Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 8 tháng 8, 2016

KHẢO VỀ “ĐẠI CỒ VIỆT” (NƯỚC VIỆT - NƯỚC PHẬT GIÁO)


ThS. TRẦN TRỌNG DƯƠNG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Quốc hiệu Đại Cồ Việt 大瞿越 do vua Đinh Tiên Hoàng đặt năm 968 (SCN). Đại Cồ Việt là quốc hiệu đầu tiên, được dùng trong 8 đời vua của 3 triều Đinh, Tiền Lê, Lý, với quãng thời gian dài 86 năm (từ 968 - 1054). Tức là mãi đến năm Giáp Ngọ, niên hiệu Sùng Hưng Đại Bảo thứ 6 (1054), vua Lý Thái Tông mới đặt lại quốc hiệu là Đại Việt(1). Nội dung của ba chữ “Đại Cồ Việt” đã được một số học giả quan tâm nghiên cứu. Sở dĩ, nó được chú ý đến như vậy bởi lẽ đây là quốc hiệu chính thức đầu tiên của người Việt sau khi đánh đuổi người phương Bắc, kết thúc giai đoạn một ngàn năm mà cương vực của người Việt chịu sự cai quản của thiên triều. Quốc hiệu Đại Cồ Việt đương nhiên chứa trong đó tư tưởng chính trị và xu hướng tôn giáo của người cầm quyền, tuy nhiên trước nay đây vẫn luôn là một bài toán khó giải. Rất nhiều ý kiến đã đưa ra, nhưng vẫn chỉ được coi như là những giả thuyết. Giả thuyết được đồng thuận nhiều nhất được một số học giả hàng đầu của thế kỷ XX đưa ra, giả thuyết này coi CỒ (lớn) là một từ Việt cổ. Bài viết này viết ra với mục đích tổng thuật, đánh giá về các giả thuyết trước đây, cũng như khảo luận về quốc hiệu đầu tiên này, từ đó đưa ra cách nhận định riêng trên cơ sở những thành quả của các ngành lịch sử, tôn giáo (Phật học), văn bản học, văn tự học v.v.
I. Giả thuyết coi CỒ là từ Việt cổ
2.1. CỒ “ là một từ Việt cổ?
Những học giả như Sở Cuồng Lê Dư (1932)(2), Bửu Cầm (1960)(3), Thúc Ngọc Trần Văn Giáp (1969)(4), Hoa Bằng Hoàng Thúc Trâm (1971)(5), Lê Văn Quán (1981, 1982, 2007)(6), Trần Quốc Vượng (1960, 2000)(7)v.v…đều cho rằng chữ “”, âm Hán - Việt đọc là “cù”, thực tế thường được đọc là CỒ nghĩa là “to, lớn”. Năm 1975,Đào Duy Anh viết như sau: “Cồ nghĩa là lớn: mến đức cồ, kinh bùi ngọt. Trong Sử ký thấy dùng từ CỒ trong tên nước ở thời nhà Đinh là Đại Cồ Việt. Ngày nay ta cũng còn thấy dùng chữ kép đại cồ lồSong từ Quốc âm thi tập về sau thì không thấy từ cồ được dùng riêng”(8). Sở dĩ ông coi CỒ là một từ cổ vì ông tra được chữ này trong từ điển của Alexandre de Rhodes (1651), P. P. de Béhaine (1772 - 1773) , L. J. Taberd (1838), Huỳnh Tịnh Paulus Của (1895), J.F.M. Génibrel (1898), G.Hue (1937). Nhưng từ này không phải là từ cổ mà vẫn đang hiện dụng trong tiếng Việt hiện nay. Thực tế, trong suốt lịch sử tiếng Việt, từ tố Cồ chưa từng đứng độc lập làm thành phần trong câu. Giai đoạn cổ - trung đại, tiếng Việt đã có từ CẢ, CÁI để trỏ nghĩa “lớn”, đến giờ là từ LỚN, BỰ, TO. Từ CỒ trong suốt lịch sử, chỉ làm một từ tố trong các từ song tiết như gà cồvịt cồcồ cộ mà thôi. Sắc thái của nó không chỉ có nghĩa là “to” mà đôi khi còn có nghĩa là “ngố, ngờ nghệch.” như câu: lóng ngóng như gà cồ/ tồ, Nữ kê tác quái -gà mái đá gà cồ. “Gà cồ” còn có nghĩa là gà đực, gà chọi, như gà cồ sớt chó sói… Đồng dao có câu: Sáo đen là em gà cồ. Gà cồ là cô sáo sậu. Sáo sậu là cậu chim ri...; Vè nói ngược có câu: …lên non đặt lờ/ xuống sông bửa củi/ gà cồ hay ủi/ heo nái hay bươi… Tục ngữ còn có câu: gà cồ ăn quẩn cối xay (tk XIX), nay chuyển sang nóigà què ăn quẩn cối xay, lại có câu ca dao: Gà cồ lẩn quẩn cối xay/ Ai cho muối ớt xé phay gà cồ. Câu đố dân gian có câu: Vân Tiên cõng mẹ chạy ra, đụng phải gà cồ cõng mẹ chạy vô…Từ tố CỒ hiện vẫn đang còn dùng trong một số địa phương. Ví dụ: vùng Sơn Tây, gọi anh nào to cao ngồ ngộ gọi là CỒ, như Thắng Cồ. Hay gọi loài ve sầu to và đen hơn loại ve sầu thường là con “cồ cộ”. Chữ “cồ cộ” ở một số nơi khác còn để chỉ loại châu chấu cỡ lớn. Xin xem các từ điển từ xưa đến nay(9). Có thể đi đến nhận định, chữ CỒ là một từ tố không có khả năng đứng độc lập, vì phải nhường chỗ cho các từ đồng nghĩa khác; quan trọng nhất, nó chỉ chuyên dùng cho các đối tượng là động vật mà thôi. Cho nên, khó có khả năng kết hợp là “đức cồ” được (TTD nhấn mạnh). Việc coi CỒ trong ĐẠI CỒ VIỆT như một từ cổ là kết luận được hình thành từ cảm thức tiếng Việt hiện đại thông qua tra cứu các từ điển cổ mà thôi.
Về mặt cấu trúc của ngữ danh từ, đây là một cấu trúc của Hán văn. Trong đó, trung tâm ngữ là từ “Việt” đứng ở sau cùng, hai từ “đại” và “cồ” đứng trước để tu sức cho “Việt”. Cấu trúc này có lẽ không phải bàn luận nhiều. Nếu theo giả thuyết CỒ là một chữ Nôm, thì cấu trúc này sẽ có trật tự khá bất ổn như sau: [từ Hán (đại) + từ Nôm (cồ: lớn) + từ Hán]. Mối quan hệ giữa “đại” và “cồ” là mối quan hệ đẳng lập, nhưng “cồ” lại là yếu tố chức năng để chua nghĩa cho “đại”. Điểm bất ổn ở chỗ, cố gắng chua nghĩa cho một từ quá đơn giản. Cho nên, nói như học giả An Chi: “Đối với chữ Cồ trong Đại Cồ Việt mà nói rằng đây là một yếu tố Nôm có nghĩa là “to, lớn” thì thật chẳng còn gì nhẹ dạ cho bằng. Với cách hiểu quá đỗi hời hợt này, người ta đã gây ra trong 3 tiếng Đại Cồ Việt một cái lỗi quá thô thiển về trùng ngôn (pleonasm): đã “đại” mà lại còn “cồ”. Chẳng những thế, cách hiểu rất ít chiều sâu đó còn biến ba tiếng Đại Cồ Việt thành một thứ ngôn ngữ “ba rọi” (vừa Tàu vừa ta) không thể chấp nhận được cho một quốc hiệu nghiêm túc và đáng kính trọng v.v…”(10) Hiện tượng từ Nôm được dùng như là một thành phần của một ngữ danh từ tiếng Hán không phải là không có. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Trang thì trong số 4000 vị thần thì có khoảng 10% tên các vị có yếu tố Nôm, như Bến Nước Đại vương, Cửa Ngòi Công chúa, Đống Đá Hiển ứng Chiêu cảm Đại vương(11) v.v… Có thể thấy yếu tố Nôm ở đây chỉ là danh từ riêng, và cấu trúc của các ngữ này chỉ là [từ Nôm + từ Hán]. Giả thuyết coi CỒ chua nghĩa cho ĐẠI là bất ổn cả về ngữ nghĩa lẫn cấu trúc.
2.2. Hệ quả của giả thuyết coi CỒ là một từ Việt cổ. Dựa trên giả thuyết coi CỒ là chữ Nôm để ghi từ Việt cổ của các học giả vừa nêu, năm 1984, Keith Weller Taylor đi đến nhận xét rằng: “đại cồ” là một dạng ghép “phản ánh sự phát triển sáng tạo của ngôn ngữ bản địa khi nó được sử dụng cho vấn đề chính trị”(12) trong giai đoạn tự chủ mới.
Năm 1992, nhà nghiên cứu văn tự học Trung Quốc, La Trường Sơn cũng viết: “năm 968, triều Đinh bắt đầu kiến lập nhà nước phong kiến tự chủ, chữ CỒ trong quốc hiệu lại là một chữ Nôm, nhưng ý nghĩa của chữ Nôm này vốn đã nằm trong nghĩa của chữ “đại” rồi. Đó là dấu vết chữ Nôm xuất hiện đầu tiên trong thế kỷ X”(13).
Theo chúng tôi, đây là giả thuyết thuần túy văn tự theo chiều hướng có lợi cho dân tộc của các nhà Nôm học trong thế kỷ XX, từ đó dẫn đến những ý kiến đồng thuận của các nhà sử học trong nước và các nhà nghiên cứu nước ngoài (những người phi bản địa). CỒ được coi là một từ Nôm để chứng minh ba điểm:
1. Chữ Nôm đã ra đời từ thế kỷ X;
2. Khẳng định quyền độc lập tự chủ của dân tộc thông qua sự tự ý thức của người cầm quyền về ngôn ngữ dân tộc.
3. Độc lập dân tộc là kế thừa truyền thống tộc Việt từ thời Hùng Vương, Âu Lạc, Lạc Việt, với những thành tựu văn hóa như nỏ thần kim quy!
Một giả thuyết khoa học đứng trên rung động tình cảm dân tộc là một điều có thể hiểu được vào một số thập kỷ của thế kỷ trước (thế kỉ XX) khi hoàn cảnh lịch sử của đất nước còn chưa được ổn định. Nhưng, kể cả chữ CỒ là một từ Nôm đi chăng nữa thì cũng không thể khẳng định rằng chữ Nôm đã ra đời với tư cách là một hệ thống văn tự dùng để ghi một chuỗi ngôn từ thuần Việt(14).
2.3. Chữ CỒ từ bối cảnh văn hóa thời đại. Thêm nữa, qua các tài liệu lịch sử, thì ba đời vua (13 năm) nhà Đinh chưa có ý thức về “ngôn ngữ bản địa”. Đinh Bộ Lĩnh tự xưng là Vạn Thắng Vương 萬聖王(15). Quần thần tôn là Đại Thắng Minh Hoàng đế 大勝明皇帝(đế hiệu thuần Hán)(16). Rồi ngay sau khi lên cầm quyền, vua Đinh phong cho con là Đinh Liễn tước là Nam Việt Vương 南越王(17)rồi sai Đinh Liễn đi sứ để triều cống và xin sự công nhận của thiên triều. Nhà Tống mới lập, còn bận nhiều việc chưa đem quân đến chinh phạt, nên năm 973 Tống Thái Tổ bèn ban bài chế công nhận Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Chỉ Quận vương, Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư,Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ檢校太師靜海軍節度使(18)Năm 970, đổi niên hiệu là Thái Bình太平. Đến niên hiệu Thái Bình thứ 3, vua phong Đinh Tuệ là Vệ Vương衛王, lập con thứ là Hạng Lang làm Thái tử太子(19).
Như thế, có thể thấy rằng, vào giai đoạn đầu độc lập tự chủ, triều đại đầu tiên của Việt Nam luôn ý thức được rằng, phải mềm mỏng trong vấn đề ngoại giao. Trong nước vẫn có thể có quốc hiệu, vua vẫn tự xưng đế hiệu của mình. Nhưng một mặt, vẫn phải nhún nhường xin nhà Tống công nhận mình là nước phiên thuộc, hàng năm vẫn phải cống sứ đầy đủ. Và muốn được Bắc quốc công nhận, các nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý cũng phải cố gắng chứng tỏ mình là một nước thuộc về văn hóa ngôn ngữ của Trung Hoa, phải cố gắng chứng tỏ mình đã được “giáo hóa”, là nước có “văn hiến” (xét theo nghĩa gốc của từ này, như Nguyễn Trãi sau đó gần 500 năm cũng đã viết trong Bình Ngô đại cáo). Biểu hiện quan trọng nhất của việc có văn hiến là xác định hệ thống văn tự quan phương (văn) và chủ thể sử dụng thứ văn tự đó (hiến), rồi sau đó mới đến thiết lập triều nghi, dùng hình pháp (pháp trị), đóng đô, xây cung điện để làm chỗ thiết triều, xắp đặt bách quan, lập ngôi hoàng hậu, phong vương phong tước, dựng đàn Xã Tắc làm nơi tế tự của triều đình quốc gia (quốc tế, tự điển) v.v… Quan trọng không kém là đặt quốc hiệu. Vì thế, tên nước Đại Cồ Việt là thuần Hán thì thiên triều mới chấp nhận được. Và cũng chỉ có thuần là nghĩa Hán thì nó mới “đồng bộ” với các tên quan chức theo mô hình của Hán như Đô hộ phủ, Thập đạo Tướng quân, Đinh quốc công v.v… Đinh triều hẳn là triều đình lấy Hán văn làm ngôn ngữ hành chính và ngoại giao. Bài từ tiếp sứ Vương lang quy của Ngô Chân Lưu sau này cũng là bài thơ chữ Hán vậy.
Nếu không dùng chữ Hán, cái nhà nước vừa mới hình thành sau cả ngàn năm thuộc Bắc, cái nhà nước mới được hưởng chút ít “thái bình” sau cái loạn 12 sứ quân kia lại bị liệt vào danh sách những nước “mọi rợ” (không có chữ viết) thì sẽ sớm phải chịu cảnh “khai hóa” của nước lớn. Đọc lời chế của Tống Thái Tổ có thể thấy rõ điều này: “Bộ Lĩnh […], giữ tiết làm tôi hướng theo phương Bắc, […], có chí mến văn hóa của Trung Quốc, thường nghĩ đến việc nội phụ, […], qua lại cống hiến lễ vật. Nay có có lời khen ngợi đã sai con đến xin làm phiên thuộc, vậy phong cho cha làm quận vương v.v…”(20) Cho nên, lập luận cho “Đinh Tiên Hoàng dùng lại chữ “Việt” là tìm về cội nguồn Lạc Việt (tổ tiên của dân tộc Việt chúng ta), lại thêm chữ CỒ (tiếng Việt) để muốn giương cao nước Cồ Việt là một nước rộng và có nền văn hóa “lớn” thuần Việt (phi Hoa phi Ấn)”(21) là có phần chủ quan, tiền định.
Đến đây, chúng tôi có khuynh hướng nghiêng về phía các học giả cho rằng, quốc hiệu “Đại Cồ Việt” vẫn là tên thuần Hán. Điều đó có nghĩa là, chữ “” không phải là chữ Nôm dùng để ghi âm CỒ của tiếng Việt cổ trong một ngữ danh từ theo trật tự cấu trúc của tiếng Hán(22).
II. Giả thuyết coi [Đại + Cồ] là một chữ Nôm
Gần đây, tác giả bài viếtQuốc hiệu nước ta trong lịch sử“Đại Cồ Việt” hay “Cồ Việt”?(23) - Nguyễn Anh Huy đã đưa ra một giả thuyết thú vị, giải thích về ba chữ “Đại Cồ Việt”. Giả thuyết này của tác giả được hình thành trên một tín niệm của rất nhiều học giả hàng đầu của thế kỷ XX, coi CỒ (lớn) là một từ Việt cổ như bài viết đã nêu ở trên. Ông đưa ra bốn bước lập luận như sau:
1. “Đại Cồ” là từ thừa nghĩa, thừa chữ. Vì “đại” tiếng Hán là lớn; và CỒ tiếng Việt cổ cũng nghĩa là lớn(24). Chính sự dư thừa một cách vô lý như vậy đã khiến cho đa số người đời sau không thể hiểu được ý nghĩa của danh từ này.
2. Ông cho rằng: ở đây có một sự nhầm lẫn về văn bản học của các nhà sử học thời trung đại. Đại Việt sử ký toàn thư (từ đây viết tắt là ĐVSKTT) - văn bản chính sử đầu tiên có ghi nhận quốc hiệu này lại “không phải là chữ viết gốc thời Đinh Tiên Hoàng mà đã “tam sao thất bản” nhiều lần qua các bản chép tay của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, sử thần triều Lê v.v… Nhưng lần “thất bản” lớn nhất, theo tôi, là chuyển từ bản chép tay sang khắc mộc bản (sic) để in sách từ thời Lê Chính Hòa năm 1697.”(25) Từ việc nghi ngờ đối với văn bản như vậy, tác giả đã đi đến giả thuyết cho rằng “Đại Cồ Việt” là một chữ có vấn đề về mặt tự dạng.
3. Ông cho rằng “đại cù” trong ĐVSKTT là một chữ Nôm hài thanh “cồ𡚝”. Do các văn bản cổ viết theo hàng dọc, nên chữ Nôm “cồ 𡚝” rất dễ đọc nhầm thành hai chữ “đại” và “cù”.
4. Cứ liệu thành văn mà ông đưa ra để củng cố thêm cho giả thuyết của mình đó là đôi câu đối trong đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng tại cố đô Hoa Lư, trong đó chỉ ghi quốc hiệu là CỒ VIỆT.
Giả thuyết cho hai chữ [đại + cồ] là một chữ Nôm hình thanh để ghi 1 từ Việt là CỒ (nghĩa là lớn) là giả thuyết thú vị. Nhưng, nếu đã nêu cao “tinh thần dân tộc” thì phải chăng nên đặt theo cấu trúc của ta là “Việt Cồ”? Mặt khác, các nhà khảo cổ và Nôm học chưa từng tìm thấy một chữ Nôm hình thanh nào vào thế kỷ X để làm tiền lệ hay đối chiếu(26).
Trước tiên, bài viết muốn thảo luận lại về văn bản này. Đó là câu đối ở đền vua Đinh Tiên Hoàng tại Hoa Lư. Nguyên văn như sau瞿越國當宋開寶華藘都是漢長安(Cồ Việt Quốc đương Tống Khai Bảo/ Hoa Lư đô thị Hán Trường An) nghĩa là “nước Cồ Việt tương đương với niên hiệu Khai Bảo đời Tống/ Kinh đô Hoa Lư cũng như là Trường An đời Hán”. Ngoài ra, ở Hoa Lư cũng còn có một câu đối nữa có xuất hiện chữ “Cồ Việt” với nội dung như sau: 萬勝威雄瞿越基開正統始/ 天書分定華藘運啟聖人生(Vạn Thắng uy hùng, Cồ Việt cơ khai chính thống thủy/ Thiên thư phân định, Hoa Lư vận khải thánh nhân sinh) nghĩa là “Vạn Thắng Vương oai hùng, Cồ Việt nền xây, (triều đại) chính thống (từ đây) bắt đầu/ Thiên thư phân định, Hoa Lư vận mở, thánh nhân xuất hiện”. Tuy nhiên, niên đại của hai đôi câu đối này là khá muộn. Đôi đầu được viết vào năm Giáp Tý thời Tự Đức (1864)(27). Đôi sau được viết vào năm Đinh Mão thời Bảo Đại (1927)(28). Trong Việt sử diễn nghĩa tứ tự ca do Hồng Nhung và Hồng Thiết (con của Tuy Lý Vương) diễn dịch cũng có chữ này ở đoạn “Ông Ðinh Bộ Lĩnh, người xứ Hoa Lư, hiệu rằng Vạn Thắng, trí dũng có dư, dẹp yên các trấn, sắp đặt trăm quan, nước xưng Cồ Việt渃稱瞿越(29), đô đóng Trường An” (249-256). Tức là cả 3 văn bản ghi “Cồ Việt” đều là các văn bản rất muộn vào đời Nguyễn sau ĐVSKTT hai trăm năm.
Mặt khác, chúng tôi cho rằng chữ “Cồ Việt” ở đây chỉ là cách gọi tắt của “Đại Cồ Việt” dưới áp lực của thể loại văn vần. Câu đối là thể loại văn học hạn chế người sáng tác đến từng âm tiết, ngoài ra còn phải kể đến luật bằng trắc. Thể loại thơ bốn chữ cũng vậy, 1 câu thơ 4 chữ thật khó có thể đặt một danh từ riêng chiếm đến 3 âm tiết. Với cấu trúc “trắc - bằng - trắc”, ba chữ “Đại Cồ Việt” nếu đưa vào bất cứ một câu văn vần nào thì cũng sẽ dễ gây nên sự thất luật. Điều này có thể thấy rõ, đế hiệu Đinh Bộ Lĩnh tự xưng là “Vạn Thắng vương” cũng bị cắt mất một âm tiết. Có người không biết “Vạn Thắng” là đế hiệu nên không viết hoa mà phiên âm và hiểu theo nghĩa là “muôn chiến thắng”(30) và không chua gì cả. Một chứng cứ nữa vể việc “Đại Cồ Việt” bị cắt mất một âm tiết trong văn bản văn vần. Đó là đôi câu thơ “Nước xưng ĐẠI CỒ nối trời, xây thành lập lũy trong ngoài sửa sang" (câu 4102 và câu 4103) trong sách Thiên Nam ngữ lục(31). Có thể thấy, có 3 văn bản ghi quốc hiệu là “Cồ Việt”, 1 văn bản ghi quốc hiệu là “Đại Cồ”. Và cả 4 văn bản này đều thuộc về văn vần (xin xem bảng tra ở dưới). Trong khi đó ĐẠI CỒ VIỆT luôn luôn được ghi một cách trọn vẹn trong các văn bản lịch sử bằng văn xuôi (9 văn bản). Cụ thể như sau:

