Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

Thăm thẳm đường về ( 6 )


6.
 
V
ào những năm đói khổ nhất sau chiến tranh, ở làng Vân Du này đã dần hình thành một lớp trung lưu mới. Dù nó ở trong cái khung đói nghèo muôn thủa nơi thôn ổ, so với số đông dân chúng thì cũng đã đỡ hơn nhiều. Người ta có thể nhìn thấy qua bộ dạng bề ngoài: áo quần lành lặn không vá chằng vá đụp. Những chiếc xe đạp phượng hoàng, thống nhất... Đôi ba người có chiếc Môbilét, Hon đa ga.
Bữa ăn trong nhà họ thi thoảng có thịt, cá và phần ăn độn không cao tới bảy mươi phần trăm như trước đây. Gạo đỡ hôi mục, bột mì đỡ những con mọt đen xì cứ hễ mở miệng bao là bay ra tới tấp. Bữa sáng không đến nỗi phải " Bạch định " nghĩa là nhịn ăn, đã có lưng mì sợi, dăm củ khoai lang để cho bộ máy tiêu hoá có công ăn việc làm, không sôi sục biểu tình vì lòng chay dạ tịnh. Những vị chức sắc đương quyền ở các cấp, công chức các ngành không nói làm gì. Bổ sung vào tầng lớp ấy là một số thương phế binh từ mặt trận trở về, sau những ngày dài nằm vạ vật ở các trại an dưỡng. Thêm nữa là số cán bộ về hưu non, hưu già mất sức. Đã đến lúc bộ máy công quyền được tiểu tu, thay cũ đổi mới những chi tiết quá hạn sử dụng, hoặc được dùng một cách miễn cưỡng bởi nhiều tình thế, hoặc được dùng cố, dùng thêm quá lâu.
Thành phần xã hội mới mẻ này là lớp đầu tiên xuất hiện ở nơi thuần nông, nơi mà từng lớp tiểu thương mới chỉ manh nha chưa rõ hình hài vào năm 1983 này.
Lão Đởm cũng là một trong lớp trung lưu ấy. Nếu tính tuổi thì phải vài ba năm nữa lão mới được nghỉ. Nhưng có một việc không bình thường xảy ra trong gia đình lão khiến lão phải nghỉ sớm trước thời hạn. Sau ngày giải phóng Miền Nam thằng con cả của lão được cử vào Nam công tác. Việc đó cũng bình thường như hàng vạn cán bộ, nhân viên từ Miền Bắc bổ sung cho những ngành, những cơ quan đang thiếu người từ phía Nam.
Không bình thường là ở chỗ thằng con lão không hiểu suy tính thế nào, vào Nam chưa đầy nửa năm nó theo người ta vượt biên ra nước ngoài. Điều này ngoài sự suy đoán của lão. Nó là đứa được ăn học, sinh ra và lớn lên trên đất Bắc, không có một áp lực nào khiến nó phải ra đi. Đời người không ai học hết chữ ngờ. Lão kể như mất một đứa con, không còn nó nữa. Đau hơn là bao nhiêu công sức của lão bấy lâu nay đổ xuống sông xuống biển. Còn ai người ta tin lão khi lão có đứa con trốn ra nước ngoài, phản bội tổ quốc? Trong việc lão phải về nghỉ sớm như thế này nó không thể là không có nguyên do chủ yếu. Mấy chục năm làm trưởng công an xã lão không lạ gì nguyên tắc làm việc theo ngành đó. Có những việc không thông qua hội đồng, thông qua uỷ ban, những người làm công tác an minh phải hiểu rất rõ.
Đứa con gái thứ hai lão cài cắm rất công phu, rút cuộc cũng không thành. Anh con rể đen như cột cháy, bề ngoài khoẻ như vâm đeo lon đại uý hẳn hoi nhưng lại rỗng ruột. Đi khám sức khoẻ bác sĩ nói anh bị nhiễm chất độc da cam. Vợ có mang mấy lần, cứ gần đến ngày sinh thai bị chết lưu. Đứa gần đây nhất nom như cục bột, ai cũng thích nhìn, Đùng một cái nó sốt li bì, rồi bị tháo lỏng, thuốc men kiểu gì cũng không cầm được. Người nó trông rõ từng mảnh sườn. Tóc trên đầu nó chỉ còn lơ vơ vài cái, trơ cái sọ xanh xám. Người ta cho uống thuốc chỉ tiếng đồng hồ sau nó đùn ra cả viên cùng thứ nước nhầy nhầy. Mẹ nó phát điên, đêm nào vào cữ gần sáng không còn ai thức trông là mò ra nghĩa địa. Bao nhiêu vòng hoa ở những ngôi mộ mới mẹ nó hăm hở ôm về chất lên mộ con. Người mẹ mất con cứ vừa múa vừa hát, nhảy xung quanh mộ con, cho đến khi khản tiếng lịm đi. Anh chồng chán nản xin chuyển ngành đi một tỉnh mãi trên Tây Bắc, vợ lão thương con gái, đón nó về nhà mình. Khi người ta thức thì nó ngủ, khi người ta ngủ thì nó hết khóc lóc, kêu gào lại la hét. Không khí trong gia đình lão không được lúc nào yên tĩnh. Lão bàn với vợ cho nó đi trại tâm thần, nhưng mụ không nghe.
Ngay cả thời chiến tranh mấy đẫn, đầu óc lão cũng không căng thẳng như lúc này. Đạn bom đe doạ còn có khi, có chừng, còn có lúc yên ắng. Nhưng đứa con điên dại không cho lão lấy một phút thảnh thơi.
Đứa con trai út lão đã bảo đi học lấy một nghề thiết thực. Làm Bác sĩ, ý tá cũng được. Hoặc đi làm công nhân công đồ kiếm miếng ăn cho chắc chắn, nó lại phởn lên. Tự dưng tự lành đòi đi cho bằng được vào cái trường văn hoá nghệ thuật. Mà học nghề gì cơ chứ? Học cái nghề hát chèo mới thật là vớ vẩn. Đàn ông con trai lại thích cái trò má phấn, môi son múa may trông đến là ngứa mắt. Đi đứng nói năng học ở đâu về, uốn éo véo von thực chẳng giống ai.
Đúng là cá không ăn muối cá ươn, con không nghe lời cha dạy có bao giờ khá được? Học hết khoá ra trường rồi đấy mà có nơi nào người ta nhận đâu? Người ta phân công lên miền núi thì lại không muốn đi.
Ngày ngày cứ đến bữa vác cái mặt về. Ăn xong mắt trước, mắt sau lủi mất. Không biết nó đi đâu? Xưa nay lão là người điềm tĩnh và lạnh tính, vậy mà có lúc cũng muốn phát điên phát rồ.
Lão ngơ ngác nhìn cây trái trong vườn mà nát từng khúc ruột. Hình như cảnh cũng tuỳ chủ mà nó úa tàn theo. Hàng cau trước nhà chết từ trong ruột, Đám lá rũ rượi, ban đêm nhìn giống hệt những bóng ma xoã tóc.
Mấy cây cam úa vàng, mùa này không có một quả nào đậu. Đám chuối buồng trổ ngang cây, ra đám quả còng quèo, quái dị. Còn trong nhà lúc nào cũng lạnh ngăn ngắt như có ma để lâu ngày không đem chôn. Ban đên cứ rậm rịch như có người trườn trên mái nhà.
Mới sớm hôm qua vợ lão khều ở trong gầm giường ra con cóc cụ to như cái ấm ủ. Mắt nó đỏ đòng đọc, miệng nó nghiến ken két. Vợ lão không dám đánh chết, cứ vái lạy nó lia lịa rồi kính cẩn đặt nó vào cái thúng mang ra mãi ngoài bờ sông cho nó đi nơi khác. Không hiểu bằng cách nào sáng nay ngủ dậy lão quờ chân tìm dép lại đụng ngay phải nó. Không biết da thịt nó bằng thứ gì mà chạm vào buốt như dẫm phải bọ nẹt. Chỗ ngứa của lão mỗi lúc mỗi xưng, ngứa không sao chịu nổi. Lão sực nhớ bên nhà lão Thước dạo nào có thứ rượu trị ngứa mang ở miền ngược về. Đã lâu lắm hai người không ngồi với nhau, nhưng vào lúc này cũng chẳng còn lòng dạ nào so vắn, đắn đo. Lão sai vợ sang hỏi. Mụ đã định đi, chợt nhớ mụ và vợ lão Thước mới to tiếng với nhau trong vụ gắp thăm chia phần phân phối chiếc lốp xe hôm vừa rồi, lão gọi giật lại.
- Bà ở nhà xử lý cái con cóc kỳ quái kia đi. Để tôi sang nhân tiện còn có việc. Cứ cho nó vào cái bao thật dày, loại bao gai ấy rồi lấy lạt cột chặt lại xem nó mò về được nữa không.
Lão tấp tểnh đi ra ngõ. Đức con gái điên ở trong buồng thấy bố đi khỏi vội chạy ra. Nó cứ chạy vòng quanh cái gầm giường múa hát: " Khỉ kho kho, ấy mấy khỏ khì khi. ới ... Chàng Hoàng tử kia ơi ... " Lão định quay trở lại lôi nhốt nó vào buồng. Nhưng bên chân ngứa quá, lão đánh liều. Đằng nào còn mụ ở nhà, mụ ấy sẽ lo được.
