Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 27 tháng 3, 2017

Trung Quốc luôn thù hằn và hiếu chiến


Các nhà lãnh đạo Trung Quốc sử dụng các bản đồ lịch sử giống như dùi cui, và những tuyên bố dối trá của họ bây giờ tạo thành điều mà nhiều người Trung Quốc tin là “trật tự tự nhiên” cần phải được phục hồi.

Trong cuốn sách có thể tìm đọc được và thú vị của ông về các tham vọng toàn cầu của Trung Quốc, Howard French viết, “Lịch sử để lại cho Trung Quốc tình hình địa chính trị phức tạp nhất trong bất kỳ nước lớn nào, không trừ nước nào”. Ông không nói quá. Với biên giới đất liền dài 14.000 dặm và 20 nước láng giềng liền kề, quá rõ vì sao Trung Quốc lại mong muốn thứ trật tự khu vực có thể bảo đảm an ninh và tính trung tâm của chính họ.

Ông French khám phá ra mong muốn đó thông qua từ “tian xia” (thiên hạ) của Trung Quốc mà ông dịch là “Mọi thứ dưới trời”. Nó bao hàm cách nhìn thế giới thời các vương triều trước đây, trong đó Trung Quốc là nền văn minh trung tâm của châu Á, trong khi các nước láng giềng sống dưới bóng văn hóa và quân sự của họ, đã triều cống và thừa nhận ưu thế của họ để đổi lấy việc giao thương. Đó là một vị thế mà Trung Quốc từng giữ trong quá khứ thông qua việc pha trộn giữa hiếp đáp và rộng lượng, và ông French gợi ý rằng một lần nữa nó đặt nền móng cho tham vọng của Trung Quốc trong tương lai.

Điều này không có nghĩa là Trung Quốc bị quá khứ của mình định nghĩa toàn bộ. Tác giả nói rõ rằng ông không tin vào một loại ‘DNA văn hóa’ nào quyết định hành vi của Trung Quốc, nhưng rõ ràng là một vài kiểu cách từ thời các vương triều xưa cung cấp một mô hình hấp dẫn cho các nhà lãnh đạo hiện nay của nước này—quá khứ “nửa lý tưởng hóa, nửa thần thoại hóa” đầy mong nhớ, như ông French nói, khi Trung Quốc được chấp nhận là tối thượng ở Châu Á.

Tuy nhiên, cái nhìn thế giới tự tin về tian xia được cân bằng bởi một chủ đề riêng lẻ và dè dặt hơn từ lịch sử gần đây của Trung Quốc, đó là “sự sỉ nhục”: cụ thể là mong muốn phục hồi lãnh thổ bị mất vào thời kỳ nước này suy yếu trong thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Chính từ động lực thứ hai này, chúng ta có “đường chín vạch” nổi tiếng mô tả các yêu sách biển của Trung Quốc, xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1947 và bây giờ có thể được tìm thấy trên tất cả các bản đồ in ở Trung Quốc. Nhà lãnh đạo quốc dân đảng Tưởng Giới Thạch bị ám ảnh bởi vấn đề lãnh thổ đến mức ông viết “trả thù cho sự sỉ nhục” trên đầu mỗi trang nhật ký trong 20 năm. Một “Bản đồ quốc sỉ” được tạo ra trong thời ông cầm quyền năm 1938 đã vạch ra lãnh thổ Trung Quốc cần phải phục hồi để giành lại vị thế vĩ đại trong quá khứ—bao gồm, đáng báo động, không những các yêu sách đảo quen thuộc hiện nay mà còn Mông Cổ, Hàn Quốc, Đông Dương, và thậm chí cả nhiều phần đất của Ấn Độ và Pakistan.

Cả hai chủ đề này—phục hồi và oán hận—đi cùng với nhau trong kể lể này. Ông French viết về cách mà các nhà lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc sử dụng bản đồ lịch sử như “dùi cui” để đòi hoàn trả lãnh thổ coi là phi thời gian và bất khả xâm phạm của Trung Quốc, đặc biệt là ở biển Đông. Như ông đã chỉ ra, không một quốc gia nào khác trên thế giới ủng hộ những yêu sách này, chúng tồn tại trong không gian tiếng vọng lịch sử thuộc loại chỉ có ý nghĩa đối với các khán giả trong nước TQ. Nhưng khán giả đó chỉ chiếm gần một phần năm số người trên thế giới, và có vẻ cũng giả trá như những yêu sách đó đối với người bên ngoài, chúng tạo thành điều mà nhiều người Trung Quốc hiện giờ tin vững là một “trật tự tự nhiên” cần phải được phục hồi.

Còn về sự rộng lượng của quá khứ vương triều Trung Quốc, bất cứ ai đã sống ở nước này trong những thập kỷ gần đây đều quen thuộc với khẳng định lặp đi lặp lại rằng Trung Quốc không bao giờ xâm chiếm các nước láng giềng hay tìm kiếm “quyền bá chủ” như thể chế độ hiện tại theo một cách nào đó bị hạn chế bởi những tập tục của quá khứ—và hơn nữa, như thể những tập tục đó thậm chí có thể nói là tồn tại. Nhưng như ông French lập luận, cách mà Trung Quốc trình bày lịch sử của họ và thực tế của lịch sử đó có thể là hai điều rất khác nhau.


Howard W. French, tác giả sách Everything Under the Heavens. Ảnh: AsiaStore.

Chẳng hạn, ông cho chúng ta ví dụ các chuyến đi của Trịnh Hoà (Zheng He), vị đô đốc nhà Minh thế kỷ 15 , từng chỉ huy một đội tàu khổng lồ chạy xuyên qua Đông Nam Á và tới bờ biển phía đông châu Phi. Các học giả Trung Quốc thích lưu ý rằng, không giống như người Anh hay Bồ Đào Nha, Trịnh Hoà không đi chinh phục mà chỉ tìm kiếm giao thương cùng có lợi—qua việc ngụ ý rằng việc mở rộng thương mại là tất cả những gì mà Trung Quốc từng mong muốn trong quan hệ ngoại giao. Một học giả người Trung Quốc mà ông French trích dẫn nói rằng, Trịnh Hoà là một “sứ giả hòa bình”, người mà theo một học giả khác, đã cho thấy rằng Trung Quốc “không tìm kiếm quyền bá chủ đối với những nước khác”. Tuy nhiên, thực tế là Trịnh Hoà đã mang theo một đội quân lớn và không ngần ngại gây chiến khi ông thấy việc đó là thích hợp. Cách nhìn màu hồng đó về Trịnh Hoà và mô hình mà cách nhìn đó đặt để cho việc thực thi hoà bình sức mạnh của Trung Quốc, theo lời ông Franco, là “sự tưởng tượng của Trung Quốc chứ không phải lịch sử”.

Một nhà báo kỳ cựu, ông French có một cách tiếp cận rộng rãi cho nghiên cứu của mình trong cuốn sách này, đan xen việc tường thuật tại chỗ với toàn cảnh lịch sử, nhìn Trung Quốc phần lớn qua con mắt của những người hàng xóm của họ cả trong quá khứ lẫn hiện nay. Những câu trả lời ông tìm ra khác biệt rất lớn. Chẳng hạn, trong khi ở Nhật Bản ông thấy các chuẩn bị quân sự để bảo vệ quần đảo Senkaku, thì ở Philippines ông phỏng vấn một học giả có thắc mắc rằng, liệu đất nước của ông có thể chấp nhận quan hệ triều cống mới với Trung Quốc hay không—nghĩa là đưa cho nước này chỗ đứng (place) và địa vị (status) mà TQ muốn.

