Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 30 tháng 9, 2017

Tôi đi kiểm tra... Trung Quốc..

 (Ghi nhanh, thư giãn)

1
Từ Sài Gòn bay đi Bắc Kinh HẾT 6 TIẾNG, các chuyến tour thường bay sáng sớm (để kịp đi tham quan buổi chiều), tức nếu bạn bay vào lúc 5g sáng sớm ở SG thì 11g sáng sẽ đến Bắc Kinh. 
Vận tốc của máy bay Airbus chẳng hạn, thường là 800km/h, trừ lên xuống (chậm) nên vận tốc trung bình là 600km/h, dễ suy ra KHOẢNG CÁCH SÀI GÒN-BẮC KINH KHOẢNG 3600-3800km (tương đương khoảng cách đến Seoul, Hàn Quốc*, Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên, hay Tokyo, Nhật Bản, có thể xem 4 thủ đô này là cùng ‘kinh độ’), càng dễ suy ra khoảng cách Hà Nội-Bắc Kinh.

Sài Gòn nói riêng hay Việt Nam nói chung, CÁCH TRUNG QUỐC 1G hay ‘một múi giờ’, tức nếu ở VN là 11g sáng thì ở Bắc Kinh là 12g trưa (còn ở Seoul Hàn Quốc thì ‘trễ’ hơn, cách ta hai ‘múi giờ’, nên là 1g chiều).
Vào mùa thu, khí hậu ở Bắc Kinh khá mát mẻ, nay, ban ngày có nhiệt độ là 20 độ C...


*
Có một cái đúng trên mạng, đó là BẮC KINH BỊ Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG RẤT NẶNG: 'bên này ô nhiễm lắm đi đâu cũng bụi mù trời' (trích Sổ tay ghi chép)...
KHÁCH SẠN (giá trung bình) ở Bắc Kinh giống như các khách sạn ở VN, vì khách sạn nào cũng như khách sạn nào!, đối với các tour du lịch thì khách có thể ở chung 3-4 người một phòng.
Từ khách sạn nhìn ra, đường phố Bắc Kinh 'vào đêm' trông giống như đường Trần Hưng Đạo, Hà Nội hay Nguyễn Huệ, Sài Gòn, đường khá vắng (so với VN) vì CHỦ YẾU LÀ Ô-TÔ/XE CA chứ hầu như không có xe máy...

*
'Bên này người ta KHÔNG CHO DÙNG FACEBOOK' (trích Sổ tay ghi chép), tuy nhiên, nếu du khách mua sim lạ - một loại 'sim đặc biệt' thì có thể truy cập facebook, chứ không hẳn là tuyệt đối 'cấm', tức là ta có thể dùng 'video call' (một loại tương đương webcam hay skype...) gọi về VN nói chuyện thoải mái.
Nay, 1 đồng TQ (tệ) = 3.500 đồng VN, trong khi vào năm 2000, 1 tệ = 2.000 đ... Cho nên, muốn truy cập facebook thì khách phải mua một cái sim giá 700k (tức 200 'tệ', đắt hơn bên Sin - có 300k) tên là TRUEMOVE với toàn tiếng Anh (xem hình)...
*
ĂN UỐNG ở TQ có thể nói là khá khác, nếu không muốn nói là rất khác với VN.
Tương tự như ở Chợ Lớn, Sài Gòn, hay bên Singapore, người Tàu ăn bày biện đơn giản, không cầu kỳ, kiểu cách (xem hình). Họ thường ăn bằng nĩa, chủ yếu là ăn đồ xào, dùng dầu và đường nhiều: 'Món nào cũng toàn dầu..., không có nước mắm..., nó nấu toàn xì dầu với dầu ăn thôi..., canh thì nó hỗn độn và đục đục chứ nước không ‘trong’ như bên mình' (trích Sổ tay ghi chép), tức không có canh 'thuần' rau muống, bù ngót, rau đay, bầu, bí đao... như bên ta...
Ngoài ra, ở bên đó quan sát thấy nhà hàng nào, khách nào cũng uống bia loại 500ml với nhãn hiệu là Yanjina...
Nói chung, trừ trường hợp người Việt đi tour thì do đăng ký trước nên có cơm ăn, đũa..., thì có thể hình dung cơm Tàu thường là ‘cơm xào’ - giống như cơm chiên Dương Châu, canh Tàu là canh thập cẩm - gần gần như kiểu canh chua cá lóc hay bún mắm miền Tây, hay món cà ri - nhưng không được bài bản như cà ri đám cưới ở VN...
*
Du khách thường được ở không xa Quảng trường Thiên An Môn lắm... 
Thường đầu tiên là đi thăm BIỆT PHỦ HÒA THÂN (Hòa đại nhân*) - một trong những ‘Thiên hạ đệ nhất tham quan' trong lịch sử Trung Hoa... Có thế nói là thời đoạn 1790-1799 là thời giàu cực đỉnh của Hòa Thân: 'khu kho chứa của cải của ổng gồm 3-4 gian, gian dài nhất khoảng 50, 60m' (trích Sổ tay ghi chép)...
'Sau khi vua Càn Long chết, do những tác động hữu hiệu của Kỷ Hiểu Lam và Lưu Dung (Tể tướng Lưu Gù), Hòa Thân bị vua Gia Khánh hạ lệnh thắt cổ giữa chợ' - tư liệu trên mạng hay wikipedia là không đúng lắm!, bởi sự thật là Hòa Thân 'chấp hành' lệnh của vua Gia Khánh, phải tự thắt cổ mà chết (một trong 2 hình phạt của hoàng đế Tàu, một là uống thuốc độc, hai là thắt cổ chết bằng dải lụa).
Lý do: Được đồn đại là môt 'bê-đê' của Càn Long!, thuở sinh thời, Hòa Thân có được Càn Long tặng một chữ 'phúc' (xem hình). Bảng chữ 'phúc' này hiện nay được bảo tồn, được lồng kính nên nếu nhìn từ xa thì không rõ lắm...
Nay, 'chữ này nằm sâu trong hang... do ổng xây dựng để cất..., nhờ chữ phúc này mà sau này gia đình Hoà Thân thoát chết..., ông chỉ phải tự treo cổ' (trích Sổ tay ghi chép), bởi bên Tàu thời phong kiến có lệnh 'tru di tam tộc', thậm chí là 'tru di cửu tộc'!...
*
TIẾNG TÀU rất khó nhớ, và mặc dù có đi chung với vài người Việt gốc Tàu, nhưng 'nghe miết mà chẳng nhớ nổi’!

Xin hẹn ngày mai kể tiếp…

---------
Chú dẫn:
1- Đi tour Hàn Quốc: Xứ Hàn cách ta 2 múi giờ (lệch về phía biển), nên cứ lấy giờ ta cộng thêm 2 là ra giờ Hàn; nó cách ta khoảng 3400km, nên từ Đà Nẵng có thể bay đến Seoul (sân bay Incheon, đồng thời cũng là một nơi quá cảnh để bay sang Mỹ) hết khoảng 3,5 - 4,5g, tùy theo điều kiện thời tiết tốt hay xấu (và nói chung khoảng cách từ ta đến Bắc Kinh, Seoul, Bình Nhưỡng (cách Seoul 50km)… là khá như nhau, vì chúng gần như cùng nằm trên một tuyến nằm ngang), có nhiệt độ biến thiên từ âm 6 độ đến 6 độ C (có lúc âm 12 độ) vào mùa đông với nhiều nơi tuyết rơi như bông trên đầu người và nước trên nhiều dòng sông có thể bị đóng băng… Xem thêm: http://nhagomlabang.blogspot.com/2017/02/897-bat-canh-he-nguoi-tinh-im-lang.html
2- Hòa đại nhân: ‘Hòa đại nhân’ hay Hòa Thân (1750-1799) xuất thân từ một gia đình nhà võ, không giàu có lắm. Tuy không có bằng cấp nổi trội, nhưng thuở nhỏ ông là một cậu bé có thiên tư, có một nền học vấn rất cơ bản, lớn lên lại rất chịu khó tự học, vì thế có lúc làm đến chức Quân cơ đại thần, Cửu môn đề đốc…., đặc biệt là ông rất có tài về ‘nâng cần’ ( = nịnh). Ông là ‘sủng thần’ của vua Càn Long, đã từng tư vấn nhiều ‘giải pháp’ trị nước cho vua và được đề bạt thăng chức đến 47 lần (mà được xem là ‘vị vua thứ hai’ vào thời đó). Tuy nhiên, ông yêu ‘tiền’ hơn dân mà đã đem hết trí lực và sức lực trong đời ra để vơ vét càng nhiều càng tốt, ông đã từng tuyên bố: ‘thứ gì mà Hoàng Thượng có, ta cũng có, thứ gì Hoàng Thượng không có, ta cũng phải có’, và ngày nay Cung Vương Phủ vẫn còn đó: ‘Tổng diện tích 60 nghìn m2, trong đó phủ đệ chiếm 32 nghìn m2, hoa viên chiếm 28 nghìn m2’, và 'Hoa viên còn được gọi là Tụy Cẩm Viên. Bố cục tổng thể 3 mặt giáp giả sơn, với hơn 50 Cảnh Điểm phân bố 3 trục Đông, Tây, Trung. Vương Phủ theo vòng quay của thời gian, hàm chứa hết những tinh túy, cao quý của văn hóa Vương phủ đời Thanh’ (theo ttvnol.com). Vì thế, ông được nhân dân phong tặng danh hiệu ‘Đệ nhất tham quan’. Sau khi vua Càn Long chết, do những tác động hữu hiệu của Kỷ Hiểu Lam và Lưu Dung, Hòa Thân bị vua Gia Khánh hạ lệnh thắt cổ giữa chợ, thế là Đệ nhất tham quan cũng đành phải ‘tủi nhục’ về với cát bụi. Xem thêm: http://nhagomlabang.blogspot.com/2013/03/324-nhan-oc-truyen-ky-hieu-lam-te-tuong.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Oan Thị Mầu