Sử liệu(32)
Niên đại
Chữ
Thể loại
Đinh viết Đại Cồ Việt, đô Hoa Lư (Dư địa chí)(33)
Sáng tác XV, in 1868
Văn xuôi
“Mậu Thìn, năm thứ 1 [968] (Tống Khai Bảo năm thứ 1). Vua lên ngôi, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt… bầy tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”(34).
1697 (khắc in)
Văn xuôi
Thiên Nam ngữ lục(35)
Thế kỉ XVIII
Văn vần
“Mậu Thìn, năm thứ 1 [968] (Tống Thái Tổ Khai Bảo năm thứ 1). Vua buổi đầu lên ngôi. Đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt… các bề tôi dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”(36).
1800 (khắc in)
Văn xuôi
“Làm kẻ chợ ở động Hoa Lư, nay là Trường Yên phủ, dựng hiệu nước là nước Đại Cồ Việt”(37)
1800 (khắc in)
萬勝
Văn xuôi
Câu đối đền Đinh Tiên Hoàng
1864
Văn vần
"Mậu Thìn (968), Đinh Tiên Hoàng năm thứ 1 (Tống, Thái tổ, năm Khai Bảo thứ 1). Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế, quốc hiệu là Đại Cồ Việt (không rõ tháng nào)"(38)
1881 (khắc in)
萬勝
Văn xuôi
Một mai về với Trần công/ hiệu xưng Vạn Thắng anh hùng ai qua(39)
1870
萬勝
Văn vần
“Mậu Thìn, năm thứ 1 [968] (Tống Thái Tổ Khai Bảo năm thứ 1). Vạn Thắng Vương lên ngôi hoàng đế. Quốc hiệu là Đại Cồ Việt… Quần thần dâng tôn hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế”(40).
Cuối thế kỉ XIX (chép tay)
萬勝
Văn xuôi
Việt Nam phong sử(41)
Cuối thế kỉ XIX (chép tay)
Văn xuôi
“Ông Ðinh Bộ Lĩnh, Người xứ Hoa Lư, Hiệu rằng Vạn Thắng, Trí dũng có dư. Dẹp yên các trấn, Sắp đặt trăm quan, Nước xưng Cồ Việt, Đô đóng Trường An” (249-256)(42).
1912
瞿越
Văn vần
Việt sử yếu(43)
1914 (khắc in)
Văn xuôi
Đinh tộc gia phả(44)
1916 - 1925
Văn xuôi
Câu đối đền Đinh Tiên Hoàng
1927
瞿越 / 萬勝
Văn vần

