Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 1 tháng 2, 2016

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC Ở LIÊN XÔ TRONG THỜI ĐẠI THỐNG TRỊ CỦA CHỦ NGHĨA MARX – LENIN (1930 – 1980)


V.E. Khalizev , Valentin Evghenhievich  

  “Linh hồn của cách tân là sự tái định giá  tương lai từ vị thế thành tựu của quá khứ”
                                                                                                     P. Ricoeur .
                                    “Ở Nga,  những việc cần làm dẫu đơn giản cũng thành khó khăn”
                                                                                                    M.M. Prisvin

Vài  chục năm trở lại đây, những công trình viết về nền nghiên cứu văn học của nước  ta thời Xô viết ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Có những trường hợp,  các học giả  chỉ xoáy vào một phạm vi dữ liệu cục bộ nào đó (loại công trình này nhiều không  tính xuể), với những trường hợp khác, người ta lại khảo sát sự tác động của hệ  tư tưởng chủ đạo tới văn học và tới khoa học về tư tưởng hệ . Ngoài ra, người ta  còn nghiên cứu những cuộc đàn áp kéo dài suốt nửa thế kỉ do các cấp chính quyền  nhà nước thực hiện đối với giới văn nghệ sĩ và trí thức .
Tuy nhiên, loại  “siêu đề tài” này vẫn chưa được khai thác cạn kiệt. Công trình của chúng tôi là  một thử nghiệm nghiên cứu sơ bộ bối cảnh đời sống và hoạt động của các nhà  nghiên cứu văn học thời Xô viết dưới áp lực tư tưởng hệ, nặng nề nhất là những  năm 1930 – 1940. Điều chủ yếu chúng tôi muốn bàn bạc là: các nhà nghiên cứu  (ngược với những khó khăn có vẻ như không thể vượt qua) đã bảo vệ công việc và  bản thân mình như thế nào để thoát khỏi áp lực từ phía bên  ngoài.
***
Trong nghiên cứu văn học thời Xô viết, chủ nghĩa Marx có hai  mặt. Thứ nhất, đó là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận làm việc của những  học giả, trước hết là những học giả “hàng đầu”, ví như V.F. Pereverzev, G.N.  Pospelov, M.A. Lifshits, D. Lukacs, di sản của họ cho đến nay vẫn chưa mất ý  nghĩa.
Hiểu theo nghĩa như thế, thuộc về chủ nghĩa Marx còn phải kể thêm G.A.  Gukovski ở giai đoạn cuối, người có những công trình thể hiện sự “tán thành và  thậm chí hoàn toàn hoà tan vào hệ tư tưởng chính thống” , Iu.M. Lotman, người  bác bỏ chủ nghĩa ảo tưởng của hệ tư tưởng marxiste, nhưng lại dựa vào phương  pháp của Marx, vào phép biện chứng và chủ nghĩa lịch sử của ông ấy , Iu.G.  Oksman với hàng loạt công trình lấy nền tảng phương pháp luận là những ý kiến  của Lenin về phong trào giải phóng ở nước Nga .
Thứ hai, chủ nghĩa Marx  (chính xác hơn là “phiên bản Liên Xô” của nó) trở thành quyền lực trừng phạt của  nhà nước, nó được sử dụng như một công cụ trấn áp khoa học (chắn chắn, trước hết  là khoa học về văn học và nghệ thuật). Nó tựa như một chiếc dùi cui mà người ta  nắm chắc trong tay và mang ra dùng thả sức ở thế giới Nga (chính xác hơn, thế  giới Liên Xô). Ở chức năng dùi cui, “chủ nghĩa Marx” (trường hợp này dứt khoát  phải để trong ngoặc kép) tích cực khẳng định bản thân trong nghiên cứu văn học  vào khoảng giáp ranh những năm 1920 – 1930. Một bài báo có tính chất định hướng  (“Sự thật”, 18.9.1919) từng tuyên bố: “Người bạn đường của giai cấp vô sản không  phải là những ai chỉ dừng lại ở việc “tiếp nhận” cách mạng, mà là nhà văn biết  nhìn thấy mục đích cuối cùng của cách mạng là chủ nghĩa xã hội, nhà văn biết  dùng sáng tác của mình để tham gia vào công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ  nghĩa… Bời vì, những kẻ ngoảnh mặt đi trước các yêu cầu của thời đại dứt khoát  sẽ chống lại các yêu cầu ấy” . Vì thế, nhiều năm sau này, người ta ngang nhiên  trương lên khẩu hiệu: “Ai không đi với chúng ta, người ấy là kẻ thù của chúng  ta, người ấy cần phải loại bỏ”. Đúng vào thời kì này, kết hợp từ “nghiên cứu văn  học Marxiste – Leniniste” (và/hoặc: nghệ thuật học) xuất hiện và được kiện toàn.  Nó tự xưng là thứ khoa học phổ quát, duy nhất đúng. Một trong những tài liệu  chính thống từng khẳng định, rằng điều kiện tối quan trọng để xây dựng nền khoa  học đích thực về văn học là phải tiến hành một cuộc “đấu tranh triệt để và không  khoan nhượng chống lại mọi sự xuyên tạc để bảo vệ sự trong sạch của chủ nghĩa  Marx – Lenin” . Sự “trong sạch của chủ nghĩa Marx – Lenin” được hiểu như là yêu  cầu bắt buộc phải quy nghiên cứu văn học vào việc khảo sát nguồn cội giai cấp –  xã hội của sự sáng tạo ở các nhà văn và trong các tác phẩm. Vào năm 1932, nhà  nghiên cứu văn học A.G. Tseitlin khẳng định: “Không ai có quyền quên rằng, vấn  đề chức năng xã hội của văn học nghệ thuật chính là vấn đề quan trọng nhất trong  số những vấn đề đang đặt ra trước chúng ta” . Tội quên “bản chất giai cấp” của  nghệ thuật ngôn từ chẳng những đáng bị phê phán nghiêm khắc, mà còn bị trấn áp,  theo nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của từ ấy. Điều này đã được A.V. Lunatsarski nói  rõ vào năm 1933: “Chúng ta không thể không trấn áp những nhà văn và nghệ sĩ đang  sử dụng nghệ thuật và văn học để đấu tranh phản cách mạng với chúng ta” . Điều  Lunatsarski nói dĩ nhiên có quan hệ với cả phê bình văn học và khoa học về văn  học.