Trân Văn - Theo báo chí Việt Nam, ngày 28 tháng 9, Tổng cục Môi trường đã triệu hồi ông Nguyễn Xuân Quang về Hà Nội để giải trình. Chẳng riêng dân chúng, báo giới mà bây giờ, dường như cả lãnh đạo Tổng cục Môi trường cũng thiếu đồng cảm với ông Quang, người vừa mất 385 triệu đồng!
Image result for Nguyễn Xuân Quang Cục phó Cục Kiểm soát hoạt động bảo vệ môi trường
Đúng là “họa vô đơn chí”!
Ông Quang, Cục phó Cục Kiểm soát hoạt động bảo vệ môi trường là một trong những viên chức được chỉ định làm lãnh đạo mười đoàn thanh tra, chia nhau kiểm tra tất cả các doanh nghiệp mà hoạt động có thể nguy hại cho môi trường trên khắp Việt Nam.

Ông Quang đến Long An hôm 20 tháng 9, dự tính sẽ ở đó 45 ngày để kiểm tra hoạt động của 30 doanh nghiệp. Mới kiểm tra được bảy doanh nghiệp thì ngày 26 tháng 9, phòng của ông Quang tại một khách sạn ở thị xã Tân An bị trộm viếng. Gần 400 triệu của ông Quang không cánh mà bay. Đã vậy Công an Long An còn tiết lộ thêm với báo chí, rằng may mà ông Quang vừa đem đến ngân hàng, gửi vào tài khoản riêng của ông một khoản tiền lớn (không rõ số lượng), nếu không, hậu quả của vụ trộm còn trầm trọng hơn.

Đáng nói là chỉ một mình ông Quang đau xót. Còn công an, báo giới, dân chúng đều cùng làm ngơ trước nỗi đau ấy. Dù ông Quang đã giải thích là khoản tiền khổng lồ so với thu nhập bình thường của một viên chức đó là tiền Nguyễn phu nhân giao cho ông mang vào Sài Gòn giải quyết việc riêng của gia đình nhưng thiên hạ chẳng những không tin lại còn gièm pha.

Hẳn ông Quang rất buồn vì chẳng “thằng nào, con nào” thấy sự tận tụy của ông. Hoạt động của những doanh nghiệp mà ông Quang phải kiểm tra trong đợt công tác này đều thuộc loại phức tạp. Đâu dễ để xác định việc xả - xử lý nước thải từ sản xuất giấy, dệt, nhuộm, bao bì, hóa chất,… có gây nguy hại cho môi trường hay không, vậy mà trong sáu ngày, ông đã kiểm tra xong tới 7/30 doanh nghiệp thuộc loại này. Dưới gầm trời đầy dẫy chuyện ô trọc, vàng thau lẫn lộn, “đố cha thằng nào con nào” tìm được những người có năng lực tuyệt vời tới vậy.

Thiên hạ rõ ràng là… bạc!
***

Chẳng phải bây giờ mà nhiều năm gần đây, dân chúng Việt Nam thường xuyên tỏ ra bạc bẽo như thế đối với các “công bộc” của họ.

Năm 2011, ông Hoàng Thế Liên, Thứ trưởng Bộ Tư pháp, bị kẻ gian đột nhập vào phòng làm việc, cuỗm mất 245 triệu đồng và 2.000 Mỹ kim... Trong năm 2011, kẻ gian đột nhập tư gia của ông Trương Công Chiến, Đội trưởng Đội Thuế Trước bạ của Chi cục Thuế quận Bình Tân, TP.HCM, cuỗm sổ tiết kiệm, Mỹ kim, vàng, nữ trang, trị giá hơn sáu tỉ đồng... Năm 2012, kẻ gian đột nhập tư gia của ông Đồng Xuân Thọ, Phó Ban Chỉ đạo Chống tham nhũng của tỉnh Đồng Nai, trộm một chiếc xe hơi trị giá 800 triệu đồng... Năm 2013, kẻ gian đột nhập vào tư gia ông Đặng Xuân Thọ, Giám đốc Sở Tài chính tỉnh Kon Tum, cuỗm mất 65 lượng vàng, vào thời điểm đó trị giá khoảng 2,8 tỉ đồng... Cũng trong năm 2013, kẻ giam đột nhập tư gia của một cặp vợ chồng mà vợ là cán bộ Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ An, chồng là cảnh sát giao thông tỉnh Nghệ An, cuỗm cả tiền lẫn vàng, trị giá khoảng hai tỉ đồng... Năm 2014, kẻ gian đột nhập phòng làm việc của ông Đào Anh Kiệt, Giám đốc Sở Tài nguyên – Môi trường TP.HCM, cuỗm 1,6 tỉ đồng…

Thế nhưng không riêng dân chúng mà ngay cả báo chí cách mạng cũng tỏ ra thiếu đồng cảm trong việc… chia sẻ hoạn nạn với các… nạn nhân. Yếu tố nổi lên hàng đầu sau những vụ trộm vừa kể luôn luôn là chuỗi thắc mắc, bình phẩm tại sao các “công bộc” nhiều tiền, lắm vàng như vậy? Luồng dư luận có tính chủ đạo ấy khiến phòng làm việc và tư gia của các “công bộc” trở thành nơi nhiều kẻ gian thích thăm viếng. Các “công bộc” vốn đã đau vì mất của, lại phải ngậm đắng nuốt cay, khai báo có khác gì chường mặt cho “chúng” dè bỉu.

Năm 2014, khi điều tra hoạt động của một băng trộm tại Bắc Kạn, công an Bắc Kạn phát giác, hóa ra băng trộm này từng đột nhập tư gia của ông Lăng Văn Hòa (Giám đốc Sở Giao thông – Vận tải Bắc Kạn) và bà Dương Thị Hạnh (cán bộ Tỉnh ủy Bắc Kạn) trộm cả tiền, Mỹ kim, vàng, nữ trang, trị giá 1,2 tỉ. Tương tự, sau khi công an Việt Nam bắt được Nguyễn Tuấn Vũ, công chúng Việt Nam mới biết, phòng làm việc của nhiều “công bộc” tại các tỉnh: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Thanh Hóa, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định, Đắk Lắk, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Cần Thơ, Sóc Trăng,… đều đã từng bị Vũ “viếng”.

Năm 2015, sau khi ông Võ Kim Cự, lúc đó là Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Hà Tĩnh, bắt quả tang Nguyễn Tiến Quân đang cạy cửa phòng làm việc của mình, người ta mới biết phòng làm việc của ông Cự thời ông làm Chủ tịch tỉnh này từng bị Quân viếng mà ông Cự không kể nên người ta không rõ Quân nẫng của ông bao nhiêu. Thiên hạ chỉ biết Phó Chủ tịch huyện Can Lộc từng bị Quân đột nhập vào phòng làm việc trộm 233 triệu đồng!

