Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Bài thơ của ông "Cây hai ngàn lá"

TÌNH CA TRÊN BIỂN VŨNG TÀU TRÂU GIÀ VÀ BÃI CỎ NON

Pờ Sảo Mìn

Chuyện như từ trên trời rơi xuống
Đất mọc ra: Tôi và em khúc hát song ca.
Trên đỉnh núi mờ xa.
Nhà tôi có con trâu già sừng đẹp vai khỏe
Trên đồng cỏ trâu không bao giờ gặm cỏ già
Trâu chỉ gặm cỏ non gặm nhấm lân la
Vì thế tuy già nhưng trâu còn rất khỏe
Trâu kéo cày phăng phăng… đường cày thẳng băng
Dâng cho tôi bốn mùa ngô lúa thu tăng
Hạnh phúc êm đềm…
Trời thì ban xuống đất thì dâng lên
Em ngồi đó hoa em bừng nở…
Tỏa hương thơm Bãi Trước Bãi Sau
Biển Vũng Tàu ngàn năm sóng hát
Biển thì xanh bãi cát thì già tóc cát trắng phau
Như tôi và em đang hiện hình đâu đó
Em ngồi đó một đồng cỏ xanh nõn non tơ
Tôi ngồi đây cây thông già bất động
Mà trong lòng nổi sóng biển sâu
Biển Vũng Tàu ai đo… bao mét?
Em xinh đẹp tuyệt trần… mắt tròn xoe ngấn nước
Không uống rượu mà người lảo đảo say
Em ngồi đó… tôi ngồi đây… chỉ cách nhau một sợi tóc dày
Mà sao thấy xa xăm… xa xăm…
Tôi lẩm nhẩm một mình
Hát một câu tình ca biển cả…
Con sóng trẻ xanh xô về phía trời xa
Em ngồi đó… tôi ngồi đây..!
Mà trong tim nóng rực
Như có lò phản ứng hạt nhân nằm trong lồng ngực
Tôi ngồi đây… em ngồi đó…
Như đồng cỏ xanh mướt non tơ
Khổ cho tôi một con trâu đã già
Trước đồng cỏ xanh mướt bao la…


Vũng Tàu 25.5.2015


Đôi lời của Trần Vân Hạc:
Lão Pờ thế mà hóm và tinh quái. Ra biển lão nhớ quê nhưng cần gì phải ra tới biển Vũng Tàu để khoe: "Nhà tôi có con trâu già sừng đẹp vai khỏe", rồi "Trời thì ban xuống đất thì dâng lên" và lão than :"Khổ cho tôi một con trâu đã già". Trong cái thân thể còm nhom kia ai mà tin được những điều lão nói. Nhưng không, biển cả bao la của Vũng Tàu đã làm cho lão Pờ hiểu sâu xa thêm những điều tưởng như bình dị của cuộc sống.
Câu đầu của bài thơ làm người đọc tò mò xem "khúc hát song ca" ấy như thế nào. Lão mượn cách nói của người miền núi một cách điêu luyện. Hình ảnh "sừng đẹp vai khỏe"làm người đọc bật cười và đằng sau ẩn dụ ấy là sức mạnh và khát vọng sinh sôi "Trâu chỉ gặm cỏ non gặm nhấm lân la" bởi thế "trâu" đủ sức "kéo cày phăng phăng… đường cày thẳng băng/ Dâng cho tôi bốn mùa ngô lúa thu tăng". Từ "thu tăng" mới đọc tưởng như gợn nhưng càng đọc càng thấy có lý bởi cuộc sống như vậy đấy, mỗi ngày qua chất lượng cuộc sống phải tăng lên, tạo nên: "Hạnh phúc êm đềm…". Sự logic của mạch thơ mang triết lý, nhân quả làm người đọc thích thú. Tronh hạnh phúc ấy, Em hiện lên sao đẹp nhường vậy:"Trời thì ban xuống đất thì dâng lên/ Em ngồi đó hoa em bừng nở…" Em do tạo hóa ban cho đời. từ "ban" thật đắt giá nhất là khi đồng hành cùng từ "dâng lên" đón nhận và dâng hiến hết mình, trân quí điều tuyệt vời nhất tạo hóa ban cho. Hình ảnh "hoa em bừng nở" thật đăng đối với "sừng đẹp vai khỏe". Cái điều khó nói ấy được lão Pờ diễn đạt một cách dung dị nhưng vô cùng sâu sắc. Lão thấy: "Biển thì xanh bãi cát thì già tóc cát trắng phau", sự đối lập giữa biển xanh trẻ trung và "tóc cát…", "Như tôi và em đang hiện hình đâu đó" để dẫn đến hình ảnh thật đẹp: "Em ngồi đó một đồng cỏ xanh nõn non tơ/ Tôi ngồi đây cây thông già bất động". Chà trước đồng cỏ "nõn non tơ" ấy làm con trâu già cảm động và hình ảnh lão Pờ say biển, say tình thật thi vị. Trước biển, thơ lão như chắt từ gan ruột: "Tôi ngồi đây… em ngồi đó…/ Như đồng cỏ xanh mướt non tơ". Người đọc thương lão, thương mình khi phải tự thú sự bất lực: "Khổ cho tôi một con trâu đã già/ Trước đồng cỏ xanh mướt bao la": Bài thơ dẫn người đọc tới qui luật của ngàn đời, âm dương rồi tình yêu được lão Pờ nói cứ nhẹ như không, cứ như: "Chuyện như từ trên trời rơi xuống".
Trong bài nhiều hình thật đẹp như "nõn non tơ", "lân la"… có lẽ phải biết thong thả, kiềm chế tận hưởng hương vị cỏ non, cũng như phải biết trân quí những gì tuyệt đẹp do tạo hóa ban tặng… Biển Vũng Tàu gợi thi tứ cho lão Pờ hay thơ lão Pờ làm biển thêm dậy sóng, chỉ biết rằng chuyện "trâu già và bãi cỏ non" nhẹ như không nhưng sâu sắc, minh triết, chan chứa tình người và tình đời.
Vũng Tàu 30.5.2015
Trần Vân Hạc
P. Quỳnh Lôi, Q. Hai Bà Trưng, TP. Hà Nội
Mobile: 0949 381 246 - 0949 253 256

Phần nhận xét hiển thị trên trang

nhưng thượng đế ban cho họ hơi ít..


NỖI NIỀM TÁC PHẨM ĐỈNH CAO 

Hoàng Quốc Hải

 

TNc: Tham luận này nhà văn Hoàng Quốc Hải đọc tại Đại hội VII Hội Nhà văn VN. Mười năm trôi qua vẫn còn nguyên "nỗi niềm" ấy. Nhân ĐH IX sắp họp, trang nhà xin giới thiệu cùng bạn đọc ý kiến của tác giả Vương triều sụp đổ....

