Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 28 tháng 2, 2017

Bí ẩn xung quanh cuộc đào thoát và cái chết của nguyên soái, bộ trưởng quốc phòng Trung Hoa Lâm Bưu ngày 13/9/1971


BLA: Lâm Bưu (1907-1971) là nhân vật số 2, người sẽ thế vị Mao lãnh tụ lãnh đạo đảng cộng sản Trung Quốc. Lâm Bưu là Phó chủ tịch đảng, mang hàm nguyên soái và là Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa cho đến khi bị chết trong một vụ đào thoát bằng máy bay.

Theo các tài liệu chính thức do đảng cộng sản Trung Quốc công bố, thì do âm mưu tạo phản, ám sát lãnh tụ Mao Trạch Đông bị bại lộ, Lâm Bưu cùng đồng bọn đã phải cướp máy bay đào thoát ra nước ngoài. Chiếc máy bay của Lâm Bưu đã bị rơi trên bầu trời Mông Cổ vào sáng sớm ngày 13/9/1971. Như vậy, có thể khẳng định cái chết của Lâm Bưu liên quan đến việc đấu đá, thanh trừng lẫn nhau trong giới lãnh đạo chóp bu của đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều điều bí ẩn xung quanh cái chết của Lâm Bưu.

Ảnh: Cái chết của ủy viên Bộ chính trị đảng cộng sản TQ, nguyên soái, Bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu vẫn còn nhiều điều cần phải giải mã

Tiểu sử Lâm Bưu 

Lâm Bưu sinh năm 1907, trong một gia đình địa chủ ở Hoàng Cương, tỉnh Hồ Bắc. Năm 1925 Lâm Bưu tham gia Đảng Cộng sản Trung Quốc khi đang theo học Trường Quân sự Hoàng Phố. Trong cuộc Vạn Lý trường chinh Lâm Bưu giữ chức Sư trưởng Bát lộ quân. Năm 1945, Lâm Bưu giữ chức tư lệnh quân dã chiến Đông Bắc.

Năm 1954, Lâm Bưu được bầu là Phó Thủ tướng và giữ chức vụ này cho đến khi qua đời năm 1971.

Về đảng, năm 1955, Lâm Bưu vào Bộ chính trị đảng cộng sản Trung Quốc (cùng lúc với Đặng Tiểu Bình), được phong hàm nguyên soái và thường xuất hiện bên cạnh Mao Trạch Đông như nhân vật số hai trong quân đội Trung Quốc. Năm 1958, Lâm Bưu là 1 trong 5 Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. (Thời gian này Mao Trạch Đông là Chủ tịch đảng, tương đương chức Tổng bí thư như ngày nay)

Năm 1959, Lâm Bưu giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng thay Bành Đức Hoài đang bị đình chỉ mọi chức vụ và quản chế tại nhà riêng. Lâm Bưu cũng được coi là kiến trúc sư của Cách mạng Văn hóa.

Năm 1966, Lâm Bưu nhảy từ vị trí thứ 6 lên vị trí thứ 2, khi trở thành Phó Chủ tịch Đảng duy nhất.

Năm 1969, tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ IX Lâm Bưu được chọn là người sẽ kế vị Mao Trạch Đông, được mệnh danh là "Phó Thống soái".




Một tấm bích chương in hình Mao Trạch Đông và Lâm Bưu. Lâm Bưu từng được xem là nhân vật số 2, người sẽ kế thừa chức Chủ tịch đảng của Mao. 

Chấn động sự kiện Lâm Bưu chạy trốn ngày 13/9/1971 

Ngày 13/9/1971 đã xảy ra một sự kiện chấn động toàn Trung Quốc, Lâm Bưu được cho là đã tử nạn máy bay ở Mông Cổ khi đang trốn chạy sau vụ mưu sát Mao Trạch Đông không thành.  Kế hoạch của Lâm Bưu có tên là Ðề Án 5-7-1, nhằm âm mưu bắt và ngay cả ám sát Mao để chiếm lấy quyền lực. (Tuy nhiên có tài liệu cho rằng Lâm Bưu không phải chết vì máy bay bị rơi mà do bị Mao chỉ đạo hạ sát bằng hỏa tiễn sau khi đi ăn tiệc tại chỗ Mao về).

Năm 1973, dù được kết luận đã chết, Lâm Bưu bị khai trừ khỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đến năm 1981, Lâm Bưu bị Tòa án Tối cao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa kết tội "phản cách mạng". 

Dưới đây là 3 bài báo viết về cuộc trốn chạy và "phản loạn" của Lâm Bưu

--------------------

Cuộc phản loạn của Lâm Bưu

Nguyên Tác Hoa Ngữ: Mao Trạch Ðông, Tư Nhân Bác Sĩ Hồi Ký Lục 
Bản tiếng Anh: The private life of Chairman Mao 
Tác Giả: Bác Sĩ Lý Chí Thỏa, bác sỹ chăm sóc Mao Trạch Đông 
Trần Trung Ðạo trích lược dịch theo bản tiếng Anh có đối chiếu với nguyên tác Hoa ngữ. 

Tháng 3/1969, nhiều cuộc đụng độ giữa quân đội Trung Quốc và Liên Xô xảy ra dọc biên giới, ở khu vực sông Hắc Long Giang. Vài tháng sau đó, cả nước bị động viên vào cuộc chiến, nhiều triệu dân chúng phải tản cư về nông thôn. Các thành phần bị cho là chống đảng bị đày đi cải tạo lao động tay chân tay tại một trại cải tạo được che đậy dưới hình thức của một trường đào tạo cán bộ gọi là Mùng Bảy Tháng Năm. Thật ra trường nầy được lập ra không phải để đào tạo nhưng là một nơi để đày đọa các thành phần bị nghi ngờ là chống đối.

Trong thời điểm cao độ của cuộc tranh chấp quân sự giữa Trung Quốc và Liên Xô, Mao hỏi tôi (bác sỹ Lý Chí Thỏa) "Hãy nghĩ đến điều nầy. Chúng ta có nhiều kẻ thù, phía bắc và phía tây là Liên Xô, phía Nam là Ấn Ðộ, phía đông là Nhật Bản. Nếu tất cả cùng tấn công chúng ta một lúc, theo Bác Sĩ chúng ta nên đối phó bằng cách nào ?." Tôi nghĩ suốt ngày không ra.

Sang hôm sau, Mao lại hỏi câu khác "Hãy nghĩ thêm điều nầy nữa. Phía sau Nhật Bản là Mỹ. Ông bà ta thường thỏa hiệp với kẻ thù ở xa và tấn công kẻ thù ở gần. Có đúng vậy không ?." Nghe Mao nói, tôi ngạc nhiên hỏi lại Mao "làm thế nào có thể đàm phán với Mỹ ?" Mao trả lời "Mỹ và Liên Xô không giống nhau. Tổng thống Mỹ hiện nay là Nixon, một tổng thống hữu khuynh và chống Cộng kịch liệt. Mỹ không quan tâm gì về chuyện đất đai của Trung Quốc. Tôi thích nói chuyện với một tổng thống hữu khuynh như ông ta.

Những người hữu khuynh thường nói ngay những gì họ nghĩ, không giống như những người thiên tả, nói một đường nghĩ một ngỏ." Cả tôi lẫn Uông Ðông Hưng đều không tin là Mao nói thật nhưng chính Mao lại rất trân trọng và nghiêm túc.

Trong lúc đó tại Hoa Kỳ, Tổng Thống Richard Nixon cũng đang theo đuổi một chính sách đối ngoại mới. Qua trung gian của Tổng Thống nước Paksitan và Chủ tịch Rumani Nicholai Ceausecau, Tổng Thống Nixon đã thăm dò ý định Trung Quốc. Tổng thống Nixon cũng bày tỏ ý định chống đối chính sách của Liên Xô về việc thiết lập một nền an ninh tập thể tại Á Châu. Mao tương tự cũng chống đối chính sách của Liên Xô. Mao đe dọa Liên Xô "bom nguyên tử và hỏa tiển của Trung Quốc dù không bắn tới Mỹ nhưng bắn vào lãnh thổ Liên Xô tới ngay."

Tháng 12/1969, Thủ Tướng Chu Ân Lai trình Mao một bức điện tín chuyển  từ toà đại sứ Trung Quốc tại Ba Lan, nơi Mỹ và Trung Quốc đang trong thời gian đàm phán từ lâu nhưng không có kết quả gì. Lần nầy phía Hoa Kỳ đề nghị một phiên họp mới. Mao rất quan tâm về nội dung bức điện, y nói với tôi "Hai bên đã ngồi lại suốt mười một năm nhưng chưa thực sự trao đổi chuyện gì. Bây giờ mới thật sự gọi là đàm phán. Nixon phải thành thật khi ông ta chuyển  lời muốn đàm phán với chúng ta."

Trong thời gian Mao tìm cách hoãn với Mỹ lại gia tăng mối bất hòa với Lâm Bưu. Lần đầu tôi nhận thấy điều nầy trong chuyến kinh lý miền nam vào Tháng Năm 1969, ngay sau khi Ðại Hội Ðảng Lần Thứ 9. Và tới tháng 8 năm 1971, sự bất đồng đã lên tới mức cao độ.

Sĩ Quang Di báo cáo với Mao rằng một tổ chức gián điệp bí mật đặt dưới quyền của Lâm Lập Quả, con trai Lâm Bưu, đã được thiết lập trong Bộ Tham Mưu Không Quân. Tổ chức gián điệp nầy bao gồm nhiều đơn vị, với mật danh là "Hạm đội liên hợp", "Nhóm nhỏ Thượng Hải" và "Tiểu đoàn hướng dẫn". Những nhóm hoạt động lén lút nầy nhằm mục đích cướp đoạt quyền hành từ tay Mao.

Ngày 14/8/1971, Mao quyết định đi một vòng kinh lý để đánh giá sự ủng hộ của quân đội đối với bản thân ông ta. Chúng tôi đáp xe lửa xuôi nam. Trạm dừng chân đầu tiên là Vũ Hán và sau đó lần lượt là Trân Sa, Nam Kinh, Hàn Châu và Thượng Hải. Ðến đâu Mao cũng tiếp xúc bí mật với các lãnh đạo đảng và quân đội tại mỗi địa phương. Nội dung lời chỉ thị của Mao tương tự là: tại đại hội đảng ở Lư Sơn, có kẻ đã vội vã âm mưu tiếm đoạt quyền lãnh đạo đảng, phân hóa đảng. Vấn đề đó cho đến nay vẫn chưa giải quyết xong.

Mao không đích danh tấn công Lâm Bưu nhưng mục tiêu của những lời tố cáo của y không thể nào lầm lẫn cho một người nào khác hơn là Lâm Bưu. Mao cũng nghi ngờ quyền hạn của Diệp Quần, vợ Lâm Bưu. Mao than phiền "Tôi chưa hề chấp thuận cho phép việc người vợ quản lý các công việc của chồng. Nhưng Diệp Quần đang quản lý các công việc của Lâm Bưu, các tướng Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Thuyết Phong, Lý Tác Bằng đều phải qua ngã Diệp Quần để được tiếp xúc với Lâm Bưu."

Sau hơn một tháng kinh lý miền nam, chúng tôi trở về Bắc Kinh vào ngày 12/9/1971. Trước khi trở về tư dinh ở Trung Nam Hải, Mao tiếp xúc với Bộ Tư Lịnh Quân Khu Bắc Kinh, và cũng như các nơi đã đi qua, Mao cho họ biết các quan tâm của ông ta về Thống Chế Lâm Bưu đang âm mưu phản loạn.

Trong khi chúng tôi chưa kịp lo thu dọn đồ đạc sau chuyến kinh lý mới về Uông Ðông Hưng nhận được cú điện thoại từ Bắc Ðái Hà. Lúc đó khoảng vài phút sau mười giờ. Ngươì gọi là Trương Hùng, phó tư lịnh Binh Ðoàn Bảo Vệ Trung Ương. Họ Trương thông báo khẩn cấp rằng con gái của Lâm Bưu là Lâm Ðậu Ðậu, cho y biết rằng Diệp Quần và Lâm Lập Quả đã bắt cóc Lâm Bưu và bắt buộc ông ta phải bỏ trốn.