Hệ thống các biện pháp trấn áp đối với nghiên cứu  văn học được sử dụng vào những năm 1930 – 1940 (mấy thập niên sau có giảm nhẹ  hơn) có rất nhiều mặt và đa dạng theo cách riêng của nó: kiểm duyệt xuyên tạc  văn bản, trực tiếp ra lệnh cấm xuất bản bản thảo, tước bỏ quyền xuất bản (hệ  thống “gác cổng chuyên nghiệp”), đôi khi trực tiếp tiêu huỷ toàn bộ ấn phẩm của  cuốn sách trước khi nó được phát hành, đuổi việc, sa thải các học giả, bắt bớ,  bỏ tù họ…
Dưới thời Stalin, việc trấn áp các nhà hoạt động nghệ thuật và văn  học, trong đó có các học giả, hoàn toàn không có hồi kết. Danh sách các nạn nhân  được mở ra bằng D.S. Likhachev (1928 – 1932) và khép lại bằng L.E. Pinski, bạn  đồng tuế của ông (1951 – 1956). V.F. Pereverzv, M.M. Bakhtin, V.V. Vinogradov,  Iu.G. Oksman, D.E. Macsimov từng phải ngồi tù, hoặc đi đày. Chẳng bao lâu sau  khi bị bắt (1949), G.A. Gukovski và I.M. Nusinov đã chết trong nhà tù Lefortovo.  G.N. Pospelov, L.Ja. Ghinburg và nhiều người khác bị hỏi cung, thẩm vấn. Tiến  hành lục soát (ngay cả sau thời đại Stalin), tìm mọi cách để phát hiện các tài  liệu bị cấm được lưu giữ trong nhà các học giả (nhà Iu.M. Lotman và Iu.G. Oksman  từng bị lục soát như thế).
Một dấu hiệu thời đại không kém phần quan trọng:  trên báo chí và trong các cuộc họp, thường xuyên diễn ra những cuộc “kiểm thảo”  và tố giác các học giả và các nhóm làm việc của họ kèm theo sự trấn áp tàn khốc  với những mức độ khác nhau. Từ năm 1922 đến 1929 (sau sự kiện “con tàu triết  học” nổi tiếng), việc buộc tội tuy rất nghiêm khắc, nhưng chưa có sự bắt bớ.  Chẳng hạn, năm 1926, theo quyết định của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương  đảng Cộng sản, tạp chí “Nước Nga mới” bị đình bản, Tổng biên tập I. Leznhev  (theo sau các nhà triết học) bị trục xuất ra nước ngoài, nhưng năm 1930 lại được  quay về Liên Xô.
Vào quãng giáp ranh giữa những năm 1920 – 1930, chính sách  của đảng và nhà nước đối với văn học, nghiên cứu văn học và phê bình trở nên vô  cùng khắc nghiệt. Nhóm hình thức luận, trường phái Pereverzev và Viện Hàn lâm  Quốc gia các khoa học nghệ thuật (“ГАХН”), một cơ quan có nhiều học giả lớn  không thuộc về trường phái nào trong số các trường phái kể trên, đã phải hứng  chịu những đòn chí tử làm cho tan tác (ở đây, vào nửa sau những năm 1920, xu  hướng xã hội học hoá theo kiểu bán cưỡng bức ngày càng tăng lên).
Đến những  năm 1930, các biện pháp trấn áp đối với giới ngữ văn học trở nên vô cùng tàn  khốc. Vào giữa năm 1933 – 1934, “Vụ án các nhà nghiên cứu Slavơ” được nguỵ tạo  và kết thúc bằng hàng loạt cuộc bắt bớ, tù đày; muộn hơn một chút, vào các năm  1937 – 1938, người ta thủ tiêu hàng loạt nhân vật đang bị trấn áp. V.N. Perets,  một nhà nghiên cứu văn học chắc chắn là có uy tín nhất trong thế hệ đầu đàn thời  đó, phải đi đày và không lâu sau đó thì chết. Theo lời của các nhà nghiên cứu  thời ấy, ““Vụ án các nhà nghiên cứ Slavơ” là một khâu của chiến dịch chống lại  giới trí thức cũ: mục đích của nó là đe doạ và tiêu diệt những người được giáo  dục theo một hệ thống giá trị khác” (không giống với hệ thống giá trị marxiste –  leninste.- V. Kh.) .
Mâu thuẫn gay gắt trong môi trường của giới học giả và  những kẻ nguỵ học giả, những chiến binh năng nổ của hệ tư tưởng marxiste, là một  sự thật quan trọng trong đời sống của khoa nghiên cứu văn học vào những năm  1930. Những cuộc đối đầu theo kiểu như thế giữa những nhà nghiên cứu văn học vốn  thành thực, hoặc làm bộ thành thực nghĩ rằng họ nắm được chân lí tuyệt đối, bao  giờ cũng quay ngoắt thành những trận đấu tố, quy kết lẫn nhau phạm tội tư tưởng  hệ, tựa như một sự cáo giác được tuyên bố thẳng thắn, công khai. Bằng chứng rõ  nhất về chuyện đó là cuộc tranh luận diễn ra vào cuối năm 1934 xung quanh một  chủ đề có vẻ như chẳng dính dáng gì tới chuyện chính trị: lí luận tiểu thuyết.  Sau tham luận của D. Lukacs (trong số rất nhiều tham luận khác), V.F. Pereverzev  phát biểu. Ông chỉ trích nghiêm khắc báo cáo viên, tựa như báo cáo viên đã đứng  trên quan điểm duy tâm của Heghel, xa rời chủ nghĩa Marx, xích về phía nhà dân  tuý N.K. Mikhailovski: “Trong tham luận của ông ấy không thấy có tính giai cấp”,  “chẳng còn một chút gì” của xã hội học marxiste. Bạn của D. Lukacs là M.A.  Lifshits lên tiếng đáp lời và tỏ ra khinh bỉ Pereverzev với thái độ trịch  thượng, cay độc hơn nhiều so với việc Pereverzev buộc tội Lukacs. Rồi chuyện  xoay qua nói về sự thoát li nguy hiểm của học giả với “tư tưởng chuyên chính vô  sản”, “xa rời chủ nghĩa Marx để đứng về phía melsevich”, về ý nghĩa to lớn ở  những huấn thị của Stalin xung quanh “các vấn đề chính trị của chúng ta”, mà  Pereverzev đã coi thường. Rồi cả hội trường vang lên những lời tán thành phải  tiêu diệt kẻ thù của chủ nghĩa xã hội .
Kết quả của các cuộc tranh luận như  thế là những vụ trấn áp mới: vào năm 1938, Pireverzev bị bắt,  đến năm 1940, tạp  chí “Phê bình văn học” do M.A. Lifshits và D. Lukacs đứng đầu bị đình bản .  Trước mắt chúng ta là một trò hề bi thảm cực kì bỉ ổi: những người marxiste có  xác tín tranh luận kịch liệt với nhau, rồi về sau, một lực lượng thứ ba nào đó  trấn áp cả phía này, lẫn phía kia.
Trong cuộc tranh luận về tiểu thuyết có ý  nghĩa quan trọng vào giữa những năm 1930, ta thấy nổi rõ một đặc điểm mang tính  loại hình của những người có thể nói là tuân thủ hết sức nghiêm nhặt thế giới  quan marxiste. Đặc điểm thấm sâu vào máu họ là niềm tin mù quáng vào sự đúng đắn  của bản thân mình, là sự không nhượng bộ đối với tất cả những ai (trong phạm vi  của chủ nghĩa Marx và bên ngoài giới hạn ấy) có cách nghĩ khác đi.
Chẳng hạn,  vào giữa những năm 20 – 30, V.F. Pereverzev khẳng định rằng các môn đệ của phái  hình thức luận đã tạo ra cho công việc nghiên cứu của họ một màu sắc xã hội học  để tiến hành “cuộc đấu tranh giấu mặt chống lại quan điểm duy vật về lịch sử”.  Ông còn nhìn thấy trong các công trình nghiên cứu của họ một “mớ bòng bong xã  hội học”, thậm chí, thấy cả sự siêu hình (xin nhấn mạnh, siêu hình là một trong  những địch thủ gớm ghiếc nhất của chủ nghĩa Marx) . Nhưng chỉ hai năm sau, trên  chính tạp chí này (“Văn học và chủ nghĩa Marx”), người ta nói về Pereverzev còn  gay gắt hơn so với Pereverzev viết về trường phái hình thức luận: hệ thống của  Pereverzxev là một “hệ thống hoàn toàn thối nát” .
Sự công kích theo kiểu như  thế của các nhà nghiên cứu văn học đứng trên quan điểm marxiste vẫn tiếp tục xẩy  ra cả dưới thời hậu Stalin. Chẳng hạn, vào nửa sau những năm 1950, đầu những năm  1960, đã diễn ra một cuộc tranh luận về bản chất của cái thẩm mĩ giữa những  người được gọi là phái “tự nhiên thiên bẩm” (đối tượng thẩm mĩ mang tính khách  quan) và những người “thực tiễn xã hội” (cái thẩm mĩ là hiện tượng kinh nghiệm  xã hội mang tính chủ quan). Cả phái này lẫn phái kia đều “hành xử” trong khuôn  khổ của chủ nghĩa Marx. Vào năm 1964, thấy xuất hiện một bài bút chiến quyết  liệt đứng về phía G.N. Pospelov, nhà “tự nhiên thiên bẩm”. Bài bút chiến khẳng  định các đại diện của trường phái “mĩ học mới”, những nhà “thực tiễn xã hội”  (L.N. Stolovich và những người khác) “không biết mình đã trượt khỏi lập trường  của nhận thức luận duy vật – biện chứng”, “tất cả bọn họ đang cắm đầu xuống đất,  chổng ngược chân lên trời”: “tất cả được vặn ngược theo kiểu cách của chủ nghĩa  chủ quan”. Thậm chí bài bút chiến còn nói rằng Stolovich và những người đồng  quan điểm xem các nhà duy vật là địch thủ của mình . Đúng là Pospelov đã quy kết  đối thủ rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách thái quá. Nhưng khi biết có một đồng  nghiệp trẻ viết rằng, quy kết như thế là vi phạm đạo đức nghề nghiệp (chụp cho  đối thủ cái “mũ tư tưởng hệ” nguy hiểm), G.N. Pospelov giận dữ nói: “Hoàn toàn  ngược lại! Nếu gọi những kẻ duy tâm là các nhà duy vật thì tôi mới vi phạm phép  tắc đạo đức chứ!”. Lời phản ứng này rất tiêu biểu, thể hiện đặc điểm của một  người marxiste có xác tín triệt để. Giữa những nhà  nghiên cứu văn học cùng theo  chủ nghĩa Marx, không thể có, không thể tồn tại bất kì một thứ tình bằng hữu  nào. Tranh đấu! Chỉ có tranh đấu! Không chấp nhận mọi sự thoả hiệp!
Ở lĩnh  vực này, còn có thể kể thêm một sự kiện nữa. Năm 1964, tại hội thảo bàn về cuốn  sách viết về Dostoievski của Bakhtin (hội thảo của hội nghiên cứu khoa học sinh  viên tại khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva, rất đông người tham  dự), trong số những cử toạ đăng đàn phát biểu, có V.F. Pereverzev (chắc chắn,  đây là lần xuất hiện duy nhất của ông trước công chúng sau chuyến đi đày kéo dài  nhiều năm). Ông phê phán gay gắt phương pháp luận của Bakhtin, xem đó là phương  pháp sai lệch (sau hội thảo, về chuyện này, V.N. Turbin  nói: “Họ chẳng học hành  được gì cả”). Sau đó không lâu (tôi tình cờ nghe được chuyện này trong một cuộc  gặp gỡ có tính chất gia đình): Pereverzev rất phẫn nộ khi nói về bài phát biểu  bảo vệ Bakhtin của S.G. Bocharov…
Hệ tư tưởng marxiste được trộn lẫn với chất  men của chủ nghĩa không tưởng sắt máu, như những phát ngôn của Pereverzev,  Lifshits, Pospelov vừa dẫn ở trên, đã chứng tỏ, thái độ cố chấp cuồng tín, không  chấp nhận mọi thứ quan niệm khác biệt với “quan niệm duy nhất đúng” của riêng  mình, là kết cục tất yếu được sinh ra từ những ai trung thành với hệ tư tưởng  ấy. Cuộc đấu tranh bảo vệ thế giới quan “cứu rỗi toàn nhân loại” đã diễn ra dưới  những hình thức như thế trong thời đại Stalin (và cả sau này nữa!).
Tìm kiếm  mọi sự “nhiễu loạn”, “xét lại” và vạch trần nó gần như đã trở thành một thứ mệnh  lệnh. Tranh đấu không khoan nhượng để bảo vệ sự “trong sáng” của hệ tư thưởng  thống soái trở thành nhu cầu. Một trong những bài báo xuất hiện thời hậu chiến,  có giọng đầy hăm doạ (đối tượng của nó là bài M. Gorki và truyền thống dân tộc  trong văn học Nga của tác giả V. Vesnhitski), đã mở đầu thế này: “Một trong  những nhiệm vụ của nền nghiên cứu văn học Xô viết là đào tận gốc mọi tàn dư của  các lí luận nguỵ khoa học” .
Và những lời nói về sau này (1975) trong lá thư  của M.A. Lifshits gửi biên tập viên M.P. Rozin về bài viết của G.N. Pospelov  “Dòng chảy lí luận duy nhất”, dự định sẽ dùng cho tập 9 từ điển “Bách khoa văn  học giản yếu”, có ý nghĩa hết sức quan trọng: “Tên G. Lukacs được G.N. Pospelov  nhắc tới chỉ thuần tuý do những lí lẽ mị dân”; trong bài ấy chỉ có “sự trống  rỗng hoàn toàn”, “một mớ từ ngữ rối rắm”, còn bản thân bài viết ấy là một “hành  vi hèn mọn”, “không gì có thể bào chữa được”. Thậm chí còn nói thế này: trước  mắt ta là một trò đùa bỡn bất thường “theo phong cách nhà hàng Don Basilio” (ý  muốn nói về tài vu khống trong vở kịch Người thợ cạo thành Séville của  Beaumarchais) .