Cuốn sách này là một lời nhắc nhở rằng các quan hệ quốc tế của Trung Quốc diễn ra trong bối cảnh lịch sử cách đây nhiều thế kỷ nếu không nói là thiên niên kỷ và ông French là một hướng dẫn lôi cuốn xuyên qua lịch sử sâu xa đó. Tuy nhiên, đối với những căng thẳng hiện nay thì lịch sử gần đây nhất của thế kỷ 20 lại ảnh hưởng hơn hết thảy – đặc biệt là những vết thương chưa lành của Chiến tranh Thái Bình Dương. Trong khung cảnh chính trị Trung Quốc hiện nay, ông French viết, Nhật Bản là nước duy nhất mà các nghệ sỹ có thể được hoàn toàn tự do để tấn công và tấn công như họ muốn. Ông nói với chúng tôi, toàn bộ 70% bộ phim truyền hình Trung Quốc đều có ý đồ liên hệ đến cuộc chiến tranh với Nhật Bản, và chỉ riêng năm 2012, 700 triệu người Nhật tưởng tượng đã bị giết trong các bộ phim Trung Quốc. Các phát hiện của ông French về mặt này rất đáng ngại: Ông viết “Cho tới hiện nay Đông Á chưa bao giờ cho thấy đủ lớn để hai cường quốc lớn cùng tồn tại một cách hòa bình“.

Tuy nhiên, không giống như một số công trình khác về chủ đề này, nói chung ông French dùng một giọng điệu có cân nhắc để làm giảm bớt báo động mà người đọc có thể cảm thấy về sức mạnh đang tăng của Trung Quốc. Ông viết, lợi thế của nước này trong việc tiến lên từ thế yếu hơn về mặt quân sự sẽ sớm biến mất, để lại cho đất nước những khoản chi phí không thể kham nổi nếu muốn tiếp tục tăng cường năng lực hải quân của mình với tốc độ như những năm gần đây. 


Thậm chí quan trọng hơn, ông trỏ vào sự dịch chuyển khổng lồ trong cơ cấu dân số đang diễn ra ở Trung Quốc khi dân số già đi và sinh suất giảm xa dưới mức đủ thay thế. Trung Quốc đang tiến tới có hơn 329 triệu người trên 65 tuổi vào năm 2050, trong khi số người trẻ đang ở độ tuổi lao động giảm xuống. Ông French dự đoán, sự lão hóa không thể lay chuyển được của dân số sẽ hạn chế khả năng của nước này triển khai sức mạnh trong tương lai. Họ sẽ giảm một nửa số lượng người trong độ tuổi tham gia quân đội trong khi dồn gánh nặng cho người lao động và chính phủ phải chịu chi phí rất lớn để chăm sóc cho người cao tuổi. Ông gợi ra rằng, tốc độ không thể tin được mà Trung Quốc hiện đang cố gắng khẳng định sự kiểm soát đối với biển Đông được lôi kéo từ nhận thức của Chủ tịch Tập Cận Bình, rằng đất nước này có khoảng thời gian nhiều nhất là 20 hoặc 30 năm trước khi cơ cấu dân số bắt kịp nó và sự mở rộng như vậy trở nên không thể xảy ra.

Đây là một quyển sách rất đúng lúc mà tác giả cập nhật gần với hiện nay đến mức có thể được. Tuy nhiên, vì nó được hoàn thành trước cuộc bầu cử tổng thống vào mùa thu năm ngoái, phần lớn những gì ông mô tả như là vai trò cốt yếu và tiếp tục của Hoa Kỳ trong việc duy trì sự ổn định của Đông Á giờ đây đã bị rơi vào tình trạng không chắc chắn. Quan hệ đối tác xuyên Thái Bình Dương đã bị bác bỏ. Kế hoạch của chính phủ mới đối với sự can dự của Mỹ trong khu vực này không rõ ràng. Trong điều kiện hiện nay, ông French thấy rằng bàn tay tích cực của Hải quân Hoa Kỳ là lực cản chủ yếu, nếu không nói là duy nhất đối với những tham vọng của Trung Quốc ở biển Đông. Mặc dù phân tích của ông giả định vai trò này vẫn tiếp tục, ông đã đưa ra một cái nhìn thoáng qua về một tương lai có thể có với sự can dự giới hạn của Hoa Kỳ, chỉ ra khả năng về một liên minh mạnh mẽ hơn đang nổi lên giữa các quốc gia ở vùng ngoại vi của Trung Quốc.

Ông French lưu ý, bất chấp quy mô và sức mạnh của Trung Quốc, các nước láng giềng dễ dàng vượt trội họ cả về dân số lẫn sức mạnh quân sự; quân đội của chỉ 6 nước láng giềng hợp lại sẽ đông hơn gấp đôi quân đội Trung Quốc. Vì vậy, có rất nhiều điều có thể xảy ra phía trước, không phải mọi thứ đều tối tăm, không phải tất cả đều liên quan đến sự thống trị của Trung Quốc. Ông French viết “Một kỷ nguyên cũ đang đi qua, ngay cả khi diễn biến của những gì sắp tới đã không thực sự tự loan báo”. Các từ này bây giờ vang lên thậm chí mạnh mẽ hơn lúc tác giả viết chúng ra.

Stephen R. Platt điểm cuốn sách “Everything Under the Heavens” (Mọi thứ dưới trời) của Howard W. French.

Tác giả: Stephen R. Platt | Wall Street Journal
Dịch giả: Song Phan

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ông Hoàng Văn Hoan và vụ thanh trừng 1979


Tác giả:  Balazs Szalontai

.Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bài đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.
KD: Chính trị ở bất cứ QG nào cũng cực kỳ phức tạp, trong đó có VN. Nhưng người nào mà dính líu tới TQ, bám vào TQ, một láng giềng đầy dã tâm với nước Việt thì chắc chắn không thể là người đàng hoàng. Không những thế, còn rất đáng hổ thẹn
———–
 
Bản quyền hình ảnh Getty Images Image caption Ông Hoàng Văn Hoan (thứ nhì từ trái sang) lãnh đạo phái đoàn Việt Minh đứng cạnh Thứ trưởng Ấn Độ KG Mathur (đeo kính) tại Dehli năm 1954, bên trái ông Mathur là ông Hà Văn Lâu
Nhân kỷ niệm Chiến tranh Biên giới Việt – Trung 1979, BBC đăng lại bài của tiến sĩ Balazs Szalontai về số phận ông Hoàng Văn Hoan, người từng là lãnh đạo cao cấp nhưng bị ‘tử hình vắng mặt’ vì chạy theo Trung Quốc:
Khi đã lưu vong ở Trung Quốc (TQ), Hoàng Văn Hoan, nhân vật lãnh đạo vào hàng cao cấp nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đào thoát ra nước ngoài từ trước tới nay, nói rằng sau cuộc chiến Việt – Trung, có tới 300.000 đảng viên thân Trung Quốc bị phe “thân Liên Xô” của Lê Duẩn loại bỏ.
Một cuộc thanh trừng nội bộ quả đã diễn ra trong 1979-80, nhưng như hồ sơ Hungary tiết lộ, ông Hoan đã phóng đại nhiều về tầm mức.
Việc thanh trừng vừa là nỗ lực bóc tách các “phần tử thân TQ” thật sự và tiềm năng, nhưng nó cũng là biểu hiệu của khủng hoảng kinh tế – xã hội ăn sâu ở VN.