Uông Ðông Hưng gọi điện thoại cho Chu Ân Lai. Tôi có mặt tại chỗ khi Chu Ân Lai đến lúc 11 giờ. Lúc đó Chu Ân Lai mới thông báo cho Mao biết sự tình. Mặt Mao sa sầm khi nghe họ Chu báo cáo là Lâm Bưu đã trốn thoát.

Chu đề nghị Mao di chuyển qua Nhân Dân Ðại Sảnh để an toàn hơn. Theo Chu Ân Lai đồng bọn của Lâm Bưu còn nhiều, nếu họ muốn đảo chánh chắc chắn họ sắp sửa tấn công. Uông Ðông Hưng sắp xếp xe cộ để đưa Mao qua Nhân Dân Ðại Sảnh và ra lịnh môt tiểu đoàn bảo vệ canh phòng nghiêm nhặt chung quanh. Toàn bộ Binh Ðoàn 8341 được đặt trong tình trạng cảnh giác. Mọi thông tin liên lạc với bên ngoài đều bị cắt đứt. Tại Nhân Dân Ðại Sảnh, Mao ngụ trong phòng 118 với vài nữ phục vụ. Bộ chỉ huy của Uông Ðông Hưng được thiết lập ngay trong một phòng bên cạnh.

Khoảng 12 giờ 50 phút sáng 13/9/1971, tướng Trương Hùng khẩn báo từ Bắc Ðái Hà rằng họ đã theo đuổi đoàn xe của Lâm Bưu đến phi trường, đã khai hỏa vào đòan xe nhưng không có kết quả vì xe của Lâm Bưu thuộc loại xe ngăn đạn. Ðoàn xe Lâm Bưu chạy quá nhanh đến nỗi khi xe của Trương Hùng ra đến phi trường máy bay của Lâm Bưu đang trên đường rời phi đạo.

Chu Ân Lai đề nghị dùng hỏa tiển để tấn công máy bay nhưng Mao từ chối. Y nói "mưa rơi từ trời cao, góa phụ sẽ tái giá. Chúng ta sẽ làm gì ? Lâm Bưu đã muốn đi để y đi."

Chúng tôi chỉ biết chờ.

Nhưng rồi cũng chẳng cần bắn. Chúng tôi biết sau đó rằng máy bay đã cất cánh quá vội vã và không mang theo nhiên liệu thích hợp. Khi cất cánh chiếc máy bay đã chạm phải thùng nhiên liệu làm cho một bánh phía bên phải bị hư hỏng. Máy bay cũng không có phi công phụ hay hoa tiêu tháp tùng theo.

Hệ thống Radar Trung Quốc theo dõi máy bay khi nó đang tiến dần lên hướng tây bắc tức  hướng về phía Liên Xô. Theo nguồn tin đầu tiên mà chúng tôi nhận được Lâm Bưu dự định bay về Quảng Châu để lập chính phủ riêng, nhưng điều nầy đến sáng ngày 13 chứng tỏ là không đúng.

Vào khoảng 2 giờ sáng chúng tôi được báo cáo là Lâm Bưu đang tiến vào không phận Mông Cổ. Máy bay lúc đó không còn xuất hiện trên màn ảnh radar của Trung Quốc nữa. Chu Ân Lai quay sang nói với Mao "thế là chúng ta lại có thêm một kẻ phản bội", Mao đáp "giống như Dương Quang Tạo và Vương Minh."

Tuy nhiên đến buổi chiều một tin quan trọng Chu Ân Lai nhận được từ Ðại Sứ Trung Quốc tại Cộng Hòa Ngoại Mông cho biết rằng một chiếc máy bay với chín người gồm tám nam và một nữ đã bị đã bị hỏng rớt trong khu vực Undur Khan thuộc lãnh thổ Ngoại Mông, tất cả hành khách trên tàu đều thiệt mạng. Ba ngày sau viên đại sứ thông báo cho Chu Ân Lai biết, sau khi so sánh với bản chụp phim của răng, một trong 8 nam hành khách kia là Lâm Bưu.

Những cuộc điều tra sau đó cho biết Lâm Bưu và đồng bọn đã thực hiện một đề án có tên là Ðề Án 5-7-1, nhằm âm mưu bắt và ngay cả ám sát Mao để chiếm lấy quyền lực. Mao không hề biết điều nầy mặc dù đã nghi ngờ Lâm Bưu từ lâu.

Việc Mao đi kinh lý các khu vực chính trị và quân sự là một phần trong chiến lược quân sự của y và để xác định sự ủng hộ từ các địa phương. Tuy nhiên việc Mao tiếp xúc với các tư lịnh quân sự địa phương cho Lâm Bưu biết rằng y không còn nhiều thời gian để thực hiện ý âm mưu. Nội dung các buổi họp của Mao với các tư lịnh quân sự theo nguyên tắc bí mật nhưng tư lịnh Quân Khu Vũ Hán lại học lại nội dung cho Chính Ủy Hải Quân là tướng Lý Tác Bàng biết. Viên tướng họ Lý lại cảnh giác tướng Hoàng Vĩnh Thắng, Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Ðội và là một tay chân thân cận của Lâm Bưu. Hoàng Vĩnh Thắng, đến phiên mình, đã báo cáo lên Lâm Bưu trong lúc họ Lâm đang nghĩ hè ở Bắc Ðái Hà. Họ tức khắc phát họa âm mưu ám sát Mao.

Lâm Bưu và đồng bọn có hàng loạt kế hoạch. Không Ðoàn 5 có khả năng thả bom đoàn xe lửa của Mao. Binh Ðoàn Không Quân 4 cũng có thể bắn hạ Mao. Cuối cùng là kế hoạch đặt bom trên đường xe lửa nơi chiếc xe lửa đặt biệt của Mao đi qua được chấp nhận.

Tôi thật sự không biết là những báo cáo về âm mưu của Lâm Bưu có chính xác hay không. Tôi cũng biết là việc ám sát Mao không phải là dễ dàng. Uông Ðông Hưng và các cán bộ bảo vệ dưới quyền y đều hoạt động vô cùng bí mật. Mọi sự duy chuyển của Mao đều rất kín đáo và thay đổi vô cùng nhanh chóng đến nỗi ngay cả những nhân viên thân cận nhất cũng không được biết trước. Khi Mao trở lại Bắc Kinh an toàn, Lâm Bưu biết rằng y đã thua trận và con đường duy nhất là bỏ trốn. Lý Ðậu Ðậu báo cáo rằng Lâm Bưu bị bắt cóc là sai. Lý Ðậu Ðậu có hiếu với cha đến nỗi không thấy cha cô ta sai chỗ nào cả. Cuối năm 1971, khi biến cố Lâm Bưu được thông báo cho quần chúng biết, ai ai cũng đều ngạc nhiên. Sau biến cố đó, sức khỏe của Mao ngày càng sa sút. Ngày 20 tháng 11 năm 1971, khi Mao tiếp Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam Phạm Văn Ðồng tại Nhân Dân Ðại Sảnh, màn ảnh truyền hình cho thấy Mao với những bước chân run rẩy. Mao lúc nầy đang nghĩ đến một chiến lược mới, không phải tấn công đối thủ nhưng là lúc để hòa hoãn . Thể hiện đầu tiên qua việc Mao đích thân tham dự tang lễ của Thống Chế Trần Di, nguyên bộ trưởng ngoại giao, đã bị cách chức vì chống lại Mao. Tình trạng sức khỏe của Mao tiếp tục suy giảm, và cả đội y sĩ chúng tôi cố gắng phục hồi sức khoẻ cho y trước ngày Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon viếng thăm Trung Quốc vào 21 tháng 2 năm 1972.

-------------------------------

Thủ tướng Chu Ân Lai với sự kiện Lâm Bưu chạy trốn

Khi Lâm Bưu và đồng bọn lên máy bay chạy trốn, Chu Ân Lai đã thay mặt Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) hạ lệnh cấm bay trên toàn quốc. Hậu quả là Lâm Bưu và đồng bọn bị chết.

Dư luận trong và ngoài Trung Quốc đặt câu hỏi: Thứ nhất: lệnh cấm bay phát ra lúc nào, khi đó máy bay chở Lâm Bưu đang ở đâu? Thứ hai, thái độ của Trung ương ĐCSTQ muốn Lâm Bưu quay trở lại hay muốn ông ta ra đi? Thứ ba, có phải đúng là Lâm Bưu muốn xin hạ cánh máy bay? 

Có phải Chu Ân Lai không cho máy bay chở Lâm Bưu hạ cánh?

Trong Đại cách mạng Văn hóa, bọn Lâm Bưu, Diệp Quần (vợ Lâm Bưu), Lâm Lập Quả (con trai Lâm Bưu) sau khi âm mưu làm chính biến vũ trang bị bại lộ, sáng sớm ngày 13/9/1971 đã hốt hoảng leo lên chiếc máy bay Trident số hiệu 256 bỏ chạy và chết tan xác cùng máy bay rơi tại đồng cỏ gần Ondorchaan, nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ.

Đó là “sự kiện 13/9” gây chấn động dư luận Trung Quốc và thế giới.

Trong cuốn "Lịch sử nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa", xuất bản tại London (Anh) năm 2005, dẫn ra quan điểm cho rằng, chiếc máy bay Trident chở Lâm Bưu và đồng bọn thoạt tiên bay xuống phía nam trong thời gian 10 phút, sau đó vòng lại bay về Sơn Hải Quan, nhưng phát hiện sân bay này đã đóng cửa theo chỉ thị của Thủ tướng Chu Ân Lai.

Bài viết ngầm biểu thị rằng, chính Chu Ân Lai không cho máy bay Lâm Bưu  tiếp đất, để buộc ông ta phải bay đi Liên Xô. Như vậy ông ta sẽ đứng về phía đối lập với nhân dân, trở thành kẻ phản bội đất nước.

Tương tự, trong một cuốn sách xuất bản trong nước cũng viết: “Sau khi máy bay cất cánh chừng hơn 20 phút, những nhân viên lưu lại “Văn phòng Lâm Bưu” tại tòa lầu số 96 bỗng nghe thấy tiếng động cơ máy bay vòng lại. Mọi người trong tòa nhà 96 đều tập trung trên sân thượng, nhìn về phía sân bay nơi xa, và nghe thấy tiếng máy bay ầm ì lượn vòng trên không trung nên đều cho rằng máy bay đã quay về, nhất định là đang muốn hạ cánh.

Khi đó, người của Văn phòng Lâm Bưu không một ai ngờ được rằng sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, Trung ương ĐCSTQ liền hạ lệnh phong tỏa sân bay, đèn hoa tiêu dưới mặt đất đều tắt hết, nên máy bay vô phương hạ cánh.

Máy bay bay về Liên Hoa Phong, lượn vòng trên không phận tòa nhà 96, rồi bay thẳng về phương Bắc, không thấy quay trở lại nữa.”

Dụng ý của hai đoạn văn trên muốn nói Lâm Bưu khi ở trên máy bay vẫn không muốn chạy sang Liên Xô, nên lệnh cho phi công đưa máy bay quay về sân bay Sơn Hải Quan, nhưng do Chu Ân Lai hạ lệnh đóng cửa sân bay khiến máy bay không hạ cánh được, nên không thể không bay về phương Bắc.

Thực ra, chỉ cần có chút kiến thức, mọi người đều hiểu ra rằng, máy bay Trident có tốc độ bay 900km/giờ thì làm thế nào có thể lượn vòng phía trên nóc tòa nhà số 96 ở Bắc Đới Hà như một chiếc máy bay cỡ nhỏ được?