Quả là những chuyện om sòm trong gia đình các quý ông nghiên  cứu văn học – marxiste chẳng bao giờ có hồi kết.
Đến giai đoạn hậu chiến, sự  can thiệp thô bạo của thế giới cầm quyền Xô viết đạt tới giới hạn cực đỉnh. Vào  những năm 1947  – 1949, một chiến dịch đại quy mô được triển khai để đấu tranh  chống lại chủ nghĩa thế giới được xem là cực đối lập với chủ nghĩa yêu nước của  Liên Xô (gốc rễ của chủ nghĩa thế giới được tìm thấy trong các công trình của  A.N. Veselovski, người mà thời ấy được gọi là “nhà duy tâm tư sản”). Khoa Ngữ  văn Đại học Tổng hợp Leningrad trở thành trung tâm trấn áp đối với khoa học về  văn học. Có 7 trọng tội được gán cho các nhà nghiên cứu văn học xuất sắc, như  V.M. Zirmunski, B.M. Eikhenbaum, G.A. Gukovski, M.K. Azadovski. Giai đoạn cực kì  ảm đạm ấy trong lịch sử khoa học của chúng ta đã được nghiên cứu kĩ lưỡng (có  kèm theo tư liệu lưu trữ) trong các bài báo của K.M. Azadovski và B.F. Egorov  .
Thời kì này, tại khoa Ngữ văn đại học MGU (“МГУ”) cũng xẩy ra một cái gì  tương tự như vậy. Các nhân vật nhơ nhuốc giờ đây hoá ra là P.G. Bogatyrev, N.K.  Gudzii, S.M. Bondi, M.N.Peterson, E.V. Pomerantseva và (chắc chưa phải là người  cuối cùng) G.N. Pospelov, người bị cáo giác đã biện hộ cho Veselovski, thừa nhận  giá trị của tiểu thuyết Những người quỷ ám của Dostoievski, một văn sĩ  “thậm  khả ố” (chữ của Lenin), giải thích chủ nghĩa lãng mạn như một hiện tượng chỉnh  thể, không tính tới mâu thuẫn ở các nhánh “tiến bộ” và “phản động” của nó. Người  ta đã nhận xét thế này về bài Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn của Pospelov: “Tất cả đã  làm lộ ra chủ nghĩa hình thức, làm lộ ra các quan điểm vô chính trị, phản khoa  học. Kiểu lập luận rỗng tuyếch của G. Pospelov không thể không khiến người ta  phải ngạc nhiên” .                                        
***
Hệ tư  tưởng chính tưởng chính thống thời Xô viết, khi “mở rộng” sang khoa học  (có lẽ  ở mức độ rộng nhất là vào nghiên cứu văn học) đã sở đắc nhiều hình thức biểu đạt  cực kì độc đáo bằng ngôn từ, ở cả văn viết (sách, báo), lẫn văn nói (bài giảng  cho sinh viên, các bài phát biểu trong hội nghị, hội thảo, trong bảo vệ luận  văn, luận án). Đó là thứ tu từ học thấm đẫm cảm hứng mít tinh, thái độ tự thị và  sự hằn học. Ví dụ thế này. Vào những năm 60, tôi (cùng cặp với U.P. Fort) phải  làm phản biện cho một luận án phó tiến sĩ viết về Sekhov (việc xẩy ra ở trường  Đại học sư phạm Moskva). Trước buổi bảo vệ này, còn có một buổi bảo vệ khác về  đề tài giai cấp công nhân trong văn học Xô viết. Tôi và U.P. Fort đứng ngoài  hành lang tán gẫu với nhau về chuyện gì đó. Bỗng tất cả giật mình: trong hội  trường, nơi đang diễn ra lễ bảo vệ, thấy vang lên tiếng kêu thất thanh, kiểu  động kinh. Đó là cách mở đầu bài phát biểu của vị phản biện; luận án và chủ yếu  là đề tài của nó đã khơi dậy ở ông niềm phấn khích đầy thống thiết theo tinh  thần và phong cách diễn thuyết trước đám đông ở những năm 1930 – 1940.
Tất  nhiên là ở đây có sự lố bịch thái quá, nhưng sự thái quá ấy rất tiêu biểu cho  tinh thần thời đại. Bản chất của hệ tư tưởng Xô viết cần nghiên cứu một cách  thấu đáo, không thiên vị và bình tĩnh. Chúng tôi chỉ giới hạn ở một số vấn đề.  Hệ tư tưởng này đã trải qua nhiều thay đổi, nhiều khi rất quyết liệt. Vào những  năm 1920 - 1930, ngự trên mặt tiền sân khấu là tư tưởng của chủ nghĩa quốc tế vô  sản (cách mạng), nó dẫn tới thái độ rẻ rúng, miệt thị một cách thô bạo các  truyền thống dân tộc – miệt thị tất cả những gì từng tồn tại ở nước Nga thời  trước cách mạng. Người ta chỉ đề cao kinh nghiệm đấu tranh cách mạng với thể chế  chuyên chính (“phong trào giải phóng”). N.V. Kornhienko đã nhận xét chính xác,  vào giữa những năm 1920, “người ta đã quyết định dùng tất cả các vũ khí giáng  một đòn chí mạng vào kí ức lịch sử, vốn là nền móng của truyền thống dân tộc và  văn hoá” . Những đòn đánh như vậy thường được thực hiện dưới ngọn cờ đấu tranh  chống chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa sô vanh cho đến tận thời kì chiến tranh  1941 – 1945.
Về sau này, tinh thần cực đoan theo hướng ngược lại cũng nguy  hiểm đối với đất nước và nhân dân: biện minh cho nhân tố quốc gia – dân tộc, chủ  nghĩa yêu nước Liên Xô cùng với cương lĩnh tách rời xã hội Xô viết với kinh  nghiệm của các nước khác, với sự phủ định triệt để tất cả những gì được người ta  gọi là chủ nghĩa thế giới, còn bây giờ (với nghĩa mở rộng theo quan niệm giá trị  ngược lại cũng có khiếm khuyết), đôi khi người ta gọi là toàn cầu hoá với hàm ý  san bằng và xoá bỏ các khác biệt dân tộc. Sau chiến tranh, việc giới trí thức  (chính xác hơn, giới nguỵ trí thức, nhân danh tư tưởng hệ) xua đuổi các truyền  thống thời tiền cách mạng có bớt dần, dù người ta vẫn hoài nghi tinh thần “nông  dân gia trưởng” từng bị kết tội một cách nghiêm kắc trong các bài viết của Lenin  về L.Tolstoi và vẫn được giữ lại như một bộ phận cấu thành của tư tưởng hệ và  nghiên cứu văn học chính thống.
Hệ tư tưởng Xô viết dưới “dạng biểu hiện của  nó trong nghiên cứu văn học” rõ ràng đã trải qua một số giai đoạn, chí ít là hai  thời kì lớn. Đồng thời, trong cấu trúc của nó, bao giờ cũng có sự hiện diện của  những hằng số nào đó. Đó là sự tán dương, biện minh quyết liệt cho cách mạng và  một quan niệm gắn với nó về các giá trị của quá khứ Nga, ví như lịch sử của  phong trào giải phóng (về điều này, bài báo của Lenin Kỉ niệm Ghersen viết năm   1912 có “ý nghĩa chỉ đạo phương pháp luận”), vai trò tòng thuộc của đạo đức đối  với chính trị (nhân đây, cần nhớ lại bài phát biểu tại Đại hội đoàn komsomol  toàn Liên bang Nga lần thứ III, năm 1920), chủ nghĩa vô thần do Lenin tuyên bố  như một mệnh lệnh nào đó (bài viết năm 1922: Về ý nghĩa của chủ nghĩa duy vật  chiến đấu).
Chủ nghĩa Marx – Lenin qua sự “chỉnh sửa của Stalin” là một phiên  bản của chủ nghĩa Marx bị xuyên tạc nghiêm trọng. Hệ tư tưởng thống trị ở nước  Nga thời Xô viết chủ yếu có ý nghĩa tiêu cực đối với đất nước và xã hội. Suốt  hai chục năm gần đây người ta đã nói rất nhiều về điều này trên báo chí, trên  màn hình tivi, qua đài phát thanh…
Còn một phương diện khác của vấn đề cũng  đáng lưu ý. Nó là thế này: kiểu gì thì rồi hệ tư tưởng Xô viết cũng chống lại  chủ nghĩa chiết trung, thuyết tương đối luận ở đủ mọi làn điệu của nó: cả tương  đối luận của Nietzsche (trong chủ nghĩa tượng trưng và chủ nghĩa vị lai, có  tiếng vọng của nó), lẫn tương đối luận của chủ nghĩa hậu hiện đại rất sôi động ở  nhiều năm về sau này. Ở một mức độ nào đó, nó còn khư khư giữ lại cho mình một  quan niệm thâm căn cố đế (và cả chân lí tuyệt đối, bất khả xâm phạm) tồn tại đời  đời trong dân chúng và xã hội của họ như là những đại diện và nơi tập trung tính  xác định, tính chuẩn mực nào đó của các quan hệ thế giới và thước đo đạo đức. Hệ  tư tưởng này đòi hỏi con người phải có lí tưởng nhân sinh sắt đá. Quan điểm  marxiste (trong đó có quan điểm marxiste – leniniste) không chấp nhận chiết  trung, nó thù địch với thói vô liêm sỉ (tất nhiên, ở đây không nói về thực tiễn  đời sống của thời đại, mà chỉ bàn  riêng về phạm vi thế giới quan). Cho nên, khi  đã rơi vào khu vực quyền lực của hệ tư tưởng này, con người đôi khi duy trì được  tiềm năng để khắc phục quá trình suy thoái giá trị của chủ nghĩa Marx. Những  người tiếp nhận hệ tư tưởng Xô viết (thực tế, phần lớn xã hội và nhân dân đã  tiếp nhận như thế) đều có thể trở thành (nhiều trường hợp, hiện nay vẫn là)  những người trung thành tuyệt đối với các nguyên lí nền tảng của văn hoá Nga và  văn hoá toàn nhân loại. Hệ tư tưởng được nhào trộn trong men say của cuộc đấu  tranh giai cấp triệt để ở thời đại ấy (may sao!) không phải là hệ tư tưởng tiêu  cực hoàn toàn.  Nó là sự xuyên tạc đầy cay đắng, mang theo hung triệu đối với  các giá trị hiển nhiên, nhưng chưa đối lập tuyệt đối với các giá trị ấy, vì  rằng, nó vẫn chứa đựng trong bản thân khả năng (tiềm năng) khắc phục, như chúng  ta đã chứng kiến những gì diễn ra vào giữa những năm 1950 (thời tan băng và Đại  hội XX) và giữa những năm 1980 (bắt đầu cải tổ).
Các nhà nghiên cứu văn học  lọt vào sự thống trị của hệ thống quan điểm được ứng dụng một cách chính thống,  bắt buộc phải phục tùng, hay tự nguyện tiếp thu chúng, thể nào rồi cũng thu hẹp  đối tượng của mình. Trong thành phần của văn chương nghệ thuật có rất nhiều  chuyện giao cắt với nhau. Trước hết, đó là những tiên đề và những vấn đề mang ý  nghĩa tôn giáo - đạo đức vô cùng quan trọng, không sao có thể đánh giá hết được.  Thế mà, các sự kiện của lịch sử văn học lại bị dồn vào một sơ đồ theo yêu cầu  hạn hẹp. Các nhà văn – tác gia cổ điển bị đẩy sang hàng ngũ của những nhà đối  kháng, những nhân vật tố cáo chế độ cũ, hàng ngũ của các nhà cách mạng hoặc  tương tự như họ. Trong đa số trường hợp, tác phẩm của Sekhov được giải thích như  là sự báo trước sự xuất hiện sáng tác của Gorki. Dostoievski bị cấm (hoặc bán  cấm), vì đó là “nhà văn thậm khả ố” (những lời này của Lenin được xem như một  huấn thị và thường xuyên được trích dẫn). Có thể nói, chỉ Pushkin may mắn được  phong thánh chính thức. Lễ kỉ niệm lần thứ một trăm ngày mất của ông diễn ra rất  ầm ỹ vào năm 1937 là bằng chứng. Nhưng ở đây, có những mất mát cực kì nghiêm  trọng: sáng tác của thi hào vĩ đại được đẩy lại gần một cách thái quá với phong  trào của những người tháng Chạp. Nhờ các bài viết của Lenin về Tolstoi mà nhà  văn này được chú ý và được kính trọng, nhưng ở đây, sự kính trọng cũng bị đẩy  lệch một cách thái quá sang phía nội dung tố cáo trong sáng tác của ông. Tuy  nhiên, so với những gì đa số các học giả Xô viết đã khảo sát, thì việc nghiên  cứu các văn sĩ – tháng Chạp, Bielinski và Ghersen, Secnysepski và Dobraliubov,  Nhecrasov và Santykov-Sedrin, ít nhiều, có phần  được tự do và đầy đủ hơn (dù cả  ở đây cũng bị mất mát nghiêm trọng).
Văn học mười năm đầu thế kỉ XX bị thu  hẹp, giảm thiểu lớn nhất: nó bị “teo tóp” một cách thảm hại đến mức chỉ còn  Gorki và Maijakovski mà sáng tác của họ cũng bị diễn giải một cách phiến diện và  lệch lạc, Solokhov và Tvardovski (nếu chỉ kể tên các nhà văn lớn). Chẳng những  thế, có vô số nhân vật thuộc hạng hai, hạng ba được đưa về phía mặt tiền của sàn  diễn nghiên cứu văn học. A. Blok được đánh giá cao chủ yếu nhờ trường ca Mười  hai, tác phẩm được diễn giải như là sự ngợi ca cách mạng. Mandelstam và  Akhmatova vào những năm 30 (và cả sau này nữa!), dĩ nhiên là bị người ta lờ đi.  Các nhà văn – “Nga kiều” hoàn toàn không  được nhắc tới (thật ra, Làng của  Bunhin được thừa nhận vì giá trị tố cáo nước Nga tiền cách mạng). Sự trấn áp các  nhà nghiên cứu văn học và việc thu hẹp có tính cưỡng bức đối tượng nghiên cứu  của họ, rõ ràng, đi liền với nhau. Vào những năm 1930 – 1940, “liên minh” giữa  chúng trở nên vững chắc và hiệu quả nhất…