Tại sao văn học Việt Nam hiện nay không có tác phẩm đỉnh cao?
Câu hỏi ấy đã bao hàm câu trả lời rồi. Thật ra trên thế giới không phải đã có nhiều quốc gia có nền văn học đỉnh cao. Và cũng không phải thời nào cũng có tác phẩm đỉnh cao.
Châu Âu suốt ba thế kỷ ( XVII – XVIII – XIX ), nền văn học xuất hiện nhiều trường phái, đạt nhiều đỉnh cao chói lọi. Nhưng sang thế kỷ XX các đỉnh cao cứ thưa vắng dần, và chỉ còn lại những bình nguyên văn học.
Nước ta không phải không có văn học đỉnh cao. Nhưng người mình thường có tư tưởng vọng ngoại. Cái gì của nước ngoài cũng xem trọng, của ta thì xem thường. Đã thế, người trong nghề lại không chịu thừa nhận ai, ngoài mình. Đó là đầu óc thiếu tự tin, nhưng lại nặng về vị kỷ. Lọai tư duy này làm con người trở nên bé mọn, và thường không được khách quan, sáng suốt.
Mười năm (1932 – 1942) của Tự lực văn đoàn làm nảy sinh các trường phái văn học:
- Lãng mạn.
- Hiện thực phê phán.
- Suy đồi. …
Các trường phái này cọ sát nhau nảy sinh khá nhiều đỉnh cao văn học. Thế nhưng sự đánh giá của cả đương đại và hậu thế khá dè dặt, thậm chí không thừa nhận.
Trong giai đoạn này ta dễ nhận thấy có một nhà văn, nếu ông sinh ở nước khác, và với những cống hiến ấy, đời phải tôn ông là bậc thiên tài. Đó là Vũ Trọng Phụng.
Vũ Trọng Phụng sống và chết trong nghèo khổ. Sinh thời, ông chỉ ao ước: “ Nếu như ở đời có được cơm mà ăn no nhỉ?”. Năm 27 tuổi, ông qua đời vì bệnh lao phổi, để lại một người con và một đống tác phẩm. Không ít trong số mấy chục tác phẩm của ông đạt tầm cao thế giới.
Vậy mà những tác phẩm ấy bị vùi lấp trên nửa thế kỷ, không một lần được tái bản. Bởi một thời gian dài người ta vu cho ông là phần tử Trốt- kít( Trosky ). Tới khi tác phảm của ông được tái bản, chị Vũ Mỹ Hằng, con gái ông đã ngoài 50 tuổi, chỉ dán mắt nhìn các tác phẩm của cha mình là tài sản chung của xã hội, theo “Luật bản quyền” vừa mới ban hành.
Chị Hằng và chồng đưa phần mộ của cha mình về ngôi vườn tại quê hương, nơi làng Mọc. Ngôi mộ được xây cất đàng hoàng, ốp đá cẩm thạch mà không có bất kỳ một tài trợ nào từ nhà nước và các hội đoàn. Sự thờ ơ đến bội bạc của đương thời và hậu thế khiến nhiều nhà văn thấy nản lòng.
Lại mười năm nữa ( 1986- 1995 ) thường gọi là “văn học thời đổi mới”. Giai đoạn này, các nhà văn Việt Nam bằng văn chương của mình, đã khuấy động toàn xã hội; đem lại cho mọi người một không khí sinh hoạt dân chủ. Công chúng độc giả trong cả nước như bị lên đồng, và họ “ngốn” tác phẩm của nhà văn như người khát trên sa mạc. Báo Văn nghệ in trên 100.000 rồi 200. 000 bản cho mỗi số, vẫn không đủ bán. Tiểu thuyết tirage thấp nhất là 10.000 bản, cao nhất tới gần 100.000 bản cho mỗi đầu sách. Thơ cũng in từ 5000 đến 10.000 bản. Thử hỏi văn chương đó ai viết ? Phần lớn các tác giả của những tác phẩm ấy vẫn còn tồn tại, và một phần không nhỏ có mặt trong Đại hội này.
Thời đó, cái 10 năm vàng son ấy, tuyệt nhiên không có công chúng nào đòi chúng ta phải có tác phẩm đỉnh cao.
Liệu có phải những gì chúng ta viết thời đó đều đã ở đỉnh cao, hay bởi giai đoạn đó văn học đã đề cập một cách thỏa đáng khát vọng của công chúng. Có lẽ vậy. Vấn đè là khát vọng của số đông được thỏa mãn.
Và 10 năm lại đây ( 1996-2005 ), số lượng tác phẩm của các nhà văn phát hành không phải là ít, nhưng không khuấy động được công chúng. Không khí văn học bình lặng như mặt nước ao thu. Khá nhiều tác phẩm rất đáng đọc. Nó tốt cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Nhưng công chúng bạn đọc vẫn cứ thờ ơ, và đòi nền văn học đương đại phải có tác phẩm đỉnh cao. Đòi hỏi đó là nỗi bức xúc của công chúng trước hiện thực xã hội. Bởi soi vào tác phẩm văn học, họ cảm thấy hẫng hụt.
Thật ra, cái nền hiện thực xã hội trong 10 năm gần đây , dư thừa chất liệu cho các nhà văn Việt Nam làm nên tác phẩm đỉnh cao. Đây là cơ hội, dù là cơ hội đem lại nhiều bất hạnh cho số đông, nhưng nếu bỏ qua là một tiếc nuối, một ân hận. Bức tranh xã hội đủ màu sắc. Vui có, buồn có, bi thương có, âm mưu thủ đoạn có, tham nhũng hối lộ có, lừa đảo có, đểu cáng có, bất hiếu bất mục , bất nhân bất nghĩa… không thiếu một loại nào. Đặc biệt lũ cơ hội xuất hiện nhan nhản. Đó là những kẻ tiếm dụng quyền hành để tước đoạt trắng trợn tài sản quốc gia, hối hả tích lũy vốn liếng để mau chân chạy sang hàng ngũ tư bản. và bây giờ chúng đang âm mưu rửa tiền để hợp thức hóa và công khai khối tài sản khổng lồ mà chúng chiếm được bằng các thủ đoạn bất lương. Từ bức tranh xã hội này, công chúng đòi hỏi nhà văn bằng ngòi bút và lương tâm của mình, vạch mặt bọn chúng, “ không cho chúng nó thoát!”. Phải cho tái xuất các gương mặt kiểu “Nghị Quế “, “Nghị Hách”, “Xuân tóc đỏ”, “Bà phó Đoan”, “Bá Kiến”, “Chí Phèo” … thời hiện đại.
Bức tranh hiện thực xã hội phong phú là vậy mà không được phản chiếu trong tác phẩm,vì thế công chúng mới chối bỏ. Và đó là điều tệ hại nhất đối với nhà văn. Đó còn là dấu hiệu báo trước một nền văn học đang vững chắc bước vào giai đoạn suy thoái. Có người đặt vấn đề, hay là nhà nước không đầu tư tiền bạc thỏa đáng cho nhà văn sáng tác?
Không phải vậy. Tiền bạc là cần thiết nhưng không phải là nhân tố cấp bách với nhà văn.
Ta chẳng từng thấy Ngô Tất Tố phải bán non tác phẩm cho nhà xuất bản Mai Lĩnh, để lấy tiền sống đó sao? Lại chẳng thấy Nam Cao, Vũ Trọng Phụng sống trong khốn khó, mà các ông vẫn để lại cho đời những tác phẩm đỉnh cao đó sao?
Thật ra muốn có tác phẩm đỉnh cao, ngoài yếu tố tài năng của nhà văn, còn đòi hỏi xã hội phải chuẩn bị cho nó.
Thời Vũ Trọng Phụng, Nam Cao các mâu thuẫn xã hội, mâu thuẫn dân tộc và đế quốc đã phát triển tới đỉnh điểm. Các trào lưu văn học đua nhau nảy nở thành trường phái mà không có sự gò ép, cấm đoán. Chính quyền thực dân chỉ khống chế các đoàn thể chính trị, cách mạng. Các nhà văn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Xuân Sanh… tiêu biểu cho các trường phái đều có những tác phẩm đỉnh cao.
Muốn nói gì thì nói, 10 năm đó ( 1932-1942 ), các trường phái văn chương đua nhau nảy nở, đã là chất xúc tác cho các nhà văn sáng tạo. bản thân mỗi nhà văn đều có lòng yêu ghét rõ ràng, và được viết tất cả những gì mình viết, mà không sợ chính quyền thực dân cản trở.
Tình hình hiện nay, phải thừa nhận điểm yếu của văn chương Việt Nam là đơn điệu quá. Trên nửa thế kỷ qua tất cả chỉ nói theo một giọng điệu, viết theo một thi pháp. Bản thân nghệ thuật là khám phá, là luôn luôn tìm tòi đổi mới. Vậy mà 60 năm qua chỉ đi mỗi một con đường để cùng đến một mục tiêu làm gì chẳng cũ kỹ, sáo mòn. Lẽ ra phải tạo điều kiện để có nhiều con đường khác nhau, cùng đến chung một đích; đó là dân tộc, là Tổ quốc, là chủ nghĩa yêu nước.
Vậy cái gì cản trở nhà văn? Phải chăng quyền tự do sáng tác, tự do công bố tác phẩm của nhà văn bị hạn chế? Nó còn là sự tự kỷ ám thị, lâu năm trở thành nỗi sợ hãi, tới mức không dám viết về những điều mình nghĩ. Bởi chế tài những sai sót của nhà văn không được minh bạch, không có luật mà phụ thuộc vào định hướng chung chung. Và rồi ai cũng có quyền phá hỏng cả một sáng tác phẩm nghiêm túc của nhà văn, thậm chí phá nát cả sự nghiệp và cuộc đời nhà văn bằng nhận thức thấp kém của chính một người quyền uy nào đấy. Tình trạng đó tới nay vẫn chưa chấm dứt. Thỉnh thoảng vẫn thấy những tác phẩm bị đình chỉ phát hành, bị thu hồi nhưng không công bố công khai, khiến tác giả và công chúng cũng không biết vì sao nữa.
Để chấm dứt tình trạng mù mờ đó cần phải xây dựng một xã hội đối thoại, xã hội dân chủ. Vì vậy, mọi thứ phải được minh bạch trên tinh thần thượng tôn pháp luật. Tôi đề nghị nhà nước hãy trả lại cho văn chương báo chí quyền tự do sáng tác, mà nhà nước đã trưng dụng trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm vừa qua. Đó không chỉ là quyền tự do sáng tác của nhà văn, nhà báo mà còn là quyền được thông tin khách quan của công chúng. Chiến tranh đã chấm dứt 30 năm rồi mà văn chương báo chí vẫn sống trong cảnh mù mờ. Cả nước có tới gần 1000 tờ báo và tạp chí, nhưng quy về chỉ có mỗi một Tổng biên tập, tránh sao khỏi sự đơn điệu và sáo mòn.
Tròn 60 năm kể từ ngày văn chương báo chí đi theo cách mạng, tỉ lệ mắc sai lầm về tư tưởng, về chính trị, kinh tế trong đội ngũ văn chương báo chí là thấp nhất so với bất cứ một ngành nghề nào. Thế mà độ tin cậy của Nhà nước đối với nhà văn lúc nào cũng ở mức thấp nhất.
Nhân loại đang bước mạnh vào kỷ nguyên hội nhập. Những ngành có tính chất sống còn của một quốc gia, từ xưa nhà nước vẫn độc quyền nắm giữ như thông tin viễn thông, điện lực, tài chính ngân hàng, nhà nước còn mở cửa mời gọi tư bản đến hùn hạp tỉ lệ đến 30%. Nhiều phương diện được thúc đẩy cổ phần hóa, tư nhân hóa. Vậy mà chỉ một tờ báo, một nhà xuất bản tư nhân lại không thể chấp nhận. Tiếc thay, những quyền đó đã được ghi liên tục trong hiến pháp từ ngày mở nước tới nay. Tôi đề nghị Nhà nước nên thành lập một cơ quan kiểm duyệt. Ví dụ đó là Cục kiểm duyệt chẳng hạn. Đặt nó trong Bộ nào, Ngành nào tùy Nhà nước.
Công cụ để giám sát, chế tài là “luật báo chí”, “luật xuất bản”, “luật sở hữu trí tuệ”; đồng thời tham chiếu cả “luật dân sự”, “luật hình sự”.
Mọi công dân Việt Nam đều phải tuân thủ luật pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều đó có nghĩa rằng, công dân nhà văn Việt Nam không được phép viết ra, cũng như không được phép công bố những điều mà luật pháp ngăn cấm.Ví dụ tuyên truyền cho bạo lực,dâm ô,kích động các phần tử phản động chống lại nhà nước…Trái lại,công dân nhà văn Việt Nam có quyền được viết,được công bố những sáng tác phẩm của mình trên các phương tiện thông tin và in ấn,với những nội dung mà luật pháp không cấm.
Đương nhiên,đây là quyền công dân,lẽ ra phải được tôn trọng,được bảo hộ song hành với việc ban bố các đạo luật trên.
Chúng ta đang sống trong một xã hội công dân,đòi hỏi mọi sự phải được giải quyết minh bạch.Vì vậy,những tác phẩm bị kiểm duyệt toàn bộ hoặc kiểm duyệt một phần,cần được công bố công khai.Và nói rõ tác giả đã vi phạm những điều nào ,điều nào theo luật định.Nếu tác giả không chấp nhận,họ có quyền khiếu nại việc đó ra tòa dân sự.
Một khi mọi việc đã minh bạch,mà nhà văn không đem lại được điều gì mới mẻ vào văn chương,thì đúng là họ bất tài.Mọi trách cứ,mọi lên án của công chúng bạn đọc đều trở nên có lý.
Điều hiển nhiên,tác phẩm văn học đỉnh cao không phải là thứ cầu được, ước thấy.Nó đòi hỏi nhà văn phải có tài năng lớn,trí tuệ siêu việt,nhân cách cao thượng.Hơn nữa,tầm tư tưởng phải vượt thoát ra khỏi sự cám dỗ của đời thường.Nhà văn cỡ này phải có tâm huyết tới mức tử vì đạo.Những phẩm chất trên,các nhà văn Việt Nam đều có cả,nhưng thượng đế ban cho họ hơi ít.
Láng Thựong ngày 21 tháng 4 năm 2005
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Bài thơ ở xứ thiên đường