Sân bay Sơn Hải Quan, nơi chiếc Trident chở Lâm Bưu cất cánh cách Bắc Đới Hà xa cả trăm dặm, bằng mắt thường không thể nhìn thấy được, vậy làm thế nào mà có thể “nhìn về phía sân bay nơi xa, và còn có thể nghe thấy “tiếng động cơ máy bay quay lại” được? Đây quả thật là chuyện của những người rất giàu "tưởng tượng".

Sự thật về việc hạ lệnh cấm bay

Sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, Chu Ân Lai thay mặt Bộ Chính trị Trung ương ra lệnh cấm bay. Đây là sự thật không cần tranh cãi.

Trong cuốn “Chuyện Chu Ân Lai” có ghi như sau: “Khi Lâm Bưu đột ngột lên máy bay chạy trốn, Chu Ân Lai lệnh cho Lý Đức Sinh trực chỉ huy tại Bộ Tư lệnh không quân, theo dõi sát sao hướng di chuyển của máy bay. Cử Dương Đức Trung cùng Ngô Pháp Hiến tới sân bay Tân Giao, cử Kỷ Đăng Khuê tới Bộ Tư lệnh Không quân Bắc Kinh để tiện nắm tình hình các mặt. Đồng thời ông ra lệnh cấm bay trong toàn quốc, đóng cửa tất cả các sân bay, ngừng cất cánh mọi  loại máy bay, khởi động tất cả các dàn radar để giám sát bầu trời.

Chu Ân Lai còn lệnh cho các điều độ viên dùng vô tuyến điện liên lạc với chiếc Trident chở Lâm Bưu và đồng bọn, yêu cầu họ quay trở về, báo cho họ biết bất kể là máy bay hạ cánh xuống sân bay nào trong nước, Chu Ân Lai cũng đến tận sân bay đón tiếp. Nhưng trên máy bay tịnh không hồi âm".

Giáo sư Vu Nam - một chuyên gia nghiên cứu kỹ về sự kiện Lâm Bưu cũng đã viết trong bài “Về việc khảo sát một số vấn đề lịch sử của sự kiện Lâm Bưu”: “Chu Ân Lai sau đó từ Đại lễ đường nhân dân tới nơi ở của Mao Trạch Đông trong Trung Nam Hải. Uông Đông Hưng, Trương Diệu Từ dường như lúc đó cùng tới.

Chu Ân Lai ra lệnh tất cả các trạm radar vùng Hoa Bắc bật máy giám sát chặt chiếc máy bay chạy trốn, và tìm cách liên lạc với những người trên máy bay, báo cho họ biết rằng máy bay có thể xin hạ cánh tại bất kỳ sân bay nào, nhưng chiếc máy bay số hiệu 256 không trả lời.

Trạm radar mặt đất không ngừng thông báo hướng bay làm động tác giả của máy bay chở Lâm Bưu, thoạt đầu bay chếch hướng 2900 tức thẳng hướng Bắc Kinh, Đại Đồng, nhưng hơn 10 phút sau, lúc 0h40’ liền chuyển hướng bay là 3100, hướng miền Tây Mông Cổ theo đường bay Ulanbato – Irkutsk”.

Những điều này đã nói rõ, sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh, thái độ của Trung ương ĐCSTQ là muốn ông ta quay lại, bởi vậy mới từ mặt đất liên tục phát tín hiệu liên lạc với chiếc máy bay này. Hơn thế nữa, Chu Ân Lai ngỏ ý sẵn sàng tới sân bay đón Lâm Bưu, đây có thể coi là hành động rất vị tha và nhân đạo.

Ghi chép của người trong cuộc

Vấn đề mấu chốt là “lệnh cấm bay” của Chu Ân Lai phát ra lúc nào? Rất may ghi chép của người đã nhận lệnh của Chu Ân Lai đêm 13/9/1971 và trực tiếp gọi điện thoại truyền lệnh cấm bay đi toàn quốc đã ghi lại toàn bộ sự việc một cách chính xác. Đây là chứng cứ đầy sức thuyết phục để trả lời câu hỏi này. Người đó là Chu Bỉnh Tú - sĩ quan tham mưu tác chiến trực ban Sở Chỉ huy Không quân Trung Quốc lúc ấy.

Bản ghi chép như sau: “Chu Ân Lai chỉ thị, Sở Chỉ huy dùng đài đối không liên lạc thẳng với Phan Cảnh Diễn (phi công điều khiển chiếc máy bay của Lâm Bưu), bảo anh ta lái máy bay quay trở lại. Sân bay Tây Giao và sân bay thủ đô đều có thể hạ cánh được.

Lúc này, tại Sở Chỉ huy sân bay Tây Giao, Ngô Pháp Hiến cũng thân chinh cầm ống nói liên tục kêu gọi Phan Cảnh Diễn điều khiển máy bay quay về, và hứa sẽ không để xảy ra chuyện gì. Nhưng trước sau cũng không nhận được câu trả lời của anh ta.

Theo dõi màn hình radar thấy mục tiêu đã tiến sát tới vạch giới tuyến quốc gia, lúc 1h50’, máy bay thoát ra khỏi biên giới, bay vào không phận của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ, và đang hạ dần độ cao, cho tới khi tín hiệu mục tiêu trên màn hình radar trước mặt tôi bị xóa hoàn toàn tại tọa độ phía nam Ondorchaan trên đất Mông Cổ.

Lý Đức Sinh lập tức báo cáo với Chu Ân Lai về vị trí cuối cùng khi tín hiệu bị mất trên màn hình radar. Đồng thời ông ra hiệu cho tôi nhanh chóng cầm bút ghi chép lại, rồi đọc từng câu mệnh lệnh của Bộ Chính trị do Chu Ân Lai truyền đạt trong điện thoại: “Bắt đầu từ giờ phút này, mọi mệnh lệnh không có chữ ký liên danh của Mao Chủ tịch, Phó chủ tịch Lâm Bưu, Thủ tướng Chu Ân Lai, Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Vĩnh Thắng, Tư lệnh trưởng Không quân Ngô Pháp Hiến, thì không một chiếc máy bay nào được phép cất cánh!”.

Ghi xong tôi đọc lại cho Lý Đức Sinh nghe một lượt. Ông nói: "Được rồi", chuyện Lâm Bưu chạy trốn khi đó là phải tuyệt đối giữ bí mật, số người được biết sau khi mệnh lệnh được truyền đạt xuống là khá đông, do đó trong mệnh lệnh không thể không ghi: “Phó chủ tịch Lâm Bưu. Việc truyền đạt “lệnh cấm bay” này bắt đầu từ 1h56’ đến tận 2h20’ mới hoàn tất”.

Chu Ân Lai trực tiếp gọi điện tới Ban Chỉ huy sân bay quân sự Sơn Hải Quan truyền đạt mệnh lệnh này là vào hồi 1h50’, sau khi máy bay chở Lâm Bưu cất cánh lúc 0h32’, hơn 1 giờ đồng hồ, vậy nên tin đồn cho rằng Lâm Bưu muốn quay về, nhưng bị Chu Ân Lai lệnh đóng cửa sân bay, cấm hạ cánh nên đành phải “một đi không trở lại” là bịa đặt hoang đường

  (Tư liệu của Đảng CSTQ, đăng trên báo Chuyện Văn học – TQ

-----------------------------

Những cái chết lấp lửng trong vụ Lâm Bưu

Tai nạn thảm khốc trên chiếc chuyên cơ Trident 256 chở Lâm Bưu chạy trốn vào ngày 13/9/1971 từng là cú sốc chính trị lớn đối với đất nước Trung Quốc. Chiếc chuyên cơ Trident 256 chở Lâm Bưu chạy trốn gồm cả thảy chín người. Trong đó, gia đình Lâm Bưu gồm Lâm Bưu cùng vợ và con trai. Cùng đi với họ có hai thủ hạ đắc lực. Tổ lái gồm bốn nhân viên: cơ trưởng Phan Cảnh Diễn và ba thợ máy Lý Bình, Đài Khởi Lương và Trương Diên Khuê.

Tang tóc đổ xuống

Chín người trên chuyến bay này đều chết không sót một mống. Sự kiện ngày 13/9 khiến dư luận thắc mắc liệu các nhân viên tổ lái có phải là “đồng đảng” phản loạn đào tẩu cùng Lâm Bưu, hay chỉ là nạn nhân bị ép buộc phạm tội?


Một trong chín nạn nhân cháy biến dạng trên chiếc chuyên cơ Trident 256.

Lâm Bưu là bộ trưởng Quốc phòng, phó chủ tịch Đảng, “phó thống soái” kế vị hợp hiến chức vụ của Mao Trạch Đông. Tháng 10/1971, Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc ra Văn kiện số 57 tuyên bố Lâm Bưu là kẻ phản đảng, phản quốc.

Tiếp đó, cả nước dấy lên làn sóng phê phán Lâm Bưu. Người ta đua nhau đấu tố, vạch trần, làm rõ tội trạng, hành vi phản dân hại nước của “Tập đoàn phản đảng Lâm Bưu”. Vậy mà mới ngày nào, họ còn gân cổ chúc Phó thống soái Lâm Bưu “vĩnh viễn kiện khang”, tức mãi mãi mạnh khỏe.

Cơ trưởng Phan Cảnh Diễn có cô con gái đầu tuổi mới lên 10, bị chứng bại liệt từ nhỏ. Đôi chân cô bé teo tóp, liệt hẳn nên không thể tự chăm sóc trong sinh hoạt. Năm 1970, Phan Cảnh Diễn được giới thiệu đưa con tới thành phố Trường Xuân tìm bác sĩ giỏi để điều trị.

Thượng tuần tháng 9/1971, tiện có chuyến bay thẳng công vụ, anh đã đưa con gái từ Trường Xuân về Bắc Kinh. Sự trùng hợp sít sao về thời gian này khiến người ta suy diễn, cho rằng anh đã cố ý sắp đặt trước khi tham gia vào âm mưu phản loạn đào tẩu.

Sau sự kiện 13/9, theo lệnh phê chuẩn của lãnh đạo thành phố Bắc Kinh, nhân viên an ninh đã xộc tới đơn vị làm việc của vợ Phan Cảnh Diễn và đọc lệnh bắt chị đi “cách ly thẩm tra”. Chị ngơ ngác không hiểu vì sao mình bị bắt. Bởi cho tới lúc đó, chị vẫn chưa hề biết đã xảy ra sự kiện 13/9, trong đó chồng chị là nạn nhân.
Tấm biển “Gia đình quân nhân vẻ vang” treo trước cửa nhà thợ máy Lý Bình bị Hồng vệ binh hùng hổ giật xuống đập nát. Ít lâu sau, phía binh chủng không quân cho người đem mọi di vật của Lý Bình tới trao trả cho gia đình. Vợ Lý Bình vật vã khóc lóc, ngất lên ngất xuống. Hai đứa con nhỏ dại ngơ ngác chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra. Trả lời cật vấn của vợ Lý Bình, người ta cứ ậm ừ, vòng vo cho qua chuyện. Họ cố né tránh, không chịu nói rõ tính chất của vụ tai nạn máy bay khiến chồng chị chết.

Hoàn cảnh gia đình thợ máy Đài Khởi Lương còn đáng ngại hơn. Chị vợ ốm yếu quanh năm. Hung tin tới như sét đánh ngang tai. Bị "sốc" ghê gớm, chị suy sụp hoàn toàn cả về thể chất lẫn tinh thần.
Thợ máy tân binh Trương Diên Khuê còn quá trẻ, mới hơn 20 tuổi và vừa cưới vợ được hơn nửa năm thì gặp nạn. Cô vợ đang mang bầu. Lại một đứa trẻ chào đời và lớn lên mà không biết mặt cha.

Những cái chết lập lờ

Sự kiện 13/9 dù bất ngờ hay không thì vẫn gây cú sốc chính trị đặc biệt lớn cho đất nước Trung Hoa. Thời kỳ đó, đất nước này đang bước vào thời kỳ “vĩ thanh” của 10 năm động loạn “đại cách mạng văn hóa” do Mao Trạch Đông thân chinh phát động.