Vai trò cá nhân

Sự đóng góp của ông Hoàng Văn Hoan cho phong trào Cộng sản VN không to lớn như ông nói mà cũng không nhỏ bé như phát ngôn nhân của Hà Nội cáo buộc sau khi ông đã bỏ trốn sang Trung Quốc.
Là thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông có thời gian dài ở TQ. Trong cuộc chiến kháng Pháp, ông giữ chức thứ trưởng quốc phòng.
Năm 1948, ông được giao việc thành lập Văn phòng Hải ngoại ở Thái Lan, và sau đó là đại sứ đầu tiên của Bắc Việt ở Trung Quốc.
Mặc dù là thành viên thứ 13 trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng năm 1956, và sau này vào Bộ Chính trị, nhưng Hoan không thuộc vào nhóm lãnh đạo chủ chốt nhất.
Vị trí cao nhất ông từng giữ là phó chủ tịch Ủy ban thường vụ Quốc hội, và không nằm trong Ban Bí thư đầy quyền lực. Kết quả là, vị trí của ông bị lung lay hơn trước biến đổi trong quan hệ Việt – Trung, khi so với Trường Chinh hay Lê Duẩn là những người luôn có thể giữ vị trí, cho dù Hà Nội thân thiện với Bắc Kinh hay không.
Được biết vì tình cảm thân thiện với TQ, ông Hoan đạt đỉnh cao sự nghiệp vào đầu thập niên 1960 khi Bắc Việt tạm thời có thái độ thân TQ trong tranh chấp Liên Xô – TQ. Năm 1963, khi Ngoại trưởng Ung Văn Khiêm bị thay bằng Xuân Thủy (thân TQ hơn), ông Hoan cũng thành Trưởng Ban liên lạc đối ngoại Trung ương Đảng.
Nhưng trong giai đoạn 1965-66, quan hệ Xô – Việt bắt đầu cải thiện, cùng lúc với căng thẳng gia tăng giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Trong môi trường mới này, ban lãnh đạo cảm thấy cần thay cả Xuân Thủy và Hoàng Văn Hoan bằng những cán bộ ít dính líu hơn đến chính sách thân TQ trước đây của ban lãnh đạo Hà Nội.
Năm 1971-72, Hà Nội bất mãn vì Trung – Mỹ làm hòa, có vẻ càng làm vị thế ông Hoan bị suy giảm.
Dù vậy ông vẫn là nhân vật quan trọng trong quan hệ Việt – Trung.
Ví dụ, năm 1969, chính ông đã giúp hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài và khó khăn quanh viện trợ kinh tế của TQ. Tháng Năm 1973, ông tiến hành hội đàm bí mật tại Bắc Kinh về vấn đề Campuchia.
Năm 1974, ông Hoàng Văn Hoan cùng Nguyễn Côn, Bí thư Trung ương Đảng, đi TQ để “chữa bệnh”, nhưng có thể sứ mạng thực sự lại liên quan đến đàm phán biên giới bí mật Việt – Trung từ tháng Tám tới tháng 11, mà kết quả đã thất bại.
Bản quyền hình ảnh AFP
Image caption Lãnh tụ Bắc VN, ông Hồ Chí Minh ăn trưa cùng Chủ tịch TQ Lưu Thiếu Kỳ tại Bắc Kinh tháng 8/1959
Sự khác biệt giữa Trung Quốc và Việt Nam về Campuchia và Hoàng Sa đã không thể hàn gắn và làm cho Hoàng Văn Hoan không còn có thể đóng vai trò trung gian thành công. Lê Duẩn và các đồng chí kết luận họ không còn cần ông nữa. Những liên lạc của ông với Bắc Kinh nay bị xem là rủi ro an ninh.
Sau Cuộc chiến Việt Nam, những cán bộ mà Lê Duẩn không còn cần hoặc tin tưởng dần dần bị thay thế. Năm 1975, công chúng không còn thấy Nguyễn Côn, và năm sau, Hoàng Văn Hoan bị ra khỏi Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1979, khi xung đột Việt – Campuchia và Việt – Trung lan rộng thành chiến tranh, vị trí của ông Hoan càng trở nên bấp bênh. Sang tháng 6, ông quyết định đào tẩu.
Lấy cớ ra nước ngoài chữa bệnh, ông đã xuống máy bay ở Pakistan và sang Trung Quốc, ở lại đó cho tới ngày qua đời năm 1991.
Tại nhiều cuộc họp báo, Hoàng Văn Hoan giải thích sự đào tẩu bằng cách nhấn mạnh ông đã từ lâu chống đối chính sách của Lê Duẩn, mà theo ông là đã biến Việt Nam thành vệ tinh Xô Viết, làm người Hoa bị phân biệt đối xử, và dẫn tới việc chiếm đóng Campuchia. Cáo buộc của ông một phần dựa trên sự thật, vì ngay từ tháng Giêng 1977, Đảng Cộng sản VN đã dự định giải tán và tái định cư một phần cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn.
Hiệp ước Việt – Xô 1978 cũng là một phần quan trọng cho sự chuẩn bị đánh Campuchia.
Nhưng mặt khác, ông Hoan và phía bảo trợ là Trung Quốc dễ dàng bỏ qua là năm 1978, Việt Nam vẫn tìm cách tránh phụ thuộc Moscow quá mức bằng việc cải thiện quan hệ VN – Asean, và thảo luận cả khả năng gia nhập Asean trong tương lai.
Sự đào thoát của ông Hoan hẳn làm Bộ Chính trị vô cùng lúng túng vì họ vẫn quen tự mô tả mình là mẫu mực đoàn kết.
Bắc Kinh càng làm vết thương thêm đau rát. Hai ngày sau khi tới Bắc Kinh, Hoàng Văn Hoan được Tổng Bí thư Hoa Quốc Phong đón tiếp, và ông Hoa tuyên bố “những kẻ phá hoại tình hữu nghị Việt – Trung sẽ vỡ đầu”.
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Các ông Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng và Trường Chinh bên linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1969 ở Hà Nội
Mặc dù Việt Nam nhấn mạnh sự trốn chạy của Hoàng Văn Hoan chỉ là trường hợp riêng lẻ, nhưng Bộ Chính trị biết chính sách của họ không được toàn dân ủng hộ.
Mùa xuân 1979, khi giới chức bắt 8000 Hoa kiều tái định cư từ Hà Nội vào “Vùng Kinh tế Mới”, nhiều người Việt Nam đã không đồng ý khi các đồng đội người Hoa của họ bị buộc ra đi. Khác biệt cũng tồn tại trong nội bộ lãnh đạo.
Tháng Sáu 1978, Trường Chinh và Lê Văn Lương ban đầu phản đối việc thông qua nghị quyết gọi TQ là kẻ thù nguy hiểm nhất của VN.