NGƯỢC ĐỜI
Hãy cùng em anh ơi
Ta cùng nhau
Đừng cười ngạo nghễ
hay khóc cho những điều tử tế đã ra đi
mà khóc vì những điều ngược đời
ở xứ sở của những điều ngược đời anh nhé
có xứ sở nào như thế
người ta vui mừng khi có anh cảnh sát nếm đòn dân
người ta hả hê
khi có đại quan từ trần
người ta cầu mong nhiều bậc thanh liêm ngừng thở
có xứ sở nào như thế
trước khi vào tù người kiêu hãnh chụp hình khoe
kẻ mãn hạn tù vì tội phản động lại được ca ngợi tung hê
trong vòng tay bè bạn
có xứ sở nào khốn nạn
một cái tin vịt về vị tướng tài không lâm trận
mà lâm vào trò trừ khử của ai kia
lại được truyền đi nhanh chóng đến không ngờ
chẳng với những lời tiếc thương hay lo lắng
mà là sự hoan hỉ, đã hờn vô cùng tận
lạ thay! tướng, quan là con dân sao dân lại oán hờn?
Có xứ sở nào như xứ sở ta không
đem rác về xếp lên bàn thờ phụng
tô điểm phấn son đánh má hồng cho hình nộm
mà thiên hạ ngoài kia đã quẳng ở vệ đường
Có xứ sở nào như xứ sở ta không???