Lã Nguyên dịch từ tiếng Nga
( Còn nữa )
( Dịch giả trực tiếp  gửi cho Phamvietdao.net )


Phần nhận xét hiển thị trên trang

SỐ PHẬN LONG ĐONG CỦA BÀI THƠ “ĐÊM SAO SÁNG” của Nguyễn Bính





Nguồn : newvietart.com

Trước năm 1975, đất nước còn chia đôi, sách báo miền Bắc đưa vào miền Nam rất khó khăn, đúng hơn là không thể được. Trái lại, sách báo ở Mỹ và Pháp thì gửi sang Sài Gòn rất dễ, người Sài Gòn có thể đọc nhật báo Mỹ, Pháp hằng ngày. Ai có thân nhân ở Pháp thì có thể nhờ họ viết thư về Hà Nội cho bà con bảo gửi sách qua Pháp rồi từ đó chuyển về Sài Gòn, thật là nhiêu khê, vất vả. Như thế cũng chưa yên đâu, vì nhiều khi sách đến Sài Gòn còn bị Sở kiểm duyệt tịch thu.
  
Bấy giờ một số nhà thơ ở Sài Gòn  nghe đồn thi sĩ Nguyễn Bính có nhiều bài thơ hay, trong   đó bài “Đêm sao sáng”   khá nổi  tiếng nhưng không tìm được ở Sài Gòn nên rất háo  hức muốn biết. Một nhà thơ quen thân bác sĩ Nguyễn  Trần Huân, một nhà nghiên cứu khoa học đang sống tại  Pháp, nhờ ông mua hộ một số sách viết về văn học  Việt Nam bằng tiếng Pháp. Những sách này thường không  bị kiểm duyệt làm khó dễ nhưng thơ Việt dịch sang  tiếng Pháp thì không thể nào tránh được sự sai biệt  về ý, về lời, nhưng đành vậy chứ biết sao.
Một lần nhận được sách, mở ra  thấy bản dịch bài thơ “Đêm  sao sáng”, nhà thơ mừng  húm. Bài thơ được dịch với cái nhan đề“Nuit  étoilée” in trong cuốn   Anthologie de la Poésie  Vietnamienne (*) do nhà xuất bản  W.E.F.R tại Paris ấn hành năm 1969. Bản dịch tiếng Pháp  như sau

NUIT ÉTOILÉE                          
  Les étoiles, dans leur progressive montée,
  Donnent plus de profondeur au firmament.
  Le Fleuve d’Argent dévoile ses rives froides,
  Où se trouve le Pont bâti par les corbeaux?

  Cherchant en vain le chapeau du Génie des Moissons,
  Je vois un canard nageant dans l’espace,
  L’Étoile du Soir me rappelle tes doux yeux
  Au moment de départ, tout humectés de larmes.

  La Constellation Polaire, de son plus vif éclat,
  Brille magnifiquement dans un coin du ciel.
  Toi, au Sud du dix-septième parallèle,
  Combien d’années tu passais à la contempler!

  Les étoiles innombrables et scintillantes
  Éclairent notre patrie sans la diviser.
  Le ciel oublie parfois de se parer d’étoiles,
  Il n’y a pas de nuit où je ne pense à toi.
Traduit par P.V.

  Có được bài thơ rồi, họ nhờ nhà thơ Lê Vĩnh Thọ dịch lại sang tiếng Việt để xem có thể lột tả được mấy chục phần trăm thơ Nguyễn Bính. Bản dịch của Lê Vĩnh Thọ như sau:

ĐÊM  SAO  SÁNG

    Những vì sao càng tiến lên cao
    Bầu trời càng rõ vẻ thâm sâu.
Ngân Hà để lộ đôi bờ lạnh,
  Ô Thước còn kia một nhịp cầu.

  Mũ Thần Nông tìm hoài không thấy,
  Anh nhìn con vịt lội sông Ngân.
  Sao Hôm như mắt em hiền dịu
Đẫm lệ hôm nao lúc biệt hành.

  Long lanh rực rỡ một phương trời,
  Bắc Đẩu, chòm sao sáng tuyệt vời
  Bao năm em ngắm. Em bên đó,
  Phương Nam, bờ vĩ tuyến ngăn đôi.

  Vô số vì sao đang lấp lánh
  Soi chung quê mẹ cả hai miền.
  Trời còn có đêm không sao sáng,
  Anh chẳng đêm nào không nhớ em.

  Bản dịch tuy không xuất sắc lắm nhưng rất sát bản chữ Pháp nên các nhà thơ ở Sài Gòn bấy giờ tạm hài lòng vậy.

  Mãi đến sau năm 1975, đất nước thống nhất, sách báo từ miền Bắc, nhất là Hà Nội, tràn vào Sài Gòn nên tìm bản gốc bài thơ “Đêm sao sáng” của Nguyễn Bính không còn khó như trước nữa. Dưới đây là bài thơ ấy in trong cuốn “Tuyển tập Nguyễn Bính” (NXB Văn Học Hà Nội 1986):

ĐÊM  SAO  SÁNG

Đêm hiện dần lên những chấm sao,
    Lòng trời đương thấp bỗng nhiên cao.
  Sông Ngân đã tỏ đôi bờ lạnh,
  Ai biết cầu Ô ở chỗ nào?

  Tìm mũ Thần Nông chẳng thấy đâu,
  Thấy con vịt lội giữa dòng sâu.
  Sao Hôm như mắt em ngày ấy
  Rớm lệ nhìn tôi bước xuống tàu (**).

  Chòm sao Bắc Đẩu sáng tinh khôi
  Lộng lẫy uy nghi một góc trời.
  Em ở bên kia bờ vĩ tuyến
  Nhìn sao thao thức mấy năm rồi…

Sao đặc trời cao sáng suốt đêm,
  Sao đêm chung sáng chẳng chia miền.
  Trời còn có bữa sao quên mọc,
  Tôi chẳng đêm nào chẳng nhớ em.
               2-1957
  Thật là trớ trêu! Một bài thơ Việt Nam, do người Việt sáng tác mà người Việt không có bản gốc, phải dịch từ bản tiếng Pháp, như thế tránh sao được những chỗ sai hay khác biệt về lời, về ý. Đó cũng là một nét đặc thù trong thời chiến.
               (Tư liệu của Phan Thứ Lang)

  (*) Anthologie de la Poésie Vietnamienne: hợp tuyển thơ Việt Nam.
(**) Bước xuống tàu đ tập kết ra Bắc.


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Phái đoàn VN sang New Zealand ký TPP


Ngày 4/2, Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ chính thức được ký kết tại thành phố Auckland, New Zealand. Bộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng dẫn đầu phái đoàn sang Úc và New Zealand chuẩn bị ký kết TPPBộ trưởng Công Thương Vũ Huy Hoàng dẫn đầu phái đoàn sang Úc và New Zealand chuẩn bị ký kết TPP, theo truyền thông Việt Nam.

“Đoàn Việt Nam có nhiều đại diện doanh nghiệp. Thứ trưởng Bộ Công Thương Đỗ Thắng Hải khẳng định TPP mang lại rất nhiều lợi ích, mà đối tượng hưởng lợi nhiều nhất chính là doanh nghiệp,” Website CafeBiz hôm 30/1 tường thuật.

“Việc kết thúc đàm phán để ký kết TPP là quan trọng, nhưng việc tiếp theo là làm thế nào để mọi đối tượng, trong đó có doanh nghiệp, người dân, biết được nội dung có liên quan để tận dụng lợi thế, đồng thời có biện pháp hạn chế khuyết điểm.