Nhà lão Thước không xa, nhưng gần nhà xa ngõ. Lão Thước ngõ trên, nhà lão ngõ dưới. Thông qua lối đi bờ ao là có thể đi tắt đến nhà nhau. Mùa này nước cạn có thể còn đi qua lòng ao mà vẫn khô ráo. Ngày còn làm việc trên xã, lối bờ ao là lối đi riêng của hai nhà. Bất kể nửa đêm gà gáy có công việc gì lão có thể đi theo lối đó không cần phải ý từ gì. Có những việc nhờ lối đi đó mà giữ được sự kín đáo thận trọng cần thiết. Việc làng xã có những việc vẫn cần tới sự thận trọng, tế nhị ấy. Nhưng từ ngày cả hai về nghỉ hưu, con đường ấy không còn đi lại được nữa. Cũng không hẳn là do đôi bên có va chạm mâu thuẫn. Đơn giản chỉ do tính lão Thước quá cẩn thận. Khu vườn nhà lão ba bề, bốn bên đã được rào kín như hồi rào làng kháng chiến. Lão mua vài trăm tre gai còn tươi về cắt ra chôn làm cọc rào. Người ta rào vườn thường buộc bằng lạt tre. Lão dùng toàn dây thép. Đến giờ thì đám cọc tre lên ánh xanh rờn. Chúng mọc vòi tới đâu lão vin buộc tới đó. Con gà con chó chui qua còn khó, huống chi con người. Cùng là ăn hương hoả nhà vợ, nhưng lão giữ còn hơn cả của tổ phụ nhà mình để lại. Cái mảnh vườn lão mua lại của bà chị dâu có đứa con đi tù, lão cũng rào dậu như thế. Suốt ngày lão cầm con dao đứng ở góc này một tý, góc kia một tẹo ngắm nghía. Chỉ một tàu lá chuối vàng vừa gục xuống là lão xén gọn, xếp vào gốc. Trong vườn mà sạch tinh tươm như ngoài sân. Có con chó nào mất nết đi ỉa sang vườn nhà lão lại lấy xẻng hốt ngay vào gốc cây lấp đất lại. Vườn sạch đến nỗi không có một thứ cỏ dại nào còn sót lại. Không biết giờ này mình tới nhà lão có ngồi nhà không, hay vẫn đang ở ngoài vườn.
Lão Đởm nghĩ: Con người ông ta chẳng coi muỗi dãn ra gì. Mình chỉ ở ngoài vườn chừng năm ba phút là không sao chịu nổi. Không bọ róm thì cũng bọ xít ngứa đến phát cuồng. Có gì hay ho ở cái vườn tạp ấy mà ông ta say mê đến vậy? Lâu thì mười, mười lăm năm. Chóng thì năm ba năm rồi tất cả cũng ra gốc đa còng. Đấy mới là miếng đất cuối cùng danh cho mỗi người ở cái làng này. Là nơi thiên niên vạn đại, không sợ mất phần. Dù chẳng ai muốn, thực ra cuộc đời rút cuộc vẫn là cõi tạm. Dung thân ở cõi người này phỏng được bao năm? Việc gì mà phải khư khư, chấp chấp nối nối để rồi cũng chẳng tới đâu?
Nếu không vì cái chân đang bị ngứa quái quỷ này lão đã quay về, từ lâu cả hai chẳng có gì để nói với nhau. Cái lối nghĩ một đằng làm một nẻo chỉ thích hợp khi còn cương vị. Khi cho riêng tâm tư mình, nó lại là món khó nuốt. Bụng dạ nhau thế nào biết cả, Nhưng trò chuyện thì lại khác hẳn. Nói đấy nhưng chưa hẳn là đúng. Y hệt những anh diễn trò biết hết bài bản của nhau. Ngoài miệng thì tâng bốc, nhưng trong dạ quá coi thường, coi kinh nhau.
Hình như hôm nay trong nhà lão Thước có khách. Ông ta cứ câu nhỏ câu to nhấm nhẳn không nghe rõ. Nhưng đích xác là có người. Nếu không giờ này ông ta không còn ngồi trong nhà, mà đã đứng ở cái xó nào trong vườn chuối rậm rì rồi. Lão Đởm lưỡng lự không biết có nên vào không? Nhưng rồi lão quả quyết: Nếu ông ấy có khách mình chỉ ngồi chơi một lát rồi về. Cốt nhất là xin ông ấy tý rượu thuốc bôi chỗ chân đau. Gần hết đời người lão chưa gặp tình trạng này bao giờ. Cũng có lần ở hầm thấy cặp rắn có chân như chân thằn lằn. Trong hầm tối om lão vô ý đụng phải. Nó chỉ trơn nhèo nhèo chứ vô hại. Thậm chí có một trong hai con ấy tợp một nhát vào cổ tay. Nó chỉ hơi nhói đau chứ không buốt như bây giờ. Lần đầu tiên lão thấy một con cóc to gớm ghiếc như vậy. Đúng là thời buổi lạ lùng, con vật người nuôi khổ công chăm sóc thì lại khó sống. Bọ hung, bọ xít chẳng ai nuôi thì lại phát triển hàng đàn. Những con vật không có ích cho con người hình như gặp thời phát triển sinh sôi...
Nhà cái ông Thước đến con chó cũng khác người. Có hai con một đen, một trắng. Con trắng dài như cái bơm, mõm nhọn như cái mũi dài ai ra vào không cắn chỉ ngửi ngửi rồi bỏ đi y như kẻ khinh người. Còn con đen ngắn một mẩu thì cực kỳ hung dữ. Vừa thoáng thấy lão Đởm bước vào sân nó đã phóng thẳng ra nhe răng gầm gừ. Nếu lão không có cây gậy ở tay thì chắc hẳn nó đã sơi cho một nhát rồi.
Ông Thước từ trong nhà vội chạy ra:
- Ông sang chơi! Ông không đánh tiếng, thành ra tôi sơ ý quá. Mọi khi thì chó tôi xích cả ngày, dạo này vườn có vài quả cam đám trẻ trộm ác quá mới thả để nó trông chừng... à cũng lâu rồi ông mới sang. Vẫn khoẻ chứ?
- Tôi cũng thường. Hôm nay vì cái chân này mới sang phiền ông đấy!
Ông Thước ngạc nhiên, nhìn bên chân bị ngứa của lão Đởm:
- Ông bị lâu chưa? Con gì cắn?
- Nào đâu có con gì, va phải con cóc thôi!
Lão Đởm bước lên hè không vào nhà ngay, ngồi luôn ở cửa. Ông Thước vội mở tủ lấy cái lọ nhỏ gói trong mấy lượt ni lông. Ông cẩn thận lấy một tý bông cuộn vào đầu tăm nhúng vào lọ, vừa đủ để thuốc ngấm vào đầu bông mà không rớt ra giọt nào. Lão Đởm lẩm nhẩm cám ơn rồi cầm đầu bông ấy miết nhẹ lên mu bàn chân. Lão hơi giật mình một cái vì xót. Cứ như thể chỗ đứt xát chanh hay muối vào. Chỗ bàn chân lão đang xưng, tự dưng lớp da bên ngoài nhăn lại. Có cảm giác chỗ ngứa đang dịu dần đi.
Bây giờ lão mới tĩnh trí để ý đến một người đang ngồi trong nhà. Anh ta ngồi trên chiếc ghế dựa xoay lưng ra phía lão. Tự dưng lão chột dạ: Đúng là nó rồi. Chính cái thằng mà cách đây sáu năm lão ký giấy cho nó đi cải tạo tập trung! Nghe nói nó trốn trại, bỏ ra nước ngoài rồi cơ mà? Nó đến đây không có gì làm lạ, vì ông Thước là chú ruột nó. Tốt xấu thế nào ruột thịt không bỏ nhau được. Nhưng gặp nó bất ngờ thế này là điều lão không tính đến. Liệu nó có biết chuyện mình xử lý với nó trước đây thế nào không? Nó có ý oán hận gì không? Nếu biết nó đang có mặt ở đây thì ban nãy mình đã không vào. Thôi thì cứ từ từ xem nó có biểu hiện thế nào. Lão không ngờ thằng này đứng lên, bắt tay lão bằng cả hai tay:
- Bác khoẻ không?
Đôi mắt lành lạnh như mắt cá của lão thản nhiên như không:
- Tôi vẫn thường, anh vừa về.
Gã đáp:
- Cháu cũng vừa về tới, chưa kịp đi đâu. Vào chỗ chú cháu trước đã.
Lão cười gượng:
- Thế là đúng quá rồi còn gì. Anh không đến đây thì còn đi đâu? Chán các chỗ rồi mới đều đến còn ra sao?
Ông Thước nhăn mặt, cái đầu lúi cua của ông tóc tựa hồ như dựng cả lên:
- Cái đó tuỳ các cháu, tôi không bó buộc. Ông ngồi vào bán uống chén nước đã. Cũng đã lâu mới gặp.
Lão Đởm toan kiếm cớ xin phép về, nghĩ thế cũng bất tiện đành ngồi lại. Trông lão thấp thỏm không yên.
Ông Thước rót đưa mời chén nước, lão nâng trên tay, còn chưa uống đã nghe ông Thước nói giật cục:
- Tôi cũng chẳng dấu ông. Thằng này nó là thằng có tài mà không có đức. Nó nghe tôi, giờ đâu đến nỗi phải lên mãi trên xó rừng. Khổ nỗi mẹ rong con, đòi gì cũng chiều. Giờ thì quá mù ra mưa...
Lão Đởm thoái dạ. Làm sao ông này lại nó vỗ vào mặt nó như thế? Con cháu thì con cháu thực, nhưng nó đâu còn trẻ con mà nói như vậy? Hay là ông ta có ý duỗi ra? Sợ thằng cháu về đòi lại mảnh vườn mà chính ông ép mẹ nó phải bán rẻ cho mình?
 Gã ngồi lặng người. Bao năm xa nhà mong mỏi gặp lại tình cảm ruột thịt, thế mà trước mặt người khác, ông chú lại nói như hắt nước đổ đi! gã đã định bỏ qua không nói. Gã không lạ gì tính nết ông chú ruột của mình. Lúc nào ông cũng đứng trên quan điểm lập trường, trong bụng một bồ nguyên tắc. Nhưng thử hỏi trong tình cảm ruột thịt ông đối xử với đứa cháu mồ côi là gã, ông đã làm được những gì ngoài việc chỉ trích, mạt sát? Từ khi gã còn bé dại cho tới giờ ông đã bao giờ để mắt xem nó no đói thế nào, cho nó được manh quần tấm áo hay quyển vở chưa? Ông lấy tư cách gì mà răn dạy? Nghĩ trong bụng như thế, gã vẫn nói:
- Hoàn cảnh của cháu ai nói thế nào chẳng được. Cơ cực từ tấm bé, oan trái cũng không phải lần đầu. Đối với cháu việc đó giờ không quan trọng nữa. Việc dù sao cũng đã qua, tốt xấu cháu cũng đã chịu đủ. Không phải cháu muốn thanh minh, trình bày vì bây giờ hai ông cũng đã về nghỉ cả rồi. Các ông cũng không thể thay đổi được điều gì trong quá khứ. Chỉ có điều từng ấy năm cháu cũng không hiểu cụ thể sự việc ngày đó như thế nào. Cháu muốn dù sao nó cũng được giải toả trong lòng. Nếu không gặp bác Đởm ở đây, mai cháu cũng sang bác chơi, hỏi bác câu chuyện...
