. Như vậy, phương Tây phải đứng lên để đáp ứng lại thách thức của Putin, nhưng không phải là làm “cô lập Nga hoàn toàn.”

Shlomo Ben-Ami, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Israel, theo cách lý luận này trong một bước sâu xa hơn. “Đối với một số quốc gia, thất bại về mặt chính trị hay quân sự là chuyện không thể nào chịu đựng được, quá nhục nhã đến độ mà các nước này sẽ làm bất cứ điều gì để lật đổ những gì họ xem như là một trật tự quốc tế bất công. Ben-Ami lập luận rằng:” Mặc dù Putin có thể bị thúc đẩy nhằm để tự bảo tồn, Putin thực sự cảm thấy bị phẩn uất.“ “Chiến lược mới để báo thù ” của Nga có vẻ như là một phản ứng tự nhiên với sự nhục mạ trong thất bại của họ trong Chiến tranh Lạnh và sự bần cùng đi kèm với sự sụp đổ kinh tế của đất nước trong những năm 1990.

Có thể làm gì để kiểm soát đất nước và lãnh đạo bị thúc đẩy bởi các cảm giác nhục nhã? Ben-Ami tiếp tục lập luận là: “Một quyền lực theo chủ trương xét lại có thể bị phản đối với sự nhiệt tình tương ứng” hoặc người ta có thể chờ đợi cho phản ứng này “đạt đến giới hạn của sức mạnh quân sự và kinh tế” và nổ tung giống như Liên Xô. Những giấc mơ của Putin về nước Nga “duy trì thiên hướng và các đặc điểm của một cường quốc: một nền văn hóa và lịch sử phong phú, tầm vóc quy mô, khả năng kinh khủng về hạt nhân, ảnh hưởng mạnh mẽ trên khắp vùng Âu Á, và năng lực để có một nơi điều chỉnh trong một vài cuộc xung đột.” Nhưng Putin dường như mù quáng trước các giới hạn về các nguồn lực của nước Nga.

Đối với Richard N. Haass, Chủ tịch Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, thì việc quyết định của Putin gửi quân sang bán đảo Crimea và sau đó là phía Đông Ukraine đã dẫn đến việc không chỉ làm phật ý phương Tây, nhưng là một phần của nỗ lực không ngừng để tăng cường “nắm quyền lực của mình trong nước.” Haass không ủng hộ việc kết hợp Ukraine vào khối NATO, nhưng ông đề xuất một sách lược đa phương. “Chính sách của phương Tây là nên tìm cách làm đe doạ chiến lược của Putin, bằng cách tăng cường cho Ukraine về phương diện chính trị và kinh tế, hỗ trợ an ninh và đặt thêm các biện pháp trừng phạt kinh tế Nga.

Ulkraine và Syria là các ván cờ đầu của Điện Kremlin

KHi Ngoại trưởng Thụy Điển Carl Bildt là một trong những kiến trúc sư về Quan hệ Đối tác của Liên Âu với các quốc gia Đông Âu trong năm 2009 (cùng có sự hợp tác của Ngoại trưởng Ba Lan lúc bấy giờ là Radosław Sikorski). Kể từ khi Nga xâm lược Ukraine, các Chương trình Đối tác với các quốc gia Đông Âu đã bị chỉ trích là một sáng kiến ngây thơ. Bildt cũng không biện hộ. “Trong khi viễn kiến của Liên Âu cho một ‘châu Âu rộng hơn’ dựa vào quyền lực mềm, hội nhập kinh tế và xây dựng thể chế dài hạn, thì chính sách Nga nới rộng của Putin phụ thuộc vào sự đe dọa và bạo lực”. Chuyện không may là một tình trạng bất đối xứng còn dai dẳng. “Đối với Nga, gây thêm biến động trong ngắn hạn còn dể hơn là đối với châu Âu trong việc giúp xây dựng sự ổn định lâu dài.”

Yuliya Tymoshenko, người đã hai lần làm Thủ tướng Ukraine, bà nói rằng một tình trạng ổn định như vậy không thể phụ thuộc vào cách đặt niềm tin vào thiện chí của Điện Kremlin. Đối với bà Tymoshenko, Putin đã hành động theo một niềm tin đơn giản: “những gì ông có thể chia là để dể trị”. Đó là lý do tại sao số phận của đất nước của bà là rất quan trọng. Bà tin rằng “Những gì xảy ra ở Ukraine sẽ là một thử thách tối hậu để xem liệu việc thống nhất châu Âu và Xuyên Đại Tây Dương có chịu đựng được không” khi đối mặt với những cái bẩy mà Putin đặt ra cho họ.

Nhưng Jeffrey Sachs của Viện Địa Cầu thuộc Đại học Columbia tin rằng niềm tin của Putin là bước thoát ra khỏi các thực tế của thế kỷ XXI. “Putin dường như tin rằng Nga có thể làm đảo lộn bất kỳ tình trạng tồi tệ nào của quan hệ kinh tế với phương Tây bằng cách tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc”, Sachs ghi nhận rằng: “Nhưng những công nghệ và kinh doanh được kết hợp nhau trong toàn cầu là để phân chia thế giới thành các khối kinh tế.” Trong khi đó, “Trung Quốc biết rằng sự thịnh vượng kinh tế dài hạn phụ thuộc vào quan hệ tốt đẹp với Mỹ và châu Âu”, điểm này dường như Putin không nhận ra, có vẻ như Putin không hiểu vấn đề “là nền kinh tế Liên Xô sụp đổ mà kết quả là do tình trạng bị cô lập từ các nền kinh tế công nghệ tiên tiến.”

Việc xâm nhập gần đây của Nga tại Trung Đông thể hiện cả hai vấn đề là sự táo bạo và các giới hạn của chủ thuyết Putin. Anne-Marie Slaughter, cựu Giám đốc Hoạch định Chính sách tại Bộ Ngoại giao Mỹ và Chủ tịch đương nhiệm của New America, bà cho rằng: “Putin đã hành động vì lý do quốc nội – để đánh lạc hướng sự chú ý của người Nga ‘từ thất bại của nền kinh tế trong nước và để xoa dịu sĩ nhục khi xem những kẻ biểu tình ủng hộ châu Âu lật đổ chính phủ Ukraina mà ông hỗ trợ”.

Và từ khởi thuỷ, ông tin tưởng rằng Nga sẽ phải chịu ít chi phí. Đối với một nhà lãnh đạo tự đo lường cho mình theo điều kiện của một kẻ bạo dâm thô kệch”, thực tế thì “Hoa Kỳ là một cường quốc quân sự lớn nhất và linh hoạt nhất trên thế giới, đã được lựa chọn để đàm phán khi bàn tay bị trói sau lưng,” là một lời mời gọi công khai đưa tới việc gây bất hoà.