"Đây là vấn đề không phải chỉ của Bộ Công thương mà là công việc của các bộ ngành, địa phương, hiệp hội, doanh nghiệp và của người dân”, ông Hải được trang điện tử này dẫn lời, nói.

Nội dung hiệp định vẫn giữ được những lợi ích cho các đối tượng tham gia, trong đó người dân, doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợiThứ trưởng Đỗ Thắng Hải

Việc ký kết TPP diễn ra trong bối cảnh Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, sắp mãn nhiệm sau Đại hội Đảng 12.

Ông Đỗ Thắng Hải khi trả lời tờ VnExpress tại cuộc họp báo Chính phủ chiều 29/1 cũng cho biết sẽ 'không có nhiều thay đổi' khi Việt Nam tham gia ký vào ngày thứ Năm tới đây so với các thông báo từ trước.

“Nội dung hiệp định vẫn giữ được những lợi ích cho các đối tượng tham gia, trong đó người dân, doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợi”, ông Thứ trưởng được dẫn lời, nói.

“Nội dung hiệp định vẫn giữ được những lợi ích cho các đối tượng tham gia, trong đó người dân, doanh nghiệp Việt Nam cũng được hưởng lợi”, quan chức này khẳng định với truyền thông Việt Nam.

Tờ VnExpress cho hay sau khi 'báo cáo Chính phủ và được Bộ Chính trị đồng ý', sáng 30/1, đoàn Việt Nam do Bộ trưởng Công Thương dẫn đầu sẽ tới Australia và New Zealand với chương trình công tác 'nhằm đẩy mạnh hợp tác kinh tế' và trong khuôn khổ chuyến đi, đoàn sẽ tham dự lễ ký kết chính thức hiệp định vào ngày 4/2.


TPP được kỳ vọng sẽ mang lại nhiều thay đổi cho kinh tế, phát triển và cải cách thể chế ở Việt Nam.

Phát biểu tại họp báo, đại diện Bộ Công Thương cho rằng một trong những thành tựu lớn nhất trong kinh tế đối ngoại năm qua của Việt Nam chính là tham gia nhiều hiệp định kinh tế mà TPP là đáng chú ý nhất, vẫn theo trang báo điện tử này.
'Thay đổi to lớn'

Trước đó, trong một trả lời phỏng vấn với BBC từ Hà Nội, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nói:

“Tôi nghĩ rằng những việc lớn như TPP thì không có một ông nào khởi xướng hoặc có công làm nên, vì cả ban lãnh đạo Việt Nam phải nhất trí thông qua, có chủ trương để làm chuyện ấy”.

“Do vậy, kết quả Đại hội Đảng 12 cũng như sự ra đi của ông Dũng không có tác động gì đáng kể đến tình hình kinh tế Việt Nam vì cơ bản là không có sự thay đổi chính sách”, nhà hoạt động dân sự nói.

Trong bài dự báo về tình hình chính trị - kinh tế Việt Nam trên trang Australian Financial Review cuối năm ngoái, tác giả Thomas Jandl viết:

"Năm 2016 mang tính then chốt để Hà Nội điều chỉnh cơ cấu chính trị trong nước cho phù hợp với vị trí mới của Việt Nam trong kiến trúc kinh tế và an ninh toàn cầu".

“Việc hoàn tất đàm phán TPP đặt Việt Nam vào khối 12 nước cần tuân thủ một loạt các quy tắc thương mại, đầu tư chung, đồng thời đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện những thay đổi to lớn ở trong nước.

Việt Nam đã hoàn thành đàm phán hợp tác thương mại tự do với EU hay TPP, hay là VN - Hàn Quốc, hàng loạt hiệp định thương mại tự do đã ký kết, hoặc đã hoàn thành đàm phán, tuy nhiên tác động tích cực chưa đến ngay, mà nó có thể trong 1-2 năm tới. Tuy nhiên VN có tận dụng được các cơ hội đó hay không là một chuyện khácPGS. TS. Phạm Thế Anh

"Các doanh nghiệp nhà nước, vốn được bảo hộ mạnh mẽ, nay sẽ phải nỗ lực để tồn tại nếu không muốn bị loại khỏi cuộc chơi, bởi họ nay sẽ cùng chung chịu sự điều chỉnh của các quy định áp dụng cho khối tư nhân”, ông Jandl viết trên tờ báo tài chính của Úc.

Khi so sánh với khối kinh tế tư nhân, tác giả nói rằng cả tính hiệu quả lẫn tính thiết thực trong việc sử dụng vốn của khối kinh tế nhà nước hoàn toàn thua kém, đặc biệt là nếu so với các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ.

Thế nhưng khối quốc doanh cho đến nay vẫn được nhận những thị phần to lớn về tín dụng và các hợp đồng làm ăn của chính phủ, và điều đó đã khiến cho nền kinh tế bị trì trệ.
Tận dụng được cơ hội?

Trong một trao đổi với BBC gần đây nhìn lại kinh tế năm qua và dự phóng trong toàn năm 2016, trong đó có bối cảnh TPP và Việt Nam, một nhà kinh tế học từ Đại học Kinh tế Quốc dân, PGS. TS. Phạm Thế Anh nói:

"Trong năm qua, có mấy sự kiện đáng nổi bật như sau, thứ nhất là sự hồi phục kinh tế, hồi phục kinh tế đã diễn ra trên diện rộng hơn, tức là trên nhiều ngành nghề hơn, nhưng đáng chú ý nhất vẫn là hồi phục ở ngành xây dựng và những ngành liên quan kinh doanh bất động sản, nó hơi chênh lệch so với những ngành khác.

Với TPP Việt Nam lần đầu tiên tham gia đồng thiết kế từ đầu một Hiệp định hợp tác có tầm cỡ quốc tế thế hệ mới.

"Ngành sản xuất có hồi phục so với năm trước, nhưng không phải là quá cao, và mức hồi phục của cả nền kinh tế thì chủ yếu diễn ra trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh bất động sản.

"Triển vọng tăng trưởng cả năm 2015 có thể đạt ở mức khoảng 6,6% đến 6,7% cho cả năm 2015, mức này là mức cao hơn so với kỳ vọng đầu năm, tuy nhiên gần đây, chỉ số quản trị nhà mua hàng (chỉ số PMI) của Việt Nam, đối với ngành sản xuất của Việt Nam, thì lại xấu đi; trong ba tháng gần đầy đều ở dưới ngưỡng 50 điểm, tức là ngưỡng trung lập.

"Nó phản ánh triển vọng kinh tế trong những năm sau có vẻ là xấu đi, không được tốt như những tháng đầu năm hay gữa năm, cái này có thể phản ánh đà hồi phục tăng trưởng của kinh tế Việt Nam có thể là hụt hơi. Đó là cái lo ngại.

"Thế còn vấn đề khác như là thương mại hay đầu tư quốc tế, thì nó chưa có gì nổi bật cả, mặc dù trong năm qua Việt Nam đã hoàn thành đàm phán hợp tác thương mại tự do với EU hay TPP, hay là Việt Nam - Hàn Quốc, thì hàng loạt hiệp định thương mại tự do đã ký kết, hoặc đã hoàn thành đàm phán, tuy nhiên tác động tích cực chưa đến ngay, mà nó có thể trong một hai năm tới.

"Tuy nhiên thì Việt Nam có tận dụng được các cơ hội đó hay không, thì nó là một câu chuyện khác," chuyên gia về kinh tế vĩ mô Phạm Thế Anh nói với BBC.

http://www.bbc.com/vietnamese/vietnam/2016/01/160130_vn_delegation_tpp

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trung Quốc ngày càng lộ rõ bộ mặt của kẻ giang hồ


>> Ông Obama không hề muốn có thêm một nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ


Linh Phương
Năng Lượng Mới - Trung Quốc đang ngày càng lộ rõ bộ mặt “giang hồ” của họ, bởi chỉ có những kẻ giang hồ mới hành xử theo cái thứ luật riêng của họ mà bất chấp luật pháp quốc tế, bất chấp dư luận xã hội.

Những phát ngôn của Bắc Kinh trong vụ Hải quân Mỹ đưa khu trục hạm USS Curtis (DDG 54) tiến vào và di chuyển bên trong vùng 12 hải lý của đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa ngày 30/1/2016 theo thủ tục “đi qua vô hại”, nhằm thực hiện chiến dịch tự do hàng hải, là một trong những minh chứng rõ ràng nhất cho thấy lối hành xử “giang hồ” của Trung Quốc.

Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh lớn tiếng tuyên bố: "Tàu chiến nước ngoài tiến vào (cái gọi là) lãnh hải Trung Quốc, bắt buộc phải có sự phê chuẩn của chính phủ Trung Quốc.

Tàu chiến Mỹ đã vi phạm các quy định của pháp luật Trung Quốc, tự ý tiến vào lãnh hải Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ áp dụng các biện pháp giám sát, phản đối bằng loa phát thanh... theo quy định”.

Còn Người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Dương Vũ Quân thì vênh vang cho hay quân đội nước này đã cảnh báo và xua đuổi tàu khu trục của Mỹ khi nó tiến vào vùng 12 hải lý quanh đảo Tri Tôn.

Khoan hãy bàn về chuyện Trung Quốc có thực đã cảnh báo và xua đuổi khu trục hạm USS Curtis của Mỹ như lời Bắc Kinh nói hay không, vì dù sao cũng chưa thể kiểm chứng thông báo của Mỹ rằng, không có tàu chiến của quân đội Trung Quốc trong khu vực khi tàu khu trục của Hải quân Mỹ tiến hành tuần tra.

Tuy  nhiên, qua lời lẽ của Bắc Kinh, có thể thấy họ chẳng coi “quyền tự do hàng hải” hay “quyền đi qua vô hại” trong lãnh hải được quy định trong Điều 17, Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 ra gì.

Phản ứng của Bắc Kinh trong sự kiện USS Curtis cũng tương tự như cách họ đã nói, đã làm trong vụ khu trục hạm USS Lassen của Hải quân Mỹ thực thi tự do hàng hải trong phạm vi 12 hải lý của bãi Đá Su Bi, thuộc quần đảo Trường Sa; hay như các vụ đe dọa các máy bay của Australia, Philippines hồi năm ngoái ở khu vực quần đảo Trường Sa.