Nói theo kiểu ông Nguyễn Đức Kiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Việt Nam khóa 13 thì rõ ràng là “văn hóa ứng xử tại Việt Nam đang có vấn đề”. Tiếc là ông Kiên đã thôi đăng đàn nên không thể nhờ ông phân tích “vấn đề” về “văn hóa ứng xử” đến từ phía nào và tại sao lại thế!
***

Bây giờ thì nhiều người đang tỏ ra hồ hởi trước sự kiện ông Quang – nạn nhân vụ trộm 385 triệu đồng – bị triệu hồi về Hà Nội để giải trình. Thế là không “ôn cố”, làm sao có thể “tri tân”?

Hồi thượng tuần tháng 4 năm 2006, tiếp viên trên một phi cơ của Vietnam Airlines giao lại cho An ninh hàng không của phi trường Nội Bài một cái cặp hiệu Echolac, ở quai có gắn thẻ VIP mà hành khách để quên. Mở cặp để thực hiện các thủ tục liên quan đến hành lý vô chủ, An ninh hàng không tìm thấy 11 phong bì mà hai ghi nơi gửi là Ủy ban nhân dân các tỉnh Bình Định và Phú Yên. Hai ghi nơi gửi là các doanh nghiệp nhà nước (Ban Quản lý Dự án thủy điện Sê San 3A thuộc Tổng Công ty Sông Đà, Công ty Tư vấn - Xây dựng đường thuỷ thuộc Tổng Công ty Tư vấn - Thiết kế giao thông vận tải). 7/11 phong bì không ghi nơi gửi. Tổng số tiền chứa trong 11 phong bì này lên tới 20 triệu đồng và 10.300 Mỹ kim…

Sau đó, Ủy ban Kiểm tra của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN đã làm việc với An ninh Hàng không để thu lại cặp vì nó của ông Nguyễn Văn Lâm, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ - chức vụ tương đương Thứ trưởng. Một trong những cá nhân mà chỉ Ban Bí thư của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN mới có quyền định đoạt số phận.

Do tác động của dư luận, Đảng ủy Văn phòng Chính phủ đã tổ chức kiểm điểm ông Lâm vì lỗi “quên cặp sau chuyến công tác dài ngày ở miền Trung”. Nơi này thông báo, nhờ trong cặp không có tài liệu mật nên lỗi của ông Lâm không đáng kể.

Đảng ủy Văn phòng Chính phủ nói thêm, họ không kiểm điểm chuyện ông Lâm đã nhận phong bì do một số nơi gửi tặng bởi đó là “quà cho cả đoàn”. Ủy ban Kiểm tra của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN chấp nhận giải thích của ông Lâm về 7/11 phong bì không ghi nơi gửi: Đó là tiền do “anh em trong Nam gửi mua ‘sừng tê’ và một số thứ khác.

Để dân chúng thôi dị nghị, Văn phòng Chính phủ loan báo sẽ chuyển ông Lâm từ chỗ đặc trách chống tham nhũng, buôn lậu và gian lận thương mại sang đặc trách nghiên cứu, xây dựng pháp luật. Ông Đoàn Mạnh Giao, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ lúc đó, loan báo, tuy Ủy ban Kiểm tra của Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN không có ý kiến về khoản tiền ông Lâm đã nhận của một số nơi nhưng ông Lâm vẫn chứng tỏ thiện tâm bằng cách gửi số tiền ấy vào Quỹ Công đoàn của Văn phòng Chính phủ nhằm… giúp người nghèo và khuyến học.

Việc tiếp nhận – xử lý vụ ông Nguyễn Văn Lâm của Đảng, Chính phủ đã nghiêm túc, khách quan đến vậy mà dân chúng vẫn cứ bàn ra, tán vào. Tháng 7 năm 2006, ông Lâm xin từ chức. Thật là… đau lòng!
***

Việt Nam có hàng chục ngàn người nhờ nghiên cứu những đề tài kiểu như “Tắm, giặt của chiến sĩ miền núi” mà trở thành tiến sĩ nhưng lại chưa có ai nghiên cứu vấn đề đang càng ngày càng nóng: Tại sao ác cảm của dân chúng Việt Nam đối với “công bộc” càng ngày càng tăng? Bao giờ các nghiên cứu sinh tiến sĩ của hệ thống Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh chú ý tới đề tài này nhỉ?
Trân Văn


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Đâu mới thực sự là nỗi đau?


Cách một chức vụ trong quá khứ mà gọi là đau ư? Có nỗi đau nào hơn khi nhìn vào một nền kinh tế bệ rạc, khi nhân dân mất đi mồ hôi xương máu của mình? Có nỗi đau nào hơn khi hàng ngàn, hàng chục ngàn tỉ đồng và thậm chí còn hơn thế nữa bị mất đi theo những dự án vĩ cuồng, những dự án với các tính toán phi thực tế, phi quy luật, để lại hậu quả từ thất thoát đến thua lỗ và phá sản?

Vậy là Liên minh hợp tác xã Việt Nam đã có một lãnh đạo mới. Điều này đồng nghĩa, chức danh Chủ tịch Liên minh Hợp tác xã Việt Nam là điểm dừng chân cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của ông Võ Kim Cự.

Với tất cả những gì đã làm, sau tất cả những gì đã xảy ra, có lẽ Võ Kim Cự là một người may mắn khi chỉ bị cách các chức vụ trong quá khứ, còn chức danh hiện tại vẫn được giữ nguyên để chờ ngày về hưu, một cách để hạ cánh an toàn.

Nhưng, khi một quan chức đã có sai phạm bị kết luận ở mức nghiêm trọng lại gặp may mắn trong sự nghiệp chính trị còn lại của mình, thì đó thực sự là nỗi bất hạnh của nhân dân.

Những người có trách nhiệm nói đại ý rằng, cách các chức vụ trong quá khứ là một biện pháp rất đau đối với kẻ đã làm điều sai trái. Nhưng, tôi đang tự hỏi, họ có thực sự biết đau không? Họ có còn biết đến liêm sỉ không? Họ có còn biết đến đạo đức của một con người không? Họ có còn coi trọng đạo làm quan không?...

Nếu còn thì tại sao có thể làm những việc ảnh hưởng đến miếng cơm manh áo của nhân dân và làm suy kiệt tiềm lực của đất nước?

Nếu không thì làm sao cảm nhận được thế nào là nhục, thế nào là đau?

Cách một chức vụ trong quá khứ xa lắc xa lơ chẳng ảnh hưởng gì đến mũ cao áo dài hiện tại mà gọi là đau ư? Nỗi đau ấy là cái gì nếu so với nỗi đau khi một vùng biển mênh mông của đất nước bị đầu độc, khi sinh kế của hàng trăm ngàn người dân bị ảnh hưởng, khi những chiếc thuyền nằm yên trên cát và ngư dân buộc phải rời bỏ chiếc lưới đánh cá của mình?

Cách một chức vụ trong quá khứ mà gọi là đau ư? Có nỗi đau nào hơn khi nhìn vào một nền kinh tế bệ rạc, khi nhân dân mất đi mồ hôi xương máu của mình? Có nỗi đau nào hơn khi hàng ngàn, hàng chục ngàn tỉ đồng và thậm chí còn hơn thế nữa bị mất đi theo những dự án vĩ cuồng, những dự án với các tính toán phi thực tế, phi quy luật, để lại hậu quả từ thất thoát đến thua lỗ và phá sản?

Có nỗi đau nào hơn khi người dân cứ miệt mài làm lụng, thắt lưng buộc bụng, cun cút đóng góp vào ngân khố quốc gia, để rồi kẻ cắp biến thành của mình? Để rồi tiền thuế của dân bị bòn rút, môi trường bị ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác vô tội vạ? Và cuối cùng là nguồn lực quốc gia ngày càng cạn kiệt.

Trong bất kì một thể chế chính trị nào, khi quan tham có thể cười thì nhân dân sẽ luôn phải khóc.