Ben-Ami nghĩ là Putin đã đạt được mục tiêu ở Syria, ngay cả khi chính quyền của Tổng thống Bashar al-Assad rút cục sẽ sụp đổ. “Sau nhiều năm đứng chung hàng ngũ, Nga hỗ trợ trong tâm điểm của trò chơi thuộc về địa chiến lược ở Trung Đông” và “đã củng cố vị trí như là một quyền lực phải được quan tâm đến”. Bằng cách tự khẳng định trong cuộc xung đột, Nga đã buộc Mỹ phải làm theo Nga. Do đó: “Các nhà lãnh đạo Trung Đông hiện nay hướng đến Moscow, không phải nhìn về Washington để gia tăng các lợi ích”.

Trận chiến Potemkin của nước Nga

Vấn đề chính của Putin ở Syria đã không phải là các phản đối của phương Tây, nhưng thực tế là nền kinh tế của Nga là quá yếu để hỗ trợ các hoạch định lớn lao của Putin trong thời gian dài. Trong vòng sáu tháng của sự can thiệp, chi phí tốn kém của việc phối trí quân đội Nga đã gây cho Putin phải triệt thoái nhiều lực lượng.

Yuriko Koike là Đô trưởng vừa mới được bầu tại Tokyo chỉ ra một cách trung thực là sự can thiệp của Putin tại Ukraine thể hiện sự yếu đuối mà không có hành động kinh nghiệm trước đó. Bà lập luận là “chổ yếu trong tham vọng quyền lực của Putin là một nền kinh tế còn bấp bênh và chưa đủ đa dạng của Nga, và nhiều mong đợi của người Nga bình thường về các tiêu chuẩn sống được cải thiện.“

Thật vậy, vào tháng Ba năm 2014, ngay sau khi Nga chiếm đóng Bán Đảo Crimea, Sergei Guriev, cựu Viện Trưởng New Economic School ở Moscow, hiệnnay đang lưu vong, ông liệt kê những thiệt hại kinh tế lớn mà Nga gây ra như là kết quả trong một chuyến phiêu lưu sai lầm của Putin tại Ukraine. Điều này không chỉ bao gồm các “chi phí trực tiếp của hoạt động quân sự và hỗ trợ chế độ Crimean và nền kinh tế không hiệu quả”, nhưng cũng có những chi phí nhiều thương đau hơn do các biện pháp phong toả về thương mại. Kết quả của cả hai đã “làm suy yếu niềm tin của nhà đầu tư Nga và nước ngoài và gia tăng việc thất thoát vốn tư bản”.

Putin là một nhà chiến thuật, ông đã sử dụng phản ứng của phương Tây để làm lợi cho mình. Cựu Ngoại trưởng Đức Joschka Fischer và Henrik Enderlein, Giáo sư tại Trường Quản trị Hertie tại Berlin, dự đoán việc này. “Nếu phản ứng của phương Tây trước việc xâm lược của Nga tại Ukraine giới hạn có hiệu quả trong các biện pháp trừng phạt kinh tế”, họ viết: “Putin sẽ dễ dàng hơn để có thể đổ lỗi cho phương Tây và Nga cáo buộc sự thù địch làm cho đời sống của người dân Nga bình thường suy sụp, do đó nó làm cho Putin tăng gấp đôi về chủ thuyết dân tộc hiếu chiến”.

Nhưng ý tưởng cho rằng các biện pháp trừng phạt là nguyên nhân của tình trạng khốn cùng kinh tế của Nga chỉ là một phần khác trong tuyên truyền của chế độ. Các biện pháp phong toả chỉ kết hợp các yếu kém dài hạn của nền kinh tế Nga, phản ánh trào lượng tư bản khổng lồ bị thất thoát mỗi năm. Nguyên nhân của việc này, nói như Guriev và Aleh Tsyvinski của Đại học Yale, rõ ràng đây là: “Mặc dù các cơ hội đầu tư ở Nga rất nhiều, các cơ hội này đang bị đè nặng hơn bởi những rủi ro của sự truất hưũ tài sản.” Do đó mà “cổ đông tư nhân muốn bán cho nhà nước nhiều hơn, và lý do tại sao các công ty nước ngoài ưu tiên làm kinh doanh với các doanh nghiệp nhà nước.”

Một phần vì lý do này mà Giáo sư Simon Commander của IE Business School và tôi tin rằng nỗ lực để đa dạng hóa nền kinh tế thoát ra khỏi khu vực dầu mỏ và khí đốt đã thất bại. Hơn nữa, dưới thời Putin, khu vực công đã mở rộng nhanh chóng đến 70% của nền kinh tế, về cơ bản đảo ngược các cải cách tư nhân hóa và thị trường tự do của những năm 1990. Các người trung thành với Putin quản lý doanh nghiệp nhà nước kém cỏi và ít có sự minh bạch tối thiểu, nó làm cho vấn đề còn tệ hại hơn. Chúng tôi đã lập luận là: “Nước Nga của Putin làm ngày càng gợi nhớ đến Tổng thống Suharto của Indonesia – một hệ thống phức tạp của tư bản thân tộc và không ai có quyền sở hữu thực sự.”

Nhưng Charles Wyplosz của Trường Graduate Institute of International Studies tại Geneve đã cảnh báo chống lại các vấn đề phóng đại về khó khăn kinh tế của Nga. “Nga không phải là trường hợp của một cái rổ chờ để chứa các vấn đề kinh tế”, ông lập luận. “Tình hình hiện nay rất khác so với năm 1998”, khi thâm hụt ngân sách lớn lao của Nga và nợ công buộc chính phủ phải vỡ nợ.

Wyplosz nhấn mạnh rằng trong những năm gần đây chính phủ của Putin đã theo đuổi một chính sách kinh tế vĩ mô bảo thủ với mức khiếm hụt ngân sách nhỏ và một khoản nợ công có giới hạn, trong khi tỷ giá hối đoái của đồng rúp mất giá so với giá dầu, làm cho Nga có thể duy tình trạng thặng dư trong tài khoản thanh toán vãng lai. Vì không có tình trạng tổn thương về mặt tài chính nên đã cho phép Nga khắc phục được các biện pháp phong toà kinh tế lâu dài hơn. Và trong khi “quyết định của Putin không thực hiện các cải cách không được phổ cập mà nó có thể tạo ra một khu vực mạnh không thuộc dầu khí và có thể tác hại lâu dài cho tình trạng lành mạnh của nền kinh tế”. Ông tiếp tục lập luận là: “Tình hình này đã cho phép Putin duy trì sự hỗ trợ của đông đảo quần chúng.”

Vladimir Brezhnev?