So sánh địa vị xã hội, Lâm Bưu thuộc đẳng cấp cao, còn nhóm Phan Cảnh Diễn chỉ thuộc hàng chót bẹt. Dù cùng ngồi trên một chiếc máy bay và cùng chết khi máy bay rơi trên đất khách quê người, nhưng tên tuổi của họ được ghi nhận khác nhau trong văn kiện Đảng và nhà nước.

Không một dòng chữ nào nhắc tới tên tuổi của bất cứ ai trong nhân viên tổ bay. Thế là họ hoàn toàn bị quên lãng. Người ta mặc sức quy chụp họ, bảo họ bị Lâm Bưu lừa gạt, hãm hại cũng đúng, mà lên án họ “phản đảng, chống ông Mao” thì cũng không sai.

Ngoài bốn người trong tổ lái đã chết theo máy bay rơi, tổ bay của chiếc chuyên cơ Trident 256 còn có năm người khác. Những người này chưa kịp lên cùng máy bay nên may mắn sống sót. Khốn nỗi, họ liền bị quy là liên đới trực tiếp với sự kiện 13/9 và đều bị “cách ly điều tra” vô thời hạn vì là nghi can số một.

Năm người bị lôi đi hỏi cung liên miên. Họ phải viết các bản trần tình chứng minh rằng bốn chiến hữu xấu số của họ không hề biểu hiện dấu vết nào chứng tỏ có sự dính dáng tới âm mưu phản loạn và ý đồ chạy trốn của Lâm Bưu, trong lời nói lẫn việc làm lúc sinh thời. Thói đời người có thân phận thấp hèn, tiếng nói nhẹ bỗng ai thèm lắng nghe. Lời làm chứng của họ trước công lý chẳng qua chỉ như gió thoảng!

Máy bay chở Lâm Bưu rơi tan xác, không một ai sống sót. Đến nay, kết quả giải mã hộp đen âm thanh tìm thấy trong đống xác máy bay cũng chẳng được nói tới. Người ta có thu được tài liệu nào khả dĩ chứng minh giữa Lâm Bưu và các nhân viên tổ bay có bàn bạc trao đổi ngầm, hoặc có đấu tranh, giằng co vật lộn giữa chạy trốn và chống chạy trốn trên không trung hay không?

Giải oan cho người đã khuất

Các nhân viên tổ lái là “đồng đảng” phản loạn đào tẩu cùng Lâm Bưu hay chỉ là nạn nhân bị ép buộc phạm tội? Câu hỏi này phải được làm rõ vì danh dự của người đã khuất, cũng là vì cuộc sống người thân của họ còn đang ở trên cõi đời này.

Ngày 11/9/1980, tức chín năm sau sự kiện 13/9, ông Đặng Tiểu Bình đã trả lời thẳng thắn về nguyên nhân dẫn tới tai họa đối với chiếc máy bay Trident 256. Tiếp El Fer, Tổng biên tập tờ Tạp chí Châm ngôn khoa học Cơ đốc giáo của Mỹ, Đặng Tiểu Bình nói: "Theo phán đoán của riêng tôi thì phi công (điều khiển chiếc chuyên cơ Trident 256) là một người tử tế, một đảng viên cộng sản tốt”.

Ông Đặng Tiểu Bình kể: Trước kia đã từng xảy ra một vụ việc tương tự. Một máy bay cùng loại chở theo lượng lớn tài liệu cơ mật của Đảng và nhà nước Trung Quốc trên đường bay nội địa bị buộc bay sang một quốc gia thù địch. Khi phát hiện ý đồ đen tối của kẻ sai khiến, viên phi công đã chống lại quyết liệt. Máy bay phải hạ cánh khẩn cấp. Nhưng ngay sau đó, viên phi công đã bị bọn phản loạn bắn chết.

Lời khai cung của năm thợ máy còn sống đều nhấn mạnh: Trước khi xảy ra sự kiện 13/9, mối quan hệ giữa phi hành đoàn và tập đoàn Lâm Bưu chỉ thuần túy là hành vi thực thi nhiệm vụ chuyên môn theo quy định của quân chủng. Họ chỉ có nghĩa vụ duy tu, bảo dưỡng và vận hành tốt chuyên cơ.

Mà sự thật là vậy. Nhưng thật trớ trêu, suốt chín năm trời sau sự kiện 13/9, không có bất kỳ một cá nhân hay một lãnh đạo nào dám công khai bày tỏ quan điểm thừa nhận và chỉ ra bản chất về sự hy sinh của bốn nhân viên tổ lái. Báo chí hay tài liệu lưu hành nội bộ cũng không hề có lấy một dòng một chữ nào liên quan đến sự kiện. Họ né tránh “vấn đề nhạy cảm” trong cái thời đại bị chụp mũ phản cách mạng đồng nghĩa với lãnh án tử hình. Cũng có thể do họ vô cảm.

Cho tới khi ông Đặng Tiểu Bình dũng cảm nói lên sự thật, họ mới thở phào và bắt đầu “ăn theo nói leo”, đại loại: “Biết ngay mà, nhân báo như thần bảo”.

Cái “chết bệnh” nhẹ tênh

Dường như không ai còn công khai coi viên phi công cơ trưởng và ba thợ máy gặp nạn kia là những kẻ phản bội nữa. Nhưng sinh mạng chính trị của họ vẫn mập mờ, chẳng rõ ràng. Bởi cái chết của họ vẫn không được coi là chết trong khi thực thi công vụ.

Vợ của cơ trưởng Phan Cảnh Diễn trải qua hơn một năm trời bôn ba trên đường gập ghềnh tìm công lý, minh oan cho chồng. Đầu năm 1982, chị cùng gia đình nhận được “Giấy chứng nhận chết bệnh của quân nhân cách mạng” do Tổng cục Chính trị Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc ký. Giấy này ghi rằng: “Đồng chí Phan Cảnh Diễn đã không may chết cùng máy bay rơi tại Ondorchaan Mông Cổ ngày 13/9/1971. Xin gửi lời chia buồn chân thành và thống thiết nhất của chúng tôi tới gia quyến. Mong mọi người hãy biến đau thương thành sức mạnh, gắng sức xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.

Nhờ lời khẳng định của Đặng Tiểu Bình, nỗi oan của bốn nhân viên tổ lái đã được giải sau hơn 10 năm tử nạn oan khuất, mất xác cùng máy bay rơi. Cả bốn người đều bị gán cho cái chết nhẹ tênh là “chết bệnh”.

Tiếp đó, năm người thợ máy sau hơn 10 năm bị tạm giam và đang làm việc khổ sai tại một trại cải tạo vùng biên viễn phía Bắc cũng được trả tự do. Họ không hề biết lý do được phóng thích. Cứ như 10 năm trước, họ cũng từng ngơ ngác tự hỏi: “Tại sao mình lại bị bắt nhỉ?”.

Mấy chục năm đã trôi qua. Tất cả đã lui về dĩ vãng. Sự việc về cơ bản đã được làm sáng tỏ. Nhưng mỗi lần nhắc tới sự kiện 13/9 thì mọi người - nhất là những người đã ở dốc bên kia cuộc đời không ai là không nhớ.


(Theo Nguyệt san Pháp luật TP.HCM)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chú ngựa Alonva giá nhiêu tiền?


Cách Thuỷ

(Truyện ngắn) - Ngày kia, tháng nọ, năm này. Ở xứ Đó Đó. Doanh Doanh, một nhà buôn khét tiếng trong vùng, hay tin Tham Tham, đang là quan xã vừa được quan tỉnh duyệt thăng lên chức quan huyện. Đứng trên đầu thiên hạ một vùng. Bèn gọi điện.

Chú ngựa này giá bao nhiêu? (ảnh minh họa)


Doanh Doanh:

- Dạ, anh Tham Tham, á quên, hé hé ... có phải ngài quan huyện Tham Tham đầu dây không ạ?

- Tôi đây. Có chuyện gì không?

- Dạ, hé hé, em nghe tin anh Hai vừa được, á thăng chức, em mừng quá gọi điện chia vui. Hé hé.

Tham Tham:

- Chức tước thì là cái gì. Cũng đều là công việc thiên chức cả, lại thêm trách nhiệm, gánh nặng. Chi phí cúng bái cũng nhiều thêm, lương bổng thì vẫn vậy. Chưa kể thiên hạ thì lúc nào cũng nhìn vô, soi mói, ganh ghét. Phiền lắm.

-  Anh Hai cứ nói vậy không hà. Hé hé. À, con ngựa Cary kỳ này anh có mang theo lên huyện không?

- Nó là tài sản thuộc công khố, sao mà mang theo được. Vả anh cưỡi nó cũng đã hơn năm, yếu sức lắm rùi.

- Vậy anh có ngựa mới cưỡi chưa. Chức mới ngựa mới cho hên anh à. Hé hé.

- Chú làm như dễ lắm. Mà thượng hoàng đã ban luật qui định quan huyện chỉ được cưỡi ngựa què, ngựa già, giá không quá 100 tiền. Chú chưa biết à?

Doanh Doanh:

- Em tính biếu anh con Alonva để anh dùng, cưỡi đi quản đám dân đen. Ý anh sao? Con này cũng đẹp. Hé hé.

- Tai tiếng lắm. Mà chú đưa, anh nhận là dính luật đút tiền, không khéo mất chức liền. Thượng hoàng dạo này nghiêm lắm, ra luật mới liên tục, không như ngày trước đâu.

- Anh yên tâm. Mình cứ theo luật mà làm thôi mà. Em sẽ nói lính làm thủ tục tặng cho huyện. Rùi anh trưng dụng làm ngựa công tác của mình. Bố thằng nào nói được, kể cả thằng, á quên, kể cả thượng hoàng.

- Con alonva ấy nhiêu tiền? Hình như hơn 100?

- Dạ. Giá nó cũng chỉ khoảng 300 tiền. Nhưng mình cứ biên giấy tặng giá 100 là được.

 Tham Tham:

- Chú làm sao cho chặt, đúng luật nhé. Để anh nói mấy thằng lính hỗ trợ chú thủ tục. Không được làm gì trái luật.

- Anh Hai cứ yên tâm. Kế này mấy huyện khác xứ khác đã làm từ lâu rùi. Trên về kiểm tra, thanh tra đều phù hợp, đúng luật hết. Vả lại ngân khố nhà nước có mất đồng nào đâu mà anh lo. Lại không được khen thưởng quan huyện tiết kiệm, không dùng công quĩ ấy chứ. Hé hé.

- Thôi nhé. Anh đang bận chủ trì cuộc họp triển khai sách lược chống đưa tiền, đút lót các quan.

- Dạ chào anh. Qua tuần là anh có ngựa mới. À xíu em quên, cái vụ XXX em nhờ anh bữa nọ không biết tình hình sao rùi? Hé hé.

- Nhớ. Đừng bép xép nói năng lung tung. Cái gì cũng phải đúng pháp luật. Thượng hoàng giờ nghiêm lắm, không như ngày trước.

- Dạ, bái bai anh.

"Xong việc", Doanh Doanh vươn vai đứng dậy, nhấn tắt nút ghi âm trên chiếc điện thoại.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ông Đinh La Thăng: 'Hát Dạ cổ hoài lang thì cần gì tiến sĩ'


Mạnh Tùng 
VNExp - Bí thư Thành ủy TP HCM cho rằng, đại học đặc thù ngành nghệ thuật cần có quy chế riêng, không nhất thiết lãnh đạo phải có học vị tiến sĩ.

Sáng 28/2, làm việc với Đại học Sân khấu - Điện ảnh TP HCM (thuộc Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch), ông Đinh La Thăng đề nghị Đảng ủy trường làm việc với Bộ để kiện toàn bộ máy, tháo gỡ khó khăn nhân sự hiện nay.