Khủng hoảng xã hội

Sự thanh trừng không lớn như ông Hoàng Văn Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt – Trung.
Quyết loại bỏ những thành phần “bội phản”, giới chức có những biện pháp khắc nghiệt. Người Mèo và các cộng đồng thiểu số khác một phần đã phải ra đi khỏi các tỉnh miền bắc. Tại phiên họp của Ban Chấp hành Trung ương trong tháng Tám, ban lãnh đạo bàn vụ Hoan trốn thoát và chỉ trích ngành an ninh.
Nhiều cán bộ cao cấp, như Lý Ban, cựu thứ trưởng ngoại thương có gốc Hoa, bị quản thúc. Tháng Giêng 1980, Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn bị buộc về hưu. Kiểm soát ngành an ninh được chuyển sang cho một ủy ban mới thành lập do Lê Đức Thọ đứng đầu. Xuân Thủy, người đã tiễn chân ông Hoan hồi tháng Sáu, cũng bị giáng chức.
Tuy nhiên, sự thanh trừng không lớn như ông Hoan cáo buộc, và cũng không đơn thuần do xung đột Việt – Trung.
Trước hết, các vụ thanh trừng trong hàng ngũ Đảng đã bắt đầu từ những năm trước.
Giai đoạn 1970 – 75, chừng 80.000 đảng viên bị loại khỏi hàng ngũ, còn trong giai đoạn 1976-79, con số này là 74.000.
Bản quyền hình ảnh Getty Images
Image caption Bộ đội Việt Nam ở Lạng Sơn: cuộc chiến biên giới giết chết hàng vạn người chỉ trong vòng chưa đến 30 ngày
Thứ hai, nhiều người mất thẻ Đảng vì những lý do không liên quan xung đột Việt – Trung.
Việc trục xuất các cá nhân thân Trung Quốc đạt đỉnh cao từ tháng 11-1979 tới tháng Hai 1980, nhưng từ tháng Ba, quá trình này bắt đầu chậm lại, và ưu tiên của chiến dịch sau đó hướng sang chống tham ô, biển thủ và các hành vi tội phạm.
Tại miền Nam, khu vực mà số đảng viên chỉ chiếm một phần ba của đảng, giới lãnh đạo định loại bỏ chừng 5% đảng viên (so với tỉ lệ trung bình cả nước là 3%). Điều này không chỉ chứng tỏ Hà Nội nghi ngờ dân số miền Nam mà đây còn là cố gắng kỷ luật những cán bộ người Bắc đã lạm dụng quyền lực sau khi được bổ nhiệm vào Nam.
Các vấn nạn xã hội, kinh tế và tội phạm mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải đương đầu có vẻ khiến họ cố gắng hạn chế thiệt hại hơn là mở đợt thanh trừng chính trị to lớn.
Thất nghiệp và khan hiếm hàng hóa làm trộm cướp gia tăng. Giới chức đã phải huy động quân đội canh giữ ở cảng Hải Phòng nhưng cũng không có kết quả.
Ngược lại, một nhà ngoại giao Hungary nhận xét quân đội khi đó đang trở thành “quân dự bị gồm những kẻ tội phạm”. Không có việc làm, nhiều người lính giải ngũ đã phải thành trộm cướp.
Trong tình hình đó, ban lãnh đạo cộng sản, dù đã kết án tử hình vắng mặt với Hoàng Văn Hoan năm 1980, chỉ muốn xóa tên ông ra khỏi ký ức công chúng thay vì đưa ông ra cho người dân mắng chửi.
Và đến lúc qua đời, ông cũng đã “hết hạn sử dụng” đối với nước chủ nhà TQ, vì lúc đó, cả Hà Nội và Bắc Kinh đều muốn làm hòa chứ không cãi nhau quanh những sự kiện của quá khứ.
Tiến sĩ Balazs Szalontai là một nhà nghiên cứu độc lập ở Hungary. Ông là tác giả cuốn sách Kim Nhật Thành trong thời kỳ Khruschev (Đại học Stanford và Trung tâm Woodrow Wilson xuất bản, 2006). Bài viết dựa vào kho tư liệu tại Hungary và thể hiện quan điểm riêng của tác giả. Bài đã đăng tháng 4/2010 trên bbcvietnamese.com ở giao diện cũ.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Dân chủ và những “thượng đế” bị áp đặt!

Bùi Hoàng Tám


(Dân trí) - Muốn có dân chủ trong nhà trường thì phải có dân chủ trong đời sống xã hội và ngược lại, muốn có dân chủ trong đời sống xã hội thì trước hết, phải có dân chủ trong nhà trường, phải không các bạn?

Có ba câu hỏi về vấn đề “nhạy cảm” đã được Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam thẳng thắn đề cập đến tại Hội nghị về thực hiện quy chế dân chủ trong cơ sở giáo dục đào tạo vào ngày 24/3 qua, đó là: Thứ nhất, mất dân chủ trong trường học có phải hiện tượng phổ biến không hay chỉ là cá biệt? Thứ hai, nếu như việc thực hiện dân chủ chưa tốt thì có phải do thiếu văn bản quy định không? Thứ ba, nếu văn bản quy định có đủ, thì nguyên nhân tình trạng vi phạm dân chủ trong trường học là do đâu?

Nói “nhạy cảm” không bởi nó bị “cấm đoán” mà bởi đây là vấn đề cấp thiết, song công bằng mà nói, con đường đến dân chủ không chỉ trong trường học mà ở tất cả các môi trường đều có vấn đề, dù đây là một trong ba mục tiêu chính trong công cuộc xây dựng một xã hội “công bằng, dân chủ, văn minh” mà Việt nam đang theo đuổi.

Trả lời câu hỏi của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Thị Nghĩa khẳng định các văn bản quy định về thực hiện dân chủ trong cơ sở giáo dục hiện nay là tương đối đầy đủ, việc mất dân chủ ở một số trường là có nhưng không nhiều.

Tuy nhiên, về quan điểm cá nhân, người viết bài này đồng tình 50/50 với Thứ trưởng Nghĩa. Tức là về văn bản, có thể nói chúng ta không thiếu. Song, việc mất dân chủ thì có lẽ không phải là “có nhưng không nhiều” như Thứ trưởng Nghĩa đánh giá.

Thậm chí, người viết bài này còn cho rằng không chỉ mất dân chủ mà còn có sự “khiếp nhược” mà gần đây nhất là qua vụ việc ở Trường Tiểu học Nam Trung Yên (Cầu Giấy, Hà Nội).

Nhìn lại sự việc trên, không thể không đặt một số câu hỏi như tại sao việc xảy ra tai nạn tại trường là có thật nhưng lúc đầu, các giáo viên trong trường đều ký vào văn bản nói rằng không có? Rồi sau khi hiệu trưởng, hiệu phó bị cách chức thì tất cả lại đồng tình với hình thức kỉ luật này?

Ở đây có hai khả năng. Một là sự dối trá của các giáo viên trong nhà trường và hai là sự khiếp nhược, sợ bị trù úm nên buộc họ phải dối trá.

Còn có một sự thật mà dư luận lâu nay bức xúc, đó là tình trạng thiếu minh bạch, “chạy việc” trong ngành giáo dục.