Về văn bản học, chưa từng có một văn bản sử học (bằng văn xuôi: 9 vb) nào ghi nhận cách viết [đại + cồ] là một chữ Nôm. Hơn nữa, các văn bản xuất hiện vào thời Đinh đến nay hầu như không còn gì. Hiện, chỉ có một số văn bản rất đáng chú ý; đó là 40 cột kinh tràng hiện đang nằm trong kho hiện vật của Bảo tàng Ninh Bình. Tiếc rằng, chúng tôi, dù đã cố gắng, nhưng không thể nào tiếp cận được những tư liệu đặc biệt quý hiếm này. Chỉ có nghiên cứu các văn bản Hán văn trên các kinh tràng này mới may ra tìm được cách ghi quốc hiệu chính xác. Trong số 40 kinh tràng trên, có 2 kinh tràng đã từng được Hà Văn Tấn nghiên cứu(45). Thế nhưng, cả hai là các văn bản chép kinh trì chú của phái Mật tông, nên không có thông tin nào. Tóm lại, tất cả các văn bản sử học (văn xuôi, trong đó ĐVSKTT vẫn là văn bản sớm nhất, có giá trị nhất, tính khả tín cao nhất) đều ghi quốc hiệu là “大瞿越”. Tất cả các văn bản văn vần đều ghi thiếu một âm tiết do hạn định của thể loại đối với số lượng âm tiết và luật bằng trắc.
Điều chúng tôi muốn nói ở đây là những nghiên cứu sẽ khó có thể đạt được kết quả khi người thực hiện cố gắng chối từ sự hiện hữu của tư liệu. Điều đó sẽ dẫn đến hành động sử dụng tất cả các dữ liệu để chứng minh cho một định đề có sẵn. Lập luận cho rằng ĐVSKTT và các văn bản lịch sử khác viết sai là một thao tác “bạt bản tắc nguyên”, phủ nhận giá trị thực tại, khách quan của các ngành khoa học cơ bản nhất trong các khoa học về xã hội nhân văn, đó là khảo cổ học, văn bản học, ngôn ngữ học. Mặt khác, chúng ta cũng khó có thể tưởng tượng ra rằng, sẽ như thế nào nếu toàn bộ các sử gia của một cộng đồng dân tộc cũng như “kí ức dân gian” quên mất, hoặc là nhớ nhầm/ viết nhầm quốc hiệu đầu tiên của mình? Như trên, bài viết đã phản bác lại giả thuyết coi CỒ là một từ Việt cổ và giả thuyết coi ĐẠI CỒ là một chữ Nôm. Dưới đây, bài viết muốn đề cập đến các giả thuyết coi CỒ là một chữ Hán.
III.Các giả thuyết coi CỒ là một chữ Hán
Trong những người quan tâm nghiên cứu về quốc hiệu “Đại Cồ Việt”, Nguyễn Khắc Kham, Kỳ Quảng Mưu chủ trương cho rằng “Đại Cồ Việt” là một từ thuần Hán. Cả hai ông đều đưa ra những kiến giải riêng hữu lý. Bài viết giới thiệu giả thuyết của hai học giả trên nhằm góp phần lý giải về nội dung ngữ nghĩa của ba chữ “Đại Cồ Việt”- quốc hiệu đầu tiên của nước ta trong thời kỳ đầu của độc lập tự chủ.
3.1. Giả thuyết của Kỳ Quảng Mưu
Trong bài Giải thích về tên nước Đại Cồ Việt - và phân tích ngữ nghĩa bài "Vương lang quy" của Ngô Chân Lưu đăng trên tạp chí Đông Nam Á tung hoành, tác giả Kỳ Quảng Mưu (khoa Đông Phương ngữ của Lạc Dương Ngoại quốc ngữ Học viện, Trung Quốc), cho rằng Đinh Bộ Lĩnh định quốc hiệu là Đại Cồ Việt hẳn là phải có dụng ý của riêng mình. Trước tiên, ông để ý đến hai thành tố quan trọng và khó hiểu nhất đó là hai chữ “Cồ Việt”. Đó là một danh hiệu để khu biệt với các dân tộc và quốc gia khác thuộc vùng Bách Việt xưa. Đinh Bộ Lĩnh không đặt tên nước là Nam Việt quốc để tránh trùng tên nước của Việt Đà. Ông cũng không đặt tên nước là Đại Việt vì nó cũng trùng với quốc hiệu Đại Việt của Lý Thánh Tông (Trung Quốc). Bởi Lý Thánh Tông đã xưng đế vào năm 917 tại Quảng Châu. định quốc hiệu là Đại Việt, sau đổi thành "Hán", sử sách gọi là Nam Hán. Nhưng năm 972, Nam Hán bị Tống thôn tính. Cho nên Đinh Bộ Lĩnh đã tránh dùng lại quốc hiệu cũ của nước láng giềng và đặt tên nước là Đại Cồ Việt (46).
Kỳ Quảng Mưu cho rằng, từ thực tế lịch sử, Đinh Bộ Lĩnh đã ứng thuận lòng dân, dẹp bỏ loạn lạc, thống nhất lãnh thổ, đưa chính quyền về một mối. Nhưng nước mới được lập, vừa qua cơn chiến loạn, ông chắc hẳn đã đối mặt với rất nhiều khó khăn, luôn luôn phải răn dè bản thân. Cho nên, đặt niên hiệu “Thái Bình” là để an dân. Đặt quốc hiệu “Đại Cồ Quốc” là để tự răn mình, răn rằng: “Mới có niềm vui của sự thành công thì phải đề cao lòng răn dè sợ sệt, mắt phải nhìn cho xa”(47).
Như thế, Kỳ Quảng Mưu khẳng định quốc hiệu “Đại Cồ Việt” là một danh từ thuần Hán, trong đó chữ CỒ cũng mang ngữ nghĩa của tiếng Hán. Trong đó ông muốn hiểu, chữ CỒ mang đủ cả ba nghĩa như ông đã tra cứu qua Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh: “Cồ: 1.sức trông xa của chim ưng; 2.nhìn chú vào một chỗ; 3.sợ hãi.”
Chúng tôi thiết nghĩ, coi “Đại Cồ Việt” là một cụm từ thuần Hán là một hướng lý giải đúng. Tuy nhiên, việc lấy nghĩa cơ bản của chữ CỒ để lý giải cho ba chữ này là giả thuyết cần phải bàn lại.
3.2. Các giả thuyết của Nguyễn Khắc Kham
Giống như Kỳ Quảng Mưu và các nhà nghiên cứu khác, Nguyễn Khắc Kham là người trăn trở khá nhiều về quốc hiệu Đại Cồ Việt. Năm 1974, ông cũng từng coi CỒ là một chữ Nôm(48), sau ông đã từ bỏ giả thuyết này bằng cách cùng một lúc đưa ra hai giả thuyết khác vào năm 1978.
Giả thuyết đầu tiên ông đưa ra là một cách giải thích thú vị. Ông nói:“Cồ Việt” có lẽ là cách đọc của người Việt cổ cho hai chữ “Âu Việt 甌越. Chữ Âu có hai âm đọc ở tiếng Hán cổ là *U và *KU, … có lẽ triều Đinh đã sử dụng chữ Hán “cù” thay cho “Âu” để tránh nhầm lẫn.”(49) Giả thuyết này có hai điểm yếu:
1. Chứng minh “Cù” là một cách đọc/ cách ghi âm khác của ngữ âm tiếng Việt Mường về chữ “Âu” là một cách lý giải khá hóc hiểm và kỳ khu.
2. Dùng một từ đồng âm, nhưng khác về tự dạng để “tránh nhầm lẫn” rằng nước “Âu Việt” của mình (Đinh Bộ Lĩnh) khác với nước “Âu Việt” thời cổ cũng là một giả thuyết khó có thể xảy ra nữa. Nếu đã đề cao truyền thống dân tộc thì dùng cả âm, cả chữ, cả nghĩa; chứ sao phải thay đổi phức tạp như vậy?
Ông cũng đưa ra một giả thuyết khác, rằng: “Cồ Đàm瞿曇là họ của Phật, dịch từ chữ Gautama trong tiếng Sanskrit. Phật giáo phát triển mạnh ở Việt Nam vào triều Đinh, lực lượng tăng lữ giữ vị trí quan trọng trong triều đình, ông có hướng cho rằng Đại Cồ Việt có lẽ nghĩa là “nước Việt - nước Phật giáo lớn. Ở đây, ta cũng nhắc đến chi tiết một trong năm Hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng có tên là Cồ Quốc 瞿國(Nước Phật)”(50). Chính giả thuyết này học giả J. de Francis(51) cũng đã từng đưa ra bởi ông này cũng cho rằng Phật giáo thời Đinh hẳn là quốc giáo. Nhân dây xin mượn lời của Nguyễn Lang để minh chứng: “Tiếp đến, Ðinh Tiên Hoàng dẹp 12 sứ quân, lập ra nước Ðại Cồ Việt độc lập. Mật Giáo và Thiền là hai hệ thống Phật giáo hưng thịnh nhất của thời đại. Chính trong thế kỷ này mà những trụ đá (sic) về Mật Tông được tạo dựng ở Hoa Lư. Chính trong thế kỷ này mà đạo Phật tích cực đóng góp vào việc dựng nước. Năm 971, vua Ðinh Tiên Hoàng định giai cấp cho tăng sĩ và ban chức tăng thống cho Ngô Chân Lưu của thiền phái Vô Ngôn Thông, cho ông hiệu Khuông Việt Thái Sư, chính thức nhận Phật giáo làm nguyên tắc chỉ đạo tâm linh cho chính sự. Cũng chính trong thế kỷ này mà vua Lê Ðại Hành mời thiền sư Pháp Thuận và thiền sư Vạn Hạnh của thiền phái Tỳ Ni Ða Lưu Chi làm cố vấn chính sự. Các thiền sư Khuông Việt, Pháp Thuận và Vạn Hạnh cũng đã tiếp tục giúp vua Lý Thái Tổ trong thế kỷ kế tiếp”(52).
Giả thuyết này của J. de Francis và Nguyễn Khắc Kham hoàn toàn hợp lý với những gì chúng ta biết từ trước đến này về nhà Đinh. Các di vật, các văn bản từ thời Đinh còn lại đến nay hầu như không còn gì ngoài mấy cột kinh tràng tại Hoa Lư. Di vật có chữ viết khai quật được khoảng 40 chiếc(53). Và nội dung được khắc trên đó, theo sự nghiên cứu của Hà Văn Tấn, đều là các văn bản trì chú của Mật Tông. Có thể đoán định rằng, Đại Cồ Việt tuy mới tách ra khỏi nước lớn, nhưng Phật giáo vẫn được coi như là một quốc giáo, y như nhà Đường trước đó. Điều này có thể thấy sự đồng nhất về phong cách kiến trúc giữa văn hóa Đại Cồ Việt và văn hóa Đường. Từ chùa Nhất Trụ (chùa Một Cột, tại Hoa Lư, Hà Nội), từ Tháp Nhạn (Nghệ An) đến các kinh tràng…, từ xu hướng ngôn ngữ, phong cách văn chương chữ Hán cho đến hệ kiến trúc thượng tầng. Có thể nói, sự đột khởi của văn hóa Đinh - Lý - Trần, sự xuất hiện đầu tiên và lập tức là đỉnh cao, chỉ có thể đặt trong bối cảnh văn hóa Đại Cồ Việt - Đại Việt kế thừa từ văn hóa đời Đường, trên nền tảng văn hóa Đường. Phật giáo chắc hẳn phải là quốc giáo vào thời Đinh. Cho nên, lấy họ Phật để đặt quốc hiệu là một giả thuyết rất có thể xảy ra trên thực tế.
IV. Khảo về chữ CỒ trong “Đại Cồ Việt”
4.1. Khảo về âm và nghĩa
Về âm đọc của chữ “”. Trung văn đại từ điển(54)ghi nhận chữ “” có 5 âm đọc như sau:
Quảng vận廣韻ghi cửu ngộ thiết (九遇切), Tập vận集韻và Vận hội韻會đều ghi câu ngộ thiết (遇切)âm cú ngộ 音句遇, khứ thanh, vậy chữ này được đọc là CỐ. Âm đọc này có 7 nét nghĩa.
Quảng vận廣韻ghi kỳ câu thiết (), Tập vận集韻và Vận hội韻會đều ghi quyền câu thiết (), âm cù ngu thiết (衢虞切) (bình thanh), vậy phương án đọc thứ haicó thể cho ta hai âm là CẦU, CÙ. Âm đọc này có 15 nét nghĩa.
Tập vận集韻ghi kí lực thiết (記力切), âm cứcchức (亟,職), nhập thanh, vậy chữ này có cách đọc thứ 3 là CỰC. Với nghĩa là vẻ buồn rười rượi (cực cực)
Ngoài ra, Trung văn đại từ điển còn đưa ra cách đọc khá đặc biệt nữa là CỦ (âm như chữ củ ). Với nghĩa là quy củ (đạo hiệt củ của Nho gia).
Theo các vận thư, chữ ” có thể đọc theo 5 âm: CỐ, CẦU, CÙ, CỰC, CỦ. Như thế, cứ theo mặt chữ mà đọc theo âm và theo nghĩa, ta sẽ có một bảng tổng hợp tất cả các khả năng có thể xảy ra trên lý thuyết cho các từ大瞿越. Cụ thể như sau: 1. ĐẠI CỐ VIỆT: Nước Việt lớn như bày nhạn tụ tập. 2. ĐẠI CỐ VIỆT: Nước Việt lớn có vẻ nhìn (hay tầm nhìn) như chim nhạn. 3. ĐẠI CỒ VIỆT: nước Việt lớn có ánh nhìn sợ hãi. 4. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn như chim sẻ quay đầu. 5. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn (nhưng) run sợ (trước Thiên triều) như ý kiến của Kỳ Quảng Mưu. 6. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn (biết) tiết kiệm. 7. ĐẠI CỐ VIỆT: nước Việt lớn sợ hãi. 8. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn có ánh mắt trừng trừng, láo liên(55). 9. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn vừa chạy vừa sợ hãi. 10. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (như) gai táo. 11. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn có cái mào trên đầu. 12. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (đẹp) như hoa bách hợp. 13. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (có) binh khí (như một giả thuyết khác của Nguyễn Anh Huy). 14. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn như ngã tư đường.15. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn, gầy gò. 16. ĐẠI CẦU/ CÙ VIỆT: nước Việt lớn (có nhiều) cỏ cù. 17. ĐẠI CỤ VIỆT: nước Việt lớn buồn bã như khi đang có tang. 18. ĐẠI CỦ VIỆT: nước Việt lớn có quy củ. (18 cách dịch này chưa kể đến mối quan hệ ngữ pháp của chữ ĐẠI trong cả ngữ danh từ, cũng chưa kể đến 5 cách dùng của chữ CÙ để ghi danh từ riêng.)
Chỉ xét trên tiêu chí NGỮ NGHĨA, thì ai cũng thấy các tác giả khi coi CỒ là một từ Hán đều thực hiện thao tác chọn nghĩa của từ này thông qua tra cứu từ điển, xem nghĩa nào “hợp” nhất. Tiêu chí của sự hợp lý ấy là nghĩa phải đẹp, mang tầm vóc của quốc gia, thể hiện tâm tư, ý hướng, khát vọng của cả dân tộc. Giả thiết của Kì Quảng Mưu khó chấp nhận được cũng bởi vì không thể xảy ra xét trên hai tiêu chí âm và nghĩa, nhất là sự suy luận về nghĩa của ông lại ảnh hưởng theo nhãn quan của con dân nước lớn. Giả thuyết của Lê Văn Siêu (1964) coi“” thông với chữ “”, rằng: “Đại Cồ Việt có nghĩa là nước Việt rộng lớn trông suốt cả bốn cõi hay tám cõi (bát hoang) theo lối hiểu ngày xưa, ấy là cái cao vọng của người không những muốn thống trị mà còn muốn bành trướng thế lực ra tám cõi nữa(56). Hiểu như Lê Văn Siêu thì cũng theo tinh thần dân tộc mà suy diễn. Nói như ngôn ngữ mà học sinh Việt Nam hiện nay được dạy thì Đinh Bộ Lĩnh đặt tên nước là Đại Cù Việt vì ông đã nhìn thấy mảnh đất này nằm ở “ngã tư đường giao thông quốc tế”. Giả thuyết khác của Nguyễn Anh Huy cho CỒ nghĩa là loại binh khí cổ của nước Âu Lạc thì quả cũng chỉ là một cách “gồng mình” thay cho lịch sử. Có thể coi giả thuyết này là sản phẩm lãng mạn hóa bởi tinh thần chauvinisme theo trường phái Kim Định.
4.2. Vì sao âm CỒ không có trong vận thư từ điển Trung Hoa?
Chỉ xét riêng âm đọc thôi, tất cả các khả năng trên đây đều bị loại bỏ. Chữ ” chưa từng được các từ điển Trung Quốc ghi nhận cách đọc CỒ. Thế nhưng, không một ai trong các học giả trên bác bỏ âm đọc CỒ của chữ Hán, thay vào đó là công nhận CỒ chính thức hơn là âm đọc CÙ. Lý do tại sao? Bởi, ai cũng đọc theo cái “kí ức dân gian”, cái “trí nhớ dân gian” mà bài viết đã nhắc đến ở trên. Liệu hàng vạn lớp người của một dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử có thể đọc sai hay đọc nhầm quốc hiệu đầu tiên của mình? Liệu hàng trăm sử gia thời trung đại, liệu hàng ngàn nhà nho trong quá khứ đều đọc sai ba chữ này? Kể cả một số học giả gần đây đặt ra những giả thuyết lý thú đi thế nào chăng nữa thì cái âm CỒ vẫn là một dữ liệu bất biến, không thể thay đổi. CỒ là một hằng số. Mọi suy luận, mọi xét đoán đều phải dựa vào âm này. Thế mà cái âm đọc ấy lại không hề được ghi nhận theo các vận thư, từ điển Trung Hoa. Hẳn là có uẩn khúc gì ở đây?