Tuy nhiên, lựa chọn đó chỉ làm trì hoãn các việc không thể tránh khỏi. Putin là một kẻ cơ hội khéo léo, nhanh chóng chuyển biến lợi thế trong ngắn hạn khi ông cảm nhận sự yếu kém hoặc thiếu quan tâm của giới đối kháng. Nhưng ngoài mối quan tâm của ông về sự ổn định về nền kinh tế vĩ mô, Putin dường như không có cách làm cho cải cách tạo ra cạnh tranh cho nền kinh tế của Nga.

Thật vậy, mặc dù Putin thường đem nhiều lời hứa hẹn lớn lao và hoạch định cho một tương lai rạng rỡ của Nga, thậm chí đoan chắc rằng đến năm 2003 GDP sẽ tăng gấp đôi trong một thập kỷ, ông “đã không báo hiệu bất kỳ các kế hoạch cụ thể nào để giải quyết những yếu kém của nền kinh tế Nga”, nhà kinh tế học Ba Lan Jan Winniecki nói. “Nga phải đối mặt với một thách thức tương tự như trong các năm 1970 và 1980 – và, như Putin ngày nay, các nhà lãnh đạo đã thất bại trong việc làm những gì xem ra là cần thiết.”

Do đó, George Soros lập luận là “chế độ Putin phải đối mặt với sự phá sản vào năm 2017, khi một phần lớn các khoản nợ nước ngoài tăng lên, và bất ổn chính trị có thể bùng dậy sớm hơn. “Với dự báo này, vấn đề cơ bản của Putin hôm nay là: nhờ sự cứng rắn, quá chú trọng vào đầu tư quân sự, và lơ là của phương Tây mà chế độ của ông sẽ kết thúc trong cùng một số phận sụp đổ như Liên Xô?

Nếu Nga sụp đổ, các dự đoán Michnik sẽ được xác minh là đúng. “ông trùm của băng đảng Mafia thường gặp một số phận bất hạnh”. Ông nhắc nhở chúng ta là: “tôi không nghĩ rằng Putin sẽ tiến triển nhiều trong khi hạ màn kết thúc. Tuy nhiên, trong khi đó, nhiều người – trong nước Nga và ở các nơi khác nữa – có thể phải còn chịu khổ.“

Anders Åslund

Dịch giả: Đỗ Kim Thêm

* Anders Åslund là Thành viên Cao cấp của Atlantic Council in Washington, DC. Tác phẩm gần đây nhất của ông là Ukraine: Went Wrong và How to Fix It.

Nguyên tác: The Putin Question. Tựa đề bản dịch là của người dịch.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vẽ vời!

Tháng tám 
một ngày thu trong veo
Không còn nữa mù sương giăng bên đèo
Nhìn rõ sợi ria không theo hàng của bạn
Nhìn rõ dáng người bên núi xiêu..

Buông cọ
ngập ngừng thôi không vẽ
Có gì không yên trong bức tranh chiều..
Có con chim không xương mềm oặt cánh,
Vỗ cánh bây giờ? 
Chim về đâu?

Sao nhìn thấy 
như không nhìn vậy nhỉ?
Tháng tám và chim và em 

xa rồi sao?
Có chi đó không thể thành muôn thủa?
Cây cọ trong tay
đột nhiên thành cây sào!

HG


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Thứ Ba, 30 tháng 8, 2016

CHUYỆN KHÓ TIN MÀ CÓ THẬT ĐẦY CHẤT CỘNG SẢN.