Có thể hình dung kiểu đáp trả của Trung Quốc chẳng khác gì kiểu một tên giang hồ đang chiếm cứ một phương, tưởng bầu trời này, mặt đất này, mặt biển này là của riêng hắn, hắn muốn làm gì thì làm, hắn cho ai qua mới được qua, bỗng một ngày bị một kẻ từ nơi khác tới “thách thức” sự chiếm đóng của mình, liền giãy nảy lên và hăm dọa đòi xử kẻ thách thức theo “luật” của riêng hắn.

Trong khi đó, bản thân Trung Quốc lại là kẻ chiếm đất, chiếm đảo, chiếm biển từ tay người khác bằng vũ lực, bằng thủ đoạn. Và những sự thật này, cả thế giới đều biết, cho dù Trung Quốc muốn phủ nhận, chối bỏ cũng không được.

Trung Quốc vẫn khơi khơi nói họ có cái gọi là "chủ quyền" với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, cho nên họ làm gì ở trên các đảo, rạn san hô hữu quan ở 2 quần đảo này cũng là hoàn toàn chính đáng, từ việc nạo vét đất, cát bồi đắp, xây đảo nhân tạo đến ngăn cản, hăm dọa tàu thuyền, máy bay, bất kể dân sự, quân sự của các nước khác hoạt động trong những khu vực này.

Tuy nhiên, thực tế Trung Quốc đến nay vẫn không thể đưa ra bất cứ bằng chứng lịch sử, cũng như tài liệu pháp lý nào được công nhận để chứng minh cho cái gọi là “chủ quyền” đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, nếu không muốn nói là Bắc Kinh còn đang “cứng họng” trước những chứng cứ hoàn toàn chống lại luận điệu của họ.

Cơ sở mà Bắc Kinh luôn trưng ra để yêu sách đòi chủ quyền với gần 2/3 diện tích Biển Đông, trong đó có quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam là bản đồ “đường 9 đoạn” (hay còn gọi là “đường lưỡi bò”). Mà tấm bản đồ này thì từ giới học giả cho đến chính phủ các nước trên thế giới đều cho rằng nó thiếu một cơ sở chắc chắn về khía cạnh luật pháp. Nguồn gốc và ý nghĩa của “đường lưỡi bò” hoàn toàn mập mờ, không chính xác đến nỗi bản thân các học giả Trung Quốc cho đến nay cũng không thống nhất được một giải thích hợp lý nào.

Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng không đưa ra được bằng chứng nào có sức thuyết phục về việc họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách liên tục, hòa bình từ thời xa xưa.

Lịch sử thì còn xa xôi, nhưng những thủ đoạn và hành động đê hèn, tàn bạo mà Trung Quốc đã làm để có được quyền kiểm soát với quần đảo Hoàng Sa và một số bãi đá ở Trường Sa của Việt Nam như bây giờ thì rất gần và không khó để kiểm chứng: nhân chứng vẫn còn, vật chứng vẫn còn, hình ảnh và thậm chí cả video vẫn còn đó. Chỉ cần vào Internet, gõ “Hải chiến Trường Sa”, sẽ thấy video và vô số hình ảnh quân đội Trung Quốc xâm lược, tàn sát đẫm máu các chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam đang canh giữ chủ quyền Tổ quốc ở bãi đá Gạc Ma ngày 14/3/1988. Những hình ảnh về việc Trung Quốc lợi dụng tình hình Việt Nam đang gấp rút thống nhất đất nước, cho tàu chiến đánh cướp trắng trợn phần phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam năm 1974 cũng không gì có thể xóa bỏ được trong các kho lưu trữ vô tận trên Internet.

Rõ là Trung Quốc đã “vừa ăn cắp” lại “vừa la làng”.

Bộ mặt của kẻ giang hồ cơ hội của Trung Quốc còn bộc lộ rõ qua cách hành xử của Bắc Kinh trong vụ kiện của Philippines.  

Trung Quốc hiện thời cũng không dám “ló mặt” tham dự các phiên tòa xử vụ kiện liên quan đến tranh chấp Biển Đông mà Philippines đã khởi kiện lên Tòa trọng tài thường trực (PCA) ở La Haye từ năm 2013.

Không những vậy, Bắc Kinh còn cáo buộc Philippines đã “lạm dụng Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 để cưỡng chế cơ chế giải quyết tranh chấp, đơn phương đưa ra và cố ý thúc đẩy trọng tài tranh chấp Biển Đông, là khiêu khích chính trị đội lốt pháp lý”. Bên cạnh đó, Trung Quốc khăng khăng cho rằng, là quốc gia chủ quyền và nước ký UNCLOS 1982, Trung Quốc có quyền tự chủ lựa chọn phương thức và trình tự giải quyết tranh chấp và giải pháp mà Bắc Kinh lựa chọn là đàm phán và thương lượng.

Không những cáo buộc Philippines, mà Trung Quốc còn ngang ngược tố cáo Tòa án Trọng tài Thường trực PCA đã bất chấp thực chất vụ án trọng tài là vấn đề chủ quyền lãnh thổ và hoạch định đường biên giới trên biển, cùng vấn đề liên quan, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của Trung Quốc, với tư cách là nước ký Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển, làm tổn hại đến tính hoàn chỉnh và tính thẩm quyền của Công ước này.

Ngay trong cái lý lẽ của Bắc Kinh khi “tố cáo” Philippines lạm dụng UNCLOS 1982 đã có lắm điều nực cười, bởi Trung Quốc tự cho họ có quyền lựa chọn phương thức, trình tự giải quyết tranh chấp là đàm phán và thương lượng còn Philippines thì lại không được cậy nhờ đến một cơ chế trọng tài theo luật pháp quốc tế, trong khi giải pháp này là rất hợp pháp, hợp lý, hợp tình và rất văn minh.

Rõ ràng, Bắc Kinh luôn tìm cách biến tấu, diễn giải luật pháp quốc tế theo hướng có lợi cho họ và sẵn sàng không đếm xỉa đến các quy định luật pháp nếu như thấy bất lợi cho họ.

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam ‘tôn trọng,’ Trung Quốc chửi Mỹ ‘khiêu khích trắng trợn’


Người Việt HÀ NỘI (NV) – Việt Nam “tôn trọng quyền đi qua vô hại” của Mỹ trong khi Trung Quốc cay cú đả kích rằng Mỹ “khiêu khích trắng trợn” khi cho chiến hạm đi vào bên trong phạm vi 12 hải lý của đảo Tri Tôn, thuộc quần đảo Hoàng Sa. Giống như USS Lassen, USS Curtis Wilbur đã tiến sâu vào bên trong phạm vi 12 hải lý quanh đảo Tri Tôn của quần đảo Hoàng Sa. Nhưng lần này có một sự khác biệt quan trọng, Tri Tôn là đảo tự nhiên, không phải đảo nhân tạo như Subi. Nói cách khác, cuộc tuần tra của USS Curtis Wilbur phủ nhận cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa.
Khu trục hạm USS Curtis Wilbur vừa thực hiện xong cuộc tuần tra ở quần đảo Hoàng Sa, từng đến thăm cảng Tiên Sa (Đà Nẵng) hồi cuối Tháng Bảy, 2014. (Hình: Hoang Dinh Nam/AFP/Getty Images)

Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ hôm Thứ Bảy thông báo khu trục hạm USS Curtis Wilbur trang bị hỏa tiễn, đã đi vào bên trong phạm vi 12 hải lý của đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa mà cả Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan đều tuyên bố chủ quyền. Hành động này được thực hiện sau lời tuyên bố, Hoa Kỳ sẽ hành động nếu Trung Quốc tấn công quần đảo Senkaku đang tranh chấp với Nhật.

Phản ứng với thông tin trên, Bộ Ngoại Giao Việt Nam nói rằng: “Là quốc gia thành viên của Công Ước Liên Hợp Quốc Về Luật Biển năm 1982, Việt Nam tôn trọng quyền đi qua vô hại trong lãnh hải được thực hiện phù hợp với các quy định có liên quan của luật pháp quốc tế, đặc biệt là điều 17 của công ước.”

Ngược lại, Bắc Kinh phản ứng với sự giận dữ. Hai ngày liên tiếp, Tân Hoa Xã đưa ra các bài bình luận cáo buộc Mỹ là “làm tổn hại lòng tin cậy lẫn nhau.”

Phát ngôn viên Bộ Quốc Phòng Trung Quốc nói Mỹ cho chiến hạm vào bên trong phạm vi 12 hải lý của một đảo của họ mà không thông báo trước là “khiêu khích trắng trợn.”

Việc làm của Mỹ là “nghiêm trọng vi phạm luật lệ Trung Quốc, khủng bố an ninh hòa bình và trật tự ở vùng biển cũng như làm suy giảm an ninh và ổn định ở khu vực,” bản tuyên bố của Bộ Quốc Phòng Trung Quốc viết như thế trên Tân Hoa Xã và đe dọa rằng Bắc Kinh sẽ dùng “bất cứ biện pháp nào để bảo vệ chủ quyền và an ninh bất chấp những khiêu khích kiểu nào mà Mỹ thi hành.”

Việc khu trục hạm USS Curtis Wilbur tiến gần quần đảo Hoàng Sa nằm ngoài dự đoán của tất cả các bên, có lẽ của cả Trung Quốc.

Trước nay, những chỉ trích về yêu sách, cũng như hành động thái quá của Trung Quốc ở Biển Đông từ các thành viên ASEAN, kể cả Việt Nam, Philippines và cộng đồng quốc tế, bao gồm Hoa Kỳ, Nhật,… chỉ xoay quanh khu vực quần đảo Trường Sa – nơi có nhiều bên đang chia nhau kiểm soát các thực thể và tranh chấp với nhau về chủ quyền.

Rất ít khi những chỉ trích này đề cập đến Hoàng Sa, một quần đảo cũng của Việt Nam, từng bị Trung Quốc cưỡng chiếm toàn bộ từ Tháng Giêng, 1974. Họa hoằn mới có một số chuyên gia an ninh quốc phòng cảnh báo, Trung Quốc sẽ hành xử tại quần đảo Trường Sa y hệt như những gì Trung Quốc đã làm cách nay 42 năm đối với quần đảo Hoàng Sa: Dùng sức mạnh quân sự để chiếm giữ, củng cố, phát triển hạ tầng nhằm tạo ra nhận thức rằng “chuyện đã rồi” và không còn bên nào muốn thay đổi thực tại nữa.

Tuy nhiên, những cảnh báo đó cũng chỉ dẫn Hoàng Sa như một ví dụ chứ không xem Hoàng Sa như một thực thể phải xét lại xem Trung Quốc đã thủ đắc thế nào và có cần phải bận tâm về vấn đề chủ quyền đối với Hoàng Sa hay không.