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Tại sao văn học Việt Nam không có tác phẩm đỉnh cao?

Dân trí Nhân dịp đầu năm mới Giáp Ngọ- 2014, phóng viên Dân trí có cuộc trò chuyện với nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ (chị cũng tuổi Bính Ngọ) về đời sống văn học Việt Nam đương đại, về cả nỗi cô độc của người nghệ sỹ, của chính nhà văn- Nguyễn Thị Thu Huệ.

Thời đại này được gọi là thời đại của sách ngôn tình. Những cuốn sách tình yêu không có chút giá trị gì về văn chương bán tràn lan, thu hút giới 9X. Trong khi đó, bao lâu nay, sách văn học Việt Nam im lìm, lép vế. Chị có nghĩ đến trách nhiệm cầm bút của các nhà văn Việt Nam đương đại trong trường hợp này?
Tôi nghĩ, để phân tích cặn kẽ cho tất cả những vấn đề bạn đặt ra, sẽ rất khó. Việc tại sao 9X bây giờ đọc sách ngôn tình, đọc văn học mạng? Mỗi người có một sở thích riêng. Mỗi người có “gu” đọc riêng. Không giải thích được. Và, không thể mang sở thích của mình ra để áp đặt cho người khác. Nói rộng ra ngoài chuyện đọc, thì ai cũng chỉ có thể lớn lên bằng chính những thành công hay sự vấp ngã của chính mình.
Về văn học Việt Nam, xưa nay luôn có nhiều câu hỏi đặt ra cho các nhà văn Việt Nam. Tại sao văn học Việt Nam không có tác phẩm đỉnh cao. Tại sao văn học đương đại không có được những tác phẩm “gây sốt” như Bến không chồng (Dương Hướng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)...Cá nhân tôi dưới góc độ một người đọc, tôi cho rằng, kỹ năng viết và yếu tố văn chương trong các nhà văn thời nay chưa cao. Thế hệ các nhà văn như Ma Văn Kháng, Tô Hoài, Nguyễn Khắc Trường, Nguyên Ngọc… các bác nghiên cứu văn học, học hỏi từ những thành công của văn học nước ngoài, họ uyên bác “kinh khủng”. Họ vừa có vốn sống, vừa có kỹ năng viết.
Hiện tại, có rất nhiều người viết văn. Chưa bao giờ, nhiều người viết văn như bây giờ. Hội nhà văn có gần 1000 hội viên. Nhưng hỏi trong số đó, có nhiều người có kỹ năng viết không? Câu trả lời sẽ là không. Trừ một vài cây viết đã có chút tên tuổi. Còn lại, mọi người gần như chỉ viết bằng bản năng và lòng đam mê. Rất nhiều cuốn sách xuất bản có lối viết tràn lan đại hải. Sách dày, dài, nhưng có khi cả một chương chẳng giải quyết được việc gì ngoài những cảm xúc của người viết vừa hướng dẫn, bình luận thay cho người đọc.
 
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
Trong văn học, đôi khi người ta cũng áp dụng câu nói, “thời thế tạo anh hùng”. Khi xã hội rối ren, khi đời sống đau khổ, khi nhà văn trở thành “nạn nhân” của bất công, đói nghèo như Vũ Trọng Phụng, như Nam Cao… chúng ta có một thế hệ những ngòi bút tài năng. Chẳng lẽ, xã hội hôm nay không còn điều gì để các nhà văn đau đời, để viết “nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than”?
Như tôi được biết, có nhiều nhà văn vẫn lặng lẽ viết. Viết như một nhu cầu của những người đã trót yêu văn chương và coi đó là lẽ sống. Tuy vậy, số đó không nhiều. Văn học đương đại không thể “bùng lên những thế hệ” như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan… Cận kề nhất, có thể kể đến “thế hệ” như Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Minh Khuê, Hồ Anh Thái... Đến 8X (những người sinh ra những năm 1980- 1989), gần như chẳng còn thấy quá mười tác giả hứa hẹn sẽ đi đường dài nữa.
Nếu bạn hỏi, các nhà văn có viết không? Có. Luôn luôn có những nhà văn đắm chìm với tác phẩm của họ. Hỏi họ có sống được bằng nghề viết không? Câu trả lời sẽ là không. Trên thế giới, các nhà văn chỉ lo về ý tưởng, về viết, tất cả những khâu khác như phát hành, truyền thông, quảng bá, tái bản hay các cách để kinh doanh tác phẩm...họ có công ty lo. Nhà văn được sống trong thế giới riêng của họ, để viết. Ở Việt Nam không có chuyện như thế. Nhà văn phải bươn chải với cơm áo gạo tiền. Cả năm trời có khi chỉ “đau đáu” nhà có nên có Osin hay không, lo đủ mọi chuyện như bất cứ một người làm nghề khác mà không có một thế giới riêng. Họ có quá nhiều mối bận tâm giữa cuộc sống hiện đại. Viết sách đôi khi chỉ đủ tiền mua sách của chính mình tặng bạn bè, uống bữa rượu là xong.
Thời bao cấp khổ thật, nhưng rất bình yên, không ai phải lo toan, gánh vác, bận tâm bởi nhiều thứ như bây giờ. Khi có càng nhiều gánh nặng, càng nhiều lo toan, người ta càng dễ xa rời những đam mê của mình.
 
Nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ
"Viết văn bây giờ đã khác. Văn chương tuy là ngọn bút chiến đấu với nhiều cay đắng nhưng chưa chắc tới được người đọc. Đau đời. Nhiều người cầm bút đau lắm, nhưng có người chọn cách viết… blog, facebook để giải tỏa.."- Nguyễn Thị Thu Huệ cho biết.
Nghĩa là theo chị, sở dĩ, nhà văn Việt Nam hiện tại không có được tác phẩm đỉnh cao vì phải lo cơm áo gạo tiền, phải lo nhà có nên nuôi Osin không, con học trường nào, thậm chí cả “Facebook của mình có bao nhiêu người đọc”… Thời nào, cũng có bi kịch riêng. Thời nào, (nhất là thời của thế hệ vàng văn học Việt Nam như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan), “cơm áo đều không đùa với khách thơ”. Các anh chị không viết được, phải chăng vì không đủ quyết liệt, không đủ nỗi đau đời?
Trong chúng tôi, ai cũng ấp ủ những cuốn sách riêng. Có nhiều cuốn vì lý do này, vì lý do kia chưa ra mắt được. Nhưng cũng có nhiều người trong chúng tôi, chưa đủ quyết liệt để đi đến cùng. Viết văn bây giờ đã khác. Văn chương tuy là ngọn bút chiến đấu với nhiều cay đắng nhưng chưa chắc tới được người đọc. Đau đời. Nhiều người cầm bút đau lắm, nhưng có người chọn cách viết… blog, facebook để giải tỏa tức thì, nếu không chắc điên vì tức giận. Điều đó, có ích cho xã hội nhưng thiệt thòi với nền văn học khi nhiều người, sau khi xả giận trên ấy rồi, không ra được tác phẩm lớn.
Việc có thể “khái quát thành tác phẩm có tầm” còn được gọi là… tài năng. Suy cho cùng, vẫn là chỉ là chúng ta thiếu tài năng?
Không hẳn. Nhà văn Việt nam nhiều người có tài chứ. Ai có tài hay không, đọc vài truyện là biết rồi. Có lẽ, hoàn cảnh khách quan đã tác động không nhỏ, khiến người viết khá liêu xiêu trong gió bão.
 
....
 
(Còn nữa)
 
Phần nhận xét hiển thị trên trang

Vừa đi vừa đọc, chưa kịp ngâm cứu!

Bài viết khá, chủ Blog này cắt bỏ nhiều đoạn liên quan tới Việt Nam.
Giới trí thức nhốt trong lồng
Trần Phan Thưa các nhà trí thức, các anh chị nghĩ sao nếu chúng ta ngồi trong hội trường và nghe những lời rao giảng, chỉ dạy (in nghiêng) như dưới đây ?
Ảnh minh họa của chủ Blog, lấy trên mạng
Một Trải Nghiệm Hơn 30 Năm Trước
Người lao động trí óc mà không liên hệ với lao động chân tay thì chỉ mới là trí thức một nửa. Còn người lao động chân tay mà văn hoá kém, không biết lao động trí óc thì cũng là người không hoàn toàn, cũng chỉ được một nửa. Vì vậy, chẳng những người lao động trí óc và người lao động chân tay phải đoàn kết với nhau, mà mỗi người lao động trí óc muốn là người hoàn toàn phải có lao động chân tay và người lao động chân tay muốn là người lao động hoàn toàn phải vừa biết lao động trí óc, vừa phải biết lao động chân tay. Người trí thức phải biết làm lao động chân tay. Người công nhân, nông dân phải có trình độ văn hoá” (1).

Tôi đã trải nghiệm cảnh đó rồi, lúc đó tôi còn làm việc cho một cơ quan nhà nước trong nước. Vào một dịp lễ kỉ niệm nào đó hơn 30 năm trước, Hội Trí Thức Yêu Nước Tp HCM tổ chức “sinh hoạt chính trị” với chủ đề “Vai Trò Của Giới Trí Thức Trong Liên Minh Công Nông”. Buổi họp có mặt các giáo sư nổi tiếng Nguyễn Chung Tú (Vật Lý), Nguyễn Vĩnh Niên (Dược), Lý Chánh Trung (Triết)… 

Báo cáo viên từ Ban Tuyên Huấn Thành Ủy. Ông đọc đoạn văn trên của chủ tịch Hồ Chí Minh và phát triển các ý chính, ý phụ dài lê thê. Sau đó ông đi vào phần nhà trí thức cần được lãnh đạo bởi đảng của giai cấp công nhân, đảng Cộng Sản Việt Nam, thì mới phát huy được vai trò tích cực của mình, mới có ích cho đất nước. Ông lại trích Hồ Chí Minh: “Đảng và Chính phủ phải giúp bằng cách giáo dục, để trí thức có lập trường vững vàng, quan điểm đúng đắn, tư tưởng sáng suốt, tác phong dân chủ” (2)

Thực tình, tôi có cảm giác đang nghe một người nói lạc đề. Hội Trí thức yêu nước Tp HCM gom một số người mà Ban Tuyên huấn nghĩ là các nhà trí thức, rồi cử một cán bộ tuyên huấn cao cấp lên lớp, giảng giải như giảng cho những công dân sắp tới tuổi bước vào đời!

Nhìn cái cách mà chính quyền Việt Nam đối xử với giới trí thức, người ta cảm nhận rằng cách mà họ hiểu giới trí thức là gì, bao gồm ai khác với nhiều người hiểu. Tôi thấy hình như họ nghĩ bất kì ai có một chuyên môn nào đó, một bằng cấp nào đó đều là người trí thức. Cách nghĩ đó khiến tôi có cảm giác họ có khuynh hướng đánh đồng người công chức làm việc trí óc với người trí thức. Thực ra hai khái niệm đó khác nhau. Chính sự lẫn lộn giới công chức làm việc trí óc với giới trí thức, (............) đã khiến giới trí thức bị lãnh đạo và quản lí thật chặt chẽ, tới mức bị chỉ việc, bị sai khiến!

Người Trí Thức Trong Xã Hội

Nhà trí thức là người có những kiến thức rộng và sâu trên nhiều mặt, từ các sự kiện, qui luật trong thế giới tự nhiên tới các sự kiện và qui luật trong xã hội con người. Những kiến thức đó đồng qui làm cho nhà trí thức có tầm nhìn xa, đưa ra những dự báo chính xác cho tương lai, gợi mở những hướng đi mới, cũng như góp ý, phản biện sâu sắc những kế hoạch, chính sách của nhà cầm quyền hay của một chính đảng… Kiến thức rộng và chắc của người trí thức khiến các hoạt động, tư tưởng của họ thường có tính đột phá, xuyên ra “bên ngoài cái hộp” của các suy nghĩ, các quan niệm thông thường, các định kiến sai lầm…

Một tính chất nổi bật khác của nhà trí thức là sự tham gia tích cực và chủ động để đóng góp vào sự phát triển xã hội. Sự đóng góp này có mục tiêu là phát triển xã hội, phát triển đất nước chứ không nhằm biện minh hay minh họa cho một chính quyền, một đảng phái, một khuynh hướng chính trị-xã hội riêng nào. Bởi vì người trí thức chân chính tìm được nguồn vui và sự thõa mãn vô tận trong các công việc có tính tri thức cao và mang lợi ích cho công đồng.

Do đó, đóng góp của giới trí thức có tính khách quan, tính khoa học, tính cống hiến, và từ đó, là tấm bảng chỉ đường quí báu cho dân tộc.

Ngoài ra, hoạt động của giới trí thức, thông qua kiến thức được chia sẻ, thảo luận… sẽ nâng tầm tri thức của toàn thể xã hội. Dân chúng được trang bị tri thức là nắm trong tay phương tiện mạnh nhất để xây dựng và bảo vệ cuộc sống ấm no, hạnh phúc, bảo vệ nền tự chủ của dân tộc, nền độc lập của tổ quốc trong thanh bình.