Lão Đởm nhíu mày:
- Anh định hỏi tôi? Chẳng nhẽ hồi đó tự nhiên người ta bắt anh? Xử lý thế nào là do vụ việc anh gây nên, có quan hệ gì đến địa phương? Sau này người ta có thông báo về xã chúng tôi cũng chỉ biết thế thôi. Có chú anh đây, xã không làm gì nên tội cho anh...
Ông Thước cau mặt:
- Ông này hay thật. Việc gì ông phải trình bày với nó. Nó làm nó chịu. Làm gì thì nó biết. Thế bây giờ anh định về đây chất vấn chúng tôi có phải không? Thối như đống cứt đã lấp đi rồi, anh lại muốn bới lên à?
Lão Đởm vội đấu dịu:
- Thôi ông đừng nóng. Dù gì bây giờ cũng là chuyện trong nhà. Anh ấy thắc mắc thế cũng là đúng. Mình không nắm được mình không nói, mà nhân đây tôi cũng nói để anh rõ. Thực ra anh cũng không oan uổng gì. Nhiều đứa hồi ấy chỉ không có điểm ghi trong sổ chấm công hàng ngày ở hợp tác xã, bỏ làng đi lang thang cũng đủ điều kiện để cho đi cải tạo rồi. Không tội gà cũng tội vịt. Chẳng anh nào oan! Bây giờ Nhà nước cho về, tốt nhất là lo làm ăn đừng giở chuyện cũ mà rách việc!
Ông Thước hạ giọng, nói mát:
- Tôi cứ ngỡ anh đi học tập giờ về đã biết điều hay nhẽ dở. Ai biết anh vẫn giỏi lý sự như ngày trước, chẳng coi ai ra gì! Thôi thì cũng tuỳ. Đoạn rồi sau này, tự anh hãy lo, kẻo lại oán trách người khác!
Gã đắng ngắt trong miệng. Còn gì để nói với chú nữa đây. Từ lúc gã đến ông không một lời thăm hỏi cuộc sống gia đình trên Xuân Quang thế nào. Ông cũng không hỏi gã dự tính sinh sống làm ăn sắp tới ra sao. Lúc lão Đởm chưa đến, gã hỏi chuyện, ông chỉ ậm ừ cho xong việc. Bà thím thì cứ quanh ra quanh vào nghe chuyện. Có lẽ bà nghĩ gã về là để hỏi chuyện nhà cửa đất cát. Một hồi không thấy gã đả động gì đến bà mới cắp thúng đi chợ. Bà chỉ bảo: " Chú cháu ngồi chơi, tôi đi chợ một chốc ". Bà cũng không có ý mời gã ở lại ăn cơm. Giá như lúc đó bà có mời thì sau câu chuyện vừa rồi gã cũng sẽ không ở. Làm sao nuốt được miệng cơm vào bụng trước những lời lẽ của ông chú vừa rồi?
Ông Thước quay sang hỏi lão Đởm:
- Tháng này thực phẩm ông đã mua chưa? Tem của tôi vẫn còn nguyên. Đi từ đây lên huyện để mua vài ba lạng thịt, cân đậu thì thuốc chẳng nặng bằng thang!
Lão Đởm bảo:
- Tưởng hôm nọ cậu Cấn nói với ông rồi. Năm ba người gom vào với nhau, nhà anh nào có việc thì mua trước. Nếu không cắt lượt đi mua về chia nhau...
Ông Thước cười nhạt:
- Cái cậu ấy ngày trước không mấy ngày không có mặt ở nhà này. Mình về một cái, hàng tháng chẳng thấy mặt. Có gặp ngoài đường cứ lơ lơ... Tôi cũng không muốn nhờ!
Rồi hai người quay sang chuyện ban bệ, cơ cấu ở địa phương. Chuyện ông này, bà nọ làm như không có gã ngồi cùng. Gã thấy mình vô duyên nên đứng dậy xin phép đi mỗi nhà một chút. Ông chú mát mẻ:
- Vâng, anh đi!
Bà Thước đi chờ về hai ông già vẫn chưa dứt câu chuyện. Hai người nói vừa đủ nghe, như thể nói thầm với nhau. Bà cũng chỉ nghe được câu được câu chăng. Hình như vẫn là câu chuỵên của thằng cháu trên ngược vừa về. Bà hỏi ông:
- Thế ông không bảo cháu nó ở lại ăn cơm à? Tôi cũng có mua được mớ cá đây để hai chú cháu uống rượu.
Ông hừ hừ:
- Vẽ chuỵên. Không bảo thì nó cũng ăn ở đâu được mà chả về đây? Bà cứ lo liệu việc của bà, việc ấy không phải lo.
- Là tôi bảo thế. Bảo nó một câu khỏi phải tội!
Ông lừ mắt không nói gì. Bụng dạ bà thế nào ông quá biết. Đúng là ngọt nó lọt tận xương. Tình cảnh chú cháu ông giờ ra nông nỗi này phải không có phần do từ ở bà?
Bà hiểu bà không nên góp chuyện vào lúc này. Cứ nhìn ý tứ của ông ấy là bà biết, bà lẳng lặng đi xuống bếp.
Lão Đởm nói tiếp câu chuyện còn dang dở:
- Ngày ấy nếu không được ông cho phép tôi đã không đưa nó vào danh sách đề nghị đưa đi cải tạo. Trên có chủ trương, nhưng các đối tượng cụ thể lại do địa phương, chắc ông còn nhớ?
Ông Thước nheo nheo mắt, ông có thói quen trước một vấn đề hóc búa hay phức tạp ông thường nhăn trán và nheo nheo mắt như thế:
- Ông nói thế chẳng hoá ra tôi muốn đưa thằng cháu đi tù chứ gì?
Lão Đởm cười nhạt:
- Không, tôi không có ý nói thế. Nhưng danh sách lập xong tôi có đưa ông xem. Thấy ông không ý kiến gì tôi mới gửi đi. Chẳng phải nghiễm nhiên ông đồng ý rồi sao?
Ông Thước phẩy tay:
- Tôi nhớ là ông có đưa. Nhưng hồi đó công việc bận tối mắt tôi có để ý xem kỹ đâu. Hơn nữa tôi nghĩ việc đó thuộc ngành dọc của các ông. Xã chỉ có ý kiến tham khảo...
Lão Đởm khoát tay:
- Mà thôi, những việc ấy giờ có ai truy cứu đâu. Đánh chuột đổ lúa cũng là chuyện thường, nếu bảo oan còn khối đứa oan hơn nó. Như cu Du nhà Du lành như củ, chả điều tiếng gì. Nó chỉ có mỗi tội có mặt ở nơi xảy ra vụ án. Thế mà cũng đi gần bốn năm mới được về. Còn thằng cháu ông đi chụp ảnh không phim, bị bắt đến mấy bận, người ta gửi giấy về xã. Còn việc nó quan hệ với bọn nhân văn giai phẩm đưa về nhà không báo cáo ai. Tụ tập với những thành phần khả nghi viết bài gửi các báo nói xấu địa phương, đả kích cán bộ. Tù thế còn là ít. Hơn nữa. Hồi ấy ông chả bảo nó chưa chắc đã là máu mủ nhà ông. Anh ông mất, tự dưng để người ngoài xen vào hương hoả của các cụ là điều ông cay cú lắm là gì?...
Ông Thước vội ngắt lời:
- Hồi ấy chẳng qua là tôi bức tôi nó thế. Cho nó đi một thời gian cũng được. Có thế nó mới tỉnh ngộ, còn nói không chưa chắc nó đã nghe. Tôi đã bảo nó: Chữ nghĩa nó ghê lắm. Đã bao bài học nhỡn tiến mà anh chưa thấy hay sao? Không gì bằng có ngành có nghề để đảm bảo cho bản thân. Còn thích thì chỉ nên làm chơi thôi, không ai cấm. Đằng này nó ham bỏ hết việc cơ quan. Thích đi thì đi, thích về thì về. Ông bảo liệu có cơ quan nào người ta chấp nhận người như nó? Họ hàng nhà tôi ông còn lạ gì, ông giáo Ngọ văn hay chữ tốt nổi tiếng cả vùng, mang danh là nhà văn nhà vẻ mà cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, công nợ tứ bề thì ông bảo ngôi gì?
Phải có duyên có phận mới theo được nghiệp chữ nghĩa văn chương, trăm vạn người may ra mới được vài người nên danh nên giá, có tước có vị. Đâu phải ai muốn cũng được? Nói cháu không nghe. Bây giờ về lại có ý oán trách. Nó nghĩ thế nào mặc nó. Tôi cứ thẳng tôi làm. Tôi không việc gì phải trình bày với nó.
Lão Đởm đỡ lời:
- Nhưng dù sao thì cũng máu mủ ruột thịt. Khi ông nằm xuống nó vẫn phải có mặt. Ông không nên để nó oán hận làm gì. ở nơi khác bắt nó, ta cứ bảo địa phương không dính dáng gì. Xử lý thế nào là do ở trên. Thế chẳng hay hơn ư? Nó đã có ý tìm hiểu thế nào nó chẳng có lúc hỏi lại ông. Ông cứ thế mà nói, khỏi rắc rối làm gì!
Ông Thước đột ngột đưa ánh mắt nhìn khuôn mặt gẫy, có hàng mi rậm của ông bạn già:
- Không lẽ hồi ấy xử lý oan tất cả mười mấy đứa?
Lão Đởm giật mình:
- Sao lại tất cả đều oan? Sau này đi trại trung ương chúng nó mới chịu nó ra. Người ta đã xử thằng Việt tù chung thân ông không nhớ sao? Ngay từ đầu chúng khai thì vụ việc đã không phức tạp thế. Bốn năm sau, khi ở trại người ta giáo dục chúng nó mới thành khẩn khai ra thì việc đã lỡ rồi. Cũng nhiều đứa thiệt, nhưng ai bảo chúng biết mà không nói? Nhiễm cho lắm chuyện kiếm hiệp, học thói quân tử Tần rồ điên thì khổ còn kêu ai? Mà thằng cháu ông là đứa đầu têu cho bọn thanh niên làng. Nó đón người về mở lò dạy võ đêm nào cũng tập huỳnh huỵch ở ngoài bãi cát, cả làng biết, không dẹp hồi ấy, sớm muộn lại không loạn với chúng à?
Ông Thước gật gù:
- Nhưng hồi đó xử lý cũng hơi nặng. Đáng lẽ chỉ nên gọi lên nhắc nhở, bảo ban chúng nó. Bọn trẻ người, non dạ thích học đòi. Ta lại dùng biện pháp hơi quá.