Theo ông Bạch Ngọc Chiến, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Nam Định tại Hội nghị trên thì nguyên nhân chính khiến việc thực hiện quy chế dân chủ trong trường học không đầy đủ là do khâu tuyển dụng giáo viên hiện nay thiếu minh bạch. Ông Chiến bày tỏ nếu giáo viên được tuyển dụng thiếu minh bạch, một khi trở thành một hiệu trưởng, trải qua đầy đủ các mánh lới thì mất dân chủ là đương nhiên.

Trong khi đối với thày cô giáo trong trường mà còn không (hoặc ít) dân chủ thì làm sao có dân chủ dối với học sinh?

Có lẽ khó có thể nói khác, học sinh hiện nay đang là “những thượng đế bị áp đặt”. Áp đặt từ việc không được chọn trưởng, chọn lớp, chọn thầy, chọn cô cho đến chọn giáo trình và sách giáo khoa.

Ngay cả quan niệm nhất nhất phải vâng lời thầy cô mới là ngoan cũng cần phải xem lại bởi thứ nhất, không phải lúc nào thầy, cô cũng đúng. Thứ hai, việc áp đặt này sẽ triệt tiêu cá tính và tư duy phản biện, một điều rất cần có đối với mỗi cá nhân trong cuộc sống hiện đại.

Thứ ba, việc luôn coi “thầy cô là tấm gương sáng” đã áp đặt mục tiêu phấn đấu luôn lấy thầy cô là “đích đến”, cần vươn tới trong khi mỗi thế hệ có những chuẩn mực khác nhau và cả “cái đích” của thế hệ sau cũng cần cao hơn thế hệ trước như câu tục ngữ “Con hơn cha là nhà có phúc”.

Đó là chưa kể sự “áp đặt” phải luôn luôn là “tấm gương sáng” là một thách thức không nhỏ với thầy cô trong xã hội hiện nay.

Một điều nữa cũng rất cần lưu tâm, đó là dù trường học là nơi xuất phát, song muốn có dân chủ trong trường học thì cũng rất cần dân chủ trong nhiều mặt khác của đời sống xã hội bởi trường học không phải là “ốc đảo” riêng biệt, tách rời.

Do đó, muốn có dân chủ đối với thế hệ tương lai thì trước hết, phải có dân chủ từ các nhà quản lý giáo dục mà đầu tiên phải bắt đầu từ Bộ GD&ĐT để các em không bị áp đặt và tiếp đó là dân chủ ngay trong các thầy cô giáo nhà trường

Tóm lại, muốn có dân chủ trong nhà trường thì phải có dân chủ trong đời sống xã hội và ngược lại, muốn có dân chủ trong đời sống xã hội thì trước hết, phải có dân chủ trong nhà trường, phải không các bạn?
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hơn 60,000 người yêu cầu Đài Loan áp lực Formosa ‘khắc phục thảm họa’


NGHỆ AN, Việt Nam – Hơn 60,000 người yêu cầu chính phủ Đài Loan, các định chế quốc tế làm áp lực buộc công ty Formosa khắc phục thảm họa, trả lại môi trường trong sạch và đền bù thỏa đáng cho các nạn nhân. Một bản kiến nghị do “Ban hỗ trợ nạn nhân ô nhiễm môi trường biển giáo phận Vinh,” với sự tiếp tay của các tổ chức xã hội dân sự, gần đây được phát động trên mạng để mọi người có thể tham gia ký tên. Người muốn ký tên có thể vào trang: https://thamhoaformosa.com.

Người biểu tình leo lên vách tường bao bọc công ty 
Formosa
  ở Hà Tĩnh với các biểu ngữ. (Hình: Người Kỳ Anh)
Bản kiến nghị gởi đến tổng thống, chủ tịch Quốc Hội và thủ tướng chính phủ Đài Loan, Chương Trình Môi Trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP), Liên Hiệp Âu Châu, Ngân Hàng Thế Giới, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu, Các tổ chức, hiệp hội bảo vệ môi trường quốc tế và những người yêu chuộng công lý và bảo vệ môi trường.

“Tháng Tư, 2016, công ty Formosa đã thải một lượng lớn chất thải độc hại ra biển miền Trung Việt Nam gây ô nhiễm nghiêm trọng kéo dài hơn 250 km bờ biển làm sinh vật chết hàng loạt. Cá, tôm, san hô và nhiều loại thủy sản chết làm hệ sinh thái thềm lục địa miền Trung Việt Nam bị phá hủy, theo đánh giá phải mất hàng chục năm mới có thể khắc phục hậu quả này. Ngoài ra, độc tố từ chất thải công nghiệp đang tích tụ vào trầm tích đáy biển là hiểm họa có thể gây bệnh tật nguy hại cho tương lai lâu dài của người dân Việt Nam.” Bản kiến nghị nói trên viết.

Bản kiến nghị cho biết: “Thảm họa Formosa đã phá hủy nguồn thủy sản, là nguồn thực phẩm chính yếu, truyền thống của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó, thảm họa này đã cướp mất nghề nghiệp của hàng trăm ngàn lao động trong các ngành đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản, dịch vụ hậu cần nghề cá. Các nghề nghiệp liên quan như du lịch, khách sạn, nhà hàng… cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều gia đình lâm vào cảnh túng quẫn do thất nghiệp, nhiều người phải bỏ quê hương xứ sở đi mưu sinh ở những nơi xa. Nhiều trẻ em có nguy cơ rơi vào cảnh thất học do gia đình mất nguồn thu nhập.”

Chưa hết, “Bên cạnh đó, chúng tôi còn đối mặt với nguy cơ mắc các chứng bệnh nan y như ung thư, dị tật, quái thai, thần kinh… do ăn phải thực phẩm bị nhiễm độc tố kim loại nặng do Formosa thải ra tồn lưu trong biển. Kinh hoàng hơn nữa khi báo chí đã tiết lộ nhiều thông tin cho rằng, Formosa không chỉ xả thải ra biển mà còn chôn chất thải rắn nhiều nơi trên đất liền và cả nguồn khí thải cũng chứa nhiều độc tố. Chúng tôi thật sự rất hoang mang lo sợ cho sức khỏe, tính mạng của chúng tôi và tương lai giống nòi của chúng tôi.”

Tuy sự thiệt hại môi trường biển cũng như sự thiệt hại đối với đời sống kinh tế và xã hội của người dân miền Trung Việt Nam cần hàng chục tỷ đô la để khắc phục, nhưng nhà cầm quyền Hà Nội đã chịu cầm $500 triệu của Formosa gọi là “bồi thường.” Số tiền tuy rất nhỏ so với thiệt hại nhưng nhà cầm quyền chỉ phát lại một phần nào trong số đó cho các người dân trong danh sách mà họ lập ra, không phải toàn thể những nạn nhân. Đã vậy, nhà cầm quyền địa phương còn ma mãnh, phân phát theo ý riêng, không đúng thực tế khiến dân chúng biểu tình chống đối.

Hiện người dân ở một số địa phương, ngay cả ở huyện Kỳ Anh, nơi có nhà máy luyện thép Formosa, vẫn biểu tình đòi hỏi đền bù thỏa đáng cho các sự thiệt hại họ đã phải chịu và còn đang tiếp tục phải chịu đựng, tương lai bất định.

Trước tình hình như thế, Ban Hỗ Trợ nạn nhân ô nhiễm môi trường biển giáo phận Vinh và các tổ chức xã hội dân sự tại Việt Nam kêu gọi “Chính quyền Đài Loan sử dụng thẩm quyền của mình để buộc Formosa phải hành xử có trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh” trên đất nước Việt Nam.