Uẩn khúc ấy chính là chữ “” được dùng để phiên âm một âm tiết của tiếng Phạn, âm phiên này đã được đọc chệch đi so với âm Hán Việt của nó. Đây chính là điểm mà J. de Francis, Nguyễn Khắc Kham và An Chi(57) đã đề cập đến. Chữ “” với âm đọc CÙ đã được dùng để ghi âm “Go” hay “Gau” trong họ của đức Phật Gautama. Sự tương ứng thủy âm C/ G chắc không phải bàn luận nữa. Sự tương ứng giữa nguyên âm (phần vần của chữ) U với O hay AU cũng là hiển nhiên. Vì thế, cái âm CỒ hẳn là một hợp âm được hình thành trong quá trình dịch âm từ tiếng Phạn sang tiếng Hán rồi từ Hán sang tiếng Hán Việt. Âm CỒ hẳn là sản phẩm của Phật giáo đã được Việt hóa. Kiểm tra trong Từ điển Phật học Hán Việt thì thấy chữ “” dùng để ghi 23 từ có ÂM đọc là CỒ (có liên quan đến Phật) như: cồ dicồ chỉ lacồ đàm di,cồ đáp ma(58) và không một lần nào được dùng để ghi âm CÙ. Tuy nhiên, các học giả Trương Vĩnh Kí (1875)(59)L'Abbé Adr. Launay (1884)(60), Alfred Schreiner (1906)(61), Colonel E. Diguet (1908)(62), Pierre Rey(1913)(63) đều ghi nhận đọc là “CÙ”. Điều đáng nói ở đây là các học giả này đều là người nước ngoài, cho nên khi gặp phải một chữ Hán đã được Việt hóa khác đi, thì tất cả lại đều cứ theo vận thư từ điển mà phiên thành CÙ. Trương Vĩnh Ký tuy là người bản địa, nhưng lại là một sản phẩm hoàn hảo của Tây học, hoặc giả đó chỉlà một phút lơ đãng của học giả uyên bác này. Trái ngược lại, tất các học giả bản địa [trừ Gustave Dumoutier (1894)(64)] vẫn phiên là CỒ như Phan Kế Bính (1912)(65), Trần Trọng Kim (1919)(66), các học giả trong Hội Khai trí Tiến đức (1931)(67), Đào Duy Anh (1932)(68), Hà Văn Tấn (1960)(69), Tạ Quang Phát (1971), Trần Quốc Vượng (1960(70), 2000(71)), Vũ Văn Kính (2002)(72)… đó hẳn dựa trên sự “truyền thừa ký ức lịch sử” trong cộng đồng người Việt! Cho đến nay, các sách giáo khoa trên toàn quốc vẫn ghi ĐẠI CỒ VIỆT. Cho nên, mới nói cái “ký ức dân gian” đã truyền thừa âm đọc CỒ từ xưa cho đến tận ngày nay, cũng y như chữ(trong Lạc Việt) được đọc là lạc (mà không đọc là hạc theo vận thư). Đào Duy Anh cũng theo “ký ức dân gian” ấy mà đọc là CỒ, trong cuốn từ điển Hán Việt! Đọc chữ Hán theo âm Hán Việt Việt hóa là hiện tượng gặp rất nhiều trong Hán Việt tự điển của Thiều Chửu, cũng như các sách vở của những người cổ học mà tri thức được hình thành từ quá trình truyền thừa, theo lối học ông đồ xưa(73). Cho nên, có thể nhận định rằng âm CỒ là âm phổ thông của “” trong 大瞿越. Và CỒ (với âm đọc Việt hóa như vậy) rất có khả năng dùng để chỉ đức Đại Cồ Đàm.
4.3. CỒ - hiện tượng đơn tiết hóa
Tuy nhiên, giả thuyết coi CỒ là CỒ ĐÀM trước nay bị phản bác ở điểm, các từ điển Trung Hoa không ghi nhận “” đứng độc lập là một dạng viết tắt, hay rút gọn của Cồ Đàm. Nhưng có điều, xu hướng “đơn tiết hóa” các danh từ riêng trong tiếng Hán cũng như tiếng Việt (hai ngôn ngữ đơn lập đơn tiết) là một hiện thực ngôn ngữ thường gặp. Ví dụ hiển minh nhất cũng chính là BỤT và PHẬT, đều là hai chữ (phiên âm từ hai giai đoạn lịch sử khác nhau) rút gọn từ BỤT ĐÀ, PHẬT ĐÀ(74). Mà hai chữ này vốn là để ghi một trong mười danh hiệu của Phật, nguyên tiếng Sanskrit là Buddha(75). Một cứ liệu thực địa khác hiện tồn trong đời sống của người Việt, chùa Bổ Đà(một ngôi chùa tổ tương truyền nơi Phật xuất hiện, thuộc huyện Việt Yên, Bắc Giang) vẫn được nhân dân gọi tắt là chùa Bổ. Sư cụ Thích Quảng Luân trụ trì chùa trong suốt thế kỷ XX cũng được gọi tắt là cụ BỔ. Cũng cùng tỉnh Bắc Giang, chùa Đức La (còn gọi là chùa tổ Vĩnh Nghiêm, nơi trữ ván kinh cổ) cũng được mấy cánh xe ôm và các bà chạy chợ gọi tắt là chùa LA.
Đến như hai chữ “Thích Ca” vốn là “tên gọi tắt của Thích Ca Mâu Ni và Thích Ca Văn”(76) cũng được viết tắt một lần nữa thành THÍCH. Chúng tôi xin trích nguyên văn từ điển: “THÍCH: Sàkya. Cách gọi tắt của từ Thích Ca, tên gọi của đức Phật Thế tôn. Đạo Phật hồi mới truyền sang Trung Quốc, các tăng thường được gọi bằng họ thế tục của mình, hoặc lấy họ Trúc hoặc lấy họ của bậc sư phụ,… Đến ngài Đạo An, cao tăng đời Tấn mới bắt đầu nói: Đức Phật có họ Thích Ca, nay các Phật tử nên theo họ của đức Phật, tức họ Thích”(77). Không những thế, sự đơn tiết hóa còn tạo ra một họ khác nữa của người theo đạo Phật, đó là ĐÀM. Phật quang đại từ điển ghi: “Đàm… gọi đủ là Đàm Ma, dịch là Pháp, tức là chỉ cho phép của đức Phật… Tên các vị tăng Trung Quốc phần nhiều đặt chữ “Đàm” ở trước như Đàm Loan, Đàm Diệu, Đàm Ảnh…”(78). Có thể nói, việc đơn tiết hóa danh hiệu Phật là điều hết sức bình thường trong tiếng Hán và tiếng Việt.
4.4. Cứ liệu thành văn của chữ CỒ đơn tiết
Trong Hán văn, việc đơn tiết hóa danh hiệu hay họ Cồ Đàm cũng có cứ liệu văn bản. Bằng chứng là trong tuyển tập từ Lô Sơn quy lai tập (quyển bảy) được sáng tác vào đời Nam Tống (từ niên hiệu Kiến Viêm đến Đức Hựu) của tác giả Trương Nguyên Cán có lời từ như sau: 瞿老拈花經離亂,青山盡處,海角又天涯(79)“Cồ lão niêm hoa, kinh li loạn, thanh sơn tận xứ, hải giác hựu thiên nha” nghĩa là “lão Cồ tay nhắc nhành hoa, (ta) trải qua bao li tán loạn lạc, (giờ đang) ở nơi tận cùng núi biếc, góc bể mấy chân trời.” Rõ ràng là tác giả đã sử dụng điển “niêm hoa vi tiếu” trong nhà Phật. Và lão Cồ ở đây chính là Cồ Đàm, điều này An Chi cũng đã gợi ý(80).
Trong tiếng Việt, chứng tích đơn tiết hóa xưa nhất chính là đôi liên phú của vua Trần Nhân Tông trong Cư trần lạc đạo: Vâng ơn Thánh, xót mẹ cha, thờ thầy học đạo; Mến đức Cồ (勉德瞿), kiêng bùi ngọt, cầm giới ăn chay (hội 7, câu 99-100). Có thể coi, đây là tư liệu thành văn sớm nhất có xuất hiện chữ CỒ đơn tiết mà chúng ta biết được. Xét về nội dung triết học thì ai cũng thấy rõ chỉ sự đối ứng giữa Nho giáo và Phật giáo, giống như ở các liên phú sau: Đức Bụt từ bi, mong nhiều kiếp nguyền cho thân cận/ ơn Nghiêu rộng cả, lọt toàn thân phô việc đã xa (hội 5, câu 61-62) hay Sách Dịch xem chơi, yêu tính lặng hơn yêu châu báu/ Kinh Nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim (hội 1, câu 13-14). Thánh (Khổng Tử) đối với Cồ (Phật), đức Bụt đối với ơn Nghiêu, sách Dịch đối với kinh Nhàn. Xét về thanh luật thì âm CÙ (bằng) sẽ là sự lựa chọn duy nhất để đối với THÁNH, chứ không thể dùng các âm trắc như: Bụt, Phật, Thích được. Mặt khác, trong Cư trần lạc đạo chữ “Phật” (đơn tiết) xuất hiện 2 lần tại câu 47, 48; chữ “Bụt”(đơn tiết) xuất hiện 9 lần tại các câu 33, 53, 55, 56, 61, 89, 93, 113, 116; chữ “Thích ca” dùng 1 lần tại câu 51. Nếu dựa trên cách tính định lượng như trên, sẽ thấy Cư trần lạc đạo dùng nhiều danh hiệu để chỉ Phật, trong đó Bụt là nhiều nhất. Từ số liệu trên đây, ta có thể đi đến một kết luận: thời Trần, âm Bụt (âm cổ Hán Việt của Phật) vẫn đang phổ dụng hơn cả. Các âm còn lại được dùng song song để chỉ Phật, nhưng ít hơn. Chữ CỒ trong “mến đức Cồ” dĩ nhiên không mang nghĩa là “to” (như đã nêu ở trên) mà để chỉ họ đức Cồ Đàm hay rộng hơn là chỉ Phật.
Không ngờ CỒ là từ chỉ Phật, Đào Duy Anh chú giải lầm khi coi CỒ là từ cổ với nghĩa là “lớn”(81), từ đó dẫn đến sự đồng thuận của hàng loạt các học giả từ thế kỷ XX đến nay. Một số từ điển chữ Nôm và từ cổ được biên soạn gần đây, vì dùng lại bản phiên của Đào Duy Anh nên đều công nhận CỒ trong “mến đức cồ” là một từ cổ, như Tự điển chữ Nôm (Viện NC Hán Nôm, 2006, tr.199), Từ điển từ cổ của Vương Lộc (2001, Tr.37). Từ điển Tự điển Việt- Hoa- Pháp của G.Hue (1937) xác nhận CỒ là từ để chỉ Phật ở nét nghĩa thứ hai; nhưng ở nét nghĩa thứ nhất lại ghi CỒ VIỆT (nước Việt lớn) là quốc hiệu thời Đinh Tiên Hoàng(82), nay có thể cải chính, nhập vào thành một mục từ. Sở dĩ, từ điển này ghi nhận CỒ VIỆT vì tác giả đã tiếp thu mục từ(83) này từ cuốn từ điển của hội Khai trí Tiến đức(84) trước đó 6 năm, còn từ điển này lại lấy ngữ liệu từ một tác phẩm văn vần nào đó, nhưng lại không thấy trích dẫn nguyên văn. Có thể nhận định CỒ VIỆT ở đây là cách gọi tắt của ĐẠI CỒ VIỆT mà thôi, đây là lỗi của nhà làm từ điển. Duy có từ điển của Trương Đình Tín và Lê Quý Ngưu công nhận CỒ trong câu này là chỉ Đức Phật(85). Những người chua đúng chữ này là Hoàng Xuân Hãn(86) và Lê Mạnh Thát trong Trần Nhân Tông toàn tập(87).
Ngay trong dân gian cũng có câu thành ngữ "Lù khù có ông Cù độ mạng" hay “Lù đù có ông Cù hộ mạng”. Từ điển thành ngữ tục ngữ ca dao Việt Nam của Việt Chương chua rằng: “ông Cù: ông Bụt, hay ông Phật. Người dại khờ dốt nát có khi lại được trời Phật độ trì”(88). Nếu thử một thao tác enter qua google sẽ được 42 trang mạng có câu này, hẳn đây là câu khá phổ dụng. Có thể nói, từ đời Trần đến nay, Cù/ Cồ vẫn được dùng độc lập để chỉ Phật. Tất nhiên, nó được dùng hạn chế hơn rất nhiều so với các từ “Bụt”, “Phật” và “Thích”(89). Nhưng âm Cồ là âm phổ thông trên toàn quốc. Còn âm CÙ chỉ xuất hiện một lần qua câu tục ngữ trên. Song, thế cũng đủ cho thấy, CÙ/ CỒ là dạng đơn tiết hóa của Cù Đàm/ Cồ Đàm mà thôi.
4.5. Các cứ liệu khác
Về địa danh, Trung Quốc hiện có đảo gọi là大瞿岛. Đảo này là điểm du lịch khá đẹp. Tương truyền đây cũng là nơi Phật xuất hiện. Hiện trên đảo, các di tích Phật giáo vẫn còn nguyên vẹn(90). Ngoài ra, nước này còn có một ngọn núi là 大瞿山. Đây được coi là một miền đất phúc. Chuyện kể, khi Quan Thế Âm Bồ Tát đi về Nam để tìm nơi tu hành, Người đã dừng lại ở đây. Nhưng, hắc ngưu quái (vốn ở đây đã lâu) sợ Người chiếm mất đất bèn cho một làn xú khí bốc lên khắp trời. Quan Thế Âm thấy đất tuđã bị làm cho ô uế bèn đánh hắc ngưu lui xuống biển. Từ đó, mặt nam của núi này lưu lại một bức tượng hóa thân của Bồ Tát gọi là Đại Cù Thạch Phật, còn người lại tiếp tục xuống phía nam(91). Có thể thấy về kết cấu của các địa danh này như sau: ĐẠI CÙ + danh từ chỉ địa điểm, cụ thể: Đại Cù + Đảo; Đại Cù + Sơn. ĐẠI CÙ VIỆT là một ngữ danh từ hẳn cũng được xây dựng trên cấu trúc danh từ như vậy. Chữ “đại” chỉ là một từ tán mĩ mà thôi. Đại Cù cũng là dạng viết tắt của Đại Cù Đàm.
Mặt khác nữa, sử sách hay truyền thuyết luôn có xu hướng Phật thoại hóa các nhân vật lịch sử. Hình ảnh bà mẹ Phật giáo có lẽ là hình ảnh nguyên sơ nhất trong giai đoạn này. Bà mẹ Thánh Gióng mang thai sau khi ướm vào vết chân khổng lồ, thực chất là ướm vào Phật Tích. Thánh Gióng biến thành khổng lồ để giết giặc chính là một hình ảnh khác (hóa thân, biến hiện) của Phật mà hệ kinh Agama thường nhắc đến. Mẹ Man Nương hoài thai với Khâu Đà La để sinh ra tứ pháp. Cho nên, bà Phạm thị thực chất vẫn là một bà mẹ Phật giáo và mang họ của Phật, bà giao hợp với thần rồi thụ thai ở trong chùa Tiêu Sơn (Bắc Ninh) để sau đó sinh ra Lý Công Uẩn. Bà Đặng thị (mẹ của Lê Hoàn) mơ thấy bụng nở ra hoa sen rồi hoài thai, nên Lê Hoàn cũng chính là Phật tử (con Phật). Từ đó, có thể phán đoán rằng, bà mẹ của Đinh Bộ Lĩnh - bà Đàm thị cũng là một bà mẹ Phật giáo. Nhà Đinh Bộ Lĩnh chắc hẳn cũng ở một trung tâm Phật giáo thời đó tên là Đàm Gia. Vũng Đàm Gia(92) chính là nơi đôi rồng vàngxuất hiện che cho Đinh Bộ Lĩnh khi lâm nguy. Sự việc này cũng giống như việc xuất hiện con chó sắc trắng, có đốm lông đen hình hai chữ “Thiên tử” làm điềm báo sau này Lý Công Uẩn sẽ lên ngôi Hoàng đế, địa điểm không ở đâu khác lại ở viện Cảm Tuyền chùa Ứng Thiên Tâm (châu Cổ Pháp). Có thể nói việc dùng những hình ảnh thần bí của Phật giáo đề thần hóa vương quyền là một đặc điểm của giai đoạn Đinh, Tiền Lê, Lý. Việc bà mẹ Đinh Bộ Lĩnh mang họ Đàm, họ của Phật chứng minh ba điểm: 1. Phật giáo hẳn là tôn giáo quan trọng của tôn thất hoàng tộc(93); 2. Phật giáo luôn có một đời sống bền chắc trong đời sống tinh thần của người phụ nữ Việt từ thời Đinh cho đến nay; 3. Họ Đàm cũng là một dạng đơn tiết hóa danh hiệu Phật (như Thích, Cồ, Bụt, Phật, Phạm).
Thêm nữa, Đinh Liễn dựng 200 kinh tràng trong hai đợt để cầu siêu cho Thái tử Hạng Lang. Đó hẳn là những đại lễ vào thời đó. Người chủ đàn có lẽ chính là sư Khuông Việt. Chữ “khuông” vốn viết tắt từ “khuông cứu”, cũng là một từ của nhà Phật nhưng với tinh thần nhập thế. Cho nên, tên Đinh Liễn được ghi trên các kinh tràng này còn được gia thêm tên đệm là “khuông” để biểu thị sự tôn kính, hay là kí hiệu đánh dấu cho một Phật tử. Nhìn ở khía cạnh loại hình nhân vật lịch sử trong giai đoạn đầu tự chủ, mô hình quan trọng nhất của trí thức là tăng quan. Các vị sư vừa là thày của vua, là người cố vấn, người nắm giữ những vị trí chủ chốt nhất, thực hiện những hành vi chính trị quan trọng nhất (như việc tiếp sứ, cố vấn chính trị). Và hơn hết, tăng quan chính là người nắm giữ đời sống tinh thần và kiến trúc thượng tầng của toàn xã hội.
Đến đây, có thể nhận định rằng chữ “” trong quốc hiệu đầu tiên của nước ta rất có thể đã được đọc bằng âm CỒ với nghĩa là chỉ Phật giáo. Đinh Tiên Hoàng không đặt tên nước là Đại Việt là để tránh trùng tên với một nước Đại Việt khác (trong số rất nhiều quốc gia tranh thủ nổi dậy ở phương Nam khi thiên triều có loạn) vừa mới bị tiêu diệt khi ông còn đang tại thế. Nhà vua vẫn gắng để lại chữ “Việt” để tưởng đến nguồn gốc phương Nam ban đầu của mình, điều này chưa thể phủ nhận được. Nhưng, việc đặt tên nước mang ý nghĩa của Phật giáo hẳn là một điều có thể chấp nhận được với những chứng cứ khảo cổ học(94) hiện còn, thêm vào đó có sự ủng hộ của hệ thống văn bản lịch sử với tự dạng khá nhất quán về ba chữ Đại Cồ Việt. Lĩnh Nam trích quái(95) chép Đinh Tiên Hoàng còn có hiệu là Cồ Thành(96). Có thể coi đây là tư liệu bổ sung làm bàng chứng. Với những chứng lý như đã nêu, tạm có thể nhận định rằng ĐẠI CỒ VIỆT nghĩa là NƯỚC VIỆT - NƯỚC PHẬT GIÁO (của đức ĐẠI CỒ ĐÀM), như Nguyễn Khắc Kham, J. de Francis, và học giả An Chi(97) đã phát biểu. Dẫu sao, đây vẫn chưa phải là kết quả cuối cùng bởi những gì đào được từ lòng đất có thể sẽ đưa ra những thực tế mà chúng ta ít ngờ tới(98). Bởi lịch sử là cái được vẽ nên từ những gì còn sót lại.