Bạch Hoàn
(FB Bạch Hoàn)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

VŨ HỮU ĐỊNH, ĐƯỜNG ĐI CHƯA TỚI


(Nhân bác Lê Quỳnh Kontum hỏi bài viết đã lâu về nhà thơ tôi yêu mến Vũ Hữu Định. Tiện tôi treo lại, bác nào chưa đọc, đọc cho vui)

(nhà thơ Vũ Hữu Định 1942-1981)
Từ độ Nguyễn Bính bị “giam mình“ bởi Trăm Hoa đua nở, để rồi phải chết trong cái tận cùng của sự đói khổ vào một đầu ngày xuân, nơi bè bạn. Cứ tưởng rằng, văn học sử Việt Nam không phải viết tiếp những cái bi thương đó. Nhưng đúng mười lăm năm sau (1981) thi sĩ Vũ Hữu Định ra đi, trong cái khốn cùng ấy, đã lặp lại y chang bóng hình Nguyễn Bính. Tuy không cùng một thế hệ, nhưng Nguyễn Bính và Vũ Hữu Định đều là hai thi sĩ đích thực nhất, lấy thơ, rượu và rong chơi bạn bè, giang hồ làm thú vui của cuộc đời. Nếu như Lỡ Bước Sang Ngang hay đến độ trùm cả lên tên gọi của Nguyễn Bính, thì Còn Một Chút Gì Để Nhớ đã làm nên tên tuổi nghệ sĩ Vũ Hữu Định. Tôi không có ý so sánh, nhưng quả thật, Nguyễn Bính và Vũ Hữu Định có những cá tính, thân phận khá trùng hợp nhau.
Vũ Hữu Định tên thật là Lê Quang Trung, sinh năm 1942 tại Thừa Thiên Huế, trong gia cảnh nghèo túng. Cuộc đời lang bạt nhiều nơi, nhưng Đà Nẵng mới là chốn đi về, cũng là nơi dừng chân cuối cùng của ông.
Vũ Hữu Định bộc lộ năng khiếu văn thơ khá sớm. Những năm đầu thập niên sáu mươi, của thế kỷ trước, ông đã có thơ đăng rải rác trên các báo ở Sài Gòn. Nhưng phải đến chục năm sau,(1970)thơ của ông mới thật sự bước vào độ chín. Dù trước khi dừng bước giang hồ (chết) Vũ Hữu Định chưa có một tập thơ riêng nào, nhưng thơ của ông đã được in một cách trân trọng, sâu đậm nhất, trong lòng bạn bè và người đọc, từ suốt mấy chục năm qua. Tôi nghĩ, Vũ Hữu Định đã chinh phục được nhiều thế hệ người đọc như vậy, bởi sự trong sáng trong thơ, trong tư tưởng, chứ không hẳn chỉ vì tài năng của ông. Thơ Vũ Hữu Định nhẹ nhàng không chỉ trong tình yêu quê hương, tình yêu đôi lứa, tình bằng hữu, mà khi viết về thân phận con người dù trong xã hội, hoàn cảnh bi đát nhất, đắng chát nhất, ta vẫn cảm thấy lời thơ, nỗi buồn ấy, man mác, dìu dịu, dường như thoảng qua thôi. Chứ tuyệt nhiên không thấy nó bùng, hoặc gợn lên một chút hằn học, đắng cay. Nên đọc thơ ông, không gây cảm giác nặng nề, dù người đọc khó và kỹ tính nhất.
Cũng như Nguyễn Bính, cuộc đời Vũ Hữu Định là chuỗi ngày dài khao khát tìm kiếm, trong men say với những bước chân giang hồ. Nhưng nó lại là chiếc vòng luẩn quẩn, Vũ Hữu Định không bao giờ đi tới đích. Cho nên, bốn mươi năm rong chơi, cuộc đời ông chỉ là những áng mây, bồng bềnh trong buổi chiều đông xám ngắt, buồn hay vui cũng chẳng thể giãi bày:
“Chiều dựng mùa đông mây xám ngắt
núi cao trời thấp có ta về
giang hồ đâu có ai phong ấn
mà nghĩ từ quan trở lại quê
-------------------------------
Ta đi, có những ngày trú quán
lòng mốc tình khô như lá bay
ngồi quán suốt ngày trông thiên hạ
ta có sầu không ta cũng chẳng hay…“
(Chẳng Hay)
Thật là kỳ lạ, thoáng đọc qua Vũ Hữu Định, ta cứ ngỡ, trong những lúc bồng bềnh tỉnh say ấy, thi sĩ bất chợt viết ra những câu thơ, làm nao lòng đến như vậy. Nhưng khi bình tâm, đọc ông kỹ hơn, ta mới cảm được, cái lung linh, tinh túy đó, chỉ có thể được chiết, vắt ra từ cái quằn quại trong tâm hồn sâu thẳm, tỉnh táo hơn ai hết của thi sĩ. Biết là thế và rất tĩnh tâm đọc ông, nhưng đôi khi ta vẫn phải giật mình tự hỏi. Thi sĩ vờ? Hay Vũ Hữu Định đang say: “Anh là một gã giang hồ tới/ Lòng hoang như con lộ không đèn/ Ngồi với hồn sầu ly rượu cạn/ Sao mới vài ly mà đã say?”.
Vâng! Vũ Hữu Định đã vờ say, để vắt ra những câu thơ rất tỉnh. Chỉ một chút hương tinh túy của đất trời, thi sĩ đã chưng cất lên bức tranh Quê Rượu, yên bình tuyệt đẹp. Trước cũng như sau Vũ Hữu Định, có nhiều thi sĩ đã dùng hương, khói bay để diễn tả tâm trạng, hay một nỗi nhớ quê xa…Như câu thơ Huy Cận “ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà“. Huy Cận bảo, không có khói. Thật ra hương khói ấy, đã có thường trực trong lòng thi sĩ, trong lòng người đọc rồi. Nhưng viết lạ như Vũ Hữu Định, có lẽ chúng ta ít gặp. Thi sĩ bảo, dường như đã say men, say rượu, nhưng đâu phải vậy (ông đang đùa đấy). Ông đang say cái đẹp, cái hương đầu mùa trong làn khói hoàng hôn xuống:
“ Tới đây thấy lúa vàng đang chín
Đứng lại nhìn thôn xa khói bay
Không biết nhà ai đâu nấu rượu
Thoảng thoảng hương mùa đã muốn say“
(Quê Rượu)
Có lẽ, không thể thơ nào ép nén ngôn từ, ý tưởng của người thi nhân, như thơ tứ tuyệt. Nó chỉ được(nở) bung ra, khi người thưởng ngoạn chạm đúng vào cái van nén đó. Cấu trúc thơ tứ tuyệt nhỏ là thế, nhưng lại dung tải những điều lớn lao khôn cùng. Thông qua hình tượng cụ thể, nhà thơ gửi vào đó cảm xúc, tư tưởng của riêng mình và đôi khi nó còn là của cả một xã hội đương thời hay chế độ xã hội đã qua…(Nói vui, làm thơ tứ tuyệt cứ như công việc của người thợ nén và nổ bỏng ngô vậy).
Vũ Hữu Định cũng thế, ông có nhiều bài thơ tứ tuyệt hay, nhưng hai bài: Màu Trời Cũ, Cảm Mà Viết 3, được viết trước và sau 1975, tôi thích hơn cả. Có một điều kỳ lạ, cả hai bài đều có nội dung tư tưởng trùng lặp nhau. Nó như là khúc hát u hoài, mang mang niềm tiếc nuối. Dường như người thi sĩ cố giấu đi cái xót xa đau đớn đó. Nhưng trong cơn say, cơn mê, sự thật lại trở lại và nỗi đau kia đã vỡ òa trong ông. Đọc hai bài thơ này, ta chợt ngộ ra cái mâu thuẫn ngay trong nội tâm của thi sĩ. Và cả cuộc đời ông luôn phải đi tìm, giải quyết mâu thuẫn ấy:
“Sáng hôm nào ngó lại
Màu xanh trên trời cao
Màu của trăm năm cũ
Mà sao lòng ta đau“
(Màu Trời Cũ)
“Khi tỉnh chẳng bao giờ ta khóc
Lúc say mê khúc hát người xưa
Một ý cũ như là trái đất
Ngấm trong ta bật tiếng khóc òa“
(Cảm Mà Viết 3)
Trong hành trình tìm kiếm đó, lúc nào Vũ Hữu Định cũng cảm thấy cô độc, dù xung quanh ông đầy ắp bạn bè. Và ông luôn luôn là người đi ngược lại những con đường. Để rồi khi thành phố về đêm, ông chỉ còn là người lỡ hẹn. Rồi những bước chân vô định ấy, in lên thành phố, một tiếng lặng câm, dù ông đang nghe thấy hàng nghìn tiếng động. Vâng! Đó là những bước chân đã lỗi nhịp. Dù không tiếng vọng, nhưng nó như ngàn nhát búa gõ vào hồn người. Bài “Tạm Trú“ là một bài thơ hay. Tôi nghĩ, có nhiều người chung hoàn cảnh, đau và thấm thía, khi đọc bài thơ này:
“…trong đám đông anh lại càng cô độc
bởi một nơi đâu cũng ăn tạm ở nhờ
sợ cả lời chia vui thành thật
bạn bè thì đông sao anh vẫn bơ vơ
buổi tối xe lam muộn màng ế khách
lại tới một nơi không hẹn không tìm
anh đi ngược lại con đường xe chạy
mỗi bước chân rời mỗi nhịp đau tim
thành phố lặng là khi nghìn tiếng động
không xô tan được khối lòng sầu
chân anh bước, mắt chỉ nhìn phía trước
tai nghe hoài một câu hỏi về đâu…”
Bước chân đã lỗi nhịp, Vũ Hữu Định chơi vơi trong khoảng không rách nát. Sự cô đơn cùng cực trong cái hoang vắng của linh hồn, nhà thơ tìm đâu ra một tri kỷ? Thời chẳng còn những Thi Thánh, Thi Tiên, cùng với rượu thi sĩ tìm về với Thi Qủi Lý Hạ trong cõi u hoài. Đêm Mưa Thiếu Rượu Nhớ Lý Hạ, là một bài thơ như vậy. Vũ Hữu Định đã mượn Lý Hạ, để giãi bày sự cô đơn trong tận cùng nghèo khổ về cả vật chất lẫn tâm hồn của thi nhân:
“…Cứ tưởng nằm kề bên họ Lý
Gác chân nhau nói chuyện biển dâu
Ma quỷ sợ tâm hồn ướt rượu
Gối chai không mà thương nhớ nhau
Thời đại thánh thần đi mất biệt
Còn lại bơ vơ một giống sầu
Rót mãi, bao nhiêu tình cũng cạn
Nâng ly, nhìn thấy tóc bạc mau…“
Bốn mươi năm trên cõi tạm của Vũ Hữu Định là vòng tròn luẩn quẩn. Cái luẩn quẩn ấy, có ngay từ trong tâm thức nhà thơ. Do vậy, bao khát khao, khi đi cũng như lúc trở về của ông đều mờ mờ, nhạt nhạt. Và con đường cuối của nhà thơ là con đường lang thang về lại cõi ao tù. Tuy hoang mang cay đắng là thế, nhưng ta vẫn thấy lời thơ nhẹ nhàng, như chính con người ông:
“Bờ chiều sắc cỏ sông xanh
Mây bay anh đứng lại nhìn mây bay
Nỗi niềm vui với đắng cay
Theo sông nước chảy theo ngày phù du
Lang thang về cõi ao tù
Lạ quen ai đó nghìn thu nhớ gì!“
(Không Đề)
Đọc Luân Hoán và Hoàng Cát, thấy hai ông thi sĩ này, tử vì thơ đã thấy kinh, nhưng khi nghiên cứu Vũ Hữu Định, tôi còn thấy thất kinh hơn. Nói như từ ngữ thời nay, của mấy ông bà nghệ sỹ trẻ: Vũ Hữu Định đã cháy hết mình cho thi ca. Qủa thật, cháy hay đốt thế nào thì chưa biết, nhưng cứ để vợ con nheo nhóc, nhiều bạn bè dù rất thương Vũ Hữu Định, cũng phải phàn nàn về ông.
Nói là như vậy, nhưng từ một khía cạnh nào đấy trong tâm hồn thi sĩ mới hiểu và cảm thông được cho ông. Nói như nhà thơ Đinh Trầm Ca:
“ Tôi không thích những người vô trách nhiệm, thiếu bổn phận...Hai mươi năm nay tôi lại giống anh lúc trước, tôi mới hiểu được và thương anh. Khi tôi hiểu được thì không còn Định nữa để mời một chén rượu cảm thông. Tôi không nghĩ anh là người ham danh, hay nhẹ nhàng hơn, có chút ưu ái hơn các bạn tôi rằng anh là người say đắm thơ, rượu. Tôi biết rằng những tháng năm đen tối đời anh không nhờ thơ, rượu thì không biết con người anh sẽ ra sao? Và cuối cùng thơ rượu đã cứu rỗi anh.“
Cuộc sống Vũ Hữu Định là những chuyến đi dài, ngắn. Trách nhiệm gia đình chắc chắn dồn lên vai người vợ trẻ. Tôi cho rằng, không phải Vũ Hữu Định ít nghĩ đến trách nhiệm gia đình, mà có thể ông còn nghĩ nhiều hơn đã tưởng. Nghiên cứu về Vũ Hữu Định, tôi thấy có nhiều bài thơ, ông viết về vợ con gia đình, đọc cảm thấy rưng rưng. Vâng! Cũng có lẽ, từ những vần thơ đắng chát này, không những bạn bè mà vợ con gia đình cảm thông cho thi sĩ phần nào chăng?
“…Lần nào em sinh nở
ta cũng phải vắng nhà
tháng này em sinh nở
ta lại trên đường xa
…cám ơn người vợ khổ
chiều nay ta khóc thầm
uống những giọt rượu đắng
ngày xa quê long đong…“
Cũng như nhiều nhà thơ khác, Vũ Hữu Định là người gắn bó, yêu quê hương, đất nước hơn bao giờ hết “ Mùa lúa năm nay đòng đòng đã trổ/ Anh yêu mùa yêu đất yêu quê“. Dường như, bài thơ nào viết về quê hương đất nước, của ông cũng hay. Lời thơ nhẹ nhàng, giầu hình tượng, tưởng như những nốt nhạc rót thẳng vào lòng người. Và có lẽ, chỉ có tình yêu trong sáng, chân thực người nghệ sĩ mới làm rung động lòng người đến như vậy. Có khi chỉ là làn khói bếp bay lên trong chiều hoàng hôn, bên đồng lúa vàng đang vào mùa gặt, hay một tiếng gọi đò trưa cũng làm tâm hồn ông thổn thức bồi hồi. Và có cơn bão về làm cho lòng ông quằn quại, đớn đau:

“cơn bão lớn về bình nguyên giục giã
run theo cây mùa lúa rạp buồn rầu
cát bụi lộn đường bay tản về đâu
khung cảnh dựng mùa nguyên sơ man dã
con sông nước về tràn mọi ngả
thuyền bè đi, đi mất tự bao giờ
những bến chiều tấp nập mộng ban sơ
đã hun hút trong triều lên trắng xoá…“
(Thời Tiết)
Có thể nói bài thơ Còn Một Chút Gì Để Nhớ là chiếc đinh, đã đóng dính tên tuổi Vũ Hữu Định vào trang, thế kỷ hai mươi với những bài thơ hay của văn học đất Việt. Nó cũng giúp cho nhạc sỹ Phạm Duy, để lại cho đời một nhạc phẩm (cùng tên) mãi ru hồn người.
Có người cho đây là bài thơ tình. Tôi nghĩ, không hẳn như vậy. Và câu chuyện bắt đầu, từ người lính chiến trên đồn biên giới, lần đầu làm thân lữ khách. Có phải người lữ khách đó là Vũ Hữu Định, hay thi sĩ đã hóa thân làm anh lính chiến ấy? Trong tâm trạng buồn tênh, trước khoảng trời xanh dường như đang thấp xuống, thi sĩ chợt thấy em đi trong sương khói mông lung huyền ảo, giữa cái lạnh chiều đông. Để rồi, chợt một phút xuất thần và có lẽ giây phút xuất thần đó đến với Vũ Hữu Định chỉ có một lần? Thi sĩ đã kịp vẽ lại. Thật là kỳ lạ, chỉ có bốn khổ thơ ngắn gọn đơn giản, thế mà dáng vóc, thần thái của phố núi hiển hiện lên rất hoang sơ mà lãng mạn. Nó như là bức tranh hai mặt, thành phố đã tạc vào em, hay em đã tan trong thành phố, làm người lữ khách phải ngất ngây. Cho nên, dù quen, hay người lần đầu đến với Pleiku, trong hoàn cảnh, tâm trạng nào, khi đọc(nghe) cũng cảm thấy gần gũi và không khỏi bồi hồi xúc động.
Và tôi tin rằng, chắc chắn mai này, sẽ có một con đường Vũ Hữu Định mờ mờ sương khói, được gắn với với bài thơ này, trên dáng hình em phố núi Pleiku.
Không hiểu do vô tình hay cố ý, ở trong nước, khi viết, đọc và hát, người ta đã đổi từ TRÊN ĐỒN trong câu thơ nguyên bản: Mai xa lắc trên đồn biên giới, là một câu thơ sống, nó sẽ hiển hiện ra sự sống, hình bóng người lữ khách, người lính trên đồn biên cương, bằng từ BÊN ĐỒI, làm cho câu thơ trở thành câu thơ chết, vô nghĩa vô hồn: Mai xa lắc bên đồi biên giới.
Hay câu: Đi dăm phút đã về chốn cũ. Từ Dăm trong câu thơ bị thay bằng con số đếm NĂM (5) làm cho câu thơ bị đóng khung, gò bó. Từ dăm, ba mang tính ước lệ, làm cho câu thơ thoáng đạt và hay hơn rất nhiều.
Thật vậy, trong một bài thơ chỉ bị thay một từ, một câu ý nghĩa của cả bài sẽ khác đi nhiều lắm.
Và thật kỳ lạ, trên bia mộ thi sĩ Vũ Hữu Định cũng thấy khắc câu thơ vô nghĩa “Mai xa lắc bên đồi biên giới“ này? Tôi nghĩ, nếu như vì lý do gì đó, không được sử dụng nguyên bản, nên đổi câu thơ, đoạn thơ khác của thi sĩ. Vũ Hữu Định không thiếu những câu thơ hay. Nghe nói, bia mộ này, do các nhà thơ bạn của thi sĩ cùng với gia đình dựng lên?
Chúng ta hãy đọc(nghe) bài thơ này, để cảm lại tài năng của thi sĩ Vũ Hữu Định nhé: https://www.youtube.com/watch?v=8C7JowQ3qhY