Chuyện tình nhà văn Phan Tứ: Uẩn khúc nào cản trở trách nhiệm của một người đàn ông?
báo Giáo dục thời đại
BLA (Trần Hồng Phong): Hôm nay tôi tình cờ đọc trên trang Facebook của cô giáo dạy văn, nguyên hiệu trưởng một trường trung học phổ thông tại miền Trung vừa nghỉ hưu (vì lý do tế nhị, xin không nêu tên), dẫn lại một bài viết vừa đăng trên báo Giáo dục thời đại ngày 24/8/2016 có tiêu đề "Nỗi buồn Út Phận". Bài viết nói về số phận buồn tủi thiệt thòi của hai mẹ con một người phụ nữ có tên là Võ Thị Phận. Thật bất ngờ khi đây chính là một "nhân vật" trong tác phẩm văn học thuộc dòng văn học cách mạng rất nổi tiếng của cố nhà văn Phan Tứ: Mẫn và Tôi. Mẫn và Tôi là cuốn tiểu thuyết về tình yêu nam nữ và/trong lý tưởng cách mạng, từng làm say mê cả một thế hệ ở miền Bắc XHCN trước năm 1975, với hai nhân vật chính là người con gái tên Mẫn và "tôi" tên Thêm - chính là một phần chân thực của mối tình "lén lút" (có thể nói như vậy) giữa bà Võ Thị Phận và nhà văn Phan Tứ trong giai đoạn khói lửa chiến tranh.
Theo thông tin trong bài báo, được biết mối tình giữa bà Võ Thị Phận và nhà văn Phan Tứ từng có một thuở thật sự đắm say, đẹp. Mà kết quả là hai người đã có với nhau một mụn con (nay là anh Phan Thế Huẫn). Thế nhưng nhà văn Phan Tứ, cho đến khi qua đời vào năm 1995, tức là mãi 20 năm sau ngày đất nước thống nhất, đã/vẫn không chính thức công khai và nhận/thừa nhận con trai và người yêu của mình.
Tìm hiểu thêm, tôi được biết câu chuyện của bà Võ Thị Phận thực ra không phải tới năm 2016 này mới lần đầu được công khai trên báo chí, mà đã từng được nhắc đến từ những năm 2009, 2011, 2014 ... trên nhiều tờ báo khác. Chẳng hạn như hai bài (link) dưới đây:
Gặp cô “Mẫn” trong Mẫn và Tôi của Phan Tứ (Pháp luật TP.HCM) - 2009
Hoài thương một phận người ( báo Quảng Nam) - 2015
Đọc xong bài báo này, tôi thấy lòng thẫn thờ một lát và ... buồn quá!
Vẫn biết rằng chắc chắn phải có uẩn khúc gì đó, mà nhà văn Phan Tứ đã không chính thức nhận con, nhận người yêu, không thực hiện trách nhiệm của một "người đàn ông" như lẽ ra phải vậy (Nếu xét về mặt pháp luật thuần túy, thì nhà văn Phan Tứ phải có trách nhiệm này: trách nhiệm nhận và nuôi dưỡng con).
Chúng ta hiện nay không trực tiếp trải qua và sống trong hoàn cảnh chiến tranh, nên chắc chắn không cảm nhận hay thấu hiểu hết thế nào là lý tưởng cách mạng, thế nào là sự "hy sinh" cho đất nước, tổ quốc tại thời điểm những năm 1960-1970. Trên thực tế, đã có trường hợp mẹ phải giết con để bảo vệ bí mật, an toàn cho người khác. Đây là thời mà chỉ cần yêu một cô gái biết ăn mặc đẹp, bôi son môi ... cũng có thể bị quy chụp là "biến chất", "tiểu tư sản" và bị đồng chí khinh rẻ (như chuyện tình yêu vừa chớm nở giữa chàng trai Paven và cô "tiểu thư" xinh đẹp Tonia, trong tác phẩm văn học Nga Thép đã tôi thế đấy). Do vậy, tôi không nghĩ và cũng không có quyền quy kết hay nhận định theo hướng bất lợi cho nhà văn Phan Tứ.
Tuy nhiên trong lòng mình, tôi cho rằng nhà văn Phan Tứ đã hành động (hay không hành động) không/chưa tương xứng với tư cách của một người đàn ông thực sự. Tôi cho rằng 20 năm sau chiến tranh, không có lý do khách quan nào có thể ngăn cản việc ông nhận con, nhận người yêu một cách chính thức, công bằng và hợp đạo lý. Vì sao? Vì nhà văn Phan Tứ là một CON NGƯỜI chứ không phải bậc thần tiên. Vậy thì việc ông yêu và có con với một phụ nữ, bất luận thế nào, là chuyện hết sức bình thường, bản năng, và chỉ làm cho ông thật hơn, người hơn mà thôi.
Tôi cũng chép lại dưới đây những lời bình luận từ trang facebook của cô giáo văn hiệu trưởng mà tôi giới thiệu ở phần đầu, để mọi người có cái nhìn toàn diện hơn.
Cuối cùng, tôi muốn nói Phan Tứ là một nhà văn mà tôi từng yêu thích. Hầu hết các tác phẩm của ông tôi đều đã đọc và hiện đang có trong tủ sách gia đình tôi. Tuy nhiên sau khi đọc bài báo dưới đây, tình cảm mà tôi đã dành cho ông giảm đi khoảng 50% hay thậm chí nhiều hơn nữa.
.................
Nỗi buồn Út Phận
Thứ Tư, 24/8/2016 07:07 GMT+7
Bà Võ Thị Phận (sinh năm 1939, thôn Tịnh Sơn, xã Tam Mỹ Tây, H.Núi Thành, Quảng Nam) được biết đến là nguyên mẫu nhân vật Mẫn trong tiểu thuyết “Mẫn và Tôi” của nhà văn Phan Tứ.
Nhờ duyên may, chúng tôi được ông Nguyễn Tám (sinh năm 1938, thôn 9, Tam Hiệp, Núi Thành) đưa đến thăm bà. Trên đường đi, khi nói chuyện về bà, ông Tám đều gọi bằng cái tên Út Phận, như ngày còn chiến chinh cũ…
“Cây chò xanh một gốc hai thân”
Năm 1961, nhà văn Phan Tứ được điều về Ban Tuyên huấn khu ủy khu V, hoạt động tại Tứ Mỹ - Kỳ Sanh. Ông Tám khi ấy là Bí thư chi bộ của xã giải phóng đầu tiên ở Quảng Nam này. “Lúc căn cứ đóng tại khu Thượng, tôi có dựng cho anh Bốn Gương (biệt danh của Phan Tứ) một cái chòi để anh có chỗ viết văn.
Tôi nhớ có lần, anh Bốn nhận được thư của người thân từ Bắc gửi vô, dài 21 trang pơ-luya, tôi nói anh cho tôi đọc với, anh bảo một viên đạn từ Bắc gửi vô tốn bảy ký gạo, thì một lá thư của người thân không thể tính được bao nhiêu giá trị, nên muốn đọc thư anh, phải cho anh đọc nhật ký của tôi, để anh có thêm tư liệu viết văn” – ông kể.
Hồi đó, Út Phận là cán bộ phụ nữ xã, gặp Phan Tứ giữa đường cáng thương; một tháng sau, ông Tám dẫn Phan Tứ vào nhà cha bà, nói xã gửi nhờ một thời gian. Cuối năm 1961, Út Phận học lớp đào tạo cán bộ hợp pháp tại Quảng Ngãi, đầu năm 1962 học tiếng Mỹ tại xã, Phan Tứ là người đứng điểm dạy. Cùng gắn bó hoạt động và công tác, tình yêu nảy nở giữa hai người lúc nào không hay, trong thầm lặng, giữa chiến tranh..
Những địa danh Tam Sa, Tam Trân, Lộc Chánh, làng Cá... trong tiểu thuyết “Mẫn và Tôi” đều in dấu ấn vùng đất Tứ Mỹ, Tam Mỹ… và khu vực giáp ranh Chu Lai bây giờ. Nhân vật Thiêm cũng mang hình ảnh của chính Phan Tứ. Nhân vật bé Hoàn có nguyên mẫu là đứa em nuôi của Út Phận, tên là Võ Sầm.
Út Phận không tin nổi Phan Tứ ghi chi tiết về bà như vậy, trong đó có chuyện Mẫn tính khi nào Thiêm đi xa, sẽ chặt đốt ngón tay út cho Thiêm làm kỷ niệm. Tình yêu như “cây chò xanh một gốc hai thân” (chữ Phan Tứ) ấy được Phan Tứ nâng niu: “Người yêu tôi thích nhất bông bạc, cô khuyên tôi đừng bao giờ ngắt, nó chỉ đẹp khi vùng vẫy giữa nước chảy xiết”.
Ai biết, khi gắn hình ảnh Út Phận với bông bạc, Phan Tứ đã vô tình ghép thành hai chữ “bạc phận”.
Bông bạc giữa dòng
Cũng như trong tiểu thuyết, Phan Tứ đâu nhắc đến chuyện 2 người có với nhau một đứa con. Đấy là vào năm 1963. Út Phận nhớ: “Sinh con ra, ảnh bảo tui đặt họ cho con là Phan hay Lê chi cũng được; tui chọn Phan còn tên là Uẩn do cha tui đặt, bởi nó là đứa con uẩn khúc, sau khó kêu quá nên đặt là Huẩn.”
Con được 6 tháng, Út Phận cùng chị hàng xóm bế lên cho Phan Tứ gặp, Phan Tứ gắn vào ngón chân cái của con một chiếc nhẫn vàng, dặn: “Em giữ, khi nào khó quá thì bán”; bảo thêm: “Nếu không gặp lại, anh sẽ làm một cái gì đó để người ta biết chuyện chúng mình”.
Đoạn cuối tiểu thuyết: “Dù anh đi khắp chân trời góc biển, mỗi lần ra trận chúng mình lại gặp nhau, có phải lúc này em đang quấn quýt bên anh, em gần đến nỗi anh chỉ đẩy ngón tay đặt lên tim là nghe ngay tiếng người thương rủ rỉ trong tai, kể rằng quê ta thắng Mỹ rất ngon và hai đứa mình là bông bạc vẫy hai ngón giữa dòng” – độc giả sẽ không ngờ đấy là cái vẫy tay của vĩnh biệt, chứ đâu phải cái vẫy tay của chào nhau. Để lần nhìn mặt tiếp theo, Út Phận chỉ được nhìn Phan Tứ qua di ảnh.
Năm 1995, tang lễ của Phan Tứ tổ chức tại Đà Nẵng, phía gia đình Phan Tứ có mời Út Phận cùng con ra dự. Một vành khăn tang chuẩn bị sẵn cho Phan Thế Huẫn - con trai của Phan Tứ và Út Phận. Huẫn cầm di ảnh cha mình theo đoàn người tiễn cha…
Năm 1969, Út Phận chuyển qua Ban Binh vận tỉnh. Từ giữa năm 1967 đến đầu năm 1971, bị địch bắt, đày tại nhà lao Quảng Tín. Ra tù tiếp tục hoạt động.
Nhưng vào ngày 25/2/1975 xảy ra sự kiện: Một cán bộ cách mạng bị địch mật phục sát hại tại địa phận Tứ Mỹ. Út Phận bị nghi làm tay trong cho địch, bà bị bắt giam. May nhờ có các lãnh đạo sáng suốt và một số đồng chí, đồng đội hoạt động cùng, hiểu rõ Út Phận nên đã đứng ra minh oan cho cô.
Ông Lê Tư Đặng (hiện trú tại thị trấn Núi Thành), thời đó là Chủ tịch UBND kiêm Trưởng ban An ninh huyện Nam Tam Kỳ, người chịu trách nhiệm bắt giam Út Phận, kể lại: “Hiểu rõ oan ức của Út Phận không ai bằng tôi. Mấy đồng chí cơ sở cấp báo lên nên tôi phải tạm giam, nhưng qua điều tra kỹ lưỡng, mới hay đã giam nhầm người.
Hồi đó, địch ráo riết dùng thủ đoạn để làm phía ta nghi kị lẫn nhau. Phần nữa Út Phận không hề mở miệng khẳng định cha của con mình là ai, nên nhiều người mặc định sẵn ý nghĩ cô có quan hệ với ngụy quân từ trước đó. Tôi quyết định ngay thả Út Phận, và tôi không nhầm. Sau giải phóng tôi lục hồ sơ của địch có ghi Út Phận là tay cộng sản cứng đầu”.
Đã được giải oan ngay, nhưng đến nay, Út Phận đã hơn 15 lần làm đơn hồ sơ đề nghị xét thành tích tham gia hoạt động kháng chiến chống Mỹ tại UBND xã Tam Mỹ mà không được giải quyết; trong hồ sơ có xác nhận của ông Can, ông Đặng, ông Tám cùng rất nhiều người nữa là đồng chí của bà.
Ngay cả công an huyện Núi Thành, vào năm 2001, đã có văn bản xác nhận bà hoàn toàn trong sạch. Ấy thế, trong hồ sơ lí lịch, Út Phận vẫn bị ghi là kẻ hai mang; cậu con trai mấy chục năm công tác ngành GD vẫn rất vất vả về lý lịch, lại chưa được bên nội công nhận là con, là cháu.
Cả ông Tám, ông Đặng khi nói về chuyện của bà đều rưng rưng cảm xúc, thậm chí đôi lúc nghẹn lời. Còn bà, bà chỉ ngồi lặng lẽ như nghe chuyện của ai.
Chiếc nhẫn ngày xưa Phan Tứ trao cho được bọc trong mấy lớp vải, bà đem ra cài vào ngón tay, nói: “Theo cách mạng là tôi tự nguyện, cũng không đòi hỏi gì. Tuổi gần đất xa trời, chỉ mong chính quyền cho tui cái giấy chứng nhận tui đã tham gia cách mạng, để tui chứng minh với mọi người tui không phải kẻ hai mang”.
Rồi bà như nói với chính mình: Sau giải phóng hai năm, Bốn Gương có về Tứ Mỹ, đã đến gần đầu con dốc cách đây mấy cây số, không hiểu sao quay ra, biệt luôn”, nói đến đây, bà bật khóc…
Có phần tiếp theo nào của tiểu thuyết có thể ghi ra những tiếng thổn thức này. Có câu ca nào buồn hơn câu ca mà Mẫn từng hát cho Thiêm nghe: Ngó qua chín bãi mười đồng/ Biển xanh xanh lắm mà không thấy người/ Mênh mông con nước xa vời/ Biết ai còn nhớ những lời ngày xưa...
Thành Dũng
Bà Võ Thị Phận với chiếc nhẫn mà theo lời bà là của nhà văn Phan Tứ (ảnh báo Quảng Nam)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGÀY 29-8-1988 ĐỊNH MỆNH & TANG LỄ VÔ CÙNG CẢM ĐỘNG