Chú thích:
(1Đại Việt sử ký toàn thư. (bản khắc năm Chính Hòa - 1698). Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích) Tập 1, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.270. Điều này có nghĩa là khi dời đô từHoa Lư ra Thăng Long, nước vẫn mang quốc hiệu là Đại Cồ Việt.
(2Lê Dư: Chữ Nôm với Quốc ngữNam Phong. Số 172, tháng 5/1932, tr.495-498.
(3Bửu Cầm: Nguồn gốc chữ NômVăn hoá nguyệt san 50/1960, tr.347-355.
Bửu Cầm. (?)Dẫn nhập nghiên cứu chữ Nôm. Tài liệu học tập giành riêng cho chứng chỉ Việt Hán, Văn chương Quốc âm và Ngữ học Việt Nam. Đại học Văn Khoa Sài Gòn. (in roneo), tr.09.
(4Trần Văn Giáp: Lược khảo về nguồn gốc chữ NômNghiên cứu lịch sử 127/1969, tr.8.
(5Hoàng Thúc Trâm: Góp ý với ông bạn Trần Văn Giáp về bài ‘Nguồn gốc chữ Nôm’Nghiên cứu lịch sử 140/1971, tr.57-62.
(6Lê Văn Quán: Nghiên cứu về chữ Nôm. Nxb. KHXH, H. 1981.
Lê Văn Quán: Nguồn văn hóa truyền thống Việt Nam. Nxb. Lao động, H. 2007, tr.243.
Chuyển dẫn theo Kỳ Quảng Mưu, chú 2: 黎文貫。1982.《喃字出現時期初探》。王金地譯。《印支研究》1982年第四期。
(7Trần Quốc Vượng: Nghìn xưa văn hiến, Nxb. Hà Nội, H. 2000, tr.172.
(8Đào Duy Anh: Chữ Nôm - Nguồn gốc, cấu tạo, diễn biến. Nxb. KHXH, H. 1975, tr.26.
(9Alexandro De Rhodes. 1651. Dictionarivm Annamiticivm - Lusitanvm - Latinvm.Sacre Congragationis de Propagada fide Cardinales. ROME. (Từ điển Việt - Bồ - La). Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt và Đỗ Quang Chính phiên dịch. Nxb. KHXH, H. 1994, tr.64.
Pierre Pegneaux de Béhaine (Bá Đa Lộc Bỉ Nhu) 1772 - 1773. 1999 (tb). Dictionarium Anamitico Latinum 1772 - 1773 (Tự vị An nam La tinh), Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên dịch và giới thiệu, Nxb. Trẻ, Tp. HCM, tr.92.
L.J. Taberd. Dictionarium Anamitico - Latinum (南越洋合字彙Nam Việt Dương hiệp tự vị), Sesampore. 1838, tr.26
Joseph Monrrone. Lexicon Cochin-sinense LatinnumPhiladenphia. 1838, tr.243.
Huỳnh Tịnh Paulus Của. 1895-1896. “大南國音字彙 Đại Nam quấc âm tự vị, Saigon Imprimerie REY, CURIOL & Cie, 4, rue d’Adran, 4, Nxb. Trẻ. Tp HCM, 1998 (scan theo ấn bản 1895-1896), tr.177.
J.F.M. Génibrel. Dictionnaire Annamite - Français (大越國音漢字法釋集成 Đại Việt quốc âm Hán tự Pháp thích tập thành), Saigon Imprimerie de la mission à Tân Định,1898, tr.78.
Việt Nam tự điển, Hội Khai trí Tiến đức, HANOI Imprimerie Trung - Bac Tan - Van. Mặc Lâm xuất bản, 1931, tr.88.
Từ điển tiếng Việt. Văn Tân (chủ biên), Nxb. KHXH, H. 1967, 1977 (tb lần 2). tr.325.
Từ điển đối chiếu từ địa phương. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nxb. Giáo dục. H.2001, tr.202.
Bùi Minh Đức: Từ điển tiếng Huế. TT Nghiên cứu Quốc học & Nxb. Văn học, Tp. HCM. 2004, tr.373, tr.995.
Đại từ điển tiếng Việt. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Nxb. Đại học Quốc gia Hồ Chí Minh. HCM. 2008, tr.587.
Vietlex: Từ điển tiếng Việt. Nxb. Đà Nẵng, 2008, tr.574.
Từ đây chữ “nhấn mạnh” viết tắt là nhm.
(10An Chi: Kiến thức ngày nay số 599 ra ngày 1/4/2007, mục Chuyện Đông chuyện Tây, dẫn theo Nguyễn Anh Huy. 2009b. bdd. Có thể thấy rằng, với giả thuyết này, An Chi đã từ bỏ cách giải thích trước đó 7 năm của chính ông, coi cồ chỉ là âm Hán Việt xưa của chữ cự (to lớn). [xin xem Kiến thức Ngày nay số 353, ngày 01-06-2000; chuyển dẫn theo An Chi. Chuyện Đông Chuyện Tây. Nxb. Trẻ. Tp. HCM. tr.205-206].
(11Nguyễn Thị Trang: Bước đầu tìm hiểu hệ thống chữ Nôm ghi tên hiệu các vị thành hoàng làng. Trong Nghiên cứu chữ Nôm, Kỷ yếu hội nghị Quốc tế chữ Nôm 2004. Nxb. KHXH, H. 2004, tr.238.
(12Keith Weller Taylor:The Birth of Vietnam. Berkeley. University of California Press. 1984, tr.281.
Keith Weller Taylor: The Twelve Lords in tenth Century Vietnam. Juarnal of Southeast Asian Studies 14, 1 (3/1983) [chuyển dẫn theo Keith Weller Taylor. 2001. Quyền uy và tính chân chính ở Việt Nam thế kỷ thứ XI. Trong Những vấn đề lịch sử Việt Nam. Nguyệt san Xưa & Nay, Nxb. Trẻ,tr.63-104.]
(13) 羅長山。1992 .“古壯字與字喃比較研究。東南亞縱橫年第三期
(14Nguyễn Quang Hồng. 2009. sdd.
(15Lê Tắc: An Nam chí lược. Nxb. Thuận Hóa & TT văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, H. 2002, tr.87.
(16Đại Việt sử ký toàn thư. Đinh Tiên Hoàng kỷ.
(17Khuyết danh. Đại Việt sử lược. (Nguyễn Gia Tường dịch). Nxb. Tp Hồ Chí Minh, 1993, tr.26.
(18Lê Tắc. sdd. tr.78.
宋史。《中華書局》。卷488. 14058頁。
顧祖禹。《讀史方輿紀要》。中華書局。卷112. 4988 頁。
(19Khuyết danh. Đại Việt sử lược, 1993, tr.27.
(20Lê Tắc. 2002. An Nam chí lược. Nxb. Thuận Hóa & TT văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. H. Tr.87.
(21Nguyễn Anh Huy. 2009b. Luận về quốc hiệu CỒ VIỆThttp://khoahoc.net
(22Đến đây cũng nên nhắc đến giả thuyết của Hoàng Xuân Hãn, khi ông cũng coi Cồ là một chữ Nôm: “Lần thứ hai trong quốc sử thấy chữ mượn âm là quốc hiệu đời Đinh: Đại Cồ Việt, chữ Cồ chắc là từ Việt, người ta thường hiểu là lớn. Nhưng ý “lớn” đã chứa trong chữ ĐẠI rồi. So sánh với những âm CÁ, CỔ, CỰ, KHẢ, KẺ thì thấy ý nghĩa âm CỒ là XỨ có lẽ hợp lý hơn.Hng Xuân Hãn.1978. Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần -Lê: Phái thiền Trúc Lâm Yên T. KHXH (Paris) 5-7 (1978-1980). tb 1998. Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần - Lê, trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn. Nxb. Giáo dục, t3, tr.1092, chú 8.
(23Nguyễn Anh Huy: “Đại Cồ Việt” hay “Cồ Việt”http://www.tuoitre.com.vn, 2009a; Nguyễn Anh Huy. Luận về quốc hiệu CỒ VIỆThttp://khoahoc.net, 2009b.
(24Điều này, Hoàng Xuân Hãn, Kỳ Quảng Mưu và An Chi đã nhắc đến.
(25Nguyễn Anh Huy. 2009a. bdd.
(26Cụ thể các tiêu chí và sự hình thành chữ Nôm (nhất là sự xuất hiện của các chữ Nôm hình thanh) xin xem Nguyễn Quang Hồng. Khái luận văn tự học chữ Nôm. Nxb. Giáo dục, H. 2009.
(27Lạc khoản: "Tự Đức Giáp Tý. Thị giảng học sĩ Phượng Trì Vũ Phạm Khải Đông Dương bái thư". Phượng Trì Vũ Phạm Khải (1807-1872), ông tự là Đông Dương , người xã Thiên Trì, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Vũ Phạm Khải thi đỗ Cử nhân năm Tân Mão, niên hiệu Minh Mệnh thứ 12 (1831) đời vua Nguyễn Thánh Tổ. Ông giữ các chức quan, như: Lễ khoa cấp sự trung, Hàn lâm trực Học sĩ, Sử quán Toản tu, Thị lang, rồi thăng Bố chính Thái Nguyên, Thị độc Học sĩ. [Trịnh Khắc Mạnh: Tên tự tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam. Nxb. KHXH. H. 2006, tr.327] Như thế, Vũ Phạm Khải là người soạn và người viết chữ cho đôi câu đối này.
(28Lạc khoản: "Bảo Đại Đinh Mão xuân niên. Trường Yên Trung xã lão Nguyễn Đại Đồng giai nam cựu Chánh hương hội Nguyễn Phú Cường cúng tiến.Nghĩa là: mùa xuân năm Đinh Mão niên hiệu Bảo Đại, lão Nguyễn Đại Đồng tại xã Trường Yên Trung cùng con trai Nguyễn Phú Cường vốn là Chánh hương hội cúng tiến.
(30Phạm Thị Nghĩa Vân: Di văn Hán Nôm tại Hoa LưThông báo Hán Nôm học 2005. Nxb. KHXH, H. 2006, tr.666.
(31Thiên Nam ngữ lục. Nguyễn Thị Lâm Khảo cứu, phiên âm, chú giải. Nxb. Văn học & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, H. 2001. Bản Nôm gốc天南語錄外紀ký hiệu AB.478 1/2 (Viện Nghiên cứu Hán Nôm).
(32Về sử liệu, có 4 tấm bia tại đền thờ Đinh Tiên Hoàng: 1. Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế miếu công đức kí tịnh minh, khắc năm Hoằng Định thứ 9 (1608); 2. Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế miếu công đức tăng tu điện miếu bi kí, khắc năm Chính Hòa thứ 17 (1696); 3. Tiền triều Đinh Tiên Hoàng đế miếu công đức bi kí, khắc năm Thiệu Trị thứ 3 (1843); 4. Trùng tu tạo tác, không rõ niên đại. Chúng tôi đã khảo sát, cả 4 bia này đều không có dòng nào ghi lại quốc hiệu Đại Cồ Việt.
(33Nguyễn Trãi. XV. Dư địa chíTrong Ức Trai di tập, khắc in 1868. Phúc Khê tàng bản. Trang nguyên bản 4a. Theo Nguyễn Trãi toàn tập tân biên. Tập 2. Phần Dư địa chí (Phan Duy Tiếp dịch, Hà Văn Tấn hiệu đính chú thích. Nxb. Văn học & TT Nghiên cứu quốc học. H. 2001, tr.456. Bản dịch của Phan Duy Tiếp được in lần đầu năm 1967, do Viện Sử học xuất bản, sau Nxb Khoa học Xã hội tái bản năm 1976. Ngòai ra, Dư địa chí còn được Á Nam Trần Tuấn Khải dịch, in trong Văn hóa tùng thư của Tổng bộ Văn hóa Xã hội - Nxb Sài Gòn. Ấy là chưa kể đến 5 bản Hán văn của sách này hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm lần lượt mang tên Ức Trai di tập - Nam Việt dư địa chí A.2815; Đại Việt dư địa chí A.1900; Nam quốc Vũ cống A.830; An Nam Vũ cống A.2251; Lê triều cống pháp A.53. Thú vị là ở chỗ, đây đều là 5 bản chép tay. Chép tay là loại văn bản độc bản (handmade) của một cá nhân nào đó. 5 bản chép tay sẽ có giá trị khác với 5 bản in từ một ván khắc, đây là mặt mạnh nhất của các thể loại văn bản này mà ít người để ý tới. 5 bản in từ một ván khắc sẽ được đồng nhất bằng 1 bản. nhưng 5 bản chép tay sẽ được coi là 5 bản.
(34Đại Việt sử ký toàn thư (khắc in năm Chính Hòa thứ 18-1698). Ngô Đức Thọ (dịch và chú thích) Nxb. KHXH, H. 1998. tr.211. Nguyên bản: ĐVSKTT. Q1. Kỷ nhà Đinh. Tiên Hoàng đế, tr.2b.
(35Nguyễn Thị Lâm (phiên chú). sdd.
(36Quốc sử quán triều Tây Sơn. 1800 (khắc in). Đại Việt sử ký tiền biên. Dương Thị The (tổ chức dịch chú). Nxb. KHXH, H. 1997. tr.153. Nguyên bản in kèm: ĐVSKTB. Bản kỉ, Q1. Tr.2a-2b.
(37Quốc sử quán triều Tây Sơn. 1800 (khắc in). 大越史記捷錄總序Đại Việt sử ký tiệp lục tổng tự. Đây là bài Tổng luận được viết bằng hai thứ văn tự: Chữ Hán và chữ Nôm. Phần chữ Hán là nguyên văn; phần chữ Nôm là dịch chú của tác giả, đúng như câu "dịch chú Quốc âm để tiện xem chung" đã ghi ở cuối bài Tổng tự. Bản khắc in do Quốc sử quán của triều Tây Sơn, Tổng tài là Ngô Thì Nhậm.[Xem thêm Hoàng Văn Lâu. Đại Việt sử ký tiệp lục Tổng tự - Một bài tổng luận lịch sử đáng chú ý của Quốc sử quán triều Tây SơnTạp chí Hán Nôm số 01/2001]Kí hiệu A.1180, tr.7b.
(38Phan Thanh Giản (tổng tài). Khâm định Việt sử thông giám cương mục - Chính biên - Quyển thứ I, 1881.
(39Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái: XIX. Đại Nam quốc sử diễn ca, Hoàng Xuân Hãn (phiên chú), trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn (t2), Nxb. Giáo Dục, H. tr.115.
(40Đặng Xuân Bảng (1828-1910): Việt sử cương mục tiết yếu. Hoàng Văn Lâu (dịch và chú giải), Nxb. KHXH, H. 2000, tr.63. Nguyên bản tr.40.
(41Nguyễn Văn Mại (1853-1945). XIX. Việt Nam phong sử越南封史. (chép tay). Tạ Quang Phát dịch. Nxb. Lao động, H. tr.68.Kí hiệu AB.320.
(42Hồng Nhung và Hồng Thiết. 1926. Việt sử diễn nghĩa tứ tự ca. (Nguyễn Văn Sâm & Nguyễn Hữu Vinh phiên chú). www.trangnhahoaihuong.com
(43Hoàng Cao Khải. 1914 (khắc in). Việt sử yếu越史要. tr.44a; Hồng Liên Lê Xuân Giáo dịch. UB Dịch thuật. Sài Gòn 1971, tr.135.
(44Theo Nguyễn Anh Huy, bdd. www.khoahoc.net 2009a.
(45Hà Văn Tấn: Chữ trên đá, chữ trên đồng, minh văn và lịch sửNxb. KHXH, H. 2002, 212 tr.
(46Kỳ Quảng Mưu祁廣謀。"《大越》國名釋兼及吳真流《王郎歸》的語義分析。《東南亞縱橫》。2000.
(47Kỳ Quảng Mưu. 2000, bdd. tr.37.
(48Nguyễn Khắc Kham. Chữ Nôm or the Former Vietnamese Script and Its Past Contributions to Vietnamese Literature, Area and Culture Studies 24, Tokyo University of Foreign Studies 1974. Ông viết: “Đến khi chữ Nôm được đặc biệt quan tâm [nghiên cứu], thì cách dùng quan phương của hai chữ Nôm Bố  và Cái ở thế kỉ VIII cũng như chữ Cồ ở thế kỉ X là những dấu hiệu chắc chắn chứng tỏ một số chữ Nôm đã được người Việt đề xuất muộn nhất là từ thế kỉ VIII đến thế kỉ X. Ngoài những chữ Nôm như Bố, Cái, Cồ, những chữ khác có thể đã được tạo ra trong cùng khoảng thời gian ấy bằng cách sử dụng mặt âm hoặc mặt nghĩa của chữ Hán.” [Nguyễn Tuấn Cường dịch. Tạp chí Hán Nôm số 2, 2006. GS. NKK còn 2 bài viết nữa là: “Ðại - Cồ Việt Revisited”, Vietnam Culture, Journal for the Advancement of the Arts and Humanities of Vietnam. New York, Vol.4, Number 4, Winter 1985, pp. 162-170; Đại Cồ - Việt Revisited (A revised Version )”, The Journal Insitute of Asian Studies, No. 10. March 1989, Sōka University, Tokyo, pp.17-47, Reprinted in Đại - Học. A Journal of Vietnamese Studies and Highter Learning, Mission Viejo, California, July 1991, pp. 125-153. Nhưng hiện nay chúng tôi chưa tìm được bài viết này của ông.
(49Nguyễn Khắc Kham: Word Corruption in Vietnamese under Chinese and French Rule. Lecture at the Center for Vietnamese Studies, Southern Illinois University, Carbondale, Illinois. 1978September 25. [Dẫn theo Nguyễn Đình Hòa. 1990. Graphemic Borrowings from Chinese: the Case of Chữ Nôm - Vietnamese’s Demotic ScriptThe Bulletin of the Institute of History and Philology. Academia Sinica. Vol. LXI, Part II. Taipei, Taiwan,China. pg. 392].
(50Nguyễn Khắc Kham: Personal Communication. 1978. [Dẫn theo Nguyễn Đình Hòa. 1990, bdd, tr.392].
(51Theo Diễn đàn Viện Việt học,www.viethoc.org/forum. Hiện chúng tôi chưa tìm được chuyên luận này. Nhưng có lẽ đó là cuốn De Francis, John. 1977. Colloialism and Language Policy in Vietnam. The Hague: Mouton. Hawail, 293 tr.
(52Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận. Nxb. Văn Học. H. 1979.
(53Chu Minh Khôi: Thạch kinh cổ nhất Việt Namhttp://vietbao.vn/Van-hoa/Thach-kinh-co-nhat-Viet-Nam/65052168/181/. 2008. Đáng tiếc bài viết không hiểu thuật ngữ “kinh tràng” của Phật giáo, nên viết theo Đặng Công Nga là “Những cột kinh Phật thời Đinh - Lê ở Ninh Bình là những thạch kinh cổ nhất Việt Nam . Chúng có giá trị vô cùng to lớn đối với nghiên cứu lịch sử nước nhà, giúp làm sáng tỏ giai đoạn lịch sử quan trọng nửa cuối thế kỷ thứ X". Cái sai này bắt nguồn từ việc Hà Văn Tấn dùng không thống nhất thuật ngữ, cùng 1 bài mà ông dùng cột kinh, cột đá, trụ đá, kinh tràng…, trong đó từ “cột kinh” được dùng chính thức trên nhan đề các bài nghiên cứu. Ông Đặng Công Nga không đọc kĩ bài của Hà Văn Tấn nên lại “thuật ngữ hóa” sang tiếng Hán thành “thạch kinh”. Hiện vật này thực tế không phải là “kinh” (sách) mà là TRÀNG (một loại pháp khí trì chú của Mật tông) trên có chép mấy lời kinh để tụng mà thôi. Cụ thể chúng tôi xin đề cập đến trong một dịp khác.
(54)中文大辭典(Q.25/42). Trung văn đại từ điển. Lâm Doãn林尹& Cao Minh高明 (chủ biên), Trung Quốc văn hóa nghiên cứu sở ấn hành 中國文化研究所印行& Hoa Cương văn hóa thư cục 華岡文化書. tr.10014-10015. Cũng xem thêm徐中舒主编:汉语大字典1986-1990年第一版tr.2520. Vương Lực(chủ biên). Cổ Hán ngữ tự điển, Trung Hoa thư cục, 2000, tr.798-799.
(55“Lê Văn Siêu vào năm 1964 đã từng có một cách hiểu khác về quốc hiệu nhà Đinh nhưng ở phần chú giải, tác giả tỏ ra thiếu chính xác: Khang Hy tự điển không có chú âm nào là Cồ hay Cộ mà chỉ có CÙ, CỤ, CÂU, về nghĩa thì " Trừng thị " là trợn mắt trông thẳng chứ không phải là một chỗ trông thẳng” [Lê Văn Siêu: Việt Nam văn minh sử cương - Văn minh Đại Việt. Nxb. Thanh Niên. 1960, Tb 2004.]
(56Lê Văn Siêu. sdd. Nxb. Thanh Niên. 2004 tb. tr.55. Ủng hộ thuyết này còn có Phạm Văn Bân trong bài Bất Túc Trưng Tập của Minh Di [theo www.viethoc.org/forum].
(57“Trong kinh Phật, khi thấy mấy chữ Cồ lão (ông Già Cồ) hoặc Cồ thị (họ Cồ) thì ta phải hiểu rằng đó là Đức Phật Thích Ca. Phải, CỒ LÀ HỌ CỦA ĐỨC THÍCH CA, mà hình thức đầy đủ là Cồ Đàm... CỒ VIỆT CHẲNG QUA LÀ NƯỚC VIỆT THEO ĐẠO PHẬT... chứ chẳng phải là “nước Việt to bự”... gì cả” [An Chi. 2007. Kiến thức ngày nay số 599 ra ngày 1/4/2007, mục Chuyện Đông chuyện Tây, dẫn theo Nguyễn Anh Huy. 2009b. bdd.]
(58Từ điển Phật học Hán Việt. Kim Cương Tử (chủ biên). Phân viện Nghiên cứu Phật học xuất bản. H. 1992.
(59Trương Vĩnh Ký: Cours d' histoire annamite à l' usage des écoles de la Basse - Cochinchine. Saigon 1875
Trương Vĩnh Ký: Histoire Annamite. Saigon. 1876, Tr.67.
(60L'Abbé Adr. Launay. Histoire ancienne et moderne de l'Annam, Tong - king et Cochinchine. Paris 1884.
(61Alfred Schreiner: Abrégé de l'histoire d'Annam, Saigon 1906, tr.36.
(62Colonel E Diguet: Annam et Indo-Chine Francaise. Paris. 1908, tr.12.
(63Nhân đây xin gửi lời cảm ơn đến bác Đinh Tuấn và Nguyễn Vinh Quang đã chia sẻ tư liệu của Trương Vĩnh Ký, L'Abbé Adr. Launay. Tiếc rằng quý vị không chua trang nguồn.
Pierre Rey. Bụt sử lược biên thiệt truyện- Thuật sự tích và lời huyền diệu của Bụt Gaudam( Cù Đàm Bụt)G. Ch Tran Chanh phụng dịch. Sai Gon. 1913. Tải bản pdf tại:http://www.trangnhahoaihuong.com,.
(64Gustave Dumoutier. "Etude historique et archéologique sur Hoa Lư. Première capitale de l' Annam indépendante". Paris 1894, tr.18.
(65Phan Kế Bính. Nam hải dị nhân .(?) 1912. Hiện chúng tôi chưa có cuốn này.
(66Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược. Bộ Giáo dục - Trung tâm Học liệu xuất bản. 1919, tr.5.
(67Hội Khai trí Tiến đức. Việt Nam tự điển, HANOI Imprimerie Trung - Bac Tan - Van. Mặc Lâm xuất bản. 1931. tr.88.Hội gồm gồm các ông Phạm Quỳnh (chủ bút), Nguyễn Văn VĩnhTrần Trọng KimBùi KỷNguyễn Văn LuậnPhạm Huy LụcDương Bá TrạcNguyễn Hữu TiếnNguyễn Đôn PhụcĐỗ Thận và Nguyễn Khắc Kham.
(68Vệ Thạch Đào Duy Anh. Từ điển Hán Việt. (Hãn Mạn Tử - Giao Tiều hiệu đính) TIENG DAN. HUE. (tb 2001) Nxb. KHXH, H. 1932, tr.110.
(69Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng. Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Nxb. Giáo dục, H. 1960.
(70Khuyết danh. XIII. Việt sử lược. Trần Quốc Vượng dịch. Nxb. Văn Sử Ðịa. H. 1960.
(71Trần Quốc Vượng: sđd. 2000,
(72Vũ Văn Kính: Đại tự điển chữ Nôm. Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh & TT Nghiên cứu Quốc học, 2002, tr.182.
(73“Hàng nghìn năm các ông đồ vẫn dạy truyền miệng theo kí ức dân gian. Chữ có nhiều âm, khác nghĩa thì dùng dấu phết vai, để nhắc đọc đúng âm, hiểu đúng nghĩa, thạo rồi thì không cần. Khi có chữ quốc ngữ, những nhà làm từ điển Hán Việt cũng dựa vào cái vốn kí ức dân gian này mà soạn từ điển là chính. Vậy không nên coi các từ điển Hán Việt hiện có là khuôn mẫu tuyệt đối. Tôi học Hán cổ được các cụ vốn là những người đã học chữ Hán theo lối cũ truyền dạy, trong đó vài cụ đã lều chõng, có cụ đỗ tú tài khoa cuối. Vậy cái vốn Hán cổ của tôi chủ yếu là kí ức dân gian. Khi vào đời mới dùng đến các từ điển Hán Việt (Cũng chỉ khi nào cần phiên âm Hán Việt chữ mà mình chưa biết, còn nghĩa tra các từ điển Hán cổ của Trung Quốc đủ hơn). Cái kí ức dân gian này hiểu rõ hơn là nó phản ánh sự hình thành cách đọc Hán Việt xa xưa, sau đó nó biến đổi theo quy luật của ngữ âm tiếng Việt và được dạy truyền miệng. Nói vậy để nói rằng cách đọc Hán Việt bằng  hay cồ, hay cả hai đều được cần có sự chứng minh chứ không thể đơn giản dựa vào các từ điển Hán Việt hay phiên thiết của người Trung Quốc cổ mà suy luận”. [Theo lời của kt www.viethoc.org/forum ].
(74Huệ Thiên: Tìm hiểu về hai từ “Bụt” và “Phật”. Trong Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm. Nxb. Trẻ. 2004, tr.195-200.
(75Ngoài ra Buddha còn được phiên âm sang tiếng Hán bằng rất nhiều cách như: Phật Đà佛陀Phù Đồ浮圖, Phật Đồ佛圖, Phù Đà浮陀, Phù Đầu浮頭, Bột Đà浡陀, Bộ Đa部多, Bộ Tha部他, Phục Đậu復豆, Bộ Đà部陀, Vật Tha物他, Bổ Đà補陀...
(76Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Từ điển Phật học Hán Việt, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.1256.
(77Giáo hội Phật giáo Việt Nam.. sđd, 1998, tr.1256.
(78Phật quang đại từ điển (T2). Thích Quảng Độ dịch. Hội Văn hóa Giáo dục. Kinh Sơn, Đài Bắc xuất bản, 2008, tr.1584.
(79Văn Uyên Các. Tứ Khố toàn thư. Thượng Hải Nhân dân Xuất bản xã.
(80An Chi. Kiến thức ngày nay số 599 ra ngày 1/4/2007, mục Chuyện Đông chuyện Tây, dẫn theo Nguyễn Anh Huy. 2009b. bdd.
(81Đào Duy Anh: Chữ Nôm Nguồn gốc - Cấu Tạo - Diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975, tr.171; tr.192.
(82G.Hue. Tự điển Việt - Hoa - Pháp (Dictionnaire Vietnamien - Chinois - Français), Librarie Khai Trí, 62 Lê Lợi, Saigon 1971 (in scan theo ấn bản Imprimerie Trung Hòa, 1937), tr.101.
(83G.Hue. 1937, sdd, tr.4.
(84Hội Khai Trí Tiến Đức: Việt Nam tự điển. Mặc Lâm xuất bản xã, H. 1931, tr.88.
(85Trương Đình Tín & Lê Quý Ngưu. Đại tự điển chữ Nôm, T1), Nxb. Thuận Hóa. (Nhưng các tác giả lại coi CỒ trong ĐẠI CỒ VIỆT là “to” [tr.251]. Nhân đây cũng nên cải chính lại, mà nhập vào làm một mục từ. 2007.
(86Hoàng Xuân Hãn: Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần - Lê: Phái thiền Trúc Lâm Yên Tử. KHXH (Paris) 5-7 (1978-1980). tb 1998. Văn Nôm và chữ Nôm đời Trần - Lê, trong La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn. T3. Nxb. Giáo dục, tr.1121.
(87Lê Mạnh Thát: Trần Nhân Tông toàn tập, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 2000.
(88Việt Chương. Từ điển thành ngữ tục ngữ ca dao Việt Nam. Nxb. Đồng Nai. [Chuyển dẫn theo Nguyễn Xuân Kính (chủ biên). 2002. Kho tàng tục ngữ ca dao người Việt. (T1). Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1995, tr.1644].
(89Lịch sử chuyển dịch kinh sách Phật giáo cho phép nói, cho đến thời Đinh, Lê, cái tên Thích - ca không hòan toàn mang tính... "thống trị" như về sau. Kinh hệ Agama lúc đó vẫn chưa bị xem như "chỉ có giá trị tham khảo" so với kinh Đại thừa, và trong kinh hệ Agama này chỉ có mỗi cái tên Gotama (Cồ-đàm) là cái tên thông dụng của Phật. Trong kinh hệ này cũng có nói đến những chuyện như mang tên Gotama đặt cho những con đường, cây cầu mà Phật có đi qua. Thế thì không có gì lạ nếu có kẻ đặt quốc hiệu Cù / Cồ cho một nước Việt đón nhận giáo pháp của Gotama Phật Lịch sử. [theowww.viethoc.org/forum]. Xem thêm www.mattong.wordpress.com. Những nguồn này chỉ như là tư liệu gợi ý, chứ không phải để trích dẫn làm bằng cứ chính xác.
(92Nay ở Điền Xá, Gia Viễn, Ninh Bình.
(93Xin xem thêm Lê Mạnh Thát. Lịch sử Phật giáo Việt Nam, t.2, Nxb. Tp. HCM. 2002, tr.412.
Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1988.
(94Nguyễn Danh Phiệt: Nhà Đinh dẹp loạn và dựng nước, Nxb. KHXH, H. 1990, 222 tr.
(95)Vũ Quỳnh. 1492.嶺南摘怪Lĩnh nam trích quái . TruyệnĐinh Bộ Lĩnh. Kí hiệu là A.1752. Xem bản dịch tại
http://lichsuvietnam.info/index.php?option=com_content&task=view&id=138&Itemid=22 .
(96Theo www.viethoc.org/forum. Nhân đây cũng xin cảm ơn các quý vị trong diễn đàn đã có những gợi ý và chỉ dẫn tư liệu cho bạn đọc, những ý kiến của từng quý vị chúng tôi tạm không nêu cụ thể vì quá nhiều, mong quý vị thông cảm.
(97An Chi. Kiến Thức Ngày Nay số 599 ra ngày 1/4/2007, mục Chuyện Đông chuyện Tây, dẫn theo Nguyễn Anh Huy. 2009b. bdd.
(98) Hà Văn Tấn (chủ biên). Khảo cổ học, t3. Khảo cổ học lịch sử Việt Nam. Nxb. KHXH, H. 2002, tr.54, tr.57. Các tác giả phát hiện 4 viên gạch có chữ "Đại việt quốc quân thành chuyên" đào được ở Hoa Lư. Các tác giả dựa vào vật liệu và phương pháp xây dựng đoán định gạch này thuộc về thời Đinh, Lê. TS. Nguyễn Thị Hậu (mail riêng với chúng tôi), dựa trên các cứ liệu này, đưa ra giả thuyết rằng, ĐẠI CỒ VIỆT thực chất chỉ là quốc hiệu ĐẠI VIỆT (vốn bị ngoa truyền) đã được chính thức hóa qua các bộ sử đời sau. Tuy nhiên, việc xác định niên đại các viên gạch này cần phải bàn lại. Liệu đó có phải là gạch của đời Lý qua một đợt xây lại nào đó mà sử sách không nhắc đến?
(Tạp chí Hán Nôm, Số 2(93) 2009; Tr. 53 - 75)
http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1618&Catid=174