“phố núi cao phố núi đầy sương
phố núi cây xanh trời thấp thật buồn
anh khách lạ đi lên đi xuống
may mà có em đời còn dễ thương
phố núi cao phố núi trời gần
phố xá không xa nên phố tình thân
đi dăm phút đã về chốn cũ
một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng
em Pleiku má đỏ môi hồng
ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông
nên mắt em ướt và tóc em ướt
da em mềm như mây chiều trong
xin cảm ơn thành phố có em
xin cảm ơn một mái tóc mềm
mai xa lắc trên đồn biên giới
còn một chút gì để nhớ để quên.“

Sinh ra và lớn lên, rồi phải sống cùng chiến tranh, nên Vũ Hữu Định nhận ra sự tàn khốc của nó. Đọc bài thơ Trên Đoạn Đường Về Quê của ông, được viết vào năm 1972, làm tôi chợt nhớ đến câu thơ, của Nguyễn Duy “nghĩ cho cùng/mọi cuộc chiến tranh/phe nào thắng thì nhân dân đều bại“ Tôi nghĩ, đây là bài thơ rất hay, viết về chiến tranh trong kho tàng thi ca đất Việt. Nó không những hay về nội dung nghệ thuật, mà còn bộc lộ rõ tư tưởng, cái nhìn khách quan của nhà thơ về chiến tranh. Cuối bài thơ là một câu hỏi, đọc lên ta cảm thấy đau đến xé lòng “Những dòng máu đã thấm tràn mạch đất/Có làm tương lai con cháu huy hoàng?“. Huy hoàng sao được khi con cháu chúng ta cũng là nhân dân. Đã là nhân dân thì sự thất bại là điều không tránh khỏi. Và tương lai, đã thấy những gì từ mấy chục năm qua?
“Lửa đã cháy đường ra quê em
Lửa đạn, lửa trời đốt người nghiệt ngã
Lửa đã cháy trong lòng anh hóa đá
Giữa biển người thành thú bò ngổn ngang
Trong hai lằn đạn giữa đồng hoang
Máu chảy ngập chân lúa gầy cỏ dại
Máu đã đỏ con đường anh đi lại
Của những ngày xưa yêu dấu vô cùng
Ôi con trẻ cũng biết tìm sự sống
Bò giữa hôn người vừa chết nát thân
Đêm ngã xuống vô tình con trăng bạc
Những tiếng gọi gào sao không động từ tâm
Lửa rực đỏ treo trăm đường sinh tử
Trong đêm cay, đêm địa ngục hãi hùng
Mẹ thét tìm con tóc dài điên dại
Xiêu vẹo giữa đường chết đuổi sau lưng
Lửa đã cháy đường ra quê em
Lửa đã cháy một đoạn lòng của mẹ
Ôi cái chết có còn chăng lý lẽ
Có lý lẽ nào đã giết anh em
Ðường ra quê em trăm ngàn cay đắng
Lửa hạ đạn gào trăm tiếng kêu la
Những dòng máu vô tình vô tội
Ðã chảy lên nhau thành suối chan hòa
Lửa Quảng Trị lửa rượt về Mỹ Chánh
Rải những thây người gục giữa đồng khô
Những dòng máu đã thấm tràn mạch đất
Có làm tương lai con cháu huy hoàng?”

Với tôi, một số bài thơ viết về tình bạn, tình yêu đôi lứa, tôi đã đọc, không phải là những bài thơ hay của Vũ Hữu Định. Viết về tình bạn, tình yêu của ông thường nặng tính kể lể, liệt kê. Chứ hoàn toàn không triết lý sâu sắc viết về tâm trạng, thân phận con người như trong thơ tứ tuyệt. Hay trữ tình, giầu hình tượng như viết về quê hương đất nước. Hôm rồi, có một nhà thơ gửi cho tôi tập Thơ Vũ Hữu Định Toàn Tập, do nhóm nhà thơ Trần Hoài Thư sưu tầm, nhà in Thư Ấn Quán, Hoa kỳ. Đây là tập thơ thứ hai của Vũ Hữu Định. Nhưng tôi tin chưa đầy đủ, thơ của thi sĩ vẫn còn luẩn quất đâu đó. Trong tập thơ này, có bài Một Chiếc Gương Soi, rất dở. Lời thơ sên sến, nhạt nhạt. Không biết Vũ Hữu Định viết bài thơ này vào thời gian nào?(có sự nhầm lẫn khi sưu tầm hay không?) Nếu xóa tên tác giả đi, tôi tin, không ai nghĩ, đó là thơ của Vũ Hữu Định:
“Với số tiền còn lại ngày ở Sài Gòn
Em sẽ soi gương mỉm cười rẽ tóc
Em sẽ nhìn để nhớ anh hôn
Mua cho em chiếc gương tròn bỏ bóp
Quà Sài Gòn về tặng người yêu
Buổi trưa nắng trong vườn xanh Đại Nội
Em sẽ vì anh tô lại môi thơm
Để em nhớ hàm răng em có ngọc
Mắt em đa tình, em sẽ soi gương
Để nhớ anh những ngày xa cách
Tập lại duyên cài lại tóc hoa hường
Anh còn lại năm mươi đồng trong túi
Không mua được gì ngoài một chiếc gương
Bởi anh nghĩ xa nhau còn để nhớ
Trong gương soi anh hôn hết nỗi buồn“

Cứ tưởng mới đây thôi, thế mà đã trên ba mươi năm, Vũ Hữu Định từ bỏ hành trình “đi học làm thơ, xin phần rượu tặng“ trong nhân gian, để về đối ẩm, ngâm thơ cùng Thi Qủi Lý Hạ.
Bốn mươi năm cuộc đời là bốn mươi năm thi sĩ Vũ Hữu Định khao khát, mải miết đi tìm. Tuy nó ngắn ngủi và đường đi chưa tới…nhưng hình ảnh ông, thơ văn ông để lại cho đời, vẫn mãi đậm sâu trong lòng bạn bè và người đọc.