Lão Đởm có ý không hài lòng:
- Thời chiến, làm gì có thời gian. Chỉ riêng việc tuyển quân, chính sách hậu phương đã mệt rồi. Còn tuần canh gác, thanh niên trai tráng có năng lực thì ra chiến trường cả. Cán bộ cơ sở thì không có chó bắt mèo ăn cứt. Ông bảo công an xã mà mấy cậu như thằng Khuê nói chẳng ra hơi, lòng không khập khiễng như thế, giữ nhà còn không xong, hỏi làm được việc gì? Vậy nên sai sót là không thể tránh khỏi. Chung quy tội lỗi sâu xa cũng bởi tự chiến tranh mà ra...
Ông Thước đã định cắt lời, xong ông lại thôi. Đổ tại chiến tranh và hoàn cảnh cũng chưa thật đúng. Thế còn lòng dạ con người, tính đố kỵ, ganh ghét kể cả sự nanh ác thì sao? Ông không lạ hồi bà Thức và lão Đởm là hai cánh vế đối địch. Cánh bà Thức phong trào ba đảm đam, đang lên như cồn, nắm giữ các công việc chủ yếu của xã, luôn làm lão Đởm hậm hực. Hai cánh này không bỏ qua cơ hội để lật đổ nhau. Hoặc ít ra cũng làm cho đối phương mất mặt. Cả chuyện thằng Huệ cháu ruột lão Đởm nữa. Nó mới ra trường làm cán bộ tư pháp huỵên. Hồi đi học nó theo đuổi con Vân bao nhiêu năm mà không lấy được vì nó nom xấu trai, học dốt. Khi còn Vân về làm cháu dâu ông rồi nó vẫn chưa từ bỏ ý định. Con Vân làm đơn bỏ chồng nếu không phải thằng Huệ lôi kéo thì còn ai vào đó? Thằng này chắc nghĩ không được ăn thì đạp đổ. Mà biết đâu trong việc thằng cháu ông đi tù lại chẳng có bàn tay nó nhúng vào? Nhiều lần ông định hỏi thẳng lão Đởm về chuyện này, nhưng lại nghĩ nó chẳng mang lợi ích gì, lại thôi. Tất cả mờ mịt trong nhiều định kiến, giờ có giở ra cũng không ích gì. Nhưng dù sao cũng đánh động để lão Đởm biết ông không phải ngây thơ đến mức nói thế nào cũng được, cũng tin.
- Cái anh Huệ nhà ông thế mà gớm. Nghe nói sắp tới đây sang làm Phó Chánh  án huyện phải không?
Có lẽ lão Đởm chưa rõ thâm ý của ông Thước. Thấy nói thế, đáp luôn:
- Vâng, tôi cũng có được nghe. Con giòng cháu giống mà lại. Bố nó ngày trước cán bộ tỉnh, giờ con cán bộ huỵên thì có gì lạ?
- Vận nhà nào cũng thế thôi. Thịnh mãi rồi cũng đến lúc suy. Phúc hoạ ở đời biết thế nào mà nói!
Đến đây lão Đởm hiểu ý ông Thước nói gì. Lão cũng mềm mỏng:
- Mưa lúc nào mát mặt lúc ấy ông ạ. Biết đâu mà lo gần lo xa. Thôi cũng muộn tôi xin phép ông tôi về...
Ông Thước không giữ lại, ông cầm chiếc nón mê đội lên đầu ra vườn ngay. Miệng ông lẩm bẩm:
- Quân họ Đặng này vừa gian vừa đểu thật!...
Bà Đởm người cao ngỏng, đầu to như cái giành, mũi sư tử lông mày sâu róm. Tướng mạo của bà có dáng đàn ông, võ quan hơn là một mệnh phụ phu nhân. Nếu mẹ đẻ ra bà không có hơn mẫu vườn và sinh con một bề chưa chắc lão Đởm đã chịu lấy bà. Đấy là phần của nổi ai cũng nhìn thấy được. Cộng thêm vào năm gian nhà ngói. Phần của chìm người ra cũng chỉ đoán già đoán non. Nhưng chắc chắn là phải có, bởi vì ngay sau ngày ông Đởm làm đám cưới, bà mẹ vợ mua luôn cho chiếc xe đạp ngoại sít téc linh. Thời ấy cả vùng mới chỉ có hai chiếc của nhà Chánh tổng Lâm và ông Thừa phái làm việc chỗ dinh quan huyện.
Ông Đởm mẹ mất sớm, bố làm nghề đánh nhủi. Quanh năm ông cụ đánh độc cái quần đùi, áo cuộn trên đầu vảc nhủi đi khắp đồng trong, đồng ngoài lần mò tôm cá nuôi con, da mặt, da tay, da lưng lúc nào cũng đen bóng như thoa dầu. Chỉ có đôi mắt trắng nhợt nhạt là dễ nhận thấy từ xa. Hình như tóc cụ không mọc, hoặc mọc quá chậm vì không ai thấy ông cụ cắt tóc cạo râu bao giờ. Cho đến năm đã ngoài bảy mươi râu cụ cũng không hề có lấy một sợi.
Ngoài đôi mắt ra ông Đởm không có điểm nào giống bố. Ông thừa hưởng làn da trắng mịn của người mẹ và mái tóc loăn xoăn rất tự nhiên. Người trong làng kể rằng một đêm gió mưa có một người đàn bà trẻ đẹp, không rõ nguồn cơn từ đâu về ngất lịm trong cái miếu hoang ở ngoài đồng. Gần sáng như mọi bận, ông cụ Đang bố ông Đởm bây giờ vác nhủi đi ngang qua. Ông mang người đàn bà ấy về nhà. Ngôi nhà hẻo lánh gần mom sông nên ít người qua lại. Tám tháng sau người vợ nhặt này sinh cho ông một thằng con trai là ông Đởm bây giờ. Có người bảo đứa con ấy người mẹ kia mang sẵn trong bụng trước khi gặp ông Đang. Còn ông Đang bảo rằng con ông sinh thiếu tháng. Bí mật ấy chỉ người đàn bà này mới biết. Bà mang luôn nó xuống mồ sau đấy một năm vì bị rắn cắn, không kịp cứu chữa.
Xuất thân như thế, nên ông Đởm tính cách khác người. Ông tính toán cẩn trọng, tình cảm kín bưng. Không ai đoán được khi nào ông vui hay buồn. Cũng không ai biết ông dự tính điều gì trong đầu. Luôn luôn có vẻ mặt thờ ơ vô cảm với xung quanh. Nhưng đôi mắt có cái nhìn lành lạnh không bỏ sót một việc gì xung quanh. Như mắt cá nhìn thấy đáy nước.
Ông không yêu vợ đến đắm đuối mà cũng không phụ bạc. Vợ chồng ông sống tự nhiên như nhiên, như những viên gạch xếp chồng lên nhau. Không thú vị cũng không khó chịu.
Ông công tác xã hội thuận lợi một phần lớn do bà. Đúng là có thực mới vực được đạo. Cán bộ xã lúc bấy giờ nào đã có trợ cấp, lương bổng gì? Mỗi tháng vài đồng chỉ có ý nghĩa tượng trưng. Nhiều người gia đình khó khăn xin nghỉ công tác. Những người còn theo đuổi là vì tin vào một ngày mai tươi sáng hơn. Cái ngày mà người ta có thể làm việc theo khả năng và hưởng thụ theo nhu cầu! Mọi người bình đẳng, không có áp bức bất công, không có người bóc lột người. Không có hố sâu ngăn cách giàu nghèo. Mọi người coi nhau như anh em, hoan ca trong thế giới đại đồng. v.v... Ngày đó là ngày nào? Bao giờ đến thì chưa ai chắc chắn, nhưng đều tin nó sẽ đến. Có thể là sau ngày đánh thắng giặc Mỹ, thống nhất Nhà nước, hoặc sau đấy vài chục năm. Và ngày đó sẽ là người xứng đáng được hưởng ở những vị trí vinh quang, hãnh diện...
Nên bất cứ chủ trương, chính sách gì ông cũng áp dụng thẳng băng. Ông gạt mọi trở ngại trên con đường phấn đấu của mình. Có thể coi ông như lớp cán bộ mẫu mực của thời kỳ này. Ông cho là mình không có gì phải áy náy, phân vân vì những việc đã qua.
Cơm tối xong bà Đởm mang theo bọc trầu nói là đến khuya mới về. Bà không nó là đi đâu, ông cũng không hỏi. Vì ông bà không mấy khi trò chuyện với nhau. Nhưng ông biết bà đi đâu. Con mẹ Tú ở xã bên gần đây nổi đồng, người đến xem rất đông. Nhưng người ta chưa dám lên đồng ban ngày vì những đợt trấn áp dị đoan mấy năm trước đây chưa hết ám ảnh về nỗi sợ hãi.
Gia sự nhiều việc bấn loạn vừa rồi khiến bà Đởm không yên tâm, người trần mắt thịt, làm sao biết huyền cơ của tạo hoá? Bà muốn gọi hồn bà cụ thân sinh để hỏi về mồ mả, đất cát thế nào mà mấy năm liền toàn gặp những điều xui xẻo. Lại thêm sự việc con cóc kỳ lạ vừa rồi khiến bà hoang mang. Bà không hỏi ông vì trước nay ông luôn đã phá và không tin những chuyện đồng bóng, bói toán. Nếu ông không nghe lại nói những lời báng bổ thì bà có đi xem cũng không linh nghiệm.
Rất may là anh con trai út đi học hát chèo về, khéo mồm thế nào mà nó dỗ được chị nó đi trại tâm thần bên Gia Lâm. Bà mới rảnh tay mà đi được. Cũng thương con, dù sao sang đó nó được thuốc thang biết đâu khỏi bệnh? Bà biết ở đấy bệnh nhân được cai quản cũng không khác trại tù bao nhiêu. Nhưng dù sao cũng còn hơn để nó ở nhà, bệnh mỗi ngày thêm nặng.
Bà bấm đèn pin lom khom đi ra ngõ. Những người cao to quá cỡ thường có dáng như thế. Nhất là những người vừa cao lại vừa gầy. Ông Đởm trông theo thấy dáng vợ y hệt bà mẹ đẻ ra bà, trông giống một cây khô cụt ngọn hơn là một con người.