Buộc họ “tôn trọng môi trường sống của người dân Việt Nam, đồng thời đưa ra phương án cụ thể để khắc phục thảm họa, trả lại môi trường trong sạch và đền bù thỏa đáng cho các nạn nhân.”

Sau cùng, bản kiến nghị “mong Liên Hiệp Quốc, Liên Hiệp Âu Châu, Ngân Hàng Quốc Tế, Ngân Hàng Phát Triển Á Châu cùng với các tổ chức môi trường giúp chúng tôi đưa ra phương án và yêu cầu chính phủ Việt Nam nỗ lực khắc phục môi trường và đời sống của nạn nhân.”

Cho tới buổi sáng ngàu 26 Tháng Ba, 2017, đã có 61,210 người ký tên trên bản kiến nghị. Những người ký tên đầu tiên là Giám Mục Nguyễn Thái Hợp và hơn 200 linh mục của giáo phận Vinh cùng hàng ngàn giáo dân của giáo phận cùng các người khắp nơi trong ngoài nước Việt Nam.

Người muốn ký tên có thể vào trang: https://thamhoaformosa.com. Tuy nhiên, truy cập có thể khó khăn vì bị “kẻ xấu” tấn công nên không phải lúc nào cũng vào được. (TN)

Người Việt


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 26 tháng 3, 2017

"Thuở cỏ đang xuân"