Do tính khách quan và không xu phụ quyền thế, giới trí thức thường ít được nhà cầm quyền yêu mến. Tuy nhiên, nhà cầm quyền nào biết giá trị các đóng góp của giới trí thức sẽ biết cách dùng tấm bảng chỉ đường giới trí thức đề ra, và sẽ cùng dân tộc đi lên con đường phát triển.

....................................................

Như đã nói ở trên, người trí thức có 2 đặc tính chính: a) kiến thức rộng về tự nhiên, xã hội, có tầm nhìn xa, đúng đắn, và b) tinh thần và thái độ dấn thân một cách khách quan, trung thực vì sự phát triển xã hội.

Hai đặc tính đó chỉ được phát triển mạnh mẽ trong các điều kiện của một xã hội tự do khai phóng. Xã hội tự do dân chủ phát triển giới trí thức, và hoạt động của giới trí thức hoàn thiện xã hội tự do. Ngoài ra, cũng cần một chính quyền có đủ tầm tri thức để biết giá trị của giới trí thức, và đủ tấm lòng trong sáng với vận mệnh dân tộc để khuyến khích các hoạt động của giới trí thức. Chỉ một xã hội tự do dân chủ mới có điều kiện tuyển chọn một chính quyền như vậy.

Xã hội nhất nguyên, độc nguyên ràng buộc tri thức con người trong một cái lồng tư tưởng chắc chắn sẽ kìm hãm các hoạt động của giới trí thức. Giới trí thức bị nhốt trong lồng thì không còn là giới trí thức nữa

Hậu quả của con đường Việt Nam đang đi là:

1) Đất nước ngày càng thua kém lân bang, thua cả những nước mà vài mươi năm trước cùng trình độ phát triển với Việt Nam;

2) Xã hội không ổn định trong bất công và hận thù, phong hóa suy đồi, giá trị sống thấp kém và đảo lộn;

3) Việt Nam ngày càng yếu ớt, ươn hèn và lệ thuộc vào Trung Quốc đang từng ngày xâm lấn thêm lãnh thổ cha ông, giết hại dân chúng Việt Nam…

Chừng nào giới trí thức mới giành được quyền tự do hoạt động trên nước Việt Nam?

Chừng nào các nghiên cứu, đề xuất, giải pháp... của giới trí thức về các đề tài lớn liên quan tới vận mệnh dân tộc mới được tự do công bố để dân chúng công khai thảo luận và chọn lựa?

Chừng nào nước Việt Nam mới bước lên con đường phát triển văn minh và bền vững trên nền tảng tri thức?

Tác giả tin rằng chỉ cần một bước nữa thôi! Một bước mạnh dạn và quyết tâm về phía dân chủ hóa đất nước để tri thức hóa dân tộc.

Chỉ cần một bước đó thôi là cứu vãn được 40 năm phát triển đã bị mất!

Thời cuộc thế giới và khu vực đang bày ra thời cơ thuận lợi. Việt Nam ơi, có cố gắng được hay không?

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1) Hồ Chí Minh Toàn Tập, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 2002, tập 8, tr.395.
2) Hồ Chí Minh Toàn Tập, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia, 2002, tập 8, tr.216.
3) VOV. VN – Phát Biểu Của Tổng Bí Thư Tại Đại Hội Liên Hiệp các Hội KH&KT Việt Nam.

http://www.voatiengviet.com/content/gioi-thi-thuc-nhot-trong-long/2837263.html


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Chủ Nhật, 28 tháng 6, 2015

Xem xét lại án trong vụ nổ kinh hoàng ở Hà Nam 23 năm trước

Liệu có thêm hai 'ông Chấn'? - Vụ án kinh hoàng 


Cập nhật: 06:15, Thứ 4, 20/05/2015
Đã 23 năm trôi qua, nhưng người dân miền Nhân Phúc (xã Phú Phúc, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) vẫn còn nhớ như in cái ngày xảy ra vụ án kinh hoàng đó.
Cụ Trần Anh Điền (giữa) bố của nạn nhân Trần Văn Việt trong vụ án ngày 29/11/1992
Cụ Trần Anh Điền (giữa) bố của nạn nhân Trần Văn Việt trong vụ án ngày 29/11/1992
Và, cũng trong suốt quãng thời gian đó, bố của nạn nhân trong vụ án đó vẫn kêu oan cho hung thủ...
Nguồn gốc của vụ án bắt nguồn từ một vụ tranh chấp đất đai. Chẳng là xã Phú Phúc có hai “miền” là miền Thanh Nga (gồm các đội 1; 2; 3) và miền Nhân Phúc (gồm các đội 4; 5; 6; 7; 8).
Cuối năm 1976, HTXNN Nhân Phúc xã Phú Phúc được thành lập trên cơ sở hợp nhất 2 HTXNN Thanh Nga và Nhân Phúc, có quy mô 584 ha đất canh tác, 1.222 hộ xã viên với 5.009 nhân khẩu.
Nhưng do HTX hợp nhất làm ăn không hiệu quả, nên xã viên có nguyện vọng tách HTX ra thành hai như trước. Nguyện vọng này được cấp trên chấp nhận.