Ông chốt chặt then cổng đi vào trong nhà. Có lẽ cổng ngõ thế này cả vùng không ai có, nó được bao bọc trong lớp rào kín dày bằng những cây ôrô gai chĩa ra tua tủa. Có cảm tưởng một con chó con cũng không chui lọt.
Buổi gặp thằng cháu ông Thước sớm nay khiến ông nghĩ ngợi. Việc tưởng như đã quên đi rồi, hôm nay bỗng nhiên gợi dậy. Liệu nó có đến đây nói khinh nói rẻ hoặc gây sự với ông không? Ông tin là nó không dám như thế. Một thằng đã một lần va chạm, hiểu thế nào là luật pháp và sự trừng phạt, chắc không dại gì ra mặt trả thù cá nhân. Nhưng không lẽ nó cứ âm thầm chịu đựng sự oan trái suốt đời? Việc này ông lại không thể thổ lộ hoặc trao đổi với bất cứ người nào, kể cả ông Thước.
Ông cảm thấy sợ, nhưng cứ thấp thỏm trong lòng. Cả nhà đi vắng, ngôi nhà trong đêm lạnh như dưới mồ đá. Vì vườn nhà ông quá rộng nên sinh hoạt cách biệt với hàng xóm láng giềng. Mà lâu nay, từ ngày ông nghỉ công tác có còn ai lui tới nữa đâu? Người đời là thế đấy. Người ta phù thịnh chứ mấy ai phù suy? Ông hết đứng lại ngồi, không có chủ định, ông mở tủ lấy ra con dao nhỏ. Một con dao cán gỗ, dài chừng hơn hai mươi phân, lưỡi dao mỏng, bằng thép không rỉ. Nó chỉ tốt cho việc dọc giấy, ăn hoa quả. Người ta bán nó đầy các quầy tạp hoá, nom lành hiền vô hại không có dáng dấp gì là thứ hung khí giết người. Vậy mà nó đã có thời gian dài nằm trong kho lưu trữ tang vật vụ án. Mãi sau này, nhờ giám định vết thương, kết luận hình sự người ta mới loại bỏ nó và trả nó lại cho, hồi ông làm trưởng công an xã. Không ai bịa đặt, hoặc tang chứng giả. Đơn giản chỉ vì cái xà cột của ông bị thủng một lỗ, con dao rơi ra ngoài dây vào vũng máu. Một người nào đó tình cờ tìm thấy nó. Rồi người ta đưa nó vào tang vật vụ án. Nếu như lúc đó, ông cải chính lại xuất xứ của con dao thì vụ án đỡ phức tạp đi rất nhiều. Sẽ bớt đi số người bị bắt năm đó nằm trong diện khả nghi. Cháu lão Thước sẽ không dính dáng gì vào vụ án. Và nếu như thế, nó bị bắt vì một ngẫu nhiên nào đấy trên Lạng Sơn sẽ không bị người ta di lý về. Nó chính là chủ nhân của con dao rọc giấy mà một lần làm sổ sách kê khai hộ tịch hộ khẩu ở nhà nó bà Thức mẹ nó đưa ông mượn ông bỏ vào xà cột và quên luôn.
Vì sao ông không cải chính?
Lẽ thứ nhất không ông trưởng công an xã nào lại muốn người khác nhìn mình với con mắt coi thường. Đi khám nghiệm hiện trường đã không phát hiện được điều gì lại luộm thuộm rơi vãi đồ đạc vào nơi xảy ra vụ án! Nếu ông nhận con dao lúc đó là của mình rơi ra thì sẽ là trò nực cười cho những cái miệng ác ý thường hay xì xào sau lưng ông. Lẽ thứ hai, bà Thức bí thư gần đây tỏ vẻ không ưa ông ra mặt. Chuyện ngày xưa ông theo đuổi tán tỉnh bà không xong, quá khứ, không nói lại làm gì. Khi ông đã có vợ con và chồng bà mới mất. Tất cả hoạt động trong vùng tạm chiến nên thấy chiều hướng không thuận ông đã từ bỏ ý nghĩ ấy từ lâu. Cuộc sống cái chết bất kể lúc nào cũng có thể ụp xuống khiến người ta không mấy nặng về tình cảm, nhất là tình cảm trai gái. Mà nặng về lý trí hơn. Chỉ cần một quả moọc - Chê vu vơ nào đó rơi trúng hầm, hay một kẻ phản bội chịu không nổi tra tấn đột ngột chỉ hầm, là chấm dứt cuộc đời.
Hai bên mâu thuẫn hoàn toàn vì lý do khác mới xảy ra gần đây. Bà không hài lòng với thái độ coi thường phụ nữ của ông. Phong trào ba đảm đang của xã đang nổi như cồn do bà gây dựng luôn có cái nhìn chế nhạo của ông. Những lời nói của ông ở chỗ này, chỗ khác đã đến tai bà.
Khi không còn sự thông cảm đôi bên thì sự việc theo chiều hướng khác. Đã nhiều lần bà đưa ra cuộc họp chi bộ phê bình ông đã có những lời thiết xây dựng. Tệ hơn bà yêu cầu ông làm rõ vụ mất trộm kho phân đạm của hợp tác xã, vì sao điều tra gần đến nơi mà lại không tìm ra thủ phạm? Có phải ông nương nhẹ và che đậy cho người nhà dính vào vụ này dong túng, thậm trí làm tay trong cho kẻ xấu? Thanh tra trên huyện về, không rõ ông tác động thế nào người ta cho vụ án chìm luôn? Gần đây nhiều người trong xã còn có dự luận ông ăn của đút lót của những đối tượng đảo ngũ trốn về địa phương. Mỗi lần cấp giấy thông hành cho người trong xã đi làm ăn xa, chứng nhận hồ sơ giấy tờ cho con em trong xã đi học, ông đều vặt người ta một chút. Số tiền tuy không nhiều, nhưng với tư cách của người cán bộ, đảng viên trong hoàn cảnh thời chiến này là không thể được! Bà gọi đó là cách bòn rút xương máu, mồ hôi, nước mắt nhân dân. Nghe nói bà còn trực tiếp gặp bí thư huyện uỷ để phản ánh tình hình. Người ta chưa động đến ông là vì chưa có bằng chứng cụ thể. Và cái chính là chưa tìm được người thay ông làm việc này. Một công việc ngay thời bình cũng không mấy người đảm đương được ở một xã nhiều phức tạp, lại đông dân như xã này.
Có người nói bà đang tìm cách thay ông bằng người khác. Không ngờ con mẹ gái goá lại to gan! Không đời nào ông chịu tuân phục. Mặc dù bề ngoài luôn tỏ ra nhũn nhặn, sốt sắng. Ông tự nhủ đàn bà sâu sắc đến mấy cũng chỉ như cơi đựng trầu! Cứ trồng tre uốn gậy, thế nào rồi cũng có lúc. Cái ý định đưa ông em cậu bà thay vào vị trí của ông thì hãy chờ đấy! Bà có thế lực của bà ở địa phương, dây dợ trên huyện, thì ông đâu có kém? Ông đâu phải trên không chằng, dưới không rễ. Chẳng qua là không muốn phô trương thanh thế lộ liễu. Chính trị có luật chơi riêng. Không phải lúc nào cũng bày ngửa bài trước thiên hạ. Mà phải có quân đánh quân chờ. Một con mẹ chưa hết cấp II làm sao thi tài, đấu trí với ông được?
Khi người ta đưa ông con dao ông đã suýt buột miệng thốt ra là con dao của mình. Ma xui quỷ khiến thế nào ông đã lặng im, không nói gì khi ấy. Buổi sáng hôm sau ông lên huyện báo cáo tình hình. Ông gặp thằng Huệ cháu ông, Nó khi này đang ngúng nguẩy với vợ ở quê và ra mặt đi lại với con Vân vợ thằng Khải. Nó hỏi chuyện ông về vụ án. Nếu nó là người ngoài, không phải cán bộ phòng tư pháp ông đã không nói. Nghe xong nó bảo:
- Thằng Tăng trước đây có quan hệ với vợ nó, thằng này ghen kinh khủng. Hai bên đã to tiếng với nhau mấy lần. Vụ này nó dính vào không có gì khó hiểu. Có điều chú phải làm cho chắc, dù sao nó cũng là án mạng không vội kết luận được đâu!
- Thì tao cũng chỉ làm đúng phận sự của mình. Tao lợi lộc gì mà làm sai khác đi?
Nó nhếch mép cười rồi ghép tai ông thì thầm. Lão Đởm lúc ấy càng thêm tự tin vào việc mình làm.
Rồi vụ việc khuất lấp từ đó đế nay. Lão không ngờ gặp lại gã. Lão thấy nó có vẻ lầm lì rắn rỏi hơn ngày trước. Vẻ công tử, học trò ngày nào không còn dấu vết gì trong con người này. Lão đã từng nghe tiếng đồn thằng này một lần trốn trại, cầm đầu một băng cướp trên tàu Hà Nội - Lạng Sơn. Chúng nó bề ngoài giả dạng buôn thuốc lá sợi, kỳ thực chúng làm gì thì ai biết được? Miệng lưỡi thế gian, một đồn mười mười đồn trăm. Lão cứ hình dung ra gã có tướng mạo kỳ quái. Mặt nó phải sẹo chằng ngang, chéo dọc, săm trổ đầy người. Chứ không phải cái vẻ buồn ngẩu ra như thế kia. Hay nó rắn giả lươn, giả chết bắt quạ? Nó được tha về hay vẫn trốn tránh từ bấy lâu nay? Tốt nhất mình không dây với nó. Nó có tìm gặp mình cũng nên lựa lời. Và sớm mai bằng giá nào mình cũng phải gặp thằng Hoàng cháu họ lão hiện đang làm công an trưởng xã này. Nó phải nắm được việc này, xem thế nào.
Lão vặn nhỏ ngọn đèn leo lên giường không chờ vợ về. Không biết con cóc kềnh vợ lão đã mang đi đâu chưa mà vẫn thấy tiếng nghiến răng trèo trẹo dưới gầm giường. Hình như có làn khói xanh leo lét vương lên nóc góc tủ. Một mùi tanh tanh đến lộn mửa làm lão nôn thốc nôn tháo. Lão Đởm trống ngực đánh hơn trống làng kéo chăn chùm đầu kín min mít.