Đề nghị này được đưa ra sau khi lãnh đạo trường cho biết nhiều đơn vị cấp phòng, khoa, trung tâm không có cấp phó hoặc cấp trưởng vì nhân sự còn thiếu. Theo quy định, trưởng khoa phải có trình độ tiến sĩ phù hợp với chuyên ngành. Đội ngũ giảng viên cơ hữu của trường là 55 người nhưng chỉ có 3 Phó giáo sư, 5 Tiến sĩ.

Theo Bí thư Thành ủy TP HCM, ngành nghệ thuật cũng cần tiến sĩ như các ngành khoa học. Nhưng đây là ngành đặc thù thì phải xin thí điểm những cơ chế riêng, không nhất thiết mỗi khoa phải có một nhân sự là tiến sĩ.

"Hát cải lương có nhất thiết phải là tiến sĩ không? Tôi chỉ thấy người ta giới thiệu Nghệ sĩ ưu tú, Nghệ sĩ nhân dân chứ có ai giới thiệu Tiến sĩ lên sân khấu hát Dạ cổ hoài lang đâu?", ông đặt vấn đề.

Xác định vai trò quan trọng của Đại học Sân khấu - Điện ảnh TP HCM trong việc cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành văn hóa, nghệ thuật của thành phố và cả nước, ông Thăng yêu cầu trường phải có chiến lược tạo ra những sản phẩm tiêu biểu khác biệt.

"Văn hóa nghệ thuật của thành phố phải mang đặc trưng của vùng đất phương Nam, hào sảng, nghĩa khí. Nếu chúng ta chỉ tập trung phát triển kinh tế mà quên văn hóa thì không còn lưu giữ giá trị của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định nữa", ông Thăng nói.

Người đứng đầu Thành ủy TP HCM cũng khẳng định, trường đóng trên địa bàn tức là một thành viên của thành phố, cán bộ giảng viên của trường cũng là công dân của thành phố. Do đó, lãnh đạo trường phải phối hợp với thành phố, tạo điều kiện tốt nhất để tận dụng mọi nguồn lực tại đây.

Ông Thăng giao Đài Truyền hình TP HCM hỗ trợ xây dựng phim trường để trường này cùng sử dụng, khắc phục tình trạng dạy chay, học chay như hiện nay. Bù lại, trường cung cấp các sản phẩm sân khấu điện ảnh có chất lượng của sinh viên để phát trên sóng của đài.

Với một số môn nghệ thuật đặc thù như cải lương, hát bội... Bí thư TP HCM đề nghị thành phố có chính sách cấp học bổng, hỗ trợ sinh viên theo học.

"Thử hình dung khoảng 30 năm nữa mà không còn ai hát cải lương thì sẽ như thế nào?", ông nói, giọng trăn trở.

Trước đó, PGS.TS Vũ Ngọc Thanh (Hiệu trưởng trường) cho biết, Đại học Sân khấu - Điện ảnh TP HCM đang gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn, nhất là trang thiết bị đào tạo nghệ thuật, phim trường, các phòng học chuyên dụng, phòng chiếu phim. Trường được nâng cấp từ cao đẳng lên đại học từ cuối năm 2009 và hiện có 109 viên chức, người lao động.

Đạo diễn Ca Lê Hồng thì nêu một thực trạng trường sân khấu ngày càng teo tóp, sinh viên đa phần học chay, chỉ đến năm cuối mới được leo lên sân khấu.

"Đặc trưng phía Nam là cải lương nhưng hiện khoa Cải lương đang gặp khó. Chúng tôi mong có một dự án đào tạo hoàn chỉnh, cải lương cho ra cải lương", bà Hồng đề nghị.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Ra tòa ngày mai, Đoàn Thị Hương đối mặt án tử hình


DUY LINH
TTO - Thời hạn tạm giam của hai nữ nghi phạm trong vụ ông Kim Jong Nam bị sát hại ở Malaysia đã chính thức hết vào ngày 28-2. Ngày mai, các nghi phạm này sẽ ra tòa và đối diện với mức án tử hình.

Tờ New Straits Times của Malaysia ngày 28-2 dẫn lời Tổng công tố viên Malaysia Mohamed Apandi Ali xác nhận, hai nữ nghi phạm Đoàn Thị Hương (quốc tịch Việt Nam) và Siti Aishah (quốc tịch Indonesia) sẽ bị truy tố tại tòa vào sáng 1-3.

Cả hai bị bắt giữ vì tình nghi dính líu tới vụ một công dân Triều Tiên bị sát hại tại sân bay Kuala Lumpur, Malaysia ngày 13-2.

Người giữ hộ chiếu tên Kim Chol này được cho là ông Kim Jong Nam - anh trai cùng cha khác mẹ của nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong Un.

Rất nhiều nhà báo đã xuất hiện tại tòa án Sepang sáng nay để chờ thông tin về hai nữ nghi phạm bị dẫn ra tòa và truy tố nhưng sau đó đã phải thất vọng quay về.

Nếu bị truy tố, cả hai có thể sẽ phải đối mặt với tội danh mưu sát, theo hãng tin Reuters.

Hình ảnh thu được từ camera an ninh sân bay cho thấy Hương và Aishah đã tiếp cận người đàn ông được cho là Kim Jong Nam và tấn công. Cảnh sát Malaysia sau đó tuyên bố chất được sử dụng để sát hại ông Kim là chất cực độc VX được xếp vào hạng vũ khí hóa học hủy diệt hàng loạt.

Hai nữ nghi phạm khai với cảnh sát rằng họ được thuê để làm điều này vì nghĩ nó là một trò đùa trong một chương trình truyền hình thực tế.

Đại diện Đại sứ quán Việt Nam và sứ quán Indonesia tại Malaysia đã có các cuộc tiếp xúc lãnh sự với hai nữ nghi phạm. Trong lần tiếp xúc này, cả hai đều khai với đại diện ngoại giao rằng mình không biết đó là vụ sát hại và được nhận số tiền nhỏ để thực hiện.

Trả lời Reuters qua email, tổng công tố Malaysia cho biết Hương và Aishah sẽ chính thức bị truy tố theo điều 302 bộ luật hình sự của nước này. Hình phạt cao nhất của điều luật này là tử hình.

"Tôi có thể xác nhận được việc này", ông Ali nói với Reuters.

Trong một diễn biến khác có liên quan, hãng tin Reuters ngày 27-2 dẫn nguồn tin tình báo Hàn Quốc cáo buộc chính quyền Bình Nhưỡng đứng đằng sau cái chết của ông Kim Jong Nam.

Các nghị sĩ Hàn Quốc cáo buộc những nghi phạm người Triều Tiên đang bỏ trốn và bị Malaysia truy nã hiện nay đều là người của tình báo và an ninh Triều Tiên.

Hiện Bình Nhưỡng vẫn chưa đưa ra bất kỳ phản ứng nào trước các thông tin từ Malaysia và các cáo buộc ngày 27-2 của Hàn Quốc.

Liên quan tới việc chất độc thần kinh VX đã được đưa vào Malaysia bằng đường nào, theo báo New Straits Times, cảnh sát vẫn đang điều tra và không loại trừ nó được giấu trong các hành lý ngoại giao. Theo quy tắc, hành lý của các nhà ngoại giao sẽ không bị lục xét khi làm thủ tục ở các sân bay trừ những trường hợp đặc biệt phải báo trước.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Xin đừng đổ lỗi cho dân

>> Giang Kim Đạt và Trần Văn Liêm lãnh án tử hình

>> Chủ tịch Nguyễn Đức Chung qua cảm nhận ban đầu của một nhà văn
>> Nguyễn Đức Chung, giữ vững khí thế anh nhé!
>> Chẳng có thánh thần nào giúp đổi đời 'tốc hành'



Nguyễn Duy Xuân
Dân Trí - Những tình tiết hoàn toàn ngược lại với điều mà vị Chủ tỉnh tỉnh phân trần sau khi xin lỗi Chính phủ và Thủ tướng: "Ở đâu có rừng là ở đó lãnh đạo lo lắm. Dân còn nghèo, cứ cầm dao vào rừng là phá"

Tại buổi làm việc chiều 20/2/2017 của tổ công tác Chính phủ với UBND tỉnh Bình Phước, Bộ trưởng - Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Mai Tiến Dũng đã phê bình lãnh đạo tỉnh này để xảy ra sai phạm khi không thực hiện nghiêm chủ trương đóng cửa rừng của Thủ tướng.

Chủ tịch UBND Bình Phước Nguyễn Văn Trăm đã thừa nhận sai sót, khuyết điểm, và xin lỗi Thủ tướng, Chính phủ.

Lý do Chính phủ phê bình là do UBND tỉnh Bình Phước cấp phép cho một doanh nghiệp khai thác rừng tự nhiên khi chưa lập hồ sơ, thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi trường không đúng quy định, đặc biệt là sau khi đã có chủ trương đóng cửa rừng của Thủ tướng, dẫn đến hơn 100 hecta rừng tự nhiên bị chặt hạ tại huyện Bù Đốp.

Vụ việc được Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (C49, Bộ Công an) phát hiện hồi tháng 8/2016.

Trước đó, ngày 13/7/2016, Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Phước có văn bản thông báo kết luận của Chủ tịch tỉnh tại cuộc họp giải quyết kiến nghị của Công ty Cao su Sông Bé, cho phép đơn vị này tiến hành thực hiện dự án chăn nuôi, kết hợp trồng rừng trên diện tích hơn 575 hecta.

Tại thời điểm đó, người dân và cán bộ ở địa phương đã lên tiếng phản đối chủ trương này.

Anh Điểu Sang ở làng 10, xã Phước Thiện, huyện Bù Đốp nói: “Rừng của Nhà nước. Họ phá thì mình làm gì được. Mình có muốn giữ lại cũng đâu có cản được họ”.[*]

Ông Điểu Đưa ở ấp Phước Tiến, xã Hưng Phước, huyện Bù Đốp cho rằng: "Rừng tự nhiên mà lại chuyển đổi sang trồng rừng tôi thấy là vô lý,…Bà con ở đây mong rằng, bao nhiêu diện tích rừng còn lại, hãy để người dân chúng tôi cùng bảo vệ nó".[*]

Ông Nguyễn Văn Ách, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm Bù Đốp, người đã nhiều lần kiến nghị với cấp trên hãy giữ lại diện tích rừng tự nhiên này, cũng chua xót nói: “Tôi cảm thấy rất hổ thẹn vì là người lính giữ rừng, nhưng đứng nhìn rừng mất mà không có biện pháp gì có thể ngăn chặn được”.[*]

Ông Nguyễn Đức Huy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Phước Thiện nói: “Tôi mong các cấp có thẩm quyền nên ngưng lại, đừng có chuyển đổi rừng qua đất sản xuất nữa".[*]

Mặc dù vậy, Bình Phước vẫn tiếp tục đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án bằng công văn số 2214, ngày 5/8/2016 do Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Huỳnh Anh Minh ký.

Những tình tiết nói trên hoàn toàn ngược lại với điều mà vị Chủ tỉnh tỉnh phân trần sau khi xin lỗi Chính phủ và Thủ tướng: "Ở đâu có rừng là ở đó lãnh đạo lo lắm. Dân còn nghèo, cứ cầm dao vào rừng là phá".[**]

Xét về lí, lãnh đạo tỉnh Bình Phước có ba cái sai lớn. Một là không tuân thủ chủ trương của cấp trên. Đó là mệnh lệnh đóng cửa rừng của Thủ tướng được đưa ra ngày 20-6-2016, trước khi chủ tịch Bình Phước đồng ý cho doanh nghiệp khai phá rừng gần một tháng.

Hai là, lãnh đạo tỉnh không tôn trọng, không lắng nghe tâm tư nguyện vọng của cán bộ và nhân dân dẫn đến hậu quả hơn 100 hecta rừng tự nhiên bị chặt phá mà không biết đến khi nào mới hồi phục được.