Nhà thơ Vũ Quần Phương vừa xuất bản tập thơ mới "Phía ngoài kia là rừng". Tập thơ 40 bài, với nhiều suy nghĩ và chiêm nghiêm.
Xin giới thiệu bài "Thuở cỏ đang xuân" tôi viết về nhà thơ Vũ Quần Phương. Bài đã in trên báo Văn Nghệ, số tết năm trước.
THUỞ CỎ ĐANG XUÂN
Vũ Từ Trang
Đã gần năm mươi năm, khi thời trai trẻ, Vũ Quần Phương từng viết “Chống cằm trên bãi cỏ/Ngực áp giữa màu xanh/Tôi nằm nghe xung quanh/Nắng bay mùi đất mới/Trời trưa lên trong veo/Nước chảy ngoài sông cái/Gió vườn như trẻ dại/Cây cành như biết reo…” Đấy là thời tâm hồn thơ thới, niềm tin yêu tràn đầy, câu thơ ào ạt, tuy vậy, đã ẩn chứa nhiều nghĩ suy. Những câu thơ trăn trở chợt hiện “Những gì ta thương yêu/Sau bờ tre kia nhỉ”, để rồi “Tôi nằm nghe thương yêu/Nghĩ về xa tít tắp”.
Trong một bài thơ trước đó, “Phăng-xi-păng ta lên đến đỉnh” ông có những liên tưởng thú vị:
Tưởng bắt gặp những tầng mây nguyên thủy
Vạn năm còn ngơ ngẩn giữa không trung.
Câu thơ hay trong bài, mà bạn bè viết thường nhắc “Lá ải bay mùi men cổ sơ”, thì thấy ngoài khả năng quan sát tinh tế ở bề mặt, nó còn ẩn chứa cái bề sâu nghĩ ngợi của nhà thơ. Cũng bài viết về cỏ, trong tập “Những điều cùng đến”, tập thơ thứ ba của ông, sau mười năm, cảm xúc không còn hồn nhiên nữa. Tôi thấy cỏ được trồng vào chỗ cỏ (Cỏ trên hè phố), dường như ông sớm tin vào sự sắp đặt các giá trị trong xã hội. Ông là người có cách nói khéo trong thơ. Ngay nửa tập thơ đầu trình làng cùng Văn Thảo Nguyên (tập Cỏ mùa xuân), ông đã có những câu thơ phơi ra cái khéo, cái tinh tế. Khói đặc bay trong mùi lá ướt là câu thơ hay. Bình thường, người ta chỉ viết “Khói đặc bay trong vườn lá ướt”, với ông, lại thấy khói bay trong mùi lá ướt. Câu thơ được cấu thành từ hai chiều: thị giác và khứu giác. Câu thơ lập thể, ra đời từ sự tinh tế và tài hoa của tác giả.
Ở một bài thơ ngắn “Thơ tặng làng Quần Phương”, thay một lời chia sẻ, giãi bày:
Tên Quần Phương, thân tha phương
Tôi lấy tên quê làm độ đường
Sáu tuổi tiễn cha về với đất
Nấm mộ bên đường hóa cố hương.
Bài thơ neo vào tâm trí người đọc. Không phải vì dung lượng ngắn, mà cái chính, là bởi giọng nói chân tình, đắng đót của số phận. Quê cha, Quần Phương, Nam Định. Quê mẹ, làng Canh, Từ Liêm, ngoại thành Hà Nội. Gia cảnh éo le, cha mất sớm, khi ông sáu tuổi. Rồi từ đấy, số phận đưa đẩy ông lưu lạc đó đây. Tổng Quần Phương, thuộc huyện Hải Hậu, vùng đất trù phú của Nam Định. Cách đây hơn chục năm, tôi có dịp cùng mấy anh em văn chương được ông đưa về thăm quê. Đấy là chiều mưa xuân tầm tã. Tới bến sông Ninh Cơ, bên chiếc cầu đá cũ càng, mưa càng nặng hạt. Ai nấy phải giơ tay vuốt mặt mới nhìn rõ làng xóm. Chả biết có phải mưa lạnh, hay vì cảm xúc quê hương ùa về, mà ông đứng lặng bên sông khá lâu. Ông chỉ cho chúng tôi con đường đất dẫn về làng. Làng xóm, một vệt xanh mờ đặc, lom đom bếp lửa chiều, gợi sự cô quạnh nhiều hơn là sự bình yên.
Sau này, tôi có đọc mấy đoạn hồi ức về quê mà ông in trên một tạp chí, làm tôi càng nhớ cảm giác buồn chiều mưa quê ông mùa xuân năm ấy. Khi đến độ có tuổi, hầu hết kỷ niệm về quê, ai nấy đều đẫm buồn. Tôi hình dung khi ông tám tuổi, lẫm chẫm đội cái nồi đồng từ làng qua sông, để bán cho người nhà lấy tiền hai bà cháu sinh sống. Cái nồi to và nặng, đội sùm sụp trên đầu. Cậu bé tám tuổi gày yếu, hễ muốn nhìn rõ đưởng đi, lại phải dùng hai tay nâng lên khỏi tầm mắt. Cậu bé mồ côi cha ở với bà nội. Bà nội nửa năm chịu hai đại tang, con chết và chồng chết, sống ngây ngây dại dại. Chiến tranh vẫn liên miên. Tuổi thơ trong cảnh nghèo đói và côi cút. Từ sáu tuổi đến chin tuổi, xa mẹ xa em. Chỉ được một năm sống cùng mẹ và em ở làng Yên Phụ, Hà Nội. Rồi năm mười tuổi, lại xa mẹ, về ở trọ phố Tức Mạc, gần ga Hàng Cỏ để đi học. Có đận, ông phải vào nương nhờ cửa Phật, chùa Thái Cam, phố Hàng Gà. Tuổi thơ vất vả, nó ảnh hưởng rất nhiều đến cách cảm, cách nghĩ trong đời sống và trong những câu thơ ông viết ra sau này.
Việc ông vào học trường y, có phần cũng xuất phát từ cảnh ngộ tuổi thơ lầm lũi của mình. Trong nhà, đã trải qua nhiều cuộc tiễn đưa người chết trẻ vì bệnh tật. Ông muốn vào trường thuốc, trường y để học cách chữa bệnh cứu người. Ấy nhưng với tuổi thơ lầm lũi và côi cút, văn học hình như có sức mạnh cứu rỗi lớn hơn. Hai người thầy dạy phổ thông, có ảnh hưởng nhiều tới chí hướng của ông, rồi gắn cả đời mình vào con đường văn chương, là thầy Hoài Việt, thầy Nguyễn Xuân Huy. Những bài thơ ban đầu, được anh em còn nhắc đến nhiều, như “Trên đài quan trắc khí tượng”, “Phăng-xi-păng ta lên đến đỉnh”, là thời Vũ Quần Phương còn là sinh viên trường Đại học y.
Có câu thơ trong bài thơ thưở đầu đó, đã ám, đã vận vào đời ông “Ta tính đất trời ta định đời ta”. Ra trường, được về công tác ở Bộ y tế, nếu tiến thân theo con đường công chức, thì đó là thuận lợi lớn. Nhưng khốn nỗi, trái tim luôn ào ạt những cảm xúc về cảnh đời, phận người, nên ông dần dồn chí hướng cho con đường thi ca. Những bài thơ đầu ông công bố trên báo chí, được anh em viết tại Hà Nội nhiệt liệt cổ xúy. Với con mắt tinh đời, nhà thơ Chế Lan Viên nhìn nhận cây bút trẻ này có nhiều triển vọng và sẽ có vị trí xứng đáng trong văn đàn. Ông tận tình chia sẻ, góp ý và gợi ý chuyển nhà thơ-bác sỹ về làm việc tại Hội nhà văn. Đấy là năm 1969. Nhưng hai năm sau, ông mới chuyển về Đài tiếng nói Việt Nam, làm việc ở chương trình tiếng thơ. Gắn bó với chương trình tiếng thơ ở Đài mười hai năm, ông cùng đồng nghiệp cải tiến chương trình ngâm thơ, bình thơ, thu hút được đông đảo thính giả. Rồi ông lại chuyển sang công tác tại Nhà xuất bản Văn học, cùng anh em làm những bộ sách tuyển tập văn học giá trị. Rồi ông lại chuyển về làm chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, làm tổng biên tập tờ báo Người Hà Nội. Ông từng là chủ tịch hội đồng thơ của Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng từng là đại biểu Quốc hội, khóa 9.
*
* *
Trong “Tuyển tập thơ Vũ Quần Phương”, NXB Hội nhà văn, 2012, có bài thơ “Cửa bể” tuy chỉ hai dòng, nhưng lại chứa chất nhiều suy tư, nghĩ ngợi.
Đến đây gần biển xa nguồn
Con sông chảy chậm, nỗi buồn tan lâu.
Bài thơ viết năm 1980, khi ông bốn mươi tuổi, cái tuổi nhi bất hoặc. Tôi dám chắc, nếu thời còn trai trẻ, hẳn chưa viết được bài này. Bài thơ cấu tứ giản dị, hình tượng không có gì đặc biệt, ấy vậy, nó lại ám ảnh người đọc. Nhất là người đọc đã trải qua nhiều dâu bể. Chỉ một câu sáu và một câu tám chữ, mà nó gói trọn bao nỗi niềm trần thế. Nếu người xưa thường lấy hình tượng cửa bể để gắn với chiều hôm, thì ở đây, nhà thơ không giới hạn thời gian cụ thể. Có thể là ban sớm, có thể là chiều hôm. Sự đời vốn liên tục hợp tan. Cuộc chia ly dùng dằng giữa sông và bể, hay giữa hai con người? Lẽ đời hợp tan là muôn thưở, mà cớ sao sông chảy chậm lại? Cái nhoi nhói ở đây, là nỗi buồn tan lâu. Giá sông cứ cuồn cuộn, ào ạt cuốn đi, thì có khi lại đỡ nặng lòng người. Thơ viết về cái cụ thể, để nói về cái không cụ thể, nó là thế mạnh của nhà thơ Vũ Quần Phương.