Phần nhận xét hiển thị trên trang

Mã Hiểu Hồng, cầu nối quan trọng trong giao dịch ngầm Trung – Triều, đã bị bắt


Mã Hiểu Hồng – Chủ tịch công ty Hồng Tường Liêu Ninh, bởi nghi có dính líu đến buôn lậu vật liệu phát triển vũ khí hạt nhân cho Triều Tiên đã bị bắt, dấy lên sự quan tâm theo dõi của các giới truyền thông cả trong và ngoài nước Trung Quốc.

mã hiểu hồng, hồng tường liêu ninh, Chu Vĩnh Khang,
Mã Hiểu Hồng được coi là cầu nối quan trọng trong các giao dịch ngầm với Triều Tiên. (Ảnh: Internet)
Giới truyền thông Nhật Bản cho hay, Mã Hiểu Hồng có quan hệ mật thiết với ông Jang Sung-taek – nhân vật quan trọng số 2 của Triều Tiên, đã từng là “cầu nối” quan trọng trong giao dịch của ông Jang ở Trung Quốc.
Trang web Yomiuri.co.jp của Nhật Bản ngày 22/9 đã trích dẫn thông tin từ một nhân sĩ thạo tin cho rằng, với tư cách từng là đối tác mậu dịch Trung – Triều của ông Jang Sung-taek ở Trung Quốc, Mã Hiểu Hồng đã không từ thủ đoạn thông qua mua bán than đá mà kiếm được bộn tiền phi nghĩa.
Năm 2013, ông Jang Sung-taek bị người cháu của mình là Kim Jong-un – Ủy viên trưởng đảng Lao động Triều Tiên xử tử, rất nhiều xí nghiệp Trung Quốc đã mất đi con đường mậu dịch với Triều Tiên, nhưng bên phía Triều Tiên vẫn luôn duy trì mối quan hệ thương mại với Mã Hiểu Hồng.
Nhân sĩ thạo tin này còn cho biết, khi phía Mỹ đưa ra chứng cứ liên quan với phía Trung Quốc vào tháng trước, lãnh đạo phía Trung Quốc biểu hiện rõ ràng cơn thịnh nộ, mặt biến sắc tựa như “không còn giọt máu”, lập tức lệnh cho bộ công an bắt giữ Mã Hiểu Hồng. Ngoài ra, Mã Hiểu Hồng còn bị tình nghi theo nghề gián điệp.
Ngày 19/9, Trung tâm nghiên cứu chính sách Á Châu tại Hàn Quốc và Trung tâm nghiên cứu quốc phòng tại Washington công bố một bản báo cáo, từ năm 2011 đến 2015, công ty Hồng Tường và Bắc Triều Tiên đã trao đổi tổng giá trị lên tới 532 triệu USD.
Theo dữ liệu hải quan tổng hợp từ các nhà cung cấp thuộc bên thứ ba, công ty công nghiệp Hồng Tường đã cung cấp cho Bắc Triều Tiên Aluminum oxide. Chỉ trong tháng 9/2015, công ty này đã xuất khẩu sang Triều Tiên lượng aluminum oxide với giá trị hơn 250.000 USD. Vật liệu này được dùng để chế tạo lò quay ly tâm, một bước vô cùng quan trọng để làm giàu Uranium.
Ngày 15/9, trên trang Weibo của cục công an tỉnh Liêu Ninh đăng tải thông tin, các hoạt động thương mại của Hồng Tường trong một thời gian dài bị nghi ngờ là “tội phạm kinh tế nghiêm trọng”và đã bị công an Liêu Ninh tiến hành điều tra. Tài sản của công ty và Mã Hiểu Hồng cùng người thân đã bị đóng băng.
Mã Hiểu Hồng trước đây là một nhân viên tạm thời của một công ty bách hóa, tháng 1/2000 đã thành lập công ty Hồng Tường, từ đây đã bắt đầu 17 năm mậu dịch biên giới Trung – Triều. Về sau xí nghiệp này đã phát triển thành tập đoàn doanh nghiệp Hồng Tường Liêu Ninh, có 6 công ty gia đình, tổng số vốn lên đến trên hàng trăm triệu nhân dân tệ, với hơn 680 nhân viên. Trên trang web của công ty này còn xưng là “cầu nối vàng kết nối Triều Tiên và thế giới”.
Vì vậy, Mã Hiểu Hồng được xem là “người phụ nữ giàu có nhất vùng Đan Đông”. Năm 2013, Mã Hiểu Hồng được bầu vào Hội đồng nhân dân tỉnh Liêu Ninh, tuy nhiên tháng 9/2016, Mã Hiểu Hồng do dính líu vào vụ việc hối lộ mua phiếu bầu nên đã từ chức.
Ông Chu Hiểu Huy – bình luận viên thời sự chính trị, cho rằng với năng lực của xí nghiệp tư nhân của Mã Hiểu Hồng, nếu như không có thế lực lớn mạnh chống lưng đằng sau thì không thể tạo dựng quan hệ với chính phủ và quân đội Triều Tiên, cũng không thể mua và xuất khẩu vật liệu cấm của chính phủ.
Ông cho biết, Chu Vĩnh Khang – cựu Thường ủy phe cánh Giang Trạch Dân, từng nhậm chức chủ nhiệm Ủy ban Chính trị Pháp luật, kiêm bộ trưởng Bộ Công an luôn ủng hộ thế lực nhà họ Kim ở Triều Tiên, đồng thời thông qua “tiếp máu” cho Triều Tiên để giúp họ khiêu khích gây hấn trên chính trường quốc tế, tạo nên cục diện khó khăn cho Tập Cận Bình.
Vì vậy, Chu Vĩnh Khang cùng với tay chân ở Đan Đông, Liêu Ninh rất có khả năng là trợ thủ sau lưng việc xuất khẩu cấm phẩm sang Triều Tiên của công ty Hồng Tường. Vụ việc này giờ đây đã gây chấn động chốn quan trường Liêu Ninh, và có thể khiến chốn quan trường tỉnh Liêu Ninh lại một phen dậy sóng.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những ông lớn Nhà nước là “vua tiền mặt” gửi ngân hàng lấy lãi


Tiền mặt là vua khi để phòng vệ nguy cơ bất ổn, nhưng cũng thể hiện sự bế tắc khi nắm giữ dài hạn trong vị thế một doanh nghiệp... BẠCH DƯƠNG Tiền mặt là vua - được cho là một cách ví von nói về sức mạnh nội tại của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy tính hai mặt của vấn đề. Hiện rất nhiều doanh nghiệp Việt nắm giữ một khối lượng lớn tiền mặt và được gửi vào ngân hàng lấy lãi định kỳ.
Nhiều doanh nghiệp nhà nước đem 
lượng tiền lớn gửi ngân hàng, thu lãi lớn. 
Đua đem tiền gửi ngân hàng lấy lãi
Nếu có cuộc chạy đua nắm giữ tiền mặt trong giới doanh nghiệp, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PetroVietnam) chắc chắn giành vị trí quán quân. Theo báo cáo tài chính hợp nhất năm 2015 vừa được công bố, PetroVietnam có gần 102.000 tỷ đồng tiền gửi ngân hàng, trong đó có khoảng 25.273 tỷ đồng tiền mặt không kỳ hạn, 76.343 tỷ đồng là các khoản tiền gửi ngắn hạn hoặc khoản tương đương tiền của PetroVietnam có thời hạn thu hồi gốc kỳ hạn 3 tháng tại các ngân hàng thương mại. 

Nhờ khoản tiền khổng lồ gửi ngân hàng mà năm 2015, lãi tiền gửi, tiền cho vay của Petro Vietnam lên tới gần 7.000 tỷ đồng.

Một trường hợp khác, là một doanh nghiệp sản xuất, tuy nhiên Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) đang nắm giữ một lượng lớn tài sản là tiền mặt gửi tại các ngân hàng thương mại.

Cụ thể, tính đến cuối tháng 6/2016, Sabeco có lượng tiền mặt gần 8.200 tỷ đồng gửi ngân hàng với kỳ hạn không quá 3 tháng, hưởng lãi suất 5,5 -6,2% một năm. Trong đó, có khoản 1.165 tỷ đồng gửi tại các ngân hàng thương mại có kỳ hạn trên 3 tháng, hưởng lãi suất 6,2-7,2% một năm.

Nếu so với tổng tài sản 18.130 tỷ đồng, lượng tiền mặt nắm giữ đã vượt 45%. Với lượng tiền mặt lớn, doanh thu tài chính bán niên của công ty đã đạt 678 tỷ đồng, đóng góp không nhỏ vào lợi nhuận sau thuế của hãng bia lớn nhất Việt Nam này.

Tương tự, Tổng công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Hà Nội (Habeco) cũng nắm giữ hơn 3.200 tỷ đồng tiền mặt. Trong đó tiền gửi ngân hàng kỳ hạn và không kỳ hạn gần 2.300 tỷ đồng.

Ở góc nhìn khác, là doanh nghiệp đại diện đi đầu tư vốn cho Nhà nước nhưng Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) lại đem một lượng tiền lớn gửi ngân hàng lấy lãi. Cụ thể, tính đến 31/12/2015, SCIC có khoảng gần 25.000 tỷ đồng gửi ngân hàng thương mại.

Ngoài ra, lượng tiền mặt lớn được công ty đem đầu tư vào các trái phiếu, cho vay lại. Khoản tiền gửi ngân hàng lớn này cũng đem lại hơn 1.000 tỷ đồng tiền lãi cho SCIC trong năm 2015.

Tính đến hết tháng 6/2016, lượng tiền mặt gửi ngân hàng của SCIC vẫn ổn định trên mức 25.000 tỷ đồng. Dự kiến, số lãi trong bối cảnh ngân hàng chạy đua lãi suất sẽ được tăng lên. Năm 2016, SCIC vẫn đặt mục tiêu thu lãi tiền gửi ngân hàng gần 1.000 tỷ đồng.

Trong khi đó, các khoản tiền mặt nắm giữ của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) ngày càng có xu hướng tăng. Tính đến cuối tháng 6, VNPT nắm giữ hơn 5.344 tỷ đồng, tăng hơn 121 tỷ đồng so với đầu năm. Trong khi mức tiền mặt của cuối năm 2014 đạt khoảng 4.270 tỷ đồng. Do đó, Tập đoàn ghi nhận doanh thu tài chính bán niên lên tới 415 tỷ đồng.

Tổng công ty Thuốc lá Việt Nam tại thời điểm cuối năm 2015, cũng nắm giữ khoảng 2.896 tỷ đồng tiền mặt. Chủ yếu các khoản tiền được gửi tại Vietcombank. Đây chủ yếu là khoản tiền của Quỹ hỗ trợ cổ phần hoá doanh nghiệp để lại để sắp xếp tái cơ cấu tổng công ty. Lãi tiền gửi năm 2015 được ghi nhận là 86 tỷ đồng.