Ngô Thảo



28 năm ngày mất của Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh

Cuối buổi chiều, sân 51 Trần Hưng Đạo - Trụ sở của 6, 7 Hội Văn học Nghệ thuật xôn xao, ồn ào rồi bàng hoàng khi nhận được tin: Cả nhà Lưu Quang Vũ chết hết rồi.

12 giờ đêm, xe của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đưa được thi hài 3 người từ Bệnh viện Hải Dương về đến Hà Nội. Ở cổng Bệnh viện Việt - Đức mấy trăm nghệ sĩ hơn chục đoàn sân khấu Hà Nội và bạn hữu đã khóc rầm rĩ suốt phố Phủ Doãn. Đêm hè, trời oi ngột, nhà xác bệnh viện Việt Đức trống trải khó chịu đựng được mấy ngày. Nhờ đạo diễn Đình Quang - Thứ trưởng Bộ Văn hóa liên hệ, 3 quan tài được chuyển về nhà xác Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô - nơi duy nhất có nhà lạnh chứa, ở đó họ có 3 ngày cuối cùng bên nhau nơi dương thế!

Thay quan tài là việc theo phong tục rất kiêng kỵ. Nhưng đạo diễn Hoàng Quân Tạo của Nhà hát kịch Hà Nội đại diện nhiều nghệ sĩ dứt khoát bằng giá nào cũng phải thay quan tài mới tử tế hơn.

Lại phát sinh vấn đề về thủ tục hành chính: Nơi an táng 3 người ba tiêu chuẩn: nhà thơ Xuân Quỳnh, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn - được an táng Khu A Văn Điển. Còn Vũ chỉ mới cán sự ba. Và cháu Quỳnh Thơ có khu giành cho tuổi nhỏ.