Ba là, lãnh đạo tỉnh chưa thực sự cầu thị khi vẫn đổ lỗi phá rừng cho người dân như ông Chủ tịch đã phân trần trước Chính phủ.

Người dân có thể vì nghèo, vì miếng cơm manh áo mà cầm dao chặt phá rừng. Tội lỗi đó không thể biện bạch. Nhưng đó có phải là nguyên nhân chính không? Ai đã tàn phá 100 hecta rừng tự nhiên chỉ trong vòng một vài tháng? Cần bao nhiêu dân và dao chặt cây để đạt được con số khủng ấy trong một thời gian rất ngắn?

Những điều chúng tôi trình bày ở trên chỉ là để cho "thấu tình đạt lí" mà thôi. Dù sao việc Chủ tịch tỉnh Bình Phước xin lỗi Thủ tướng cũng rất đang hoan nghênh trong bối cảnh chúng ta đang hướng tới một chính phủ kiến tạo, liêm chính và hành động.

Dư luận mong rằng khoảng cách từ xin lỗi đến lời hứa "thực hiện nghiêm túc hơn về vấn đề này" của ông Chủ tịch tỉnh chỉ là gang tấc để rừng Bù Đốp nói riêng, rừng Bình Phước nói chung lại bạt ngàn xanh tươi.

Nguồn tham khảo:

[*] http://vov.vn/xa-hoi/binh-phuoc-hon-100-ha-rung-bi-tan-pha-bao-gio-hoi-sinh-539706.vov

[**] http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/chu-tich-binh-phuoc-xin-loi-chinh-phu-khi-de-mat-rung-3544313.html

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nguyễn Đình Chính - Đi đâu sau Ngày Hoàng Đạo?



Bến Văn 
Ngược! Theo “Zê” (hay “Mi”), một nhà văn kiêm họa sỹ, một nghệ sỹ, trí thức con nhà nòi, một kẻ lãng du, không lúc nào chịu ở yên một chỗ. Từ chốn phồn hoa đô hội, gã bỏ lên mạn ngược. Đại ngàn man dại hoang sơ. Đi chán lại quay về. Lại chuẩn bị hành trang cho chuyến đi tiếp nữa. Những chuyến đi văng mạng, luôn sa vào những cuộc tình, những cuộc làm tình quái dị hệt như cái tính cách quậy phá đến lạ lùng của gã!
Online...Balô. Cuốn sách thứ 15 của Nguyễn Đình Chính, ra đời sau khi đã gây một cú sốc trong dư luận bằng cuốn tiểu thuyết ngót ngàn trang: Ngày Hoàng Đạo.Theo tác giả thì đây là một cách ông tự đánh bóng tên tuổi của mình nhưng bạn đọc không nghĩ thế, nhiều người cho đó là một sáng tạo mới, một thành công mới của nhà văn. Một nhà phê bình Mỹ còn xếp Online... Balô vào hàng tiểu thuyết Hậu hiện đại.
Khá nhiều câu hỏi được đặt ra xung quanh cuốn sách này. Sex? Marquez? “Zê” hay “Mi”? Ma ra tông hay “văng mạng”?
Còn tôi, tôi chỉ hỏi: Đi đâu?
- A lô Chính đây! Huệ nào nhỉ? Đức Huệ Website? À...Hí hí...cậu!
- Người đang ở đâu?
- Ở nhà thôi!
- Mai tôi đến nhá? Có chút việc...
- Định viết về ông Thi à?
- Không. Ông Thi là cái tủ kính rồi. Chúng mình chỉ thờ thôi. Tôi định...
Máy vụt tắt. Nửa giờ sau gọi lại cười hề hề, bảo hết pin. Hết pin kiểu Murakami hả? Hay đang phượt trên đường với gã “Zê” hay “Mi” nào đó?
Cười.
Mùa hè 2004. Trại sáng tác do Chi hội nhà văn Công an mở tại Hạ Long - Bãi Cháy, có khá nhiều nhà văn ngoại đạo tham gia. Một chàng trông rất ga lăng. Đầu húi cua. Cao lớn. Áo bò mốc phanh ra khoe bộ ngực nở nang trong chiếc sơ mi kẻ sọc. Trại trưởng Tôn Ái Nhân giới thiệu đó là Nguyễn Đình Chính, con trai bác Nguyễn Đình Thi. Thoạt nhìn cái vẻ ngang tàng quậy phá, hơi ngờ ngợ. Lúc anh ta cười mới thấy. Nụ cười rất tươi và sang. Cởi mở thân tình song vẫn có gì đó hơi kẻ cả. Giống ông Thi quá!
Nhưng khác hẳn ông bố đa tài, thủ lĩnh một Hội thời hoàng kim nhưng lúc nào cũng sống trong tâm trạng khắc khoải giằng co giữa sự ham hố quyền lực hưởng thụ và lòng khao khát tự do sáng tạo, Nguyễn Đình Chính dứt khoát hơn nhiều. Ngồi trò chuyện với anh trên chiếc tàu thăm vịnh, nghe anh tâm sự về gia cảnh, về cái được và cái chưa được của bố mình (chủ yếu trong sáng tác), tôi hiểu ra nhiều chuyện. Ông ấy sai ngay từ đầu - Chính nói - Không phải ông không biết. Ông biết hết. Nhưng cứ bị cuốn vào mọi thứ, không sao thoát được. Ông không đủ dũng cảm để thoát ra. Rồi lại tự dày vò mình. Mâu thuẫn!
Chính kể rằng vào năm 1982, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã có ý định rũ bỏ tất cả để dồn sức vào viết bộ tiểu thuyết sử thi “Điện Biên Phủ” với một tầm nhìn mới. Ông đã viết được chương đầu tiên và kể cho anh nghe một cách rất hứng thú. Nhưng sau đó rất lâu không thấy ông nhắc đến nó nữa. Vì sao vậy? Rất đơn giản: Nửa năm sau, mùa xuân năm 1983, Đại hội nhà văn lần thứ III được tiến hành, ông lại trúng cử Tổng thư ký Hội. Thế là quẳng ráo “Điện Biên” vào ngăn kéo!
- Đó là món nợ ngàn thu của ông Thi. - Nguyễn Đình Chính nói - Đến chết ông vẫn không nguôi được.
- Thế hệ trước dở dang thì thế hệ sau tiếp tục, có sao đâu? - Tôi nói.
Nguyễn Đình Chính lắc đầu:
- Thế hệ sau có thể là ai đó. Nhưng tôi thì không. Cách đi của tôi khác hẳn.
- Nghĩa là Đuma con không thể giống Đuma cha?
- Mọi sự so sánh đều khập khiễng. Văn chương không như các loài cây trong một khu rừng mà có thể xếp bộ này với bộ kia, loài này hay loài khác. Văn chương phong phú hơn cả tự nhiên, phong phú hơn nhiều, ở chỗ nó liên tục sinh sôi nảy nở những loài, giống mới.
- Và không có một thứ khoa học nào có thể định vị, một thứ học thuyết nào có thể bao trùm, phải vậy không?
- Đúng vậy!
Câu chuyện tạm dừng ở đó. Tàu neo lại cho mọi người lên đảo thăm hang động. Tôi không đi vì đã đi quá nhiều rồi. Tôi đứng bên mũi tầu, nhìn theo Nguyễn Đình Chính cùng đám văn sĩ đi men theo sườn đá chênh vênh. Vóc dáng trẻ hơn nhiều so với tuổi. Bước đi rất tự tin. Nhưng... bên tai tôi chợt vang lên một giai điệu nhạc, không phải của Nguyễn Đình Thi mà là của Phạm Duy: “Kìa đoàn người đi miên man trên đường kia...”.
Đa số người viết cùng thời chúng tôi thường cho rằng sở dĩ cái tên Nguyễn Đình Chính nổi lên chẳng qua vì anh là con trai nhà văn Nguyễn Đình Thi, cũng như nhà thơ Trần Nhuận Minh là anh trai thần đồng Trần Đăng Khoa vậy. Một thói quen cố hữu, một thứ định kiến rất khó gột rửa trong nếp nghĩ của người Việt, hay nói rộng hơn là logic phương Đông. Nó như một thứ ám thị tập thể, có sức lan tỏa mạnh, khiến những người nằm trong “diện phủ sóng” này rất khó bứt ra để tự khẳng định mình, nếu như anh ta không tự mình tạo ra một “bước sóng” mới với tần suất mới.
Thực ra Chính khác ông Thi nhiều lắm. Y không phải là con người của những cuộc họp, của diễn đàn và tiếng vỗ tay. Càng không phải là người chuyên dụng bút theo người. Ngay từ thời trẻ trai, y đã có ý thức thoát ra khỏi mọi vòng cương tỏa. Ông Thi có thể khống chế ai chứ con trai mình thì chịu. Cần thiết y sẵn sàng ra khỏi cái nghiệp đoàn mà ông làm thủ lĩnh đâu cần núp bóng ai? Được cái Chính bông lông nhưng vô hại. Y chỉ muốn khẳng định mình bằng cách sống và cách viết hoàn toàn độc lập, không muốn tuân thủ theo hướng la bàn mà ông bố y đã định vị theo sự định vị của những người định vị trên ông. Tiểu thuyết Đêm Thánh nhân đánh dấu bước ngoặt này, nó gặp khá nhiều trắc trở trong lần xuất bản đầu tiên. Mặc dù lúc đó người ta đã hô hào “đổi mới tư duy” song đa số các nhà quản lý văn nghệ vẫn còn nhiều lấn cấn. Một dòng chảy có vẻ bất thường nếu không bị chặn đứng thì cũng phải uốn đi nắn lại nhiều phen mới cho tháo cống. Rút cục hai tập sách phải dồn làm một, nhân đó tác giả đổi tên luôn, Đêm thánh nhân thành Ngày hoàng đạo, nghe có vẻ sáng hơn nhưng không mấy gợi cảm. Tuy vậy khi ra đời, cuốn sách đã được công chúng đón nhận nồng nhiệt, được xếp vào tốp sách bán chạy nhất trong thời điểm đó. Việc thay áo chỉ làm khác đi chút ít bề ngoài, còn da thịt thì vẫn vậy. Chỉ cần nghe nói đó là câu chuyện về một bác sĩ giỏi bị kỉ luật Đảng, bị vợ bỏ phải rời thành phố đi lang thang kiếm sống mãi trên vùng núi cũng gây hấp dẫn bạn đọc rồi. Với người đọc khó tính hơn không bị lôi cuốn bởi cốt truyện ly kì thì tác giả chinh phục họ bằng những kiến giải thời cuộc với một cách nhìn khác lạ hoặc lách sâu ngòi bút vào góc khuất hồn người thông qua tâm trạng một trí thức trước những tình huống lạ lùng pha màu huyền ảo, hư hư thực thực
Có người cho rằng cuốn Ngày hoàng đạo hơi nặng nề, khó đọc. Có thể họ không quen với cách viết “khác đi” của tác giả chăng? Ấy là câu chữ đã được Biên tập viên gọt giũa nhiều rồi, để nguyên như bản thảo đầu tiên còn khó nữa. Về mặt này tôi lại rất đồng tình với Nguyễn Đình Chính: “Văn tiểu thuyết phải khác, nó không chỉ giải thích ý nghĩa, truyền tải thông tin mà phải truyền cho người đọc những cảm xúc trong câu chữ. Ban đầu tôi viết văn rất trong sáng, nên khi chuyển sang viết kiểu này, bố tôi (nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi) rất phản đối vì lôi thôi quá. Nhưng sau này thì ông cũng bằng lòng, vì đó là cách của tôi. Khi đưa bản thảo Ngày hoàng đạo cho NXB, có biên tập viên đã đánh dấu phẩy cho tôi đến gần 200 trang, nhưng sau đó thì đầu hàng. Có thể ban đầu độc giả đọc tác phẩm của tôi có thể khó khăn, nhưng rồi cũng quen và sẽ thấy thích thôi.
Online...Balô có phần cuốn hút hơn. Theo tác giả thì nó như một hoài niệm của nhân vật tên Zê, nhớ về các mối tình trong hiện tại và quá khứ, đụng độ giữa lãng mạn và hiện thực, của tuổi già và tuổi trẻ, của non tơ và …“cáo già”. Cuộc sống cứ tiếp diễn, và những gì trong nội tâm nhân vật Zê được quán chiếu từ chính những người con gái đi qua đời Zê; từ người bạn thương binh của Zê với khao khát được sống, được yêu, được làm chồng, làm đàn ông; Giọng điệu tưng tửng, đôi khi nhấm nhẳng bất cẩn, lúc “trơ” lì nhưng khó giấu nổi sự yếu đuối và khao khát sống của một lớp người.
Riêng về yếu tố sex trong tác phẩm, dung lượng hơi nhiều nên có người cho rằng tác giả lạm dụng để câu khách. Giải thích về vấn đề này, Nguyễn Đình Chính nói: “Người phụ nữ Việt Nam thật đẹp thật buồn và cũng thật là bí ẩn. Họ có một happy endinh không? Tôi không tìm được câu trả lời. Còn nhớ năm 1987, trong chuyến đi Nga, trên đường phố Moskva, nữ sỹ Xuân Quỳnh nói với tôi: ‘Ông nên nhớ rằng phụ nữ chúng tôi là lửa, là nước và khói. Tốt nhất ông nên yêu họ chứ đừng gây sự đối đầu với họ”. Sống chung với lửa, nước và khói thì thật tuyệt vời nhưng cũng thật kinh khủng. Tôi mang mặc cảm đó vào sáng tác văn thơ của mình.”
Phá cách. Đơn tuyến. Đồng hiện. Nhanh mà không lướt. Chấm phá mà ấn tượng. Có phần dụng công tả Sex. Có phần trĩu nặng ưu tư. Nhưng sau hết, nó nắm bắt được cái thần của thời đại. Nó cô đặc. Một góc nhìn cơn bão. Không phải cơn bão mà là cơn lốc xoáy trong cơn bão. Ở đó tất cả những gì hiện diện trên mặt đất đều bị cuốn theo và đảo lộn theo vòng xoáy đa chiều của nó.
Có người cho rằng Online...Balô phần nào chịu ảnh hưởng G.G.Marquez trong thiên truyện Hồi ức về những cô gái điếm buồn của tôi. Có người chorằng cuốn sách viết một cách văng mạng. Tác giả nghĩ thế nào viết thế. Thấy gì viết nấy. Cần thiết bệ nguyên xi ngôn ngữ vỉa hè vào tác phẩm. Và người ta xếp nó vào cái gọi là Hậu hiện đại.
Còn tôi, tôi chỉ hỏi:- Đi đâu?
Nguyễn Đình Chính trả lời:
- Đi tìm cái đang tiếp diễn trong cuộc sống.
Tôi lại hỏi:
- Đi đâu?
Chính lại trả lời:
- Đi tìm sự đụng độ trong ý thức mỗi con người.
Lại hỏi:
- Đi Đâu?
Trả lời:
- Không đi đâu cả!
Hà Nội Canh Dần
B.V