Thái độ ngoan cố và trịch thượng của Trung Quốc đối với các đề nghị của cộng đồng quốc tế nhằm giảm thiểu căng thẳng do tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông vốn là lý do chính khiến ngày 27 Tháng Mười, 2015, Hoa Kỳ điều động khu trục hạm USS Lassen tiến sâu vào bên trong phạm vi 12 hải lý quanh Subi, một bãi đá ở quần đảo Trường Sa được Trung Quốc bồi đắp thành đảo nhân tạo.

Tuy luật pháp quốc tế chỉ thừa nhận vùng biển trong phạm vi 12 hải lý quanh cáo đảo thuộc chủ quyền của quốc gia sở hữu đảo đó nếu đó là đảo tự nhiên, không phải đảo nhân tạo, nhưng sự kiện chiến hạm USS Lassen đi vào vùng 12 hải lý vẫn khiến Trung Quốc nổi giận, chỉ trích Hoa Kỳ kịch liệt.

Bất chấp sự giận dữ, thậm chí còn hăm dọa, thượng tuần Tháng Mười Một năm ngoái, Hoa Kỳ khẳng định sẽ tiếp tục tuần tra thường xuyên tại Biển Đông như đã từng thực hiện các cuộc tuần tra trên toàn thế giới. Theo Hoa Kỳ, những cuộc tuần tra như thế vừa nhằm khẳng định tự do lưu thông theo luật pháp quốc tế là quyền bất khả chiếm đoạt, vừa nhắc nhở cả Trung Quốc lẫn các quốc gia khác về quan điểm của Hoa Kỳ.

Tuy nhiên, từ đó đến nay, Hoa Kỳ chưa thực hiện thêm cuộc tuần tra nào ở Biển Đông. Giữa lúc người ta chờ đợi Hoa Kỳ sẽ thực hiện tiếp các cuộc tuần tra tương tự tại quần đảo Trường Sa thì ngày 30 Tháng Giêng, Hoa Kỳ điều động khu trục hạm USS Curtis Wilbur đến tuần tra tại quần đảo Hoàng Sa.
Giống như USS Lassen, USS Curtis Wilbur đã tiến sâu vào bên trong phạm vi 12 hải lý quanh đảo Tri Tôn của quần đảo Hoàng Sa. Nhưng lần này có một sự khác biệt quan trọng, Tri Tôn là đảo tự nhiên, không phải đảo nhân tạo như Subi. Nói cách khác, cuộc tuần tra của USS Curtis Wilbur phủ nhận cái gọi là chủ quyền của Trung Quốc ở quần đảo Hoàng Sa.

Dù đại diện Hoa Kỳ tuyên bố, cuộc tuần tra vừa kể của USS Curtis Wilbur là nhằm khẳng định nỗ lực bảo vệ quyền tự do hàng hải, phản đối “các đòi hỏi chủ quyền quá đáng” của Trung Quốc, Việt Nam và Đài Loan, các bên đang có tranh chấp về chủ quyền ở Hoàng Sa, nhưng người ta tin rằng, cuộc tuần tra chính là thách thức trực tiếp yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông.

Cần nhắc lại là cách nay chỉ vài ngày, Trung Quốc cũng dùng giọng điệu tương tự khi Đô Đốc Harry Harris, tư lệnh Bộ Chỉ Huy Thái Bình Dương của quân đội Hoa Kỳ, khẳng định, Hoa Kỳ sẽ hành động nếu Trung Quốc tấn công quần đảo Senkaku.

Senkaku là một quần đảo ở biển Hoa Đông, trước nay vẫn nằm dưới quyền kiểm soát của Nhật, nhưng Trung Quốc một mực khẳng định là của mình và đã nhiều lần điều chiến hạm đến sát quần đảo này.

Lúc đó, Đô Đốc Harris còn nói thêm rằng, Hoa Kỳ sẽ tiếp tục thách thức yêu sách của Trung Quốc về chủ quyền tại Biển Đông, nơi mà theo ông, không có hòn đảo nào thuộc về Trung Quốc.

Bất kể Trung Quốc nhấn mạnh, duy trì hòa bình và sự ổn định ở Biển Đông là công việc của Trung Quốc và ASEAN, không cần đến quốc gia khác chỉ trỏ và đưa ra những ý kiến ngu ngốc, USS Curtis Wilbur đã đến và thực hiện xong cuộc tuần tra ở quần đảo Hoàng Sa. 

(G.Đ.)
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Câu chuyện nước Lào


Người Việt Lê Phan - Trong khi thế giới chỉ chú mục vào đại hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam, cách ngày Đảng Cộng Sản Việt Nam kết thúc đại hội chưa đầy một tuần, Đảng Cộng Sản Lào đã có một quyết định làm Bắc Kinh choáng váng khi họ lật đổ toàn bộ hàng lãnh tụ thân Bắc Kinh và đưa một nhân vật vốn lâu nay bị gạt sang một bên chờ về hưu lên cầm quyền. Xem thêm: Danh sách Ban CHTW Đảng NDCM Lào vừa được bầu / Lào có Tổng Bí thư 78 tuổi, Thủ tướng 71 tuổi
Ông Bounnhang Vorachith
Đảng Cộng Sản Lào đã bầu lên một vị phó chủ tịch nước nước đã 78 tuổi, có liên hệ mật thiết với Việt Nam như là tân lãnh tụ hôm Thứ Sáu 23 tháng 1 vừa qua, trong một chỉ dấu là quốc gia này muốn có một liên hệ mạnh mẽ hơn với Hà Nội thay vì trông cậy quá nhiều vào Trung Cộng. Ông Bounnhang Vorachith sẽ thay thế Tướng Choummaly Sayasone, 79 tuổi, làm tổng bí thư, trong cuộc bỏ phiếu vào ngày cuối của Đại Hội Thứ 10 của Đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào. Ông Choummaly đã cầm quyền từ 10 năm nay.

Ông Bounnhang bắt đầu gia nhập Pathet Lao, Đảng Tiền Thân của đảng Nhân Dân Cách Mạng Lào hiện nay, vào năm 1952, và đã là người được Hà Nội đưa về để thành lập nên nước Lào hiện nay sau năm 1975. Theo Thông Tấn Xã Nikkei, ông có liên hệ mật thiết với Hà Nội, đã được huấn luyện quân sự ở Việt Nam và sau cuộc nội chiến ở Lào, đã theo học các khóa huấn luyện tư tưởng ở Hà Nội. Cũng như nhiều lãnh tụ Lào, ông thông thạo tiếng Việt.

Nikkei cũng cho biết là thay đổi lãnh đạo lần này bao gồm cả sự ra đi của ông Somsavat Lengsavad, một phó thủ tướng đứng hàng thứ tám trong hàng kế vị ở Lào và được nổi tiếng thân Trung Cộng. Nói tiếng Hoa giỏi, ông Somsavat đã tham gia nội các trong vai trò ngoại trưởng năm 1993, và được cho là đã đưa đầu tư của doanh nghiệp Trung Cộng vào Lào. Trong những năm gần đây, ông đã giúp thực hiện một loạt các dự án do Trung Cộng tài trợ, kể cả việc phóng lên vệ tinh đầu tiên của Lào, sự khởi đầu của một chương trình hỏa xa nằm trong chương trình Con Đường Lụa Trên Đất Liền của Bắc Kinh.

Dẫn thống kê của Văn Phòng Vientiane của Tổ Chức Mậu Dịch Ngoại Quốc của Nhật Bản, Nikkei cho biết là đầu tư của doanh nghiệp Trung Cộng vào Lào đã tăng vọt nhờ sự cố gắng của ông Somsavat. Năm 2014, đầu tư của Trung Cộng chiếm đến gần 30% tổng số đầu tư ở Lào, vượt Việt Nam để chiếm vị trí đứng đầu trong số đầu tư ngoại quốc ở Lào.

Cùng ra đi với ông Choummaly là Thủ Tướng Thongsing Thammavong. Ông Thongsing, tuy mới làm thủ tướng được năm năm, đã bị nhiều tố cáo tham nhũng, quản trị kinh tế sai và chỉ trích là ông quá thân Trung Cộng. Với chính phủ của ông bị ảnh hưởng bởi một loạt những ồn ào quốc tế liên quan đến vụ mất tích của ông Sombath Somphone, một nhà tranh đấu cho nông dân, ông Thongsing có lẽ được nghĩ là không nên chủ trì đất nước khi mà năm nay Lào sẽ là chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á (Asean). Hà Nội hẳn sẽ hài lòng vì ông Thongsing, theo Tạp Chí The Diplomat, chính là người đã có kế hoạch xây dựng những đập thủy điện khổng lồ trên sông Mekong và các phụ lưu vốn đang ảnh hưởng lớn đến đời sống và nền kinh tế của các quốc gia hạ lưu như Việt Nam.

Ông Thongsing đã làm nhiều người không bằng lòng với những dự án hạ tầng cơ sở khổng lồ, kể cả một hệ thống hỏa xa chạy ngang dọc khắp nước mà ông ta dự định tài trợ với tiền vay từ Bắc Kinh, mặc dầu quốc gia nhỏ bé của ông không có bao nhiêu nhu cầu và chỉ có một nền kinh tế với GDP vỏn vẹn có 12 tỷ đô la.

Trong khi đó, Đài Á Châu Tự Do (RFA) loan tin là cựu Bộ Trưởng Tài Chánh Phouphet Khamphounvong và Thống Đốc Ngân Hàng Trung Ương Somphao Sayasith đã bị bắt về tội tham nhũng. Như vậy bản tin của RFA kết luận, “Toán lãnh đạo mới của quốc gia độc đảng bí ẩn này được coi như là thân Hà Nội trong khi những người hiện đang nắm quyền đã là đồng minh với Bắc Kinh.”

Sự việc Lào có vẻ như đột ngột thay đổi không những hàng lãnh đạo chóp bu mà còn thay đổi luôn cả lập trường đối với nước láng giềng khổng lồ phương Bắc, có thể nói bắt nguồn từ vị trí địa lý của Lào cũng như từ lịch sử của đảng Cộng Sản Lào.

Lào là một quốc gia hoàn toàn nằm trong lục địa, ráp ranh với năm quốc gia láng giềng, quốc gia nào cũng lớn hơn họ. Lào có một liên hệ sắc tộc và lịch sử với Thái Lan. Hai dân tộc này là một, cho đến nay họ còn hiểu nhau, nhất là người Thái miền Bắc. Nhưng ngoài liên hệ đặc biệt đó với Thái Lan, Lào còn có một liên hệ mật thiết nhưng nhiều khi khó khăn với hai nước láng giềng Cộng Sản anh em.