Cụ Trần Anh Điền, 81 tuổi, xã viên HTX miền Nhân Phúc, cho biết: Khi tách HTX hợp nhất ra làm hai, lẽ ra đất của HTX nào góp vào HTX hợp nhất bao nhiêu, được trả lại nguyên vẹn bấy nhiêu, thì không xảy ra chuyện gì.
Đằng này huyện lại lấy 56 mẫu đất của Nhân Phúc giao cho Thanh Nga canh tác. Xã viên Nhân Phúc không chịu, vì thế mà xảy ra tranh chấp.
Vụ tranh chấp khiến cho mâu thuẫn giữa hai miền ngày càng trầm trọng. Tháng 1/1992, một số người quá khích của miền Thanh Nga đã kéo sang, đánh 7 người của Nhân Phúc bị thương phải đi viện. Đó là các ông Thông, ông Vót, bà Ngọc, ông Thân, ông Côi, ông Hải, ông Mưu, trong đó ông Vót, bí thư chi bộ đội 4 (Lý Nội) bị đánh gẫy tay.
Bà con miền Nhân Phúc đã có đơn gửi công an huyện Lý Nhân, yêu cầu phải xử lý, giải quyết dứt điểm vụ hành hung này. Tuy công an huyện có hứa, nhưng rồi cuối cùng không giải quyết gì, khiến cho mâu thuẫn ngày càng leo thang. Theo cụ Điền và một số bà con, một số phần tử quá khích người Thanh Nga càng được đà lấn tới, họ phá lúa, phá ngô, phá đay trên cả những diện tích đất canh tác của Nhân Phúc không được cắt về cho Thanh Nga.
Đỉnh điểm là vụ án khủng khiếp, xảy ra tại bãi Bạc Hà ngày 29/11/1992. Anh Trần Ngọc Chương, người Nhân Phúc, có mặt tại đó, đã ghi lại trong lời làm chứng của mình: “Khoảng 14 giờ ngày 29/11/1992, tại bãi Bạc Hà, xã viên Nhân Phúc ra trồng màu trên khu đất được quản lý và canh tác hợp pháp của mình thì xã viên Thanh Nga kéo sang, bắt máy phải ngừng cày và cản không cho xã viên Nhân Phúc sản xuất. Hai bên dùng đất ném nhau. Tôi nhìn rõ bên Thanh Nga có Cự, Toàn, Hồng…
Sau khi dùng đất ném nhau được một lúc, tôi có nghe Hồng nói: “Lý Nhân khôn hồn thì về hết đi không tao tung chết hết”. Sau lời Hồng nói, bà con Nhân Phúc yêu cầu công an sang bắt Hồng (lúc đó tại bãi có 4 cán bộ công an huyện Lý Nhân). Công an đã sang ôm Hồng, nhưng bị dân Thanh Nga ném đất và đánh, nên lại chạy về bên người Nhân Phúc.
Lúc này tôi lại nghe Cự gọi Hồng: “Lý Nội ra đây rồi”, và tôi nhìn rõ Cự, Hồng, Toàn và một số dân Thanh Nga khác chạy ngược lên phía Thanh Lan (khu ruộng xóm 4). Lúc này tôi cũng chạy lên đứng gần anh Hòa - công an huyện Lý Nhân được khoảng vài phút. Đột nhiên anh Hòa ấn tôi nằm xuống (lúc nằm xuống, hai người đều quay đầu về phía dân Thanh Nga) thì lựu đạn nổ.
Sau tiếng nổ, tôi đứng dậy, thấy mình vẫn an toàn, tôi khâm phục trước sự quan sát tinh tường và nghiệp vụ của anh Hòa công an huyện. Khi thấy nhân dân Nhân Phúc bị thương nhiều, các anh công an huyện hỏi tôi: “Có biết tên ném lựu đạn kia là ai không?
Tôi nói với công an huyện: Nó là Cự con ông Thơ ở Thanh Nga. Công an lại hỏi tôi: Có biết nó bao nhiêu tuổi không? Tôi trả lời: Nó khoảng 37 tuổi. Anh công an hỏi rồi lấy vỏ bao thuốc lá ghi tên, tuổi Cự và nói với nhân dân cứ yên chí, chúng tôi có máy ảnh, đã chụp được ảnh rồi”.
Như vậy, căn cứ vào lời của nhân chứng này, thì 4 cán bộ công an huyện Lý Nhân đã nhìn rõ người ném lựu đạn về phía xã viên Nhân Phúc, chỉ không biết tên, tuổi, nên mới hỏi anh Chương “Có biết tên ném lựu đạn kia là ai không”.
Trái lựu đạn nổ đã làm anh Trần Văn Việt (con trai cụ Trần Anh Điền) chết và 21 người (tất cả đều là người Nhân Phúc) bị thương, trong đó có những người bị thương rất nặng như anh Trần Ngọc Ngọc (SN 1973), từ một thanh niên khỏe mạnh, anh Ngọc bị thương ở chân và đầu, phải điều trị nhiều tháng ở bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) hiện nay không đi lại được, người hóa ngơ ngẩn.
10-38-07_nh-trn-ngoc-ngoc-nguoi-bi-thuong-nng-nht-trong-vu-n
Anh Trần Ngọc Ngọc, người bị thương nặng nhất trong vụ án ngày 29/11/1992
Sau buổi chiều ngày 29/11/1992, Trần Văn Cự đã bỏ trốn. Công an huyện Lý Nhân đã khởi tố vụ án hình sự “giết người” và “tàng trữ vũ khí trái phép”, khởi tố bị can đối với Cự về hai hành vi trên, đồng thời ra lệnh truy nã Cự trên toàn quốc. Lệnh truy nã này được báo Nam Hà số thứ Ba, ngày 9/2/1993 đăng nguyên văn.
Thế nhưng ngày 23/2/1993, Trần Ngọc Thanh (tức Thủy), SN 1974, người xóm 4 (Lý Nội) bị bắt tại E139 Bộ Tư lệnh Thông tin và di lý về Công an tỉnh Nam Hà (sau ngày 29/11/1992, Thanh nhập ngũ và được biên chế vào đơn vị trên) để điều tra về hành vi “giết người”.
Đồng thời ngày 27/5/1993, Trần Văn Vót, SN 1949, đang là Bí thư chi bộ xóm 4 (Lý Nội) cũng bị bắt tại trụ sở UBND xã Phú Phúc để phục vụ điều tra về hai hành vi “giết người” và “tàng trữ trái phép vũ khí”.
Kết luận điều tra của Công an tỉnh Nam Hà ghi rõ: Trần Văn Vót là người đã tàng trữ, và đưa trái lựu đạn cho Trần Ngọc Thanh, để Thanh ném vào đám đông bà con xã viên Nhân Phúc vào chiều 29/11/1992, gây nên cái chết cho anh Trần Văn Việt và làm bị thương 21 người (?)