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Hai thái cực nhận thức sai lầm về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc


TS TRẦN CÔNG TRỤC


(GDVN) - Mọi nỗ lực để chứng minh các nhận định một chiều về vai trò của cố Tổng bí thư Lê Duẩn với các vấn đề nêu trên có thể dẫn đến những nhận thức sai lầm.
LTS: Tiến sĩ Trần Công Trục gửi đến Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam bài viết tiếp theo của ông, phân tích một số vấn đề về phương pháp tiếp cận với "những khúc quanh lịch sử" trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, ngõ hầu rút ra bài học cho tương lai.
Tòa soạn trân trọng gửi đến quý bạn đọc bài viết này. Nội dung, văn phong bài viết thể hiện quan điểm của tác giả.
Báo Vietnamnet ngày 17/2 vừa qua đăng bài viết: "Ông Lê Kiên Thành nói về cha và ngày 17/2/1979" thu hút sự quan tâm khá lớn từ dư luận.
Bởi lẽ đây là một trong số những bài phỏng vấn con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn về vai trò của cha mình trong cuộc kháng chiến bảo vệ biên giới phía Bắc, cũng như tư duy, tác động ảnh hưởng của ông đến quan hệ Việt Nam -Trung Quốc sau này. [1]
Nhiều ý kiến bình luận khác nhau về bài phỏng vấn ông Lê Kiên Thành của báo Vietnamnet được bạn đọc quan tâm chia sẻ trên các trang mạng xã hội, nhiều người ủng hộ, nhưng cũng không ít quan điểm phản đối các nhận định, lập luận ông nêu ra.
Lẽ thường chín người thì mười ý, cho nên những đề tài được xem là nhạy cảm như vai trò của Tổng bí thư Lê Duẩn trong chính sách đối nội, đối ngoại kể từ năm 1975 thống nhất đất nước, đến khi ông qua đời, đặc biệt là quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và cuộc chiến chống xâm lược Biên giới phía Bắc 1979-1989 được dư luận quan tâm đặc biệt, nhiều ý kiến khác nhau cũng không có gì lạ.
Cố Tổng bí thư Lê Duẩn. Ảnh: Tạp chí Tuyên Giáo (tuyengiao.vn).
Chúng tôi nhận thấy rằng, trước sự quan tâm và nhiều thắc mắc từ dư luận, việc Tiến sĩ Lê Kiên Thành hay Thiếu tướng Lê Kiên Trung thẳng thắn lên tiếng về những thắc mắc âm ỷ trong xã hội là một điều đáng quý.
Không né tránh những khúc quanh của lịch sử
Đặc biệt, hai ông không né tránh những câu hỏi thuộc diện "nhạy cảm", như nhà báo Lan Hương báo Công an Nhân Dân từng hỏi ông Lê Kiên Thành trong bài phỏng vấn đăng trên chuyên mục An ninh Thế giới cuối và giữa tháng Online ngày 3/5/2015: 
"Nếu giờ tôi hỏi ông, cố TBT Lê Duẩn có phải là một nhà lãnh đạo độc tài, ông sẽ nói..." hoặc câu hỏi:
"Đến giờ vẫn không ít người cho rằng, cha ông, cố TBT Lê Duẩn là người phải có trách nhiệm với cuộc chiến tranh biên giới, cũng như những khó khăn, sai lầm mà ta mắc phải trước đổi mới. 
Và có người nói đại ý, nếu ông Lê Duẩn chỉ dừng lại ở thời điểm năm 1975, thì ông đã mãi mãi là anh hùng. Ông nghĩ gì về ý kiến ấy?" [2]
Trong một bài phỏng vấn Thiếu tướng Lê Kiên Trung đăng ngày 27/7/2016, nhà báo Tô Lan Hương báo Công an Nhân Dân hỏi: 
"Anh nói, TBT Lê Duẩn đi làm cách mạng từ tình thương, nhưng trong một giai đoạn lịch sử dài sau này, khi nhắc về TBT Lê Duẩn, người ta vẫn cho rằng ông rất độc đoán trên cương vị của mình khi ông còn nắm quyền?", và:
"Hầu hết những nhà nghiên cứu lịch sử đều nhận định, TBT Lê Duẩn là nhà lãnh đạo Việt Nam có đường lối cứng rắn nhất với phương Bắc.
Anh có đồng ý với ý kiến của nhiều người, khi họ cho rằng sự cứng rắn của ông Lê Duẩn là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc chiến tranh Biên giới phía bắc?" [3]
Chưa bàn chuyện đúng sai, nhưng thái độ không né tránh các sự kiện lịch sử hệ trọng của dân tộc, có ảnh hưởng đến tương lai vận mệnh đất nước như quan hệ Việt Nam - Trung Quốc và cuộc chiến bảo vệ Biên giới phía Bắc 1979-1989 là điều hết sức đáng quý.
Nó cho thấy nhu cầu tìm hiểu thông tin về các sự kiện, vấn đề trọng đại với quốc gia, dân tộc từ xã hội, từ người dân và có lẽ cho đến nay, hai người con trai của cố Tổng bí thư Lê Duẩn đang đi tiên phong đáp ứng nhu cầu chính đáng này của dư luận.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi xin nối tiếp mạch tư duy của bài viết trước đăng trên Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 17/2: “Gác lại quá khứ chứ không phải khép lại quá khứ”! để có đôi lời bàn về cách tiếp cận vấn đề mà ông Lê Kiên Thành, ông Lê Kiên Trung đã đặt ra.
Khi đặt lợi ích chính đáng, hợp pháp của quốc gia, dân tộc lên trên hết, dùng ánh sáng công pháp quốc tế cũng như những bài học vô giá của cha ông trong công cuộc dựng nước và giữ nước để soi rọi các quan hệ bang giao và những sự kiện lịch sử cận hiện đại, đặc biệt là quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, tôi tin rằng những quan điểm khác nhau trong chúng ta rồi cuối cùng cũng tìm về một điểm.
Dân tộc Việt Nam anh hùng bất khuất trong chiến đấu chống ngoại xâm, nhưng hòa hiếu, khiêm nhường trong ứng xử 
Cha ông chúng ta có rất nhiều tấm gương anh hùng, kiên trung bất khuất giữ trọn quốc thể bằng khí tiết cao vời và tài năng xuất chúng, khiến cường địch cũng phải kính nể.
Tiến sĩ Trần Công Trục, ảnh do tác giả cung cấp.
Có thể nhắc lại đây câu nói nổi tiếng của Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng khi bị giặc Nguyên bắt. "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: 
“Khi bị bắt, Vương không chịu ăn, giặc hỏi việc nước, Vương không trả lời, giặc hỏi Vương: "Có muốn làm vương đất Bắc không?". Vương thét to:"Ta thà làm ma nước Nam chứ không thèm làm vương đất bắc", rồi bị giết”. [4]
Hay tài ứng đối của sứ thần Đại Việt trước tướng Nguyên Ô Mã Nhi đã làm tướng giặc tâm phục. "Đại Việt sử ký toàn thư" chép:
“Ngày 12, giặc đánh vào Gia Lâm, Vũ Ninh, Đông Ngàn, bắt được quân của ta, thấy người nào cũng thích hai chữ "Sát Thát" bằng mực vào cánh tay, chúng tức lắm, giết hại rất nhiều. Rồi chúng đến Đông Bộ Đầu, dựng một lá cờ lớn.
Vua muốn sai người dò xét tình hình giặc mà chưa tìm được ai. Chi hậu cục thủ Đỗ Khắc Chung tiến lên tâu rằng: "Thần hèn mọn bất tài, nhưng xin được đi".
Vua mừng, nói rằng: "Ngờ đâu trong đám ngựa xe kéo xe muối lại có ngựa kỳ, ngựa ký như thế!"
Rồi sai đem thư xin giảng hoà. Ô Mã Nhi hỏi [Chung]: "Quốc Vương ngươi vô lễ, sai người thích chữ "Sát Thát", khinh nhờn thiên binh, lỗi ấy to lắm".
Khắc Chung đáp: "Chó nhà cắn người lạ không phải tại chủ nó. Vì lòng trung phẫn mà họ tự thích chữ thôi, Quốc Vương tôi không biết việc đó. Tôi là cận thần, tại sao lại không có?".
Nói rồi giơ cánh tay cho xem. Ô Mã Nhi nói: "Đại quân từ xa tới, nước ngươi sao không quay giáo đến hội kiến, lại còn chống lệnh. Càng bọ ngựa cản bánh xe liệu sẽ ra sao?".
Khắc Chung nói: "Hiền tướng không theo cái phương sách Hàn Tín bình nước Yên, đóng quân ở đầu biên giới, đưa thư tin trước, nếu không thông hiếu thì mới là có lỗi. Nay lại bức nhau, người ta nói thú cùng thì chống lại, chim cùng thì mổ lại, huống chi là người".
Ô Mã Nhi nói: "Đại quân mượn đường để đi đánh Chiêm Thành, Quốc Vương ngươi nếu đến hội kiến thì trong cõi yên ổn, không bị xâm phạm mảy may. Nếu cứ chấp nê thì trong khoảnh khắc núi sông sẽ thành đất bằng, vua tôi sẽ thành cỏ nát".
Khắc Chung về rồi, Ô Mã Nhi bảo các tướng rằng:
"Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ tự nhiên, không hạ chủ nó xướng là Chích, không nịnh ta lên là Nghiêu, mà chỉ nói "Chó nhà cắn người"; giỏi ứng đối. Có thể nói là không nhục mệnh vua. Nước nó còn có người giỏi, chưa dễ mưu tính được". [4]
Nếu như người anh hùng như Trần Bình Trọng lúc sa vào tay giặc dùng khí phách để giữ quốc thể thì nhà ngoại giao Đỗ Khắc Chung dùng bản lĩnh và biện tài để ứng phó với tướng giặc ngay giữa hang hùm, miệng rắn, khiến Ô Mã Nhi cũng phải cảm phục mà không dám coi thường Đại Việt ta.
Không ai trong số các bậc tiền nhân khả kính của dân tộc chúng ta thể hiện một sự chủ quan, khinh địch hay hiếu chiến, đặc biệt là những người đứng đầu đất nước trong thời khắc đối mặt với họa ngoại xâm, điển hình như Đức vua Trần Nhân Tông.
Bài nghiên cứu "Phật hoàng Trần Nhân Tông và bài học lợi ích dân tộc" của Nhà nghiên cứu lịch sử Nguyễn Quang Trung Tiến, Đại học Khoa học Huế viết trên Tuần Việt Nam và được báo Giác Ngộ đăng lại cho biết:
Vua Nguyên Hốt Tất Liệt từng nhiều lần "xuống chiếu" đòi ngài sang "chầu", nhưng Đức vua Trần Nhân Tông đều khéo léo, cương quyết tìm cách từ chối và cử sứ thần sang thay. [5]
Tượng Đức vua Trần Nhân Tông lúc đã xuất gia và trở thành Sơ Tổ Thiền Tông Việt Nam, Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Ảnh: Báo Công an Nhân Dân.
Thậm chí sự mềm dẻo, linh hoạt của Đức vua Trần Nhân Tông trong ứng xử với nhà Nguyên còn được sử gia Ngô Sỹ Liên ghi lại trong "Đại Việt sử ký toàn thư":
Từ tháng 4 đến tháng 11 năm 1288, Đức vua Trần Nhân Tông đã ba lần cử sứ giả sang Nguyên để triều cống và "tạ tội". Đồng thời, triều đình Trần cũng gửi vua Nguyên một bức thư biện hộ cho hai cuộc kháng chiến năm 1285 và 1287-1288.[6]
Nhắc lại chuyện xưa để thấy rõ ông cha chúng ta đã ứng xử như thế nào với nước láng giềng phương Bắc vì sự tồn vong và phát triển của dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giữ nước và dựng nước. 
Đó là khí phách anh hùng, lòng quả cảm, tài trí thông minh, sự linh hoạt mềm dẻo, tính khí khiêm nhường…. Bài học lịch sử nào cần được nhấn mạnh trong quan hệ quốc tế, trong chúng ta hiện đang có những đánh giá khác nhau về cách ứng xử với các siêu cường, đặc biệt là với Trung Quốc.
Theo chúng tôi, phải chăng đó là sách lược “trong xưng đế ngoài xưng vương” mà ông cha chúng ta đã từng ứng xử đối với các triều đại phong kiến Trung Hoa sau mỗi lần đánh bại các đội quân quân xâm lược của chúng để giữ vững độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ trong bang giao với nước láng giềng phương Bắc đầy tham vọng bành trướng, bá quyền?
Đó là sách lược thể hiện sự khôn khéo, khiêm nhường trong đối nhân xử thế, biết mình biết ta, thắng không kiêu bại không nản, không bao giờ chủ quan, khinh địch; luôn luôn đề cao cảnh giác, tự lực tự cường. 
Đó là bài học sống còn từ ngàn năm dựng nước, giữ nước được thấm vào trong tư duy, suy nghĩ và hành động, chứ không cần, không phải, không nên thể hiện bằng lời nói, nhận định mang nặng cảm xúc, chủ quan khinh địch, nhất là từ những người giữ trọng trách trước quốc gia, dân tộc.
Ngày nay, chúng ta sống trong thời đại văn minh và loài người ngày càng hướng đến một xã hội thượng tôn pháp luật. Quan hệ bang giao giữa các nước cũng nhờ đó trở nên bình đẳng, hợp tác cùng có lợi trong khuôn khổ mái nhà chung Liên Hợp Quốc.
Dù tranh chấp, dù bất đồng vẫn luôn luôn tồn tại, nhưng vị thế đất nước ngày nay đã khác xưa. Câu chuyện "triều cống" hay "trong xưng đế, ngoài xưng vương" để giữ hòa hiếu đã không còn tái diễn.
Nhưng tinh thần khiêm nhường, yêu chuộng hòa bình song hành cùng đề cao cảnh giác, tự lực tự cường để bảo vệ Tổ quốc là không thay đổi.
Những bất lợi khi cố chứng minh các nhận định một chiều về vai trò của cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc
Những quan điểm khác nhau về cố Tổng bí thư Lê Duẩn, cả chính sách đối nội lẫn đối ngoại trong thời gian ông tại vị, đã được thể hiện qua những câu hỏi thẳng thắn dành cho hai người con trai của ông mà chúng tôi trích dẫn một số ở phần đầu của bài viết này.
Chúng tôi cho rằng, cách tiếp cận chứng minh các nhận định một chiều về vai trò của cố Tổng bí thư Lê Duẩn trong đối nội, đối ngoại hay với quan hệ Việt Nam - Trung Quốc như những gì phản ánh trong một số bài báo trên là điều không nên, bất lợi cả về đối nội lẫn đối ngoại.
Bởi lẽ, anh Ba Duẩn đích thực là một chiến sĩ cách mạng kiên trung và yêu nước. Ông có công lao to lớn trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.