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Nhận diện 8 căn bệnh thời đại của người Việt


Những bệnh này đều có ít nhiều trong mỗi chúng ta. Vấn đề cần nhìn nhận cho đúng là nếu biết rèn luyện kềm chế, giữ cho nó dừng lại ở mức nhẹ nhàng thì đó là lẽ tự nhiên thường tình nhưng cứ buông thả để cho nó phát triển thì sẽ bùng nổ" trở thành bệnh hoạn.
Con người là sinh vật tiến hoá nhất, có khả năng tư duy, diễn đạt biết sáng tạo và sử dụng công cụ lao động, biết cảm thụ cái hay cái đẹp và có mối quan hệ trong cộng đồng ngày càng phong phú và phức tạp. Con người ngay từ buổi sơ khai, sống rất hồn nhiên, trong lành, lương thiện đồng thời cũng đã bộc lộ những mặt xấu, thậm chí rất xấu trong mối quan hệ với đồng loại. Trong quá trình tiến lên cùng với sự hình thành và phát triển xã hội, những mặt tốt và xấu của con người cũng có những biến đổi: biến đổi tích cực và cả những biến đổi tiêu cực.

Những phẩm chất tính cách đó được nảy sinh, lớn dần, được điều chỉnh, xoá bỏ, bổ sung trong bản thể con người đồng thời nó cũng phản ảnh cái sinh hoạt đầy biến động của thế giới bên ngoài. Do đó tính cách con người trong mỗi thời đại đều có những đặc điểm tương ứng.

Trong thời đại ngày nay - thời đại trí tuệ, nhiều phẩm chất tốt của con người xuất hiện và phát triển, nhất là tinh thần đổi mới, ý thức lao động sáng tạo, đã làm thay đổi hẳn bộ mặt đất nước song mặt xấu, mặt tiêu cực cũng nảy sinh, phát triển và cản trở cái thực tiễn xã hội đang vận động của chúng ta. Mặt tốt, mặt anh hùng là chủ yếu, hệ thống truyền thông đại chúng đã nói nhiều, riêng về mặt xấu, những tật xấu thì chúng ta chưa có dịp bàn kỹ, nhất là ở dạng khái quát, tổng kết.

Ở đây, tôi xin phác thảo chân dung những căn bệnh thời đại, mặt trái của giai đoạn lịch sử hiện nay với mong muốn được đông đảo bạn đọc cùng tham gia hoàn thiện với ước mơ được mọi người nỗ lực giúp nhau hạn chế và tiến tới xoá bỏ những gì mà chúng ta đã nhìn thấy.

1. Bệnh cơ hội chủ nghĩa

Đây là căn bệnh của những người không có chính kiến rõ ràng, hay ngả nghiêng, gió chiều nào theo chiều đó, ai mạnh thì theo, thường xuyên tranh thủ lãnh đạo, hành động nhằm mưu cầu lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ, bất chấp đúng hay sai. Họ luôn có ý thức tận dụng mọi cơ hội để tạo uy tín cá nhân gây cảm tình với những người, những cấp có thẩm quyền để dễ dàng được thoả mãn tham vọng cá nhân về chức vụ, lương bổng, phân công công tác phân phối các quyền lợi vật chất - tinh thần. Họ hay gần gũi những người có thần thế, xum xoe, giúp đỡ, kể cả giúp đỡ những việc tầm thường hằng ngày.

Những người mắc bệnh này thường bụng nghĩ một đằng, miệng nói một nẻo; ngồi trong hội nghị nói khác, ra ngoài hành lang nói khác; khi đương chức thì ép mình vào khuôn phép một cách máy móc, thậm chí giả tạo nhưng đến khi về hứa thì buông thả, nói bạt mạng, hành động bạt mạng.

Bệnh cơ hội càng trở nên trầm trọng khi xã hội đang có những bước phát triển nhanh, có nhiều biến động về tổ chức, nhân sự, về cơ chế và hệ thống việc làm. Bệnh này thường xâm nhập vào cán bộ công, nhân viên các cấp có nhiều tham vọng.

2. Bệnh bảo thủ

Bệnh này đang giảm dần nhưng những gì còn lại ở một số người nào đó lại là lực cản lớn lao cho sự phát triển cho công cuộc đổi mới. Đặc biệt những người bảo thủ mà đang nắm giữ những trọng trách ở các cấp, các ngành, các đoàn thể thì sức cản trở của họ tăng lên cấp số nhân. Những người bảo thủ là những người luôn có ý thức duy trì cái cũ không chịu điều chỉnh, thay đổi, bổ sung. Họ thường dị ứng trước những cái mới; ngay cả những cái đã được thử nghiệm thành công, họ cũng rất dè dặt tiếp nhận, ứng dụng. Có những cái sai đã rành rành ra đấy, quần chúng góp ý nhiều nhưng họ vẫn không chịu sửa hoặc đến khi phải sửa thì chỉ sửa nửa vời và sửa ngấm ngầm.

Họ sợ mở rộng dân chủ, tổ chức diễn đàn; ít nghe ngóng, học tập cái hay cái đẹp kể cả những sáng kiến kinh nghiệm đã được đúc kết khẳng định. Việc thẩm định đánh giá con người sự việc (như bầu người lãnh đạo, đề cử người vào những chức danh quản lý, bầu lao động tiên tiến, chiến sĩ thi đua, nhận xét cán bộ, nghiệm thu đề tài v.v...) họ đều theo những chuẩn mực cũ. Không ít người có tư tường phục hồi nguyên vẹn những cái đã mất đi trong quá khứ, kể cả những tập tục hủ lậu trái với lương tâm đạo lý và nền văn minh thời đại.

3. Bệnh thực dụng chủ nghĩa

Những người mắc bệnh này thường sống không có lý tưởng, chỉ quan tâm đến những gì mang lại lợi ích thiết thực trước mắt mà ít quan tâm đến toàn diện, lâu dài, nhất là những hoạt động tinh thần, những lợi ích về tư tưởng chính trị. Một số không ít coi tiền là trên hết, là tất cả; lương tâm và đạo lý bao giờ họ cũng đặt xuống dưới. Nhiều vụ xung đột kiện cáo, xâu xé nhau trong gia đình, dòng họ... đều có căn nguyên từ căn bệnh này. Những người này nhìn vấn đề gì cũng méo mó, tầm thường.

Họ ít quan tâm đến quá khứ, đến những giá trị lịch sử; họ cũng chẳng nghĩ mấy đến tương lai. Tầm nghĩ suy của họ ngắn, đơn giản; ít có ước mơ hoài bão, xin đừng nhầm lẫn với những người có đầu óc thực tế, chống tư tưởng hão huyền, càng không nên lẫn lộn với những nhà tư tưởng thực dụng trong trào lưu triết học hiện đại (với không ít yếu tố tích cực) ở phương Tây mà tiêu biểu là Piếc xơ, Jêm, Silơ...

4. Bệnh hám danh, hám địa vị

Kể ra thì ai cũng muốn mình có tiếng tăm tốt, có địa vị trí xứng đáng trong xã hội; thấy những người đã thành danh, có địa vị cao thì ai cũng thèm. Điều đó là lẽ thường tình. Nhưng đến mức mong muốn cuồng nhiệt, dùng thủ đoạn để biến mong muốn thành hiện thực là đã bệnh hoạn rồi.

Trong giai đoạn lịch sử mà nền kinh tế văn hoá xã hội phát triển mạnh, nhiều chức danh hấp dẫn xuất hiện cùng với bao nhiêu quyền lợi và thuận lợi đi kèm, gây sự chú ý đối với mọi người, đặc biệt trong hoàn cảnh dân trí được nâng cao nhất là đối với những người có trình độ, có tài năng. Ngay đối với những người bình thường, hiểu biết còn hạn chế nhưng khi được đề bạt vào chức vụ cao cũng không từ chối và băn khoăn gì,

5. Bệnh nói dối

Đây là bệnh khá phổ biến. Cấp xã báo cáo lên cấp huyện, huyện báo cáo lên tỉnh, tỉnh báo cáo lên Trung ương chẳng mấy khi trung thực. Bao giờ thành tích cũng nhiều lên, thiếu sót ít đi. Khi cần xin kinh phí thì khó khăn bày ra chồng chất; cái gì cũng thiếu, cũng hụt. Khi cấp trên về thì cái tốt phô ra, cái xấu che lại. Nhân viên đi công tác về bao giờ cũng báo cáo theo hướng mình đã làm nhiều, làm có hiệu quả. Về phía lãnh đạo cũng có người thấy được sự thiếu trung thực của cấp dưới nhưng cũng lờ đi, cũng động viên khích lệ để cùng vui vẻ. Dần dần, việc nói dối trở thành quen, không ai thấy xấu hổ, ngượng nghịu nữa.

6. Bệnh đố kỵ, cố chấp

Đây là bệnh của những người hay khó chịu, ghen ghét với những ai có thể hơn mình. Để bụng lâu, có thiên kiến, định kiến lâu đối với những người có sai sót với mình; thiếu hẳn lòng vị tha, sự bao dung độ lượng.

Những người này thường có những biểu hiện nhỏ nhen, sống không được thoáng đãng, hay để ý hay thắc mắc những điều nhỏ nhặt, xử lý trong mọi tình huống, thiếu cao thượng, đẹp đẽ.

7. Bệnh mũ ni che tai, ném đá giấu tay

Những người mắc bệnh này thường có thái độ lảng tránh mọi vấn đề nổi cộm trong cơ quan, đơn vị, địa phương cũng như ngoài xã hội. Họ "chui vào vỏ ốc", sống vuông vắn, tròn trĩnh. Gặp những cuộc họp có vấn đề cần tranh luận gay gắt, cần đấu tranh phê bình mạnh mẽ thì cáo ốm, xin vắng; nếu bất đắc dĩ phải đi thì chọn một chỗ cuối, kín đáo. ngồi thu lu, im ắng từ đầu đến cuối. Ai trực tiếp hỏi ý kiến thì lắc đầu trả lời là không hay biết chuyện gì hoặc không có suy nghĩ gì.

Khi ở cái thế phải nói thì tiên phát biểu như phản ánh dư luận, nghe người này, người khác. rồi nói lại. Khi trong lòng bức bối muốn phê phán ai thì mượn miệng người này người khác nói giúp.

8. Bệnh ham làm giàu bất chấp lưong tâm, đạo lý, pháp luật

Thời đại trí tuệ và nền kinh tế thị trường đang mở ra nhiều con đường có thể làm giàu. Mong muốn làm giàu là một khát vọng chính đáng là một động lực mạnh mẽ của sự phát triển. Đảng và Nhà nước ta khuyến khích mọi người làm giàu bằng con đường đúng đắn. Song cái căn bệnh ham làm giàu mà ta nói ở đây là làm giàu bằng mọi giá, bất chấp cả lương tâm, đạo lý và pháp luật. Có kẻ đã làm giàu trên mồ hôi nước mắt và cả xương máu của người khác, từ bỏ cả anh em ruột thịt, thất hiếu với cha mẹ; làm giàu bằng con đường lừa gạt, buôn gian bán lậu. Đặc biệt một số người đã bị sa lưới pháp luật hoặc bị lên án nặng nề nhưng họ vẫn không sám hối, không kiềm chế.

Ngày trước, giàu nhiều khi là cái họa, là xấu; nhưng bây giờ giàu thường được trọng vọng và giải quyết được nhiều vấn đề trong cuộc sống. Do đó, giàu đang là một hình ảnh có sức quyến rũ mạnh. Song trên thực tế, chỉ có một số ít người là có khả năng làm giàu bằng con đường chân chính. Đó là cơ sở cho bệnh ham làm giàu bằng con đường bất chính nẩy nở và phát triển.

Thực ra những bệnh kể trên đều có ít nhiều trong mỗi chúng ta. Vấn đề cần nhìn nhận cho đúng là nếu biết rèn luyện kềm chế, giữ cho nó dừng lại ở mức nhẹ nhàng thì đó là lẽ tự nhiên thường tình nhưng cứ buông thả để cho nó phát triển thì sẽ bùng nổ" trở thành bệnh hoạn.