May có mấy ngày chờ đợi, cả giới Sân Khấu đã cùng nhau chạy để cuối cùng đồng chí Trần Độ, Ủy viên TƯ Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn TƯ quyết định để ba người có một suất mộ chung ở Khu A nghĩa trang Văn Điển. Có lẽ đến giờ, đây vẫn là khu mộ gia đình duy nhất ở nghĩa trang này. 
Tang lễ 3 người tổ chức ở Trụ sở Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật 51 Trần Hưng Đạo, không chỉ có các văn nghệ sĩ tất cả các hội đang có ở Hà Nội, nghệ sĩ các đơn vị sân khấu, các đoàn ở miền Bắc từ Đà Nẵng - quê Vũ trở ra, mà còn rất đông công chúng yêu mến, hâm mộ Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh. Hai hội Nhà văn và Sân khấu đã phối hợp tổ chức một tang lễ trang nghiêm, xúc động và... hoành tráng!

Tổng thư ký Hội nhà văn Vũ Tú Nam đọc điếu văn cho Ủy viên Ban chấp hành Xuân Quỳnh. Nhưng Vũ chỉ là cán sự ba! Không chút phân vân, Nghệ sĩ nhân dân Dương Ngọc Đức chuẩn bị điếu văn cho Lưu Quang Vũ. Xử sự theo quy định hành chính thông thường chắc không ai dám chắc. Nhưng Tổng thư ký Dương Ngọc Đức là người lão thực. Ông hiểu tình cảm của giới Sân khấu, hiểu vị trí Lưu Quang Vũ trong sân khấu việt Nam. Bài điếu văn của Hội đã thể hiện sự đánh giá tức thời mà chuẩn xác về vị trí, đóng góp của Lưu Quang Vũ, không vì xúc động mà đề cao quá đáng, cũng không vì ấn tượng quá khứ, mà không thấy thành quả và tầm vóc thực sự của người vừa nằm xuống.

"Lưu Quang Vũ là người lao động lực lưỡng gồng trên đôi vai rộng khỏe của mình chương trình tiết mục hàng bốn năm mươi đơn vị nghệ thuật trên cả nước..." - hai mươi năm qua, những lời điếu văn viết vội ấy vẫn nguyên giá trị.

Hàng ngàn người Hà Nội đã tham dự tang lễ gia đình Quỳnh - Vũ. Có vòng hoa bạn bè cả nước và quốc tế. Theo phong tục, xe đưa quan tài qua nhà 96 Phố Huế đối diện chợ Hôm. Một cuộc tập hợp bất ngời của đông đảo tầng lớp công chúng với những tiếng gào thét tiếc thương làm tắc cả một quãng đường Phố Huế - Trần Nhân Tông. Chặng đường từ đó về Văn Điển đông nghẹt người đưa. Cho đến nay, đó vẫn là một đám tang lớn và xúc động ít thấy ở Hà Nội...
(Nhớ về Lưu Quang Vũ - những khoảnh khắc chợt hiện, Ngô Thảo)Nguồn: FB Bùi Quang Minh

Phần nhận xét hiển thị trên trang

THÂN PHẬN CỦA NHÀ VĂN VÀ... NỖI BUỒN DANH LỢI


Tạ Duy Anh


Gửi nhà văn Bảo Ninh
Kết quả hình ảnh cho Tạ Duy Anh

Vài lời của tác giả: Bài này tôi viết năm 2008, sau khi đọc Tôi đi tìm cái tôi đã mất của Nguyễn Khải. Bạn đọc có thể vẫn tìm thấy qua Google nguyên văn bài NÉN NHANG MUỘN CHO NGUYỄN KHẢI, dài 6000 từ. Nhân dịp nhà văn Bảo Ninh trượt giải thưởng Nhà nước về văn học Nghệ thuật lần này, xin trích ra một đoạn gửi tặng riêng ông, người mà đến tận giờ này tôi vẫn coi là một trong vài niềm hy vọng lớn nhất của văn chương nước Việt. Tôi tha thiết muốn ông luôn nhớ hai câu, một của dân gian: Ăn xôi chùa ngọng miệng; và một của Nguyễn Trãi: Lưng khôn uốn, lộc nên từ.
Từ tâm thế ấy, tôi thành thật chia vui với Bảo Ninh và mừng cho bạn đọc.

…Bi kịch mang mầu sắc hài kịch của trí thức Việt, trong đó có đám văn nhân (tất nhiên không tính bọn giả danh), từ cổ chí kim, chính là luôn phải vờ vịt. Vờ vịt, tức là biết rõ nó không phải vậy, nhưng lại cứ phải làm ra rằng mình hiểu nó như vậy. Vờ trung thành, vờ kính trọng, vờ cúc cung tận tuỵ, vờ khép mình, vờ lắng nghe, vờ chăm chỉ, vờ ngoan ngoãn, vờ ca ngợi, vờ thán phục, vờ yêu…và những thứ vờ vĩnh ấy có thể làm bất cứ lúc nào, bất cứ chỗ nào, làm bao nhiêu cũng không sao ngoại trừ chỉ có lợi. Riêng một thứ không hề vờ, ấy là sự khinh ghét thì phải nén lại, giấu thật kỹ kẻo hé ra có kẻ biết là tàn đời (mà kẻ rình rập để tố cáo, tâng công thì nhiều như ruồi, ngay trong giới cầm bút); phải luôn tìm cách nhồi nó xuống, nuốt thật sâu, quên đi được thì càng phúc. Còn sống là còn phải quên. Chờ đến ngày sắp lìa đời, nếu chưa cạn hết lòng tự trọng, còn biết hổ thẹn thì viết nó ra để thanh minh và sám hối. Giả dụ như những câu thơ sau đây của Chế Lan Viên, tất nhiên là chưa có trong tuyển tập chính thức nào:

Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần đưa vào thơ, tôi đã giết rồi
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ
Tôi giết cái cánh sắp bay…trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn Mặt trời lên trên biển
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gầy còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi-người có lỗi
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình.
(Trích theo Lê Thiếu Nhơn)
Rồi như trường hợp Nguyễn Khải.
Và ngoài các ông ra, liệu còn ai nữa?
Nhiều người chưa kịp đọc Tôi đi tìm cái tôi đã mất, biết tôi đã đọc, nóng ruột hỏi tôi nó thế nào, tôi trả lời họ rằng: “Toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Khải, nếu chưa đọc mà không có thời gian, thì chưa cần phải vội, nhưng riêng bài đó thì nên đọc, phải đọc, đọc ngay”. Và tôi nói thêm: “Chỉ cần Tôi đi tìm cái tôi đã mất, thôi thì hơi muộn, Nguyễn Khải đã làm tròn sứ mệnh của một người cầm bút, một trí thức Việt”.
Đúng như dự đoán, người như Nguyễn Khải sao lại không biết cái điều một nông dân hơi có học cũng biết. Nhưng vì ông là trí thức, lại là trí thức Việt nên nó đành phải sống hai mặt như vậy. Cái mặt đem đến cơ quan, ngồi trong hội nghị, trong các cuộc họp kín họp hở, những lần học nghị quyết, những lần đến nghe thỉnh giáo, thậm chí cả khi nằm bên người tình…là cái mặt nạ vô hồn, vô cảm một cách trơ lỳ, cái mặt dởm. Càng đắp sao cho nó không còn là mặt mình, tô vẽ cho nó nhoè nhoẹt, bóng mỡ… càng được tin cậy. Muốn sống yên thân thì cấm được để lộ ra cái mặt thật. Rồi phải bằng mọi cách, kể cả lừa thầy phản bạn cũng phải cố mà có lấy một tí danh. Đã mang thân phận trí thức Việt mà không có tí danh phận thì mọt đời không ngóc cổ lên được. Bởi nó biết nó quá yếm thế, quá nhỏ bé, quá thê thảm. Nó lại sống trong một cơ tầng xã hội mà chỉ cần đếm các mối dây nhằng nhịt vào nhau đã không đủ thời gian. Anh là ai, làm gì, sống thế nào thây mặc anh. Nhưng anh đừng bôi gio trát trấu vào mặt bố mẹ, dòng tộc, đừng làm vợ con phải khốn đốn. Mà anh là ai mới được chứ? Anh chỉ là một thứ vẹt, chủ ho thì ho theo, chủ khạc cũng phải cố mà khạc theo. Đời anh và nói chung đời người được bao lăm để anh cựa quậy? Anh cựa quậy để đem lại cho anh, cho vợ con anh được cái gì?
Những câu hỏi như vậy ban đầu có thể là những lời van xin của người thân, nhưng dần dần nó là lời khuyên khôn ngoan mà một kẻ khoác áo trí thức quốc tịch Việt phải thuộc. Nó có bài học đắt giá hẳn hoi. Hãy xem đấy. Khi nhóm Nhân văn tưởng có thể làm mưa làm gió, họ là ai, hành xử thế nào? Như tôi thì tôi chỉ biết họ là những người hùng. Nhưng tôi thực sự tiếc cho họ, khi mới đây tôi thấy các bậc trưởng lão của nhóm (chỉ tính những người còn sống) hớn hở nhận giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Chuyện đúng sai, lầm lỗi hay lầm lẫn của phía nào không còn là vấn đề, mà quan trọng hơn là cái mục đích thượng tôn nghệ thuật, thượng tôn công lý mà họ tin là rất cao cả (còn tôi thì tin vào họ), cuối cùng vỡ lẽ ra cũng chỉ vì một chút danh còm.
Giả dụ những nhà lãnh đạo trước đây đủ cao tay, đủ thông minh để sớm ban cho họ cái giải thưởng ấy, thì mọi người trong đó có tôi đỡ đi bao nhiêu là giả định về một hiện tượng tưởng là bí ẩn nhất của lịch sử văn học nước nhà. Đã đỡ phải tốn bao nhiêu là tình cảm xa xỉ dành cho họ.
Hoá ra Nguyễn Khải còn kịp nói được những điều mà đáng lẽ nhóm Nhân văn phải thể hiện bằng hành động. Tôi chỉ vẫn không hiểu một điều: Tại sao lúc sống, chính ông biết rõ rằng đến giải thưởng Lenine, giải thưởng Staline (từng được tuyên truyền là những giải thưởng lớn tầm thế giới?) còn chả ra gì, chỉ sau mươi năm từ ngày Liên Xô sụp đổ đã chẳng còn ai nhớ tới-hoặc, như một anh bạn Nga, có những tác phẩm được giải Staline, giờ đây chỉ được nhớ tới như nhớ một điều xỉ nhục văn hóa Nga-mà ông lại vẫn không thể từ chối nhận giải thưởng mà ông biết là bé hơn rất nhiều về tăm tiếng?
Ông khiến tôi nhớ lại một đoạn hồi ký của Bô-rít Enxin, kể khi ông này ngồi phê chuẩn các quyết định do chính phủ Nga đệ trình. Ông phê duyệt gần như tức thời mọi thứ, kể cả những đệ trình liên quan đến vũ khí hạt nhân, đến sự an nguy của nước Nga trong chiến lược đối phó lại việc NATO mở rộng sang phía Đông. Ngay cả việc khôi phục lại danh dự dòng họ Romanov của các Sa Hoàng, một vấn đề đương nhiên là nhạy cảm đối với xã hội Nga hậu cộng sản vừa sợ, vừa coi khinh nhưng vẫn vừa luyến tiếc di sản quá khứ, mà ông đặt bút ký khá dễ dàng. Vậy mà ông đã mất mấy ngày trời cứ ngồi xuống, đứng lên trước quyết định tặng thưởng văn chương nước Nga cho tác giả Quần đảo địa ngục mà không dám đặt bút ký, chỉ vì lo sợ ông nhà văn thiên tài bị trục xuất oan uổng này sẽ…từ chối!
Lúc ấy tôi bỗng nghĩ, ví thử đặt vào vị trí Enxin là ông chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tên ông nhà văn Nga kia thay bằng cái bảng danh sách các nhà văn được đề nghị trao giải thưởng Nhà nước, giải thưởng Hồ Chí Minh, có lẽ vị Chủ tịch của Việt Nam chỉ do dự mỗi một điều, nếu phải bỏ bớt một số lại để phong tặng đợt sau (giả dụ chỉ là do vấn đề ngân sách thôi) thì biết bỏ ai ra bây giờ? Không thể bỏ ai cả. Họ sẽ lăn đùng ra ăn vạ. Ngay từ khi đề cử họ đã kiện tụng, bôi nhọ nhau ầm ỹ, chạy lên xuống tơi tả sao cho tên mình được lọt vào danh sách cơ mà? Chỉ riêng chuyện đó thì ông Chủ tịch Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sướng hơn ông Tổng thống Nga rất nhiều.
Tất nhiên các nhà văn Việt Nam không thể so được với các nhà văn Nga. Nhưng giá như Nguyễn Khải đủ bản lĩnh để từ chối cái giải thưởng mà chính ông ví nó như một “tấm bia mộ sang trọng”, hẳn ông đã mang xuống mồ (hay nói văn chương là về thế giới Vĩnh cửu, thế giới chỉ toàn Ánh sáng) một gương mặt khác! Ít nhất thì linh hồn ông cũng thanh thản hơn.
Nhưng có lẽ là chỉ đáng tiếc cho mong ước của tôi thôi. Chưa kể ông không đủ tự tin rằng mình không cần bất cứ danh hiệu nào ngoài danh hiệu nhà văn để làm điều đó, thì vẫn còn lý do khác: ông vẫn cần bám vào một cái gì đó để sự vờ vịt trong ông sống nốt những năm tháng cuối cùng của nó. Nếu ngay cả điều đó ông cũng vượt qua được, thì vẫn còn cản trở cuối cùng, cửa ải cuối cùng mà cho đến nay chưa một nhà văn nào thế hệ ông thoát được là nỗi sợ bị chê là dại, từ chính những người thân. Bởi vì ông trước sau vẫn là trí thức Việt.
Tuy thế, mặc lòng, dù nói gì thì nói, một nhà văn Việt “vinh quang đầy mình” mà dám phủ nhận như ông rằng (cũng là một lời tiên đoán tuyệt đối chính xác cho phần lớn các trường hợp khác): Tôi cũng được giải thưởng văn chương cao nhất cấp quốc gia, nhưng tôi biết chỉ mươi năm nữa, thời thế đổi thay chắc chả còn ai nhớ tới mình nữa. Tôi là nhà văn của một thời, thời hết thì văn phải chết, tuyển tập, toàn tập thành giấy lộn cho con cháu bán cân, đáng cho ta phải ngả mũ.
Bởi vì, cho dù là lời nói của người trước khi chết, vẫn cứ là của hiếm cho đến nay.
(…)
Hà Nội tháng 6 năm 2008
(Rút trong tập tản văn Nghĩ mãi không ra, chưa xuất bản)
Tạ Duy Anh