“Gác lại quá khứ chứ không phải khép lại quá khứ”!

Vì vậy, sự nghiệp của “anh Ba” đã được lịch sử ghi nhận đúng mức và tên của Anh đã được đặt cho một đường phố lớn tại Thủ đô Hà Nội…
Tuy nhiên, trước thời kỳ mới, sự phát triển của đất nước sau chiến tranh diễn ra theo những quy luật hoàn toàn mới, đòi hỏi kiến thức, hiểu biết và vận dụng sáng tạo quy luật trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị cho đến ngoại giao.
Mà nhận thức là một quá trình, trong quá trình ấy những vấp váp, sai lầm là điều không thể tránh khỏi. 
Đánh giá những thành tựu và sai lầm để rút ra bài học, chỉ rõ những sai lầm ấy do đâu mà có chính là quy luật sống còn của một đảng cách mạng, một đảng chân chính, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói.
Vì vậy, cách tiếp cận một chiều, phủ nhận sạch trơn hay tô hồng tất cả đều sẽ dẫn đất nước này, dân tộc này đến những sai lầm, mà cái giá phải trả có thể rất đắt.
Trước những thăng trầm của quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ xung đột 1979 - 1989 và bối cảnh địa chính trị khu vực, thế giới thời kỳ này, cần một cái nhìn thực sự bình tĩnh, khách quan, khoa học và cầu thị. 
Chỉ có như thế, chúng ta mới rút ra được bài học cho tương lai, để dân tộc này, đất nước này không phải đối mặt với hiểm họa của chiến tranh, thực sự tạo dựng được lòng tin làm nền tảng cho việc giải quyết hòa bình các tranh chấp, bất đồng do lịch sử để lại trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Trong bối cảnh ấy, việc hai người con trai của cố Tổng bí thư Lê Duẩn lên tiếng về vai trò của ông đối với đất nước, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc hay xung đột biên giới 1979 - 1989, thiết nghĩ là cơ hội quý.
Đấy là lúc để chúng ta bình tĩnh lại, cùng nhau nhìn nhận vấn đề dưới lăng kính khoa học, ngõ hầu củng cố hòa bình đồng thời với việc gìn giữ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ.
Vì thế, mọi nỗ lực để chứng minh các nhận định một chiều về vai trò của cố Tổng bí thư Lê Duẩn với các vấn đề nêu trên có thể dẫn đến những nhận thức sai lầm về chính vai trò của ông, hơn thế nữa còn tác động không nhỏ đến tương lai, vận mệnh dân tộc.
Về đối nội, nó gây ra những quan điểm hoài nghi và chia rẽ trong nội bộ xã hội chúng ta, qua những bài phỏng vấn và trả lời phỏng vấn của Tiến sĩ Lê Kiên Thành và Thiếu tướng Lê Kiên Trung, có thể nhận thấy rất rõ đã hình thành 2 luồng quan điểm:
Một là đánh đồng việc đề cao cảnh giác bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ với xu hướng, tâm lý "chống Trung Quốc", hai là xem chủ trương “gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”, giải quyết tranh chấp bất đồng trên cơ sở luật pháp quốc tế để bảo vệ hòa bình, ổn định là "sợ Trung Quốc".
Cả hai xu hướng này đều dẫn tới chỗ cực đoan.
Chỉ có hiểu Trung Quốc để thích nghi và chung sống hòa bình, ứng xử như cha ông chúng ta đã từng ứng xử mới giúp đất nước này, dân tộc này trường tồn, phát triển kể cả khi nằm giữa những cạnh tranh gay gắt từ các siêu cường đương đại.
Với các nước lớn, cha ông ta luôn ứng xử hết sức mềm dẻo và linh hoạt trong khi giữ vững nguyên tắc. Điều này có thể tổng kết qua hai câu “nói phải, củ cải cũng nghe”, và khi “giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”!
Về đối ngoại, những nỗ lực chứng minh các luận điểm một chiều này chỉ tạo cớ cho một bộ phận chính khách, chiến lược gia Trung Quốc củng cố lập luận của họ về cách ứng xử “tiền hậu bất nhất” của Việt Nam trong quan hệ song phương.
Vì vậy, đối diện với những vấn đề nhạy cảm, "gai góc" trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không chỉ đòi hỏi phải có một dũng khí và bản lĩnh, mà quan trọng hơn là trí tuệ và đầu óc tỉnh táo, sáng suốt để có cái nhìn toàn cảnh và đưa ra những giải pháp tổng thể một cách khả thi, hiệu quả.
Trong quá trình đó, người viết tin rằng, chỉ cần chúng ta luôn đặt lợi ích hợp pháp của quốc gia dân tộc, tinh thần thượng tôn luật pháp quốc tế trong các hoạt động bang giao, đối ngoại lên trên hết, đặt các sự kiện cụ thể vào bối cảnh lịch sử - kinh tế - xã hội khu vực, quốc tế cụ thể, chúng ta sẽ có cái nhìn sát thực hơn.
Chỉ có như vậy, thì mọi quan điểm khác nhau xuất phát từ lòng yêu nước và trách nhiệm trước vận mệnh của quốc gia dân tộc mới tìm thấy điểm chung. Nếu không, xã hội Việt Nam sẽ trở nên chia rẽ, không cần kẻ thù nào đánh phá, chúng ta cũng tự tan.
Cũng chỉ có tiếp cận các vấn đề trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thời cận hiện đại một cách thẳng thắn, bằng thái độ khách quan, cầu thị, khiêm tốn, biết mình, biết ta, thượng tôn pháp luật thì mới tìm được tiếng nói chung cùng nhân dân Trung Quốc xây dựng nền hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng có lợi trong quan hệ giữa hai nước.
Tài liệu tham khảo:
[6]Ngô Sĩ Liên (1993). Đại Việt sử ký toàn thư. Nội các quan bản. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, tr. 199-200.

Phần nhận xét hiển thị trên trang