Một số công ty khác trên sàn chứng khoán cũng nắm giữ một lượng tiền mặt lớn. Chẳng hạn như Tập đoàn Bảo Việt (BVH) là một công ty khá linh hoạt trong việc nắm giữ tiền mặt. Ở những thời điểm bất ổn về kinh tế, công ty thường nắm giữ lượng lớn tiền mặt và tăng đầu tư khi thị trường tài chính dần tốt lên.

Tính đến tháng 6/2016, Bảo Việt có khoảng 16.000 tiền mặt và tiền gửi tại các ngân hàng, giảm đáng kể so với thời điểm cùng kỳ năm trước. Lãi tiền gửi khoảng 532 tỷ đồng, giảm khoảng 90 tỷ đồng so với cùng kỳ.

Tiền mặt là vua hay bế tắc kênh đầu tư?

Việc nắm giữ một lượng lớn tiền mặt giúp doanh nghiệp dễ dàng hơn trong các quyết định, chớp lấy thời cơ, giành lợi thế trên thị trường. Ngoài ra, trong điều kiện kinh tế dự báo sẽ còn nhiều biến động, những cú sốc có thể bất ngờ ập đến, nhiều tiền sẽ giúp doanh nghiệp phòng vệ tốt hơn.

Trong một cuộc họp mới đây với VnEconomy, một lãnh đạo Ủy ban Chứng khoán, cho biết việc các doanh nghiệp nắm giữ lượng lớn tiền mặt thể hiện chiến lược đầu tư của từng công ty. Theo đó, khi người đứng đầu công ty nhận thấy thị trường bất ổn, đem tiền đi đầu tư không thể mang lại lợi nhuận, thậm chí nguy cơ thua lỗ, rủi ro cao nên gửi ngân hàng tạm thời.

Đến khi thị trường bất động sản ấm lại, kênh đầu tư vàng, đôla, chứng khoán…có tín hiệu tốt, lãnh đạo doanh nghiệp có thể đem nguồn tiền đầu tư sinh lời.

Tất nhiên, người lãnh đạo doanh nghiệp cũng cần có đầu óc, nhanh nhạy nắm bắt chu kỳ của thị trường để đầu tư hiệu quả. Ngay cả lúc thị trường tốt, tài chính sôi động vẫn có những công ty thua lỗ.

''Vua tiền mặt" là khái niệm được nhắc nhiều đến khi thế giới chìm trong nợ nần, thị trường tài chính bất ổn. Điều này thể hiện sự khôn ngoan của giới đầu tư biết lúc nào nên tìm đến nơi trú ẩn là giữ tiền.

Tuy nhiên, việc giữ tiền mặt trong túi cũng đầy rủi ro khi tỷ giá, lạm phát tăng cao… Đặc biệt, việc giữ tiền mặt lớn triền miên năm này qua năm khác lại thể hiện việc bế tắc trong kênh đầu tư mới.

Lãnh đạo một doanh nghiệp nhà nước khi được hỏi về lượng tiền lớn gửi ngân hàng cho biết đây là nguồn tiền nhàn rỗi khi chưa có kênh đầu tư khả thi nên chọn gửi tại một vài ngân hàng thương mại có lãi suất cao. Nguồn tiền này đóng vai trò dự phòng cho doanh nghiệp khi có dự án, cơ hội đầu tư đến có thể triển khai ngay.

Tuy nhiên, vị lãnh đạo cũng thừa nhận việc đầu tư và làm gia tăng vốn nhà nước ai cũng muốn nhưng nhiều khi không được như mong đợi. Trong bối cảnh để tiền trong túi còn rủi ro thì việc nghiên cứu chiến lược đầu tư mới, đầu tư vào cái gì luôn khiến các lãnh đạo đau đầu nhất.


http://vneconomy.vn/doanh-nhan/nhung-ong-lon-nha-nuoc-la-vua-tien-mat-gui-ngan-hang-lay-lai-2016092605142967.htm

Phần nhận xét hiển thị trên trang

TRẦN TIẾN LÚC KHÔNG NGẪU HỨNG

Thiếu Nhơn
 




Nhạc sĩ Trần Tiến vừa có một cuốn sách. In đẹp, giá bìa 148 ngàn đồng cũng xứng đáng. Trừ hai phần “Đối thoại” và “Viết về Trần Tiến” chỉ mang tính báo chí phụ lục, ba phần “27 khúc ngẫu hứng văn xuôi”, “Du ca” và “Lưu ảnh ký” ít nhiều phác thảo được chân dung Trần Tiến.
Cuộc đời Trần Tiến nhiều phóng túng và nhiều trải nghiệm. Chỉ cần ghi lại chân thật cũng đã đủ hấp dẫn độc giả. Tuy chưa đạt đến tầm sâu sắc hoặc đáo để, nhưng Trần Tiến viết có duyên!
Đáng tiếc, trong “Ngẫu hứng”, Trần Tiến ít chịu đề cập đến giai đoạn cực kỳ quan trọng của anh, đó là thời đổi mới. Khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố "cởi trói" với hiệu lệnh “chống lại sự im lặng đáng sợ”, giới văn chương hưởng ứng nồng nhiệt còn giới âm nhạc thản nhiên như không. Cũng khó trách, giới âm nhạc vốn quen bổng trầm du dương, cốt thỏa mãn những cái lỗ tai luôn thèm thuồng khoái cảm vuốt ve mơn trớn. Trần Tiến là nhạc sĩ duy nhất xuất hiện trong những năm cao trào thức tỉnh ấy, với tác phẩm tiêu biểu “Trần trụi 87”.
Không dừng lại ở quan sát “Tôi đã thấy bạn tôi đi buôn trên đường phố Nga. Bạn tôi lang thang trên đường phố Mỹ. Bạn bè lừa nhau ngay trên quê hương”, Trần Tiến giục giã: “Ðừng hát, xin đừng mãi ngợi ca, những lời hát nhàm chán ru quê hương ta vinh quang thăng hoa trong bao niềm kiêu hãnh, mà quên đi áo cơm và hoa hồng”.
Đã gần 30 năm trôi qua, “Trần trụi 87” vẫn còn nguyên giá trị: “Tôi đã thấy bạn tôi lao công trên đường phố Nga. Bạn tôi xây bao công trình cho Mỹ. Người Việt tài năng lang thang nơi đâu, xa dấu quê nhà. Anh có đau không?”. Có lẽ nhiều tri thức trùm chăn hôm nay, cũng phải xấu hổ khi nghe tâm tư thuở nào của Trần Tiến: “Hãy quay lại nhìn lại chính mình. Hãy quay lại nhìn rõ chính mình. Hãy quay lại nhìn về quê hương hôm nay. Anh có đau không?”.
Trần Tiến có nhiều ca khúc hay, nhưng khẳng định rõ nét bản lĩnh Trần Tiến chính là “Trần trụi 87”, hoàn toàn không ngẫu hứng mà chìm đắm giữa ngổn ngang âu lo lương thiện của một nghệ sĩ đích thực!
Dẫu chưa hài lòng với Trần Tiến ở chuyện nọ chuyện kia, nhưng chỉ cần nghĩ đến “Trần trụi 87” giăng mắc thao thức “người Việt nào giờ đây lo toan riêng tư, khôn quá hóa hèn”, thì tôi vẫn kính trọng anh như một nhạc sĩ lớn!
Phần nhận xét hiển thị trên trang

ÔI TRỜI!


Báo chí KÁCH MỆNH thời đổi mới !
.
"Clip Đôi nam nữ "mây mưa" ngay trên giường bệnh viện Hưng Yên" (gõ google), bao Báo ào ào đăng ... đàn !
Thảm họa Formosa đẩy hàng triệu dân miền Trung đến bế tắc mưu sinh và bệnh tật; nay 600 người dân Quỳnh Lưu (NA) vượt 200 km đến Kỳ Anh (HT) đưa đơn kiện Formosa một cách phù hợp với pháp luật; nhưng lẻ tẻ mới có Báo đưa tin !!??
Ôi, Báo chí KÁCH MỆNH !
Ôi, cái nghĩa "ĐỒNG BÀO" !
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Những con đỉa của nền kinh tế


Nhàn Đàm 

MTG - Sẽ thật khó có thể tập trung hoàn toàn số vốn thu được từ việc bán hết cổ phần các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lớn để tái đầu tư vào nền kinh tế, khi mà chúng ta vẫn chưa thể có giải pháp triệt để đối với những dự án làm ăn thua lỗ hàng ngàn tỉ và ngửa tay xin hỗ trợ từ phía Chính phủ như những con đỉa sống bám vào nền kinh tế.

Một trong những câu hỏi được đặt ra nhiều nhất xung quanh việc chính phủ thoái hết vốn khỏi các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) lớn như Vinamilk, Sabeco, Habeco,… là việc số tiền lên tới hàng tỉ USD thu về đó sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Vẫn chưa có câu trả lời chính thức từ phía chính phủ, dù mục tiêu cơ bản được định hình là sẽ được sử dụng để tái đầu tư vào nền kinh tế. Điều này có thể dẫn tới một mặt trái khác của khu vực kinh tế quốc doanh, đó là xu hướng ngày càng có nhiều DNNN thua lỗ và xin hỗ trợ về tài chính và cơ chế từ phía chính phủ để tiếp tục tồn tại. 

Sẽ có không ít người cảm thấy ngỡ ngàng trước khoản tiền mà chính phủ có thể thu về từ việc thoái hết vốn khỏi 10-12 DNNN lớn trong năm nay và đầu năm sau, theo dự kiến có thể lên tới hơn 10 tỉ USD. Nhưng sẽ có không nhiều người biết được rằng hiện có bao nhiêu DNNN và các dự án đầu tư của những doanh nghiệp này đang thua lỗ hàng ngàn tỉ đồng và ngửa tay xin sự hỗ trợ về tài chính và cơ chế từ phía chính phủ.