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đồng chí này quá hay!

Tổng thống Uruguay: Ở nhà nhỏ, đi xe cũ, để dinh thự cho dân nghèo tá túc



Ngôi nhà của Tổng thống Jose Mujica nằm ở vùng ngoại ô của thủ đô Montevideo của Uruguay, đó chỉ là một căn nhà nhỏ bé, bình dị.

“Người ta gọi tôi là tổng thống nghèo nhất, nhưng tôi không cảm thấy nghèo. Người nghèo là người chỉ cố gắng làm việc để duy trì một lối sống tốn kém và họ luôn muốn nhiều tiền hơn. Đây là vấn đề tự do. Nếu bạn không có nhiều tài sản, bạn sẽ không phải làm việc cả đời như nô lệ để giữ đống tài sản. Vì thế, bạn sẽ có nhiều thời gian hơn cho bản thân”…

Đó là những chia sẻ của Tổng thống Uruguay Jose Mujica. Ông là vị tổng thống được công nhận thanh liêm nhất trên thế giới, đồng thời cũng là vị tổng thống được yêu mến nhất tại châu Mỹ La Tinh. Những câu chuyện về ông được lưu truyền trên khắp các nơi trên thế giới, phong cách làm quan của ông càng khiến các chính khách trên toàn cầu kính phục.

Sau khi ông lên nhậm chức liền tuyên bố sẽ quyên góp 90% tiền lương của mình cho các tổ chức từ thiện để giúp đỡ những người nghèo khổ. Mặc dù là tổng thống của một nước nhưng ông và vợ vẫn sống trong một căn nhà nhỏ ở vùng nông thôn, chăm sóc con rùa của họ, và toàn tâm toàn ý vì người dân phục vụ.

Ngôi nhà của Tổng thống Jose Mujica nằm ở vùng ngoại ô của thủ đô Montevideo của Uruguay, đó chỉ là một căn nhà nhỏ bé, bình dị.

Đệ nhất phu nhân Uruguay, đồng thời cũng là tham nghị viên của Uruguay, bà cùng với chồng là Tổng thống Jose Mujica sống trong một căn nhà nhỏ ở vùng ngoại ô.

Xe của Tổng thống Jose Mujica là loại xe Volkswagen Beetle sản xuất năm 1987, đã từng có một thương gia Arập ra giá 1 triệu USD để mua lại chiếc xe của ông, nhưng bị ông từ chối. Nghe đồn, Tổng thống Jose Mujica đã có ý bán chiếc xe cũ này đi nhằm lấy tiền quyên góp cho các tổ chức từ thiện, ông muốn giúp đỡ cho nhiều người dân nghèo nữa.

Đã từng có một người đàn ông ở miền Tây Nam Uruguay đứng bên đường và giơ ngón tay cái ra xin đi nhờ xe, hàng mấy chục chiếc xe đi qua nhưng không ai cho anh ta đi nhờ, xe này nối tiếp xe kia đi qua. Cuối cùng cũng có một chiếc xe dừng lại, hỏi anh ta đã xảy ra chuyện gì, đồng thời nói với anh rằng: “Tôi chỉ có thể đưa anh đi xa nhất là tới phủ Tổng thống”. Anh vui mừng bước lên xe, nhưng cuối cùng anh mới nhận ra, người có tấm lòng lương thiện kia chính là Tổng thống Jose Mujica. Người đàn ông ấy tên là Acosta – anh kể lại, lúc đó có một chiếc xe treo biển chính phủ đi tới và dần dần dừng lại trước mặt anh, khi anh lên xe cũng tuyệt nhiên không biết người này là ai, có điều người phụ nữ trên xe nhìn có vẻ quen mắt, khi nhìn kỹ thì nhận ra đó là phu nhân tổng thống – bà Lucia, và chiếc xe này chính là xe của Tổng thống Jose Mujica.

Con chó yêu quý của Tổng thống Jose Mujica chỉ có ba chân, nó là một giống chó phổ biến ở Uruguay, ngày thường ông Jose Mujica thường ôm nó đi trả lời phỏng vấn.

Dinh thự của Tổng thống Jose Mujica thường được mở vào mùa đông để cho những người dân nghèo và người dân du lịch đến tá túc.

Cuối cùng xin dịch tặng các bạn vài câu danh ngôn của Tổng thống Jose Mujica:

“Quyền lực không thể cải biến một con người, nó chỉ có thể bộc lộ tự ngã chân chính của người đó”.

“Tự do chính là sử dụng đại bộ phận thời gian của bản thân vào việc yêu thương chân thành mọi sự vật sự việc trên đời”!

“Thế giới của chúng ta không cần thiết phải có nhiều tổ chức quốc tế như thế, nhu cầu của họ là những quán rượu móc xích với nhau, còn nhu cầu của chúng ta là nhân đạo và khoa học”– Đây là phát ngôn của Tổng thống Jose Mujica tại Liên Hợp Quốc.

Theo NTDTV
Phần nhận xét hiển thị trên trang