Leipzig 10-4-2014
Đỗ Trường

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Cao Biền và Trang Nghị đại vương trên đất Thái Bình


Năm 1985 ở khu vực chợ Quài (Thái Hà, Thái Thụy, Thái Bình) Bảo tàng Thái Bình đã tiến hành đào một miệng giếng cổ và phát hiện hàng trăm viên gạch mang dòng chữ Giang Tây quân 江西軍. Giang Tây quân là gạch loại gạch của Tĩnh Hải quân thời Đường, mà Tiết độ sứ Tĩnh Hải quân đầu tiên là Cao Biền. Đây cũng là loại gạch được tìm thấy ở lớp gạch dưới cùng trong Hoàng thành Thăng Long và một số thành cổ khác như thành Hoa Lư (Ninh Bình), thành nhà Hồ (Thanh Hóa).
Theo nhận xét của đoàn khai quật khu vực này tập trung đậm đặc loại gạch trên ở trong khoảng đất dài khoảng 1000m, rộng từ 50-100m. “Di tích khảo cổ Thái Hà – Thái Phúc cao, hẹp, dài, án ngữ cửa Kỳ Bố và cửa Đại Toàn… Rất có khả năng đây là một công trình quân sự phòng thủ ven biển…”.
Giang Tay quanGạch Giang Tây quân ở Thái Bình.
Ở chùa Phúc Lâm của thôn Phúc Tiền (Thái Phúc, Thái Thụy, Thái Bình), cũng là nơi phát hiện loại gạch Giang Tây khi nhà chùa đào đất lấy cát sau chùa. Cùng với những viên gạch Giang Tây quân này nhà chùa còn đào được 1 hũ tiền Khai Nguyên thông bảo, tức là tiền mang niên hiệu Khai Nguyên (713-741) của vua Đường Huyền Tông. Tiền Khai Nguyên thông bảo là loại tiền được dùng phổ biến trong suốt thời nhà Đường. Chùa Phúc Lâm do đó có thể là một trạm hoặc kho quân dụng trong tuyến phòng thủ ven biển dưới thời Đường.
Trong khuôn viên chùa Phúc Lâm nay còn một ngôi đền nhỏ thờ thành hoàng làng. Trước đây đình Phúc Tiền (Thái Phúc) theo Danh mục thần tích thần sắc Thái Bình có thờ tướng quân Cao Biền. Sau đình bị phá nên nhà chùa mang các đồ thờ về dựng một ngôi đền nhỏ để tiếp tục thờ.
Câu đối ở đền thờ thành hoàng trong chùa Phúc Lâm:
文物彬彬地是前東材舊邑
宫庭飭飭歲在己未春新修
Văn vật bân bân, địa thị Tiền Đông tài cựu ấp
Cung đình sức sức, tuế tại Kỷ Mùi xuân tân tu.
Dịch:
Văn vật mộc mạc, đất ở Tiền Đông nơi ấp xưa
Cung quán nghiêm trang, năm tại Kỷ Mùi xuân mới sửa.
“Văn vật” ở đây phải chăng nói tới những viên gạch có chữ Giang Tây quân?
IMG_6914Đền thờ thành hoàng ở chùa Phúc Lâm (Phúc Tiền, Thái Thụy, Thái Bình).
Những viên gạch Giang Tây quân và tục thờ Cao Biền tại Thái Phúc đã xác nhận đây là một điểm đồn binh quan trọng của Cao Biền trên đất Tĩnh Hải. Thần tích của một nơi khác ở Thái Bình đã kể lại rõ ràng diễn biến của việc này. Đó là thần tích về Trang Nghị đại vương ở thôn Hoa Dương (Thái Phương, Hưng Hà, Thái Bình). Hoa Dương xã thần tích chép như sau:
… Giữa Đời Đường Hàm Thông đời vua Ý Tông lại cử Yêu Vệ tướng quân Cao Biền: ông họ Cao húy là Biền, cháu của Cao Sùng, con của Cao Luân, mẹ người họ Lý vốn người ở Quảng Đông, gia truyền làm thầy địa lý tinh thông, đời nối đời làm quan. Vào thời Đường, thay quan chức Tù trưởng bằng chức Đô hộ Tổng quản Kinh lược Chiêu thảo sứ tướng quân tất phải trao cho Cao Biền. Cao Biền khấu tạ (vua Đường) đem quân ra đi, tới cửa biển làm lễ cầu đảo trời đất, rồi lệnh cho hơn 5 vạn tinh binh xuống thuyền ra đi từ cửa biển thuận buồm xuôi gió hứng khởi ngâm một vần thơ:
Ba quân lẫm liệt xuất trùng quan
Vạn dặm sóng cồn vạn dặm an
Tự hồng mao chẳng nề sống thác
Thờ vua nợ nước dám từ nan?
Vừa khi đi tới địa đầu huyện Ngự Thiên, phủ Tiên Hưng, đạo Sơn Nam, có một ngày đi qua địa đầu trại Yến Liên, sau đổi là trang Hoa Dương, ở đó có một con sông nhỏ.Đoạn trên trong thần tích tại Hoa Dương kể rất rõ việc Cao Biền xuất quân từ bên phương Bắc theo đường biển đổ bộ vào cửa biển nước Nam tại Thái Bình. Đó cũng là lý do để Cao Biền xây dựng một tuyến phòng thủ ven biển tại đây như đã thấy qua di tích gạch Giang Tây quân ở trên.
Đoạn tiếp theo thần tích thôn Hoa Dương kể tại đây Cao Biền gặp 4 vị thần, tự xưng là tứ vị Lôi Đình (Lôi Oanh): một vị tên là Thanh Cung, một vị tên là Chàng Chiểu, một vị tên là Từ Kinh, một vị tên là Trang Nghị,… Vốn là thần nắm giữ gió mây sấm chớp, chăm chăm phụng mệnh trời giáng làm Thủy thần trông coi bốn phía phương dân, cai quản đất đai cảnh thổ. 
Lại nói, bấy giờ ở đất Phong Châu có trên 5 vạn tên giặc Man vào xâm lấn bờ cõi. Viên quan dâng tấu vua Đường, vua sai quan truyền lệnh cho Biền công Thứ sử Giao Châu đem quân đi đánh Nam Chiếu (tức Ai Lao), Biền công lập tức điều quân đi đánh Nam Chiếu. Trong một ngày, quan quân vừa tới trang Hoa Dương, huyện Ngự Thiên phủ Tiên Hưng, Biền công ra lệnh cho quân đình trú ngự tại thần từ, kỷ đảo xin thần phù hộ cho quân đi đánh giặc đợi sau khi chiến thắng trở về, sẽ phong sắc cho thần là Thượng Thượng đẳng.
Sáng hôm sau ông bái yết thần từ, đề binh tiến thẳng tới Nam Chiếu đại phá giặc, chém đầu Chánh tướng và Tỳ tướng của chúng gồm 20 thủ cấp, thu hồi vũ khí, xe ngựa của chúng nhiều vô kể. Giặc tháo chạy tan tác chẳng biết đi lối nào hết. Từ đây thiên hạ thanh bình, quốc gia vô sự, Biền công làm sớ tâu lên vua Đường: giặc Man đã quét sạch cũng là nhờ công âm phù trợ của thần linh.
Vua ban sắc cho Tứ Vị Lôi Oanh là Thượng đẳng phúc thần để thần cùng được trường tồn với trời đất mà việc phụng thờ thần trở thành nghi thức muôn thuở vậy thay.
Cao Biền được nhà Đường cử sang An Nam để đánh dẹp giặc Nam Chiếu. Bước tiến quân đầu tiên của Cao Biền là dẫn quân đi thuyền vào đất Thái Bình. Tứ vị Lôi Oanh ở Thái Bình đã hiển linh phù trợ Cao Biền trong trận chiến này. 4 vị “thần sấm” này là ai mà lại trợ giúp Cao Biền đánh Nam Chiếu?
Xét các vị thủy thần của khu vực đất Thái Bình thì 4 vị thần này chỉ có thể là những người trong Ngũ vị tôn quan trong thần tích thờ vua cha Bát Hải Động Đình ở đền Đồng Bằng (Quỳnh Phụ, Thái Bình). Nói cách khác, đây chính là những người anh em đã theo Lạc Long Quân (vua Hùng) đánh Thục, gây dựng nên triều đại cha truyền con nối đầu tiên của Trung Hoa. Vì là những vị thần có công đánh Thục ở phía Tây nên các vị này mới hiển linh giúp Cao Biền đánh giặc Nam Chiếu (Ai Lao – cũng là ở phía Tây).
Chữ Lôi là quẻ Chấn, chỉ hướng Đông. Hướng Đông là hướng biển (Động Đình), là hướng Bát (số 8 của Hà thư) trong tên Bát Hải Động Đình. Lạc Long Quân có nơi như ở làng Bình Đà (Hà Nội) còn được gọi là Pháp Lôi là với ý này.
Xét tên của 4 vị Lôi Oanh ở Hoa Dương thì đây là 4 phương vị:
– Thanh Cung rõ nhất là hướng Đông vì Thanh, màu xanh là màu phương Đông.
– Chàng Chiểu là hướng Tây vì Chiểu – Chiêu – Chiều, hướng mặt trời lặn.
– Từ Kinh là hướng Bắc vì Kinh hay Canh là can chỉ phương Bắc (như trong kim La Kinh).
– Trang Nghị như thế phải là thần hướng Nam. Chưa hiểu liên hệ từ ngữ thế nào.
Địa danh Hoa Dương cũng có thể xuất phát từ “Hoa Đào trang”, là nơi lập nghiệp của vua cha Bát Hải Động Đình. Hoa – Hạ là tên của vương triều do Lạc Long Quân lập nên, xuất phát từ đất Thái Bình.
Trang Nghị đại vương là vị thần thời Hùng Vương, công thần lập quốc của Lạc Long Quân và là một trong 5 vị quan lớn của ban Công đồng trong Tứ phủ. Một vị cổ thần anh linh đã 4000 năm như vậy mà bị biến thành bố của Thái sư Trần Thủ Độ thì… con cháu quá to gan, chẳng mấy bữa các cụ hiển linh vặn cổ cho chẳng còn đường mà sống…