Cứ mỗi ngày, mỗi tuần trôi qua cả xã hội lại biết thêm về hàng loạt những con số lên tới cả ngàn tỉ đồng có thể bị mất trắng trong những dự án đầu tư thuộc đủ mọi lĩnh vực của nhiều DNNN. Những trường hợp điển hình nhất có thể kể đến dự án Gang thép Thái Nguyên, Nhà máy sơ xợi Đình Vũ hay gần đây nhất là dự án Đạm Ninh Bình. Điểm chung của tất cả những dự án này là số tiền đầu tư khủng, nhưng nhanh chóng thua lỗ chỉ sau một thời gian ngắn hoạt động hoặc thậm chí còn không thể đi vào hoạt động do chưa hoàn tất xây dựng, và giờ đây đều đang nài nỉ sự hỗ trợ từ phía chính phủ về vốn và cơ chế để tiếp tục tồn tại một cách vật vờ.

Chỉ tính riêng những con số thất thoát và thua lỗ tại một vài dự án điển hình kể trên, cũng đã là một số tiền khổng lồ cho hậu quả mà những con đỉa cỡ bự này gây ra. Nhà máy gang thép Thái Nguyên (TISCO) có vốn đầu tư lên tới 8.100 tỉ đồng hiện vẫn chưa thể đi vào vận hành và có nguy cơ biến thành một đống sắt vụn, Nhà máy sơ xợi Đình Vũ có tổng vốn đầu tư lên tới 325 triệu USD (tương đương 7.000 tỉ đồng) và tính đến thời điểm giữa tháng 7.2016 thì tổng mức lỗ lũy kế đã lên tới hơn 3.000 tỉ đồng (theo Baodautu).

Điều tương tự cũng diễn ra đối với Nhà máy Đạm Ninh Bình, dự án này có tổng vốn đầu tư lên tới 667 triệu USD (tương đương gần 15.000 tỉ đồng), nhưng kể từ khi đi vào hoạt động cho đến cuối tháng 6.2016 nhà máy đã lỗ tổng cộng gần 2.700 tỉ đồng, còn nợ tính đến cuối năm 2015 là hơn 8.300 tỉ đồng (theo CafeF). Tổng vốn đầu tư và mức thua lỗ của ba dự án điển hình này cũng đã lên tới trên 1 tỉ USD, chưa kể các khoản nợ lũy kế mà ngân sách vẫn đang phải còng lưng ra trả, do hầu hết các dự án này đều thuộc các DNNN lớn và phần lớn đều nằm trong diện được chính phủ bảo lãnh.

Sự hỗ trợ mà các dự án này muốn xin cũng muôn hình vạn trạng, nhưng đều hướng tới một mục tiêu chung duy nhất, đó là níu kéo sự tồn tại của dự án bằng cách hà hơi tiếp sức về vốn và cơ chế như những liều thuốc tăng lực thay vì nhìn thẳng vào nguyên nhân của sự thất bại và thua lỗ.

Trong trường hợp của Nhà máy gang thép Thái Nguyên (TISCO), lý do được doanh nghiệp này đưa ra bào chữa cho việc chậm hoàn thành và vốn đầu tư tăng lên so với dự kiến là vì thiếu vốn. Nhưng, ngoài việc xin cấp thêm vốn để hoàn thành dự án, thì doanh nghiệp này cũng không quên xin thêm được miễn giảm một số loại thuế, miễn giảm lãi vay, cơ cấu lại thời gian vay ở các ngân hàng, áp dụng hình thức chỉ định thầu,… (theo Dantri).

Việc một nhà máy vẫn đang trong quá trình thi công và chưa đi vào hoạt động đang phải xin cấp thêm vốn lại đòi hỏi những ưu đãi về miễn giảm thuế có thể xem là một điều bất thường, cho thấy ngay cả doanh nghiệp cũng không tự tin về hiệu quả kinh tế của dự án kể cả khi được tiếp thêm vốn để hoàn tất thi công và đi vào hoạt động.

Điều tương tự cũng diễn ra trong hai dự án đình đám còn lại là Nhà máy xơ sợi Đình Vũ và Đạm Ninh Bình, dù có sự khác biệt nhất định về nội dung xin hỗ trợ. Trong trường hợp xơ sợi Đình Vũ, doanh nghiệp này ngoài yêu cầu được miễn giảm một số loại thuế và chi phí năng lượng, thì còn đòi hỏi buộc các doanh nghiệp dệt may trong nước phải tăng mua sản phẩm của nhà máy, đồng thời đề xuất Bộ Tài chính áp thuế nhập khẩu và hạn ngạch đối với sản phẩm xơ sợi polyester nhập khẩu, dù công ty này cũng thừa nhận rằng những đề xuất như trên hoàn toàn có thể gây ảnh hưởng không nhỏ đến các doanh nghiệp ngành dệt may trong nước (theo Tuoitre).

Trường hợp của Đạm Ninh Bình bớt quá đáng hơn một chút, khi chỉ đề xuất được giãn nợ và được phép áp dụng biện pháp tự vệ đối với sản phẩm Ure nhằm hạn chế nhập khẩu giá rẻ vốn là nguyên nhân trực tiếp gây lỗ lớn cho dự án trong thời gian vừa qua (theo CafeF).

Điểm chung của các dự án thua lỗ ngàn tỉ kể trên là không thể tự mình tồn tại và đều hoạt động do sự yếu kém về công nghệ, tính toán sai lầm về giá cả, phương thức hoạt động, dẫn đến sản phẩm có chất lượng kém nhưng giá thành lại quá cao, không thể cạnh tranh độc lập trên thị trường. Nó dẫn tới việc các dự án này đều đòi hỏi những ưu đãi theo kiểu “không công bằng”, thay vì xin những hỗ trợ cần thiết cải thiện công nghệ và sản xuất để đảm bảo sản phẩm có đủ khả năng cạnh tranh độc lập trên thị trường, thì những dự án này đều xin những ưu đãi về thuế để giảm giá thành sản phẩm của mình theo một cách không lành mạnh, thậm chí xin áp hạn ngạch nhập khẩu để hạn chế bị cạnh tranh.

Nếu không nhanh chóng có những biện pháp loại bỏ những con đỉa khổng lồ này, thì dù nhà nước thu được bao nhiêu tiền từ việc thoái hết vốn khỏi các DNNN lớn cũng sẽ là vô nghĩa. 

Thủ tướng đã kiên quyết không tiếp thêm vốn và hỗ trợ cho dự án nhà máy gang thép Thái Nguyên, nhưng quan trọng hơn là cần làm điều tương tự với tất cả những dự án thuộc diện ký sinh tương tự trong nền kinh tế ở thời điểm hiện tại.
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Siêu cổng nhưng để làm gì và sẽ chào đón ai?


Anh Đào

LĐO - Một rơ móc giáo dục từ vỡ lòng cho đến tiến sĩ; một "Siêu cục trưởng" với vợ, 3 em ruột, 2 em vợ, 3 em chú... đều là các “đồng chí” trong ngành và một siêu cổng chào ngót 200 tỉ, thưa bạn đọc, các siêu công dân!

Hết 1.000 tấn thép, chi phí 198 tỷ đồng- Những con số “nức lòng” cho “siêu cổng chào” tỉnh Quảng Ninh chuẩn bị khánh thành.

Siêu ĐH Hà Tĩnh, sẽ đào tạo cả mầm non, tiểu học, THCS, THPT, trung cấp, CĐ, ĐH, thạc sĩ và cả… tiến sĩ.

Siêu Cục trưởng Cục thuế Quảng Bình, vừa được bổ nhiệm ở nhiệm kỳ thứ 3, với vợ, 3 em ruột, 2 em vợ, 3 em chú...đều là các “đồng chí” trong ngành. Tất cả đều đúng quy trình.

Tôi đã đọc thấy tới 3 chữ siêu trong chỉ 1 buổi sáng hôm nay, thưa bạn đọc, thưa các siêu công dân sinh ra sẵn trên đầu 2 chữ “siêu nhẫn”.

Thầy Hiệu trưởng Nguyễn Đình Thọ cho biết “nguồn giáo viên” của siêu ĐH Hà Tĩnh sẽ lấy giáo viên hiện tại đang giảng dạy đại học ở trường với lập luận “Thày của thày mà không dạy được trò nữa thì…”.

Còn nguồn sinh viên sẽ “tăng mục tiêu tuyển sinh ở ngoài nước để bù đắp cho tuyển sinh trong nước”. Chẳng hạn sinh viên Lào.

Ôi một rơ móc từ vỡ lòng cho đến tiến sĩ. Ôi một tầm cấp mới với những học sinh quốc tế sang một nền giáo dục hàng năm mất đến 3 tỉ USD du học sinh ra nước ngoài.

Chuyển sang “siêu Cục trưởng”. Hôm qua, ông lặp lại “style Hà Giang” rằng “mọi việc đều là đúng quy trình”. Rằng “Chẳng lẽ, anh em ở dưới tín nhiệm, làm quy trình lên mà mình không ký à".

Tôi mà được gặp vị siêu Cục trưởng tôi sẽ hỏi thêm ông có dẫn vợ đến... xin không bổ nhiệm? Ông có “mơ làm thầy giáo chứ có muốn làm quan chức đâu”!

Giờ sang cổng chào với một câu hỏi: Tóm lại, cổng chào có cần không?

Tôi tin ngay cả khách du lịch dừng chân chụp ảnh selfie cũng sẽ bảo rằng “Có cũng được mà không có cũng chẳng sao!”.

Tất nhiên, Quảng Ninh sẽ nói là biểu tượng, là hình ảnh, là xã hội hóa, là cần thiết, là ý nghĩa, là tầm vóc, là abc... Cái nào rồi cũng hợp lý. Quảng Ninh sẽ chống nạnh vì cái thế “top” nộp NSNN.

Nhưng  để tôi cho các bạn thêm một con số: Cuối 2015, Ba Chẽ, một huyện của Quảng Ninh hân hoan ăn mừng “một năm nhiều khởi sắc” với nổi bật là công tác thu ngân sách lần đầu tiên thu ngân sách đạt trên 15,6 tỷ đồng.

Có ai tính hộ, hơn 18.000 dân, với 30,74% hộ nghèo sẽ phải nai lưng trong bao nhiêu năm không ăn không uống mới đủ cho một cái siêu cổng chào như vậy?

Cổng chào ấy để làm gì và sẽ chào đón ai? 

Huống chi cái siêu ấy sẽ như một tiếng gáy để những con gà khác thấy “bực bực”, như một cái cớ để những người khác tin rằng “đâu cũng vậy, ai cũng như mình”.

Hãy cho chúng tôi biết ý kiến của mình, thưa những công dân Quảng Ninh, thưa các phụ huynh Hà Tĩnh, thưa các công chức Quảng Bình, thưa chúng ta, những người đóng thuế!


Phần nhận xét hiển thị trên trang