Ảnh hưởng của Hà Nội đối với Lào bắt đầu từ thập niên 1950 và từ lúc khởi thủy của phong trào Cộng Sản Lào. Đảng Pathet Lào được thành lập ở Việt Nam. Cho đến năm 1975, với sự giúp đỡ của Hà Nội, Pathet Lào chiến thắng, lật đổ được chính phủ hoàng gia. Sau năm 1975, Lào tiếp tục “lệ thuộc” vào Hà Nội. Lào còn cho phép Hà Nội duy trì một lực lượng quân sự ở trên đất họ. Trên giấy tờ thì lực lượng của Hà Nội đã được rút đi từ năm 1989 nhưng quân đội Lào và quân đội Hà Nội vẫn tiếp tục có liên hệ khá thân thiện. Nhưng từ khi Trung Cộng bắt đầu phục hồi kinh tế sau công cuộc đổi mới của ông Đặng Tiểu Bình, sự hiện diện của Trung Cộng ngày càng gia tăng.

Từ thập niên 1990 trở đi, sự canh tranh giữa Bắc Kinh và Hà Nội ngày càng gay go. Đó là giai đoạn mà khi Hà Nội xây nhà Hữu Nghị Lào Việt ở một bên đường thì ngay bên kia, Trung Cộng phải xây một tòa nhà Hữu Nghị Trung Lào cao hơn, lớn hơn và “hoành tráng” hơn.

Mặc dầu không giúp đỡ gì cho Pathet Lao trong giai đoạn dành quyền, cho đến khi Liên Xô sụp đổ, nền kinh tế của Hà Nội sụp đổ theo, Bắc Kinh có vẻ không chú ý bao nhiêu đến nước láng giềng nhỏ bé này. Nhưng sự việc này thay đổi sau khi Bắc Kinh thấy Lào có thể cho họ con đường đi xuống Đông Nam Á dễ dàng hơn mà không phải qua Việt Nam. Tham vọng của Trung Cộng trong việc thiết lập đường xe lửa Côn Minh-Singapore nối liền tỉnh Vân Nam với thị quốc và cũng là hải cảng quan trọng của Đông Nam Á này, phải có sự đồng thuận của Lào. Dự trù chỉ mất 10 tiếng đồng hồ một khi hoàn tất, Con Đường Lụa Đông Nam Á đó, ngay cả nếu không hoàn tất được đoạn cuối qua Malaysia, cũng giúp Trung Cộng có đường ra biển Andaman và Vịnh Bengal cùng Ấn Độ Dương qua Eo Biển Kra.

Nhưng cũng chính con đường xe lửa này đã là khởi điểm của những lo ngại cho Lào về đàn anh Trung Cộng. Được dự định là một dự án liên doanh giữa chính phủ Lào và Tập Đoàn Hỏa xa Trung Quốc và đáng lẽ khởi công từ tháng 4 năm 2011 nhưng năm đó là năm Bộ trưởng Hỏa Xa Lưu Chí Quân bị cách chức vì vụ tàu cao tốc đụng nhau nên dự án này nằm ụ trong nhiều năm.

Trong khi đó vào tháng 10 năm 2011, một vụ sát hại xảy ra trên hai con tàu chở hàng của Trung Cộng trên sông Mekong đã cho các chính phủ trong vùng thấy rõ bộ mặt thật của Bắc Kinh.

Số là vào sáng sớm ngày 5 tháng 10 năm 2011, hai tàu chở hàng của Trung Cộng mang tên là Hua Ping và Yu Xing 8 bị tấn công ở vùng Tam Giác Vàng của sông Mekong, ráp ranh giữa Miến Điện, Thái Lan và Lào. Theo các nhân chứng, có khoảng 8 tay súng đã xông lên hai con tàu này trong vùng giang phận của Miến Điện. Tất cả 13 thủy thủ đoàn của hai con tàu bị giết và ném xác xuống sông. Đây là cuộc sát hại tệ hại nhất cho công dân Trung Cộng ở thời hiện đại. Cuối ngày hôm đó, cảnh sát tuần giang của Thái ở tỉnh Chiang Rai đụng độ với những tên cướp và sau một vụ chạm súng lấy lại được hai con tàu. Họ nói họ tìm thấy 900,000 viên amphetamine trị giá 3 triệu đô la. Sau đó thi thể của những người Hoa được vớt lên. Cảnh sát Thái nghi thủ phạm là một tướng cướp người Shan, một sắc tộc của Miến Điện, vốn được coi là phụ tá của Trùm Khun Sa. Tên tướng cướp này, tên là Nor Kham (hay Naw Kham) có khoảng 100 đàn em và hoành hành trên sông Mekong.

Trước áp lực của Trung Cộng, vốn gửi lực lượng xuống đóng cửa sông Mekong ở đoạn này, Nor Kham sau cùng bị bắt ở Lào. Những nguồn tin địa phương nói là Bắc Kinh đã gửi lực lượng xuống bắt Nor Kham và chở hắn về Trung Cộng, không cho Lào biết chuyện gì xảy ra cả. Nor Kham và đồng bọn sau bị đem ra xử ở Côn Minh và Nor Kham cùng ba phụ tá bị kết án tử hình.

Và từ đó, Trung Cộng, mượn tiếng thành lập một lực lượng đa quốc tuần phòng trên sông Mekong, đã gửi lực lượng xuống canh phòng. Có lúc có hơn 200 cảnh sát biên phòng của tỉnh Vân Nam đi tuần trên sông nói là tham gia lực lượng đa quốc nhưng thật ra hoạt động độc lập.

Cái vốn được gọi là vụ thảm sát trên sông Mekong này đã trở thành một mốc cho sự thay đổi thái độ không những của Lào mà còn của Miến Điện nữa trong liên hệ với Trung Cộng. Thái độ coi thường chủ quyền của các quốc gia liên hệ đã làm cho các ông tướng Miến Điện chuyển hướng, cho phép đối lập hoạt động, để có thể chuyển sang phía Hoa Kỳ và các đồng minh Tây Phương của Hoa Kỳ.

Nó cũng khởi đầu một sự thức tỉnh ở Lào. Cũng vào khoảng những năm này, Trung Cộng, trong đoàn đi thực hiện điều tra về dự án hỏa xa, đã chiếm một vùng đất của Lào và biến nó thành một thành phố kiểu Vegas ngay trên đất Lào nhưng chỉ dành cho người Hoa sang ăn chơi và đánh bạc.

Cộng với tham vọng và sự tham lam của những người theo Trung Cộng trong hàng lãnh đạo, vốn đã làm ngơ cho Trung Cộng lấn chiếm đất đai, hoành hành trên đất nước mình,một số trong hàng lãnh đạo đảng Cộng Sản Lào bắt đầu tính chuyện đổi hướng trở lại với Việt Nam và qua Việt Nam, bắt tay với Hoa Kỳ. Và nhân cơ hội năm nay Lào trở thành chủ tịch luân phiên Asean, họ đã ra tay.


http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=221792&zoneid=97
Phần nhận xét hiển thị trên trang

LOẠI VIRUS NGUY HIỂM XUẤT HIỆN TRÊN INTERNET


Bài đọc liên quan: Facebook bảo mật kém?

Vào lúc 14:47' ngày hôm nay, 01/02/2016 tôi nhận email từ một email có địa chỉ: diendantranhdau@gmail.com được một email khác có địa chỉ: nguoicaptien@gmail.com chuyển tiếp cho email cá nhân của tôi có kèm theo gửi cho báo BBC Vietnamese, 1 tập tin .rar với tài liệu có tên: "Hồ sơ tham nhũng Nguyễn Tấn Dũng phần 1,2" và nội dung thư rất gây tò mò như sau:

"Nhờ a/e trong nước kiểm định giúp các thông tin trong bài viết
---------- Forwarded message ----------
From: Người Cấp Tiến 
Date: 2016-02-01 14:47 GMT+07:00

Subject: "Vì sao Nguyễn Tấn Dũng bị loại?"
To: diendantranhdau@gmail.com

Tại sao một người có tham vọng quyền lực như Nguyễn Tấn Dũng lại dễ dàng chấp nhận thua Nguyễn Phú Trọng một cái đau đớn và tủi nhục như vậy? Chẳng qua là vì các đ/c của Dũng đã có trong tay nhiều bằng chứng tham nhũng trong suốt 20 năm cầm quyền khiến Dũng phải ngầm ngùi xin rút dù đã lobby nhiều năm qua.

Và tôi là một người cấp tiến. Tôi có một vài ý chí giống các bạn. Nếu các bạn viết và đăng những gì tôi gửi, tôi sẽ tiếp tục cộng tác và gửi tiếp các tài liệu. Tôi gửi tài liệu này duy nhất cho các bạn. Trong vòng 24 tiếng nữa, nếu các bạn không sử dụng, tôi sẽ gửi nhiều trang khác và sẽ không thể tiếp tục cung cấp thông tin độc quyền cho các bạn.

Tôi gửi trước các bạn phần 1 và 2. Chế độ này đã quá thối nát và nhân dân có quyền biết bộ mặt thật của nó.

Người Cấp Tiến."

Tôi download tập tin này xuống và thấy có 4 files nhỏ gồm: word, PDF. Trước khi extract file .rar này tôi quét virus bằng Avast Antivirus thì được thông báo từ 1 file có tên: "Phan_1Tien dau cho Quy tu Thu tuong di du hoc.h Cao" là: "Mối nguy hại: VBS Dropper-FM[Troj]." Hình dưới:



Tôi nhờ bộ phận IT của một đại công ty phần mềm chuyên lo bảo mật phần mềm của các ngân hàng trong nước xem dùm. Họ thông báo, đây là một loại virus lây lan rất dữ, rất mạnh, nó sẽ phá nát và ăn cắp toàn bộ dữ liệu trong ổ cứng, cũng như mọi thông tin cá nhân trong email, tài khoản ngân hàng, thẻ tín dụng, v.v...

Tôi cho rằng đây là trò bẩn của kẻ xấu sẽ sử dụng để phát triển lây lan virus nhằm ăn cáp thông tin cá nhân của những ai không cẩn thận. Vì thế cho nên tôi viết thông báo khẩn này để mọi người cảnh giác.

Tôi không hiểu sao lũ hacker mũ đen lại đi làm trò trẻ con với tôi? Đúng là chưa biết trời cao đất dày.

Link G+ của kẻ xấu gửi email phát tán virus cho tôi đây:
https://plus.google.com/101037832634358535307/posts

Hãy share thông tin này đến với mọi người. Xin cảm ơn.


Phần nhận xét hiển thị trên trang