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“UNG THƯ LÀ CƠ HỘI ĐỂ BIẾT CUỘC ĐỜI LÀ HỮU HẠN” !!!



TBT  Cô Trương Thanh Thủy, sinh năm 1986, nổi tiếng của cộng đồng khởi nghiệp Việt Nam, sáng lập tổ chức SCI (Salt Cancer Initiative) nhằm cung cấp thông tin, giáo dục, và sự hỗ trợ đến bệnh nhân ung thư và người thân tại Việt Nam, cũng là thành viên trong êkip sản xuất của bộ phim Cô gái đến từ hôm qua. Thanh Thủy phát hiện bị ung thư phổi giai đoạn cuối khi bộ phim đang bấm máy, và đây là lý do Cô gái đến từ hôm qua được chọn để trình chiếu miễn phí cho những bệnh nhân ung thư. 

image2-1504785321257.jpg

Êkip làm phim (từ trái qua) gồm nhà sản xuất Vũ Quỳnh Hà, diễn viên Miu Lê, bé Hà Mi, đạo diễn Nhật Linh và chị Trương Thanh Thuỷ – sáng lập của tổ chức SCI tại Việt Nam – Ảnh: Minh Trang.


Đặc biệt, tuy mắc căn bệnh quái ác, Trương Thanh Thuỷ có suy nghĩ rất tích cực: “Tôi sống vui vẻ hơn rất nhiều từ khi biết mình bị ung thư. Tôi mang ơn vì mình đã được sinh ra, và ung thư là cơ hội thứ hai để ông trời nói cho tôi biết: cuộc đời là hữu hạn, để tôi được sinh ra một lần nữa, để có cơ hội để sửa sai và làm một người hữu ích”.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

“Để nhà con được sống yên ổn”


Trương Duy Nhất

“Con chào chú! Con mong là chú sẽ đọc tin nhắn của con, vì hiện tại con rất cần sự giúp đỡ của chú!
Hiện tại gia đình con đang bị chèn ép, áp bức, thậm chí cả tính mạng gia đình con cũng đang bị đe doạ! Con được biết chú là người luôn đứng về công lý và lẽ phải, nên hôm nay, nhắn gửi những dòng này đến chú, con rất hy vọng, chú sẽ giúp gia đình con!
...
5 năm trước, rẫy nhà con đột ngột bị cán bộ huyện xã chặt phá gần như toàn bộ, cây cà phê đang đến vụ thu hoạch đầu tiên (rẫy nhà con mua trước năm 2000, chỉ có giấy viết tay, chưa có điều kiện làm sổ đỏ) với lý do đất này của huyện đội!
Mẹ con bắt đầu đi kiện nhiều lần từ xã huyện tỉnh, mãi đến đầu 2017, UBND tỉnh mới có quyết định sẽ cấp sổ đỏ nhưng không bồi thường (những cán bộ chặt phá đấy đã hết nhiệm kỳ và ở đâu không ai biết ạ!).
Tỉnh chỉ đạo về xã huyện và ra thời hạn làm sổ đỏ, nhưng họ im lặng, đến gặp thì hứa hẹn đủ kiểu chú ạ!
Cuối tháng 8 vừa rồi sau khi nhà con vừa được xây xong trên mảnh đất rẫy ấy, những cán bộ huyện xã nhiệm kỳ mới, đột ngột vào nhà con đo đạc, lập biên bản quy cho gia đình con phá rừng làm nhà, đưa ra biên bản xử phạt hành chính và yêu cầu phá dỡ nhà trong 1 tuần. Họ còn nói, không đồng ý cứ đi giải trình, kiện tụng!
Nhà con hôm qua đã đưa đơn ra tỉnh, chính thái độ hời hợt, lấp lửng của họ mà làm cho nhà con lo lắng gấp bội, chú biết không, điều đó làm con nghĩ, có lẽ đến khi nhà con bị đập phá rồi, đi tìm lại công lý muốn tan gia bại sản rồi, lúc đấy không biết có một ai đứng ra giải quyết với cách làm việc chuyền tay, đùn đẩy, gia hạn vô định của họ!
Hiện tại chỉ có ba mẹ con và đứa em gái ở nhà, điều con lo lắng nhất là thứ 3 tuần tới đây, họ sẽ vào phá dỡ nhà con, con biết với tính cách dễ bị kích động của ba, ba sẽ bất chấp lao vô ngăn cản, với sự uất ức vì tài sản của cải gia đình ngày một tiêu hao vô lý, mẹ con sẽ ra sức phản đối!
Sẽ chẳng có một ai can thiệp vào, tính mạng của ba mẹ con sẽ mất oan uổng, báo chí sẽ đưa tin về nhà con như một tội đồ phá rừng, ngăn cản người thi hành pháp lý chính trực và tử vong! Vì lẽ chuyện này chưa từng được công bố rộng rãi, chỉ có vài người dân đã từng bị và im lặng trước mất mát mới biết và hiểu chuyện!
Con cũng không giấu chú, nhà con vẫn còn chứng cứ, cán bộ huyện xã phá cà phê, đánh lại mẹ và em của con trong lúc bảo vệ mảnh đất của mình! Họ đã từng tìm mọi cách để hủy nhưng không được!
Con biết động đến cán bộ là việc mà ai cũng khiếp sợ, nhưng không may, gia đình con bị cuốn vào vòng xoáy này, lấy không được 1 lần, họ sẽ có lần thứ n, gia đình con phải đứng lên, đòi những gì vốn là của mình vì đấy là nguồn sống của cả nhà!
Con đã từng nhờ và từng bị từ chối, vì lẽ động "cán bộ" nên ai cũng muốn an phận, con hiểu điều đó!
Con tìm đến chú với một hy vọng rằng công lý vẫn còn hiện hữu, vì vẫn còn công lý nên đất nước mình đã đang sẽ tồn tại và phát triển đúng không chú?!
Dạ cháu họ tên là Dương Thị Hằng, mẹ là Huỳnh Thị Thu, địa chỉ thường trú thôn 4 Quảng Khê - Đăkglong - Đăk Nông.
Chú biết không? Thời gian trước có người bảo cháu hãy đăng lên các trang xã hội đúng ngày bầu cử, nhưng cháu nghĩ thời điểm đó khá nhạy cảm, cháu sợ mình làm vậy bị quy tội “phản động”.
Giờ cháu muốn làm tất cả mọi thứ miễn là không phạm pháp, để câu chuyện này có thể đến với người nắm cán cân công lý và để nhà con được sống yên ổn!”

clip_image002
Ảnh: Những tập đơn từ, thư kêu oan của cháu Dương Thị Hằng và gia đình).
T.D.N.


Phần nhận xét hiển thị trên trang