Chúng ta cần tích cực quyết tâm hạn chế nó, xoá bỏ nó nhưng phải kiên trì vì nó là bệnh đời, có gốc rễ từ nhiều đời, nay có môi trường mới, nhanh chóng lớn lên và vẫn đang gắn bó với từng cuộc đời, đang là cái sự đời của thế cuộc.
(Tầm Nhìn)


Phần nhận xét hiển thị trên trang

CÂU CHUYỆN BÊN HỒ


Truyện ngắn của HG

Em rủ đi chơi hồ núi Cốc, hồ Ba Bể, hay đi đâu đó. Miễn là nơi có nhiều cây xanh, có mặt nước mênh mang, dào dạt sóng trong mùa hè nóng bức này.
 Hai đứa sẽ chạy xe máy, mệt đâu nghỉ đấy, Chiếc  Honda shi 150 của em là loại xe mốt nhất hiện thời, vừa mua hơn trăm triệu, đường xa yên tâm đi, chả sợ hỏng hóc dọc đường.
Bốn năm mài mòn ghế nhà trường, cũ đi gần chục cái quần đồ thùng mua ở chợ sinh viên, quá oải, Tuân muốn lắm. Nhưng nghĩ đến cái túi tiền lép kẹp của mình anh rất ngại. Còn lâu nữa anh mới có thể có điều kiện để đến nghỉ ngơi, chơi bời ở những nơi như thế!
Bố mẹ đã phải chạy đôn đáo bòn nhặt bao năm trời nuôi anh ăn học mới có được ngày hôm nay. Lại ngửa tay xin tiền nữa, Tuân thực lòng không muốn. Ngay cả khi đang học năm cuối, trừ những khoản nào không đừng được Tuân mới “điện” về xin bố mẹ. Hà Nội những năm đầu thế kỷ hai mươi mốt công ăn ăn việc làm cực kỳ khó khăn. Ngay những người có chuyên môn, chuyên nghiệp nhiều năm xin được một chỗ làm đã khó, nói gì chầng sinh viên trẻ muốn có việc làm thêm, ngoài giờ? Tuân nhận trông coi tiệm nét cũng chỉ được hơn một tháng phải bỏ vì quá căng thẳng thời gian, không còn thời gian để học. Thôi thì tùng tiệm chi tiêu trong điều kiện của mình. Khổ học, như định mệnh cho chàng sinh viên nghèo, Tuân chấp nhận nó, một đương nhiên.
Có được tấm bằng đỏ loại khá đã là may mắn lắm rồi.
Mình còn đỡ hơn những sinh viên khác, không phải “chống trượt” hay mua thêm điểm.
Bố mẹ Tuân rất mừng, có nghèo một tí, khó khăn một tí nhưng tương lai mở ra trước mắt. Bố vẫn thường bảo: “Nước ta nghèo, dân ta và cả nhà mình cũng nghèo, nguồn gốc sâu xa là bởi sự thiếu học”. Điều ấy thì đúng quá đi rồi, không phải bàn cãi. Nhưng rồi cuộc sống thực tế, quan hệ cụ thể hàng ngày, Tuân thấy nó mới chỉ đúng một phần, chứ không phải là tất cả. Người có học nhưng không có tiền vẫn còn rất nhiều điều phải suy nghĩ, phải gắng gỏi mới vượt được qua.
Như lúc này đây, em rủ đi pích ních một chuyến, đã là một thách thức đối với Tuân. Không có nhiều cũng phải có một đôi triệu bỏ túi, không lẽ chỉ có mỗi cái người không?
Xuyên Chi lại không hiểu. Cô ngờ Tuân có ý nghĩ khác. “Hay là anh ngại hai đứa đi chung với nhau sẽ ảnh hưởng đến quan hệ khác?”- Xuyến Chi hỏi Tuân như vậy. Anh không biết giải thích như thế nào? Chả lẽ nói không muốn đi vì trong túi không tiền?
Dù chân thật đến đâu người ta vẫn có điều khó nói, không thể nói thẳng ra được. Tình yêu vốn đẹp một cách mơ hồ. Ở đó lấp lánh ảo huyền hy vọng và miên man cảm xúc, không thể trần trụi, thô thiển. Nói ra sự thực ấy, liệu em sẽ nghĩ gì? Mà không nói cũng không thể được. Để cô ấy hiểu lầm là chuyện không nên. Cuối cùng Tuân nói:
- Thôi để dịp khác. Khi người ta còn trẻ, cuộc đời còn dài, thiếu gì cơ hội để đi du lịch. Hơn nữa anh còn phải ở nhà lo làm hồ sơ để xin việc làm. Đi học chừng ấy năm, bây giờ gia trường phải tự lo, không lẽ cứ ăn nhờ bố mẹ mãi?
Xuyến Chi khúc khích cười. Tuân ngơ ngác, chẳng hiểu vì sao? Mình nói thế có gì đáng buồn cười đâu?
Xuyến Chi nhìn Tuân như thể vừa phát hiện ra ở anh điều hớ hênh, ngớ ngẩn:
- Tưởng là gì, chuyện đó nhỏ như con thỏ!
- Em nói thế là sao?
- Em định dành cho anh một bất ngờ sau chuyến đi này. Đã nói thế, em bật mí luôn. Ông già em đã nhận lời với em lo cho anh việc này. Đúng sở trường, hợp nguyện vọng luôn, miễn bàn cãi. Sở đang thiếu một người làm quản trị mạng máy tính nội bộ. Anh về đấy làm việc, trung tâm thành phố luôn!
- Sao em không nói gì với anh về chuyện này? Có thực không đấy? Nghe người ta nói xin việc trong thành phố bây giờ cỡ ba trăm, anh lấy đâu ra số tiền ấy?
- Anh đừng có mà nghe tin thất thiệt ngoài đường ngoài chợ. Việc làm chứ có phải hàng hóa đâu mà có giá cụ thể như thế. Em chưa từng thấy ai làm việc đó. Chỉ là luận điệu của kẻ xấu thôi. Đành rằng hoàn cảnh chung hiện nay rất khó. Công ăn việc làm không như mấy năm trước. Nhưng đó là cái “khó chung chung”. Bố em vẫn có cách. Chả nhẽ ông chịu bó tay khi lo nổi cho “con dê” tương lại, bạn đời của con gái cưng của mình?
Tin này từ miệng Xuyến Chi, chắc hẳn là thực. Sao Tuân vẫn thấy nó xa vời diệu vợi làm sao. Chả lẽ đến một việc như vậy, Tuân cũng lại ỷ nốt vào bố của người mình yêu? Thời buổi này không thiếu những tay đào mỏ, những kẻ biến hôn nhân làm phương tiện. Tuân dù nghèo, chẳng có thế lực nào để nhờ vả, anh vẫn không muốn như thế. Bài học từ ông chú ruột anh vẫn sờ sờ ra đấy. Nó là nỗi đau, sự nhục nhã mà chú anh không dám vác mặt về làng. Bây giờ ông đang sống lênh đênh đâu vùng hồ Thác Bà. Hôm về thăm quê, Tuân có gặp chú. Ông trở nên con người lặng lẽ, khác hẳn con người hồ hởi, pha chút lãng mạn thời tuổi trẻ.
Hai chú cháu không nói chuyện nhiều với nhau. Nhưng Tuân linh cảm cuộc sống của người em trai bố mình là câu chuyện buồn, có thể là rất buồn. Anh chỉ xin chú số điện thoại, không hỏi nhiều chú về bất cứ câu chuyện gì.
Chú hẹn anh khi nào ra trường, có thời gian lên chơi với chú.
Tuân nảy ra ý nghĩ khi nhớ ra chuyện này. Xuyến chi có vẻ thích thú khi Tuân bảo nên đi thăm quan hồ Thác Bà. Nàng nói:”Hồ đấy rất đẹp, có hơn một ngàn ba trăm hòn đảo lớn nhỏ rải rác khắp mặt hồ, lại có nhiều hang động rất đẹp nữa. Em có nghe nói nhưng chưa đến đó lần nào. Từ đây qua đó, theo đường Hiên, tắt sang cũng gần. Nếu đi sớm vẫn được chơi gần một ngày, buổi chiều vẫn kịp về..”
Tuân như trút được gánh nặng. Hồ đẹp hay không, nói thực, Tuân không chú ý lắm. Nhưng rất được. Đây là “tua” du hí ngắn, hợp với khả năng của anh lúc này.
Lại thêm cơ hội, nếu may ra gặp được ông chú ruột của mình. Buổi chiều hai đứa vẫn kịp về, khỏi lo ăn nghỉ nhà hàng, khách sạn, những nơi thường chi tiêu rất không bình thường, chưa cho phép, hợp với khả năng của anh vào lúc này!

- Chú anh mặt đỏ như Quan Vân Trường, tướng con nhà võ. Ngoại hình ông đẹp như vận động viên chuyên nghiệp. Thêm đôi mắt sáng, giọng nói trầm ấm, ai gặp cũng rất cảm tình – Tuân Kể - Ông lấy vợ ngoài Hà Nội, con một quan chức cấp cao. Ông này có duy nhất một người con gái. Hai vợ chồng chú được bố mẹ vợ mua cho căn hộ khu Thanh Xuân bắc. Đó là khu phố mới rất hiện đại, thường chỉ người có điều kiện mới đủ tiền mua căn hộ như thế. Hôm chú anh đưa bà vợ về làng, họ mạc ai cũng khen. Bà ta đẹp một cách quý phái sang trọng, giọng thỏ thẻ oanh vàng. Người ta bảo có phúc lắm chú anh mới được như thế. Không phải chuột sa chĩnh gạo, mà là con người sa vào nơi hũ bạc hũ vàng.. Ngày ấy anh mới nhập học năm thứ nhất. Thỉnh thoảng chú thím mời đến nhà ăn cơm. Gia đình chú có cái gì đó cách biệt khiến anh rất ngại.Nó đầy đủ quá, sang trọng quá khiến một anh học trò nhà quê như anh lúng túng ngại ngần.
Rồi chả hiểu tại sao, chú anh bị bắt, rồi ra tòa. Người ta kết tội ông đánh người thành thương, hỏng một bên mắt, án phạt hai năm tù. Vậy là chức trưởng phòng của sở công nghiệp bỏ lại, căn hộ không thể mang theo, người vợ diễm kiều sang tay người khác.
Mãi sau này người ta mới biết chuyện ẩu đả là do ghen tuông. Bà vợ ông yêu ông hết mực. Nhưng nếu chỉ dừng ở đấy ông sẽ là người hạnh phúc. Người ta không mong gì hơn vợ đẹp, con khôn, nhà cao cửa rộng lại có chức có quyền. Ông hầu như có gần đủ các thứ đó, chỉ thiếu sự sự thủy chung của người vợ. Bà ấy được nuông chiều từ nhỏ lại mê tiểu thuyết diễm tình. Ngoài chồng mình ra bà còn yêu nhiều người đàn ông khác mà bà cảm thấy thích như người ta thèm nhắm thêm món lạ. Cuồng yêu là một thứ bệnh người ta chưa phát hiện ra nhưng lại có tồn tại rất thực. Tai họa xảy ra từ sở thích, căn bệnh chưa gọi là bệnh này..

Chú gần như trắng tay khi đứa con gái duy nhất của hai người mắc một căn bệnh lạ. Khi đó ông chịu chưa xong án phạt. Không biết cho đến lúc ông được tự do, căn bệnh của nó có được chữa khỏi hay không?
Chú anh ra tù, ông quyết định không trở về làng. Anh em họ mạc đoán ông sẽ vào Sài Gòn, hay đến một khu công nghiệp, một thành phố lớn nào đấy. Với cái bằng kỹ sư cơ khí chế tạo máy của ông, hẳn là xin việc sẽ không đến nỗi khó.. Chẳng ai ngờ ông lại có sự chọn lựa như thế này..
Tuân ngừng lời. Xuyến Chi lặng lẽ thở dài, cả hai nhìn mặt nước mênh mang..Bất chợt cô hỏi ông lái đò:
- Chỗ sâu nhất lòng hồ là bao nhiêu, bác?
- Tôi cũng không rõ lắm..Nghe đâu người ta bảo có chỗ sâu gầm sáu mươi mét..
- Bằng chiều cao của ngôi nhà mười mấy tầng bác nhỉ?
Ông lái gật đầu. Những câu hỏi tương tự nh ư của cô này ông đã nghe phải đến hàng trăm lần rồi, chẳng có gì đáng để tâm. Chỉ đến khi cô hỏi ông là mùa cạn, nước trong có thể nhìn thấy cả chóp tháp chuông nhà thờ chìm dưới lòng hồ, có đúng vậy không? Ông mới cười, bảo:
- Đấy là người ta tưởng tượng ra thế chứ làm sao nhìn thấy được? Nước có trong cũng trong xanh kiểu lòng hồ, chả thấy gì đâu cô ạ!
Tuân định thuê riêng chuyến này đi vòng một lượt quanh vùng hồ trước khi đến nhà chú. Mới đi được hơn cây số mặt nước thì nghe chú gọi điện thoại. Chú anh bảo: “Hãy đến ngay chỗ chú. Chú cháu gặp nhau một lát. Các cháu ở lại chơi với thím, chú có việc phải đi mai mới về”.THì ra chú đã có vợ. Thím ấy là ai mà lần gặp ở quê chả ai nghe ông nói gì về chuyện này?
Tuân hỏi. Ông lái thuyền trả lời:
- Ông ấy ở đây ai mà không biết. Hỏi Kỹ sư hạnh những người vùng hồ này biết cả. Bà ấy lại là bác sĩ, ai ốm đau gì cũng nhờ bà ấy chữa bệnh cho. Hai ông bà này ai cũng quý. Thế cô cậu là thế nào với ông Hạnh?
- Cháu là cháu gọi ông ấy bằng chú.. Nãy bác nói bà thím cháu là bác sĩ, vậy bà làm ở bệnh viện nào?
- Không ở viện nào đâu. Nhưng bà ấy có phòng khám trên thành phố. Lâu lâu mới về thăm ông ấy.
- Sao có hai vợ chồng lại mỗi người một nơi?
- Câu này tôi phải hỏi cậu mới đúng chứ, vì cậu là người nhà – Nhưng mà thôi, cậu đã hỏi tôi cũng không giấu. Ông Hạnh có một tranh trại ngoài lòng hồ. Tôi có đưa khách đến thăm quan vài lần nên tôi biết. Lát nữa cậu đến sẽ biết. Thật chưa có làm trang trại như kiểu ông ấy. Cả hòn đảo ông nuôi toàn khỉ, bọ cạp và trồng củ tam thất.. Cả vùng này chỉ có mỗi ông ấy  nuôi trồng khác người như vậy thôi!
- Bác có biết bà thím cháu người quê đâu không?
Ông đò có vẻ lưỡng lự, không định nói. Nghĩ thế nào ông lại bảo:
- Bà ấy ở nơi khác đến. Nghe đâu hai ông bà gặp nhau trong tù, hẹn khi về ở với nhau.
Lại thế nữa. Sao bà thím bác sĩ của Tuân lại có thể đi tù được? Tù về tham ô, đánh ghen hay tiêm nhầm thuốc? Cuộc đời thật cái gì cũng đều có thể. Dù sao cả hai người cũng qua thời đen tối. Ông đò còn bảo chú anh là một trong số đại gia ít ỏi của tỉnh này. Nghĩ vậy Tuân cảm thấy an tâm.
Xuyến Chi thì ngược lại, Hình như cô dự cảm thấy điều gì đấy, báo trước điều không vui. Trái hẳn với tính tinh nghịch hay cười hay nói, tự dưng hôm nay cô trầm lặng. Có lúc còn có vẻ bồn chồn. Khi Chú của Tuân đưa hai người đi thăm khu rừng ông trồng trên đảo, Xuyến chi có vẻ mệt mỏi, miễn cưỡng đi theo. Suốt nửa buổi cô không hề nói năng gì. Cả cánh rừng xanh ngát, dưới tán rừng trồng tam thất xanh tươi, hoa các loại đỏ rực cũng không gây cho cô hứng thú. Hình như trồng cây, làm vườn với cô chả có chút cảm hứng nào. Đến khi một con khỉ bất ngờ nhảy trên cành cây trước mặt làm cái trò khỉ của nó, cô cau mặt. Xuyến Chi nằng nặc đòi về ngay hôm ấy. Vợ chồng ông chú cũng không giữ. Hình như họ cũng đoán được vẻ không bằng lòng từ cô bạn gái của cháu. Vì sao thì cả hai ông bà chưa hiêu? Nhưng hai ông bà là người từng trải, những việc như vậy sẽ không hỏi làm gì. Vả lại, hai người cũng đang có việc riêng, rất vội của mình..

**
Tuân không ngờ đó là lần cuối cùng hai người có dịp đi chơi với nhau.
Sau hôm ở nhà Xuyến Chi về tâm trạng anh rất vui. Trải bao vất vả, gian nan, cuối cùng cũng tới bến. Ông giám đốc sở, bố của em đã nhận và hứa xếp cho Tuân một chỗ làm. Thực ra lương ba cọc ba đồng khởi điểm chẳng được bao nhiêu, nhưng nó hứa hẹn nhiều về tương lai. Ông nói xa nói gần về chuyện một anh trưởng phòng, thậm chí một chân phó của ông cũng đều bắt đầu sự nghiệp của mình từ những bước đi, vị trí như thế này. Nếu không vì cô con gái duy nhất đem lòng thương anh, dẫu dù anh có bạc trăm ông cũng không dám rút. Nghị định, chỉ thị từ trên đưa xuống, hầu hết các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước đều giảm biên chế cho phù hợp với hoàn cảnh chung của hiện tại. Còn đến bao giờ mở rộng, phát triển cần tuyển thêm biên chế đến ngay cả ông, một giám đốc sở cũng không biết khi nào mới tới. Nhưng giảm gì thì giảm, cơ quan nào, doanh nghiệp nào cũng có đòi hỏi riêng, có “tính đặc thù” riêng của nó!
Không đợi ông bố em nói đều này, Tuân đã thừa biết tình hình xin việc hiện nay khó khăn như thế nào. Nhiều nơi không những không nhận thêm mà đang tìm cách giảm bớt người. Chen vào chỗ chật lúc này gần như là chuyện vô vọng. Mấy tháng trời Tuân tìm bao nhiêu cửa không có một chỗ làm, anh quá biết điều này. Các quảng cáo tìm việc làm lại càng thất vọng. Rõ ràng người ta đăng tin, nộp hồ sơ, phỏng vấn, đóng lệ phí không nhớ mấy lần rồi đều không kết quả. Đến cả trung tâm giới thiệu việc làm cũng không hy vọng gì. Lại nộp hồ sơ, đóng lệ phí và lại chờ, không biết đến bao giờ. Hình như muốn kiếm việc làm phải có cách gì khác chứ không phải như Tuân và một số bạn bè anh vẫn làm.
Khỏi nói khi nghe bố em nói thế, Tuân mừng như thế nào! Nhưng dù sao vẫn phải chờ, cho dù người giới thiệu việc làm cho anh là bố của em. Một con người mà theo Tuân biết có tầm ảnh hưởng to lớn đến quyền sinh quyền sát, vận mệnh của nhiều người. Chỉ có điều thời gian chờ đợi sẽ không lâu, đủ để người ta hợp thức hóa các thủ tục về nhân sự sao cho có lý, có tình!
Mỗi ngày đi qua là mỗi ngày quá dài, Tuân không biết làm gì cho hết thời gian. Cái thị tứ nhỏ bé như cái bàn tay chả có bao nhiêu công việc. Đi phơi gỗ bóc tách cho xưởng gõ dán vất vả mà chả được mấy đồng tiền. Lò mổ ở gần thuê cạo lông lợn năm mươi ngàn một con, anh làm được mấy ngày, bị bỏng lại phải thôi.
Một buổi chiều xâm xẩm tối, Tuân ngồi trông hàng cho mẹ. Quán tạp hóa leo teo vài mặt hàng, mẹ bán thêm cả xăng. Từ ngày có cây xăng cách nhà Tuân một quãng, mặt hàng này bán không chạy và kiếm được như trước. Nhưng bỏ thì lỡ sắm đồ, vẫn phải duy trì, chủ yếu bán cho người cơ nhỡ đường xa không biết cây xăng ở đâu.
Tuân đang lơ mơ nhìn ra đường, đầu óc không chú ý đến điều gì. Ngày nào chả có người xe
rồng rắn diễu qua? Những chiếc xe ô tô quá tải, kềnh càng bụi mù lắc lư trước mắt. Ngồi bán hàng mà phải đeo khẩu trao như thế này là một cực hình. Nó bận bịu vướng víu rất khó chịu. Tuân chỉ muốn đứng lên vào nhà, tìm cuốn sách, hay ngồi xem ti vi. Nhưng bỏ hàng không trông lại không được! Cái nóng như của cả thế giới này dồn tất cả về cái thị trấn nhỏ bé này. Đến cả cây bách chịu hạn giỏi như thế mà lá cũng úa vàng, rũ xuống. Những vạt ngô từ phía núi xa cũng trắng lốp, khô rốp một màu.
Chợt có khách dừng lại hỏi mua xăng. Nom dáng vẻ và màu xe quen lắm, nhưng Tuân chịu, không nhớ là ai bởi anh ta đeo khẩu trao, mang kính đen to choán gần hết mặt. Cũng có thể
người giống người, mình bận tâm làm gì? Khách đòi đổ cho anh ta ba lít. Theo lệ Tuân đổ xong quay vào cất cái bình nhựa dùng làm cữ, ngồi chờ khách trả tiền. Khách nổ thử máy, Tuân không để ý. Cử chỉ này nhiều người vẫn làm theo thói quen như thế.. Bất ngờ gã nhảy lên xe, phóng bạt mạng. Ở cái thị trấn này sự việc ấy chưa xảy ra bao giờ, Tuân khá bất ngờ. Anh vội lấy xe đuổi theo. Tên kia đã đi một quãng khá xa. Đây là con đường độc đạo. Nếu rẽ vào các làng chắc ghắn sẽ gặp chỗ đường cụt. Gã sẽ dại gì rẽ như vậy. Xe của gã lại là xe ga, không thể chạy nhanh khi lên dốc cao, cách phía trước một quãng không còn xa.. Trời đã nhám tối, gã không thể không bật đèn, Tuân tin mình sẽ đuổi kịp.
Mấy lít xăng số tiền không phải là nhiều, nhưng còn sĩ diện, lòng tự ái khi bị kẻ khác lừa trắng trợn. Tuân quyết đuổi bằng được, không để ý gì đến xung quanh, chỉ có mục tiêu trước mắt và chính Tuân cũng quên cả việc phải bật đèn..Bỗng một bóng đen từ trong ngõ vút ra.. Tuân chỉ nhớ được có thế rồi mê man bất tỉnh không biết gì nữa.