Là một nhà thơ trưởng thành trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, ngay từ khi mới xuất hiện, Vũ Quần Phương đã khẳng định vị thế thơ ca của mình. Những khuôn mặt thơ hàng đầu của thế hệ này tại Hà Nội, có Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và Vũ Quần Phương. Ngay ngày đó, thơ của họ đã định hình phong cách. Đó là: Bằng Việt nặng chất suy tư, Lưu Quang Vũ đắm say, Xuân Quỳnh da diết, Vũ Quần Phương nhiều chiêm nghiệm. Ngay khi mới xuất hiện, thơ Vũ Quần Phương đã đạt độ tinh, độ kỹ, có lúc tới mức tỉa tót. Trong mỗi bài thơ, không có câu non lép. Thơ ông thường quan tâm đến đề tài thời gian, nhất là những năm gần đây, có phải ông tiếc một thuở cỏ còn xuân? Thơ viết về quê hương, gia đình, ông có những cảm xúc trĩu nặng. Ông là người có ý thức lao động cật lực trên cánh đồng thi ca của mình. Tính thời vụ, gối vụ như được hòa quyện và tạo ra những mùa màng liên tục. Hành trình vươn tới cái đích của thi ca, luôn thấy sự vận động, không đứt đoạn ở ông. Là người cầm bút chuyên nghiệp, ông luôn chú ý học hỏi và lao động kỳ khu trên từng con chữ của mình.
Nhận định về thơ ca cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20- giai đoạn vàng của thi ca Nga, với tên tuổi các thi sỹ chói lọi, có nhà phê bình văn học đã xếp loại: Mai-a thơ của công nghiệp, Pa-stéc-nắck thơ của thành phố, Bơ-lốck thơ của ngoại ô và Ê-xê-nhin thơ của đồng quê. Mượn cách đánh giá, xếp loại này, có thể tạm phân: Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, thơ của thị thành. Xuân Quỳnh, Vũ Quần Phương, thơ của ngoại ô. Ấy là cách xếp loại theo mỹ cảm sáng tạo của mỗi tác giả, nó chỉ có ý nghĩa tương đối.
Lao động sáng tạo, là sự phấn đấu tột cùng của mỗi người nghệ sỹ. Vũ Quần Phương là người luôn có ý thức vươn lên với chính mình, làm mới mình. Những năm đầu đổi mới của thập kỷ tám mươi, thế kỷ trước, anh em viết lách ở Hà Nội có chuyền tay nhau đọc bài thơ nói về sự đổi gác của nhà thơ Việt Phương. Tôi còn nhớ đại khái, nhà thơ viết rằng, đã tới kỳ đổi gác, mọi người hãy cố lên, một sự đổi mới bắt đầu. Thơ như một dự báo. Năm ấy, nhà thơ Vũ Quần Phương cũng cho in bài thơ “Cầu đã qua sông”. Có thể lấy từ cảm hứng một cây cầu lớn mới bắc qua sông Hồng, nhưng cái điệp ngữ “cầu đã qua sông” ám ảnh tôi và cho tôi liên tưởng tới một thời kỳ mới mẻ. Háo hức khen, nhưng khi bình tĩnh đọc lại, như thấy bài thơ chưa nói kịp những gì mình chờ đợi. Ở những tập thơ sau của ông, có nhiều bài đã nói rõ hơn điều ông muốn nói. Ví như, bài “Tịnh khẩu” và “Thôi kệ”…
Thôi và kệ. Kệ rồi thôi. Thôi kệ!
Sống đã là thôi kệ trăm năm
Cái tặc lưỡi cho thắng thua, còn mất…
Rồi:
Thôi kệ gió. Thôi kệ mưa. Mưa gió!
Đi trong mưa thì ta vẫn ngoài mưa
Đứng trước gió nhưng lòng ta đã gió
Gió ngoài kia đâu biết gió trong này
Ta đã sống cái thời không dễ sống
Những câu thơ không cần tỉa tót, nhưng lại đến trực diện với người đọc. Vì nó là suy nghĩ, là thái độ của nhà thơ. Nhân nói điều này, tôi thấy ở thơ Bằng Việt có nhiều bài, nhiều tập thơ phơi rõ thái độ của ông. Đó là thái độ “Ném câu thơ vào gió” và “Nheo mắt nhìn thế giới”. Thời nào chả vậy, cuộc sống luôn cần con người có thái độ. Ném câu thơ vào gió, có gì sự cả quyết dấn thân và cóc cần. Còn Nheo mắt nhìn thế giới có chút gì đấy khinh khi, coi nhẹ. Ở nhà thơ Vũ Quần Phương, ít thấy thái độ trực diện, mà nó như được dấu sau những câu thơ vân vi tâm trạng. Nhân viết về hoa phượng, ông đã thốt lên Yêu được hết lòng yêu không phải dễ. Nói về ngã ba đường đời, ông như muốn kêu lên Một ngày xa nữa là qua một đời. Xem ra đời người ai cũng phải gặp nhiều ngã ba lựa chọn. Có một nhà thơ nữ, viết “Ra khỏi nhà, em đã gặp ngã ba”. Hình như trong tình yêu, phụ nữ thường quyết đáp mạnh mẽ và dứt khoát hơn nam giới. Đường dang hai ngả tay chia một đời. Ông viết như thế, rõ là có sự chùng chình, do dự rồi. Thơ ông hay, khi viết về sự vân vi. Nhân nói về làng vườn Thuận Vi, ông thành thật Chưa bước xa cây đã nhớ người. Trong bài thơ “Tình yêu, dòng sông”, ông thắc thỏm lo: Em yêu anh có yêu được như sông? Trong bài thơ “Sóng và gió”, ông tự thú Lúc nguội hết nỗi đau/Là lúc đau lắm chứ. Bình tâm đọc lại thơ Vũ Quần Phương, thấy thơ ông thường buồn. Có lúc thẫm buồn. Ngay khi viết về gia đình đoàn tụ nhân ngày tết, cái tết ở xa tổ quốc Nhà ta đón tết với riêng mình/Một năm gom lại bao thương nhớ/Một đời đồng bãi, lũy tre xanh/Ừ vui, vui chứ! vui cay mắt…Với tâm hồn đa cảm như thế, thơ ông thường chùng chình, thiếu thái độ dứt khoát. Hình như các nhà thơ có chung nỗi niềm như vậy. Chả thế, trong một bài thơ của mình, nhà thơ Nguyễn Duy từng thốt lên “Tôi vốn không rành mạch bao giờ!”
Kế cận, học tập được nhiều kinh nghiệm của lớp nhà thơ đi trước, như Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên…Vũ Quần Phương cũng dành phần tâm huyết đáng kể cho việc viết nghiên cứu, phê bình thơ và đi nói chuyện thơ. Ông là người thẩm thơ tinh, biết gọi ra hồn cốt của mỗi tác giả. Sinh thời, nhà thơ Xuân Diệu từng nói rằng, phê bình là đi che lọng cho thiên hạ, vậy hãy chọn mặt mà che. Vì thế, Xuân Diệu dồn tâm lực viết về các nhà thơ cổ điển. Nhà thơ trẻ duy nhất mà ông viết, mà viết rất kỹ, là Trần Đăng Khoa. Còn ở Vũ Quần Phương, ông lại viết về nhiều người, nhiều thế hệ. Có người mới chập chững bước vào con đường thơ ca, thấy có nét được, ông cũng viết cổ xúy. Tôi nghĩ ông viết vì sự yêu quý, cũng có khi vì sự cả nể. Nhưng có kẻ lại sinh nghi ngờ ông vì cái nhiệt tình này. Văn chương thời buổi bây giờ cũng đến lắm chiều. Tuy nhiên, tập “Bình thơ”, NXB Dân Trí, 2012 và “Bóng mát dọc đường xa”, NXB Hội Nhà Văn, 2014, là hai tập có nhiều bài phê bình xuất sắc của ông. Ông đã từng đi nói chuyện thơ tới gần hai ngàn buổi. Ông là người có cách nói thông minh, hóm hỉnh, đôi khi biết cù vào cảm thụ của người nghe, nên nhiều nơi mời chào ông đến nói chuyện. Thấy ông tất bật đi tỉnh Bắc tỉnh Nam nói chuyện thơ, có người đùa ông: có phải sợ mọi người quên mình, mà đi nói chuyện nhiều thế?!
Thời trước, cả tuổi thơ sống trong cảnh đói nghèo, cô đơn. Thời nay, khi về già, ông được sống trong niềm hạnh phúc của gia đình con cái thành đạt. Đời sống vật chất, so với anh em trong giới văn chương, ông là người đầy đủ. Nhưng ông vẫn giữ cái nếp sống căn cơ, tiết kiệm thưở nào. Tiết kiệm tiền bạc, tiết kiệm thời gian. Có người bảo ông, tội gì sống thế. Tôi thì cho là không phải vậy. Ông muốn dành cho sự sống hữu ích. Có cảm thông với cảnh cậu bé tám tuổi phải đội cái nồi đồng to úp chụp trên đầu đi bán, để có tiền sinh sống, có thấu hiểu cảnh ngộ côi cút bên bến sông quê mờ mịt mưa gió ngóng mẹ, mới hiểu lề lối sống của ông bây giờ. Mừng thay, trái tim thi sỹ của ông vẫn đập rộn lên nhịp tươi trẻ. Trong bài “Thơ vui mùa lễ hội”, đầy chất u-mua, ông viết: “Bốn nghìn năm mấy gian nan/ Mồ hôi thấm đất máu loang cõi bờ/ Đất cha ông ấy bây giờ/ Trống giong cờ mở ngồi chờ…liên hoan. Để rồi,”Trách trời ăn ở đa đoan/Kẻ mưu nuốt đất, người toan bán trời”.Một thực tế cần suy nghĩ: “Cháu con văn hiến rạng ngời/Chân đi Giao chỉ, miệng mời đầu tư/Tình tình…nước cũ non xưa…”
Đọc bài thơ vui này, mà tôi chợt gặp nỗi buồn se sắt. Gặp nỗi niềm canh cánh của người cầm bút từng trải và có trách nhiệm.
Tháng 12-2015


Phần nhận xét hiển thị trên trang