Sau này người ta kết luận nguyên nhân xe của Tuân bị một chiếc xe khác tông phải bánh trước khiến xe của anh văng vào mé đường bên kia. Cả tên mua xăng, cả kẻ gây tai nạn đều chạy thoát. Tuân nằm hết viện của tỉnh lại về viện trung ương. Vết thương do tai nạn khiến anh phải chịu khâu mười lăm mũi và hỏng con mắt trái.. Sức khỏe Tuân hồi phục dần. Cũng là lúc anh mỗi lúc thêm bi quan về thân phận mình. Rồi đây cuộc sống của anh sẽ ra sao với thân thể không còn như trước kia nữa? Thậm chí Tuân cũng không dám trách vì sao các lần đến thăm của Xuyến Chi với anh ngày thưa dần, rồi vắng hẳn!
Nói cho cùng tình yêu dù bay bổng, lãng mạn đến đâu cũng không vượt qua được thử thách ngặt nghèo thực tế mang lại. “Tình chỉ đẹp khi còn dang dở” là câu vấn cho mọi mối tình không đi đến đâu. Tuân ra viện với một tâm trạng rã rời. Vết thương do vụ tai nạn sẽ không là gì so với vết thương lòng vô hình vô dạng Tuân vừa gặp phải. Không biết do tác động của một trong hai vết thương ấy khiến Tuân gần như mất hoàn toàn ý thức. Đôi khi mất cả cảm giác vui, buồn, nóng lạnh.
Những người hàng xóm thấy Tuân như kẻ tâm thần. Không dở hơi, dở người sao một chàng trai như anh lại đi chơi những trò trẻ con với đám lau nhau, lít nhít gần nhà? Có đêm bố Tuân tìm thấy Tuân ngủ ngon lành trên cái phản thịt bỏ không ngoài chợ?
Rồi đột nhiên mất tích. Bố mẹ Tuân nhờ người tìm, nhắn tin trên truyền hình hàng tháng trời không tăm tích. Hai ông bà thay nhau ốm cả năm trời. Ốm mãi rồi khỏi, trừ bố mẹ Tuân, với người trong thị trấn này quên dần sự có mặt của Tuân ở nơi này. Cuộc sống có nhiều điều phải lo, phải nghĩ, phải làm..Ai hơi đâu nghĩ mãi về chuyện này chuyện kia của người khác?
Chỉ những bạn bè của Tuân còn đôi khi nhắc nhở.Ai cũng tiếc cho chàng trai trẻ từng có thời là tấm gương cho lớp trẻ về sự gắng gỏi học tập, đầy hứa hẹn trong tương lai? Người ta lấy làm thắc mắc sao những người tử tế phân miêng hay gặp những điều tai vạ trong khi không ít kẻ lếu láo, ranh mãnh cơ hội lại may mắn lập thân? Thậm chí có kẻ chẳng ra gì lại mon men, len lỏi chỗ danh vọng, lợi quyền? Để rồi người ta đi đến kết luận câu nói cửa miệng:”Giời có mắt” là một sai lầm. Nếu quả thực giời có mắt thì ông ấy nhìn chỗ nào? Ông ấy nhìn đi đâu vậy?
*****
Từ khi có thủy điện Sông Đà, có thêm hồ du lịch trên con sông này, hồ Thác Bà trở nên nhỏ bé. Nó thiếu cảnh núi cao hùng vĩ của miền cực Tây tổ quốc với nguồn nước mênh mang như vô cùng vô tận, thiếu những vạt ngô vàng rực trải miên man chân núi nọ tiếp đỉnh núi kia của vùng sơn cước, thiếu những sản vật hiếm hoi mà chỉ có Mường La, Mai Châu mới có.. Lượng khách tới Thác Bà không còn đông đảo như ngày Xuyến Chi đến cùng với Tuân.
Nhưng cô chọn nơi này, vì ở đó cô có những kỷ niệm không thể quên, dù nó nằm sâu kín tự đáy lòng. Còn một lý do khác khiến Xuyến Chi không thích đến những nơi quá ồn ào, sôi động. Cô vừa trải qua cuộc hôn nhân tan vỡ. Bố vừa nhận quyết định nghỉ hưu. Cô cần nơi thoáng đãng, cần hơi thở nhẹ nhàng, khoáng đạt của thiên nhiên.. Đó là lý do vì sao kỳ nghỉ hè này Xuyến Chi chọn nơi này, nơi năm năm trước cô cùng người trai ấy đến đây.. Xuyến chi biết bố đang buồn. Ai trong tình cảnh ấy không hẫng hụt? Con người có một sai lầm cố ý không thể thay đổi được là ai cũng nghĩ vị trí quyền lực và bổng lộc là cái gì mãi mãi. Chẳng ai nghĩ nó cũng hữu hạn như đời người, có sinh ắt phải có diệt, có bắt đầu tất phải có kết thúc. Có ai trẻ mãi không già, nắm quyền lực mãi mãi được đâu? Ngay những vị hoàng đế, thủ túc ông ta ngày nào cũng tung hô “vạn tuế”, “Oan oan xuê” nhưng có ai sống quá trăm năm? Thậm chí có ông chưa được nửa cuộc, đã băng hà? Bạn của bố ông thì xin vào câu lạc bộ làm thơ, ông gia nhập hội đông y.. Chả biết các vị tìm được thú vui nào đấy bằng sức tàn, lực mọn, đầu óc thủ cựu, hạn chế của mình? Bố thì chưa tìm được hướng nào. Tốt nhất ông cứ nghỉ ngơi thanh thản. Không có hạnh phúc nào bằng sự thanh thản trong tâm hồn. Chẳng phải bận tâm lo toan vì bất cứ chuyện gì. Không cần ganh tị hay bon chen với bất cứ ai. Nhìn lên hay trông xuống cũng không còn là ứng xử hàng ngày. Tại sao bố không chọn?
Chính ông là người lèo lái để cô gặp cuộc hôn nhân tai hại vừa qua. Cô ân hận vì nó Tuân đã chịu một kết cục bi thảm mà cho đến giờ này chính anh không biết. Chồng cũ của cô sau bao phương cách không làm cô thay đổi tình cảm đối với Tuân, y đã tạo ra vụ tai nạn mà suýt nữa cướp đi mạng sống của người cô yêu. Nếu cô biết trước việc này, Xuyến Chi sẽ không bao giờ tha thứ cho hắn chứ đừng nói nhận lời kết hôn làm vợ hắn. Chỉ mãi sao này hắn trắng trợn, nghĩ cô không còn cách nào thay đổi, trong lúc say hắn mới huỵch toẹt nói ra chuyện này. Cô không còn cách nào khác cắn răng chịu đựng, không dám hé lộ điều bỉ ổi của hắn với ai. Kể cả cha mẹ mình. Nhưng hắn càng ngày càng quá. Cậy bố mình là người có thế lực, hắn hầu như chẳng biết sợ, biết e dè điều gì. Hắn mua nhà, sống với nhân tình nhởn nhơ trước mũi cô. Canh bạc triệu đô khiến hắn cháy túi. Hắn quay về muốn bán nhà.. Đến nước này Xuyến Chi không chịu đựng thêm được nữa..
Ông Tâm hồi còn sinh viên cũng đã có lần tham gia lao động ở công trình này. Khi đó nó đang là công trường đang thời kỳ xây dựng. Ông còn giữ nhiều kỷ niệm những ngày ở đây, nên khi con gái gợi ý ông bằng lòng ngay.
Để con gái đánh xe vào chỗ quy định của bến ca nô, ông dắt đứa cháu ngoại con cô ra ngoài chờ. Hai bố con và cháu gái lên chiếc du thuyền khá đẹp.
So với con thuyền Xuyến Chi và Tuân đi ngày nào, con thuyền này đẹp hơn hẳn. Thời nhôm nhoam, luộm thuộm kể như gần chấm dứt.
Du lịch đúng nghĩa của nó phải là đi chơi lịch sự, tao nhã, tiện nghi đủ hấp dẫn.

Chỉ có mặt nước xanh trong là vẫn thế. Thêm những phao xanh, đỏ báo hiệu trên mặt nước để báo hiệu luồng cho thuyền bè qua lại. Còn gió thì vẫn là gió tự do, phóng khoáng, cảm đạt như xưa. Một cảm giác lâng lâng làm Xuyến Chi cảm thấy thư thái. Cô quên dần ý nghĩ ảm đạm chợt đến trong lúc đi đường.
***
Hòn đảo năm nào khác đến nỗi Xuyến Chi không nhận ra. Lối đi không phải con dốc nhỏ  quanh co bằng đất, hai bên cây rậm um tùm. Nó được thay bằng con đường bê tông sạch sẽ có gờ chắn cỏ khá cao. Hai bên đường cây đã lớn. Có cây gần vòng tay ôm. Một không khí tĩnh mịch, yên ắng nếu không có tiếng chim líu ríu trên cành. Nó đã là nơi sinh vật cảnh chiếm chỗ đồi trọc trống trải năm nào.
Từng quãng, những khu vườn vuông vắn trồng cây đỗ trọng, đinh lăng, sâm nam, tam thất. Có nhiều thứ cây khác nữa mà cô không biết nó là cây gì.
Từ xa các dãy chồng quây lưới thép có lợp mái lá cọ, chắc chắn không phải để nuôi gà vì nom khác kiểu.
Không cần hỏi cô cũng biết nó dùng vào việc gì. Chính lý do đó đã làm ông Tâm muốn đến thăm hòn đảo này.
Khác với người đồng liêu khi về nghỉ hưu, ông muốn có một việc làm vừa để đỡ hẫng hụt khi dư thừa thời gian không biết dùng vào việc gì, vừa muốn có thêm thu nhập, dù cuộc sống của ông so với mọi người khá hơn rất nhiều.
Ông chúa ghét những anh nghỉ rồi, ngày ngày vẫn tò tò đến cơ quan, góp ý chỉ đạo cho thuộc cấp cũ điều này điều khác.
Anh em người ta nể, không nói ra, nhưng trong bụng chẳng ai muốn cái bóng của ông cứ trùm lên họ.
Tự do như một thuộc tính của con người - Không ai muốn nó bị ảnh hưởng đến tự do của mình khi có sự hiện diện của người sếp cũ.
Làm thơ, viết hồi ký với ông càng không muốn. Một đời công chức, nói là hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp chung, thử hỏi mấy ai đã làm được những gì ích cho dân cho nước? Hay chỉ nói thế vì lợi ích của bản thân mình? Mà nếu có thì đâu có đáng kể? Viết về những cái chung chung, mòn cũ ông không hứng thú. Thiên hạ đã đủ khổ vì tật tự đề cao mình, tự lăng sê bản thân của một số háo danh, vớt vát quyền lực lấy viết lách làm công cụ. Ông chả thích xuất hiện ở cái “sân chơi” kỳ quái ấy.
Nên làm việc gì thiết thực, ít nhất có ý nghĩa cho bản thân.
Có người mách ông trại nuôi chó Ngao trong vùng hồ này.Ông muốn tới tận nơi xem có thể học hỏi điều gì đấy, vận dụng được cho mình. Nhưng ông không nghĩ lại bất ngờ gặp Tuân ở đây?
Anh cố gắng giữ vẻ thản nhiên trên nét mặt, nhưng nhìn kỹ rõ ràng Tuân đang rất xúc động. Vì chuyện đã qua, oán hận, hay ngỡ ngàng về cuộc viếng thăm bất ngờ này? Tuy vậy anh vẫn mời hai bố con Xuyến Chi và đứa vào căn phòng của mình. Đó là căn phòng bài trí đơn giản, nhưng ngăn nắp. Không có trang trí gì ngoài tủ sách kê ở góc phòng, gần chiếc bàn nhỏ, trên đặt chiếc đèn bàn. Cạnh đó chiếc máy vi tính đã cũ, nhìn qua bàn phím, con chuột là biết ngay nó không phải đời mới nhất.
- Em thật sự bất ngờ! Cứ nghĩ anh đi nước ngoài hay đi đâu xa lắm rồi. Có lần em lên nhà, hỏi, bố mẹ nói không biết anh ở đâu? Sao gần ngay đây mà chừng ấy năm anh không về nhà, cũng dấu không tin tức gì?
- Chuyện thì dài lắm. Để khi nào nói sau. Hôm nay Chi và bố đưa cháu sang đây có việc gì?
Cô có vẻ cụt hứng vì câu trả lời của Tuân. Lặng đi một lúc. Ông Tâm phải phá vỡ không khí trầm lặng:
- Được nghỉ mấy ngày. Tôi đưa cháu đi chơi. Nhân tiện muốn ghé thăm học hỏi kinh nghiệm nuôi chó Ngao..
- Cũng không có gì khó lắm. Tài liệu cháu cũng mày mò tìm được một ít. Chủ yếu phải chú ý quan sát. Giống này sống ở xứ xứ lạnh, sang ta phải có cách thuần hóa dần với khí hậu nóng ẩm của nước mình. Được cái nó là giống chó khôn, miễn dịch khá tốt ít nhiễm bệnh. Nhưng cơ bản là nguồn vốn. Nếu không có điều kiện thì đây là chỗ khó nhất..
- Tôi hiểu. Nếu có ít tiền thì nuôi ít, nhân giống dần lên. Cũng phải mấy chục triệu một con..
Xuyến Chi nghe thấy vậy, tròn mắt ngạc nhiên. Chả nhẽ bây giờ Tuân có bạc tỷ trong tay? Nhìn những chuồng chó ngoài kia với giá như vậy, cô biết anh đang nắm trong tay một tài sản lớn. Anh thành tỷ phú từ bao giờ vậy?
Tuân làm như không để ý đến tâm trạng này của cô. Anh vẫn mải mê nói chuyện về công việc nuôi giống chó lạ của mình. Ông Tâm cũng hào hứng chăm chú không kém. Hai người còn dắt nhau ra tận nơi thăm chuồng loài chó quý. Con gái cô cũng hăm hở chạy theo ông ngoại nghe những câu chuyện nó chưa được nghe thấy bao giờ.
Xuyến Chi chưa kịp hỏi ông chú Tuân trước ở đây giờ đã chuyển đi đâu? Cách nào đó ông đã chuyển cơ sở này cho anh cháu của mình? Cô biết đó là điều không nên hỏi. Mỗi người có một số phận, một câu chuyện đời khác nhau. Người ta không thể tùy tiện muốn hỏi lúc nào, như thế nào cũng được. Sớm muộn rồi mình cũng biết, không nên hỏi bây giờ. 
Một mình cô đi ngược chiều với nhóm của Tuân. Cô cứ theo lối sỏi lên trên đỉnh đổi. Từ đây nhìn ra, hồ như giống hơn, tĩnh lặng hơn. Thấp thoáng phía chân hòn đảo có bóng người. Một nhóm ba bốn cô gái còn rất trẻ, ăn mặc không giống người trong vùng. Họ là khách thăm quan, người làm ở đây, hay là ai khác? Trong số đó có ai cảm tình đặc biệt hay có quan hệ tình cảm với Tuân không?

Cuộc đời thật lạ. Chẳng có gì là ngẫu nhiêu cả. Mọi tình tiết, sự kiện như có sự sắp đạt có chủ ý của tạo hóa. Chẳng có gì vô tình!
Không hiểu tại sao, cảm giác của cô thật khó tả. Nó vừa nôn nao, vừa bồn chồn lại vừa hẫng hụt. Với cô lần gặp gỡ này cô không dám hy vọng nhiều.
Dù sao hai người ở đã cách nhau một khoảng khá xa.
Dù cô bây giờ là “người tự do”, nhưng dù sao cũng là gái có chồng, có con, còn anh vẫn một mình.
Có hy vọng cũng không đi tới đâu.
Nhưng biết đâu được? Cuộc sống vốn không có câu trả lời trước bất cứ chuyện gì.

Hồ nước mênh mang, Cô bất giác thở dài. Tiếng thở dài ấy mẹ vẫn bảo “con gái hay thở dài si tình là mệnh, và kết cục thường buồn khổ”.
Trước mặt người khác cô không bao giờ thở dài, để lộ ra như vậy. Nhưng giờ đây cô chỉ có một mình, có lỡ biểu hiện ra cũng chẳng sao. Nghĩ đến đấy, cô như người sực tỉnh, vội quay về.
Ông Tâm và Tuân đã ngồi uống nước được một lúc, còn cô con gái nhỏ của cô đang hí húi chơi đùa gì đó bên một gốc cây.
Thì ra nó bắt được vỏ con vòi voi đã lột xác. Nom bề ngoài hình hài con vòi voi như con vật đang còn sống, bám chắc vào vỏ cây..


========================

Phần nhận xét hiển thị trên trang