Liệu có thêm hai 'ông Chấn'? - 23 năm, bị hại liên tục kêu oan cho 'hung thủ' 
Cập nhật: 06:15, Thứ 5, 21/05/2015
Theo gia đình Trần Văn Vót, thì từ khi phải thụ án đến nay, Trần Văn Vót vẫn liên tục kêu oan, và kiên quyết không ký vào bản nhận tội, vì cho rằng mình không có tội.../ Vụ án kinh hoàng
Chị Trần Thị Sang (áo trắng): Chiều ngày 29/11/1992, anh Vót ngồi chơi với chồng tôi. Nghe tiếng nổ anh mới chạy ra bãi
Chị Trần Thị Sang (áo trắng): Chiều ngày 29/11/1992, anh Vót ngồi chơi với chồng tôi. Nghe tiếng nổ anh mới chạy ra bãi
Trần Văn Vót bị VKSND tỉnh Nam Hà truy tố về các tội: “Giết người” với vai trò chủ mưu, đưa lựu đạn cho Trần Ngọc Thanh ném, và “tàng trữ trái phép vũ khí”, “phá hoại việc thực hiện chính sách kinh tế xã hội” “gây rối trật tự công cộng”, còn Trần Ngọc Thanh bị truy tố về hành vi “giết người”.
Ngoài ra, còn một số người khác bị VKSND tỉnh Nam Hà truy tố về các tội danh khác như “gây rối trật tự công cộng”…Trong các ngày 23-26/2/1994, TAND tỉnh Nam Hà đã đưa vụ án ra xét xử.
Cụ Trần Anh Điền tường thuật lại, thì đây là một phiên tòa khá lạ lùng: Các nhân chứng và 21 người Nhân Phúc bị thương không được triệu tập. Ngoài vợ chồng cụ là đại diện cho nạn nhân Trần Văn Việt, thì thân nhân của những bị cáo cũng không được vào tòa.
Bản án số 37 ngày 26/2/1994 của TAND tỉnh Nam Hà tuyên phạt Trần Văn Vót: Tù chung thân về tội giết người, 10 năm tù về tội phá hoại việc thực hiện chính sách xã hội, 2 năm tù về tội tàng trữ trái phép vũ khí, 3 năm tù về tội gây rối trật tự công cộng, tổng hợp hình phạt chung cho cả 4 tội là tù chung thân. Phạt Trần Ngọc Thanh 15 năm tù về tội “giết người”. Các bị cáo chống án.
Từ ngày 25-27/8/1994, tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã phúc thẩm vụ án trên. Tình hình vẫn không có gì khác trước, những người trên vẫn không được vào tòa. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa là ông Nguyễn Bá Khôi viết giấy đưa cho luật sư cầm ra, yêu cầu lực lượng công an bảo vệ phiên tòa cho những người trên vào, nhưng công an không chấp hành. Thấy thế, cụ Điền đã hỏi ông Khôi:
- Ông điều hành phiên tòa hay là công an điều hành phiên tòa? Đã vậy thì tôi không dự tòa nữa.
Rồi cụ bỏ phiên tòa ra về. Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Trần Văn Vót và Trần Ngọc Thanh cùng các nhà báo cũng bỏ về theo. Tuy vậy, phiên tòa vẫn tiếp tục. Bản án hình sự phúc thẩm số 1030 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã tuyên y án sơ thẩm.
Bản án kết tội Trần Văn Vót đã đưa lựu đạn cho Trần Ngọc Thanh để Thanh ném vào đám đông xã viên Nhân Phúc chỉ dựa hoàn toàn vào lời khai của Trần Ngọc Thanh.
Tại cả 2 phiên tòa, Thanh đều khai rằng mình không có mặt ở bãi Bạc Hà và cánh đồng Thanh Lan vào chiều 29/11/1992. Nhưng khi bị bắt về trại tạm giam của công an tỉnh, Thanh đã bị dùng nhục hình để ép phải nhận như vậy. Nhưng lời khai tại tòa này không được chấp nhận.
Kể từ sau ngày 29/11/1992, ngày xảy ra vụ ném lựu đạn khiến con trai mình là Trần Văn Việt bị chết, đến nay là 23 năm, cụ Trần Anh Điền liên tục kêu oan cho Trần Văn Vót và Trần Ngọc Thanh, với những chứng cứ như:
-Trần Ngọc Thanh không có mặt ở hiện trường khi xảy ra vụ án.
- 4 cán bộ công an huyện Lý Nhân có mặt ở hiện trường đã nhìn rõ lựu đạn được ném từ phía người Thanh Nga sang phía người Nhân Phúc.
Rất nhiều nhân chứng khác cũng đã xác nhận tình trạng Thanh và Vót ngoại phạm khi vụ án xảy ra. Bà Trần Thị Bông, SN 1944, xóm 4 (Lý Nội) xã Phú Phúc, xác nhận: "Chiều ngày 29/11/1992, khi tôi đi về từ nhà bà Chằng, mẹ đẻ tôi, đến ngõ Hải Mạc thì gặp Trần Ngọc Thanh và Đạt đi làm đất về. Ngay sau đó thì tôi nghe tiếng nổ ở ngoài bãi”. Xin lưu ý là từ chỗ bà Bông gặp Thanh đến hiện trường vụ án, khoảng cách là hơn 1km.
Chị Trần Thị Vân, SN 1977, trú quán xóm 4 (Lý Nội) xã Phú Phúc, xác nhận: "Chiều ngày 29/11/1992, tôi đi trồng ngô ở ngoài bãi về, đến nhà chú Thu xóm 4 (Lý Nội) thì nghe tiếng nổ ngoài bãi, khi về đến ngõ nhà bà Nhiệm xóm 4 (Lý Nội) tôi gặp anh Trần Ngọc Thanh đi từ phía Tây Lang về. Anh nói là đi vác đất cho ông Tòng về. Lúc đó anh mặc quần soóc, cởi trần và tay cầm áo”.
Ông Trần Văn Thận, SN 1945, trú quán tại xóm 4 (Lý Nội) xác nhận: "Chiều ngày 29/11/1992, tôi đang lấy bùn ở ao nhà ông Quắc và ông Bàng, đều ở xóm 4 (Lý Nội) để trát lò gạch thì tôi nghe tiếng lựu đạn nổ. Ngay sau đó khoảng 5 phút tôi gặp anh Trần Ngọc Thanh mặc quần soóc, cởi trần, tay cầm áo đi về nhà. Tôi hỏi thì anh trả lời cháu đi làm đất cho ông Tòng”.
Chị Trần Thị Sang, hàng xóm nhà Trần Văn Vót, khẳng định: "Chiều ngày 29/11/1992, anh Vót ngồi chơi với chồng tôi ở nhà tôi. Nghe tiếng nổ ngoài bãi, anh Vót mới chạy ra”.
10-38-09_b-con-thon-nhn-phuc-keo-den-cung-cp-thong-tin-ve-vu-n-cho-pv-bo-nnvn
Bà con thôn Nhân Phúc kéo đến cung cấp thông tin về vụ án cho PV Báo NNVN
Ngày 11/12/1998, Phó chánh tòa Hình sự TANDTC Nguyễn Văn Hiện (sau là Chánh án TANDTC và hiện là Chủ nhiệm ủy ban Pháp luật của Quốc hội) đã ký công văn số 515/HS gửi vụ 3 VKSNDTC, có nội dung: "Tại bản án hình sự phúc thẩm số 1030 ngày 25-27/8/1994, Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã kết án Trần Ngọc Thanh 15 năm tù về tội “giết người”.
Sau khi xét xử phúc thẩm, gia đình bị cáo có đơn khiếu nại nên ngày 10/8/1995 TANDTC đã có công văn số 263 trả lời gia đình bị cáo. Ngày 16/11/1998 ông Trần Ngọc Thông và bà Trần Thị Tân (bố và mẹ bị cáo Trần Ngọc Thanh) và đại diện gia đình, họ tộc người bị hại Trần Văn Việt tiếp tục khiếu nại và đưa ra một số chứng cứ cho rằng việc điều tra vụ án không khách quan, dẫn đến việc tòa án kết tội oan cho Trần Ngọc Thanh. Theo ý kiến của Chánh án TANDTC và căn cứ quy định tại các điều từ 260 đến 263 Bộ luật TTHS, TANDTC chuyển đơn khiếu nại đến vụ 3 VKSNDTC để giải quyết theo thẩm quyền”.
Nhưng tất cả đều chìm vào im lặng. Theo gia đình Trần Văn Vót, thì từ khi phải thụ án đến nay, Trần Văn Vót vẫn liên tục kêu oan, và kiên quyết không ký vào bản nhận tội, vì cho rằng mình không có tội


Liệu có thêm hai 'ông Chấn'? - Ai thực sự là người ném trái lựu đạn?
Cập nhật: 06:15, Thứ 6, 22/05/2015
Trong lần về xã Phú Phúc để điều tra, xác minh theo đơn của cụ Trần Anh Điền, chúng tôi đã gặp một nhân chứng vô cùng quan trọng./ 23 năm, bị hại liên tục kêu oan cho 'hung thủ'
Bà Trần Thị Liên : Chính mắt tôi nhìn thấy Trần Văn Hữu ném trái lựu đạn chiều ngày 29/11/1992
Bà Trần Thị Liên : Chính mắt tôi nhìn thấy Trần Văn Hữu ném trái lựu đạn chiều ngày 29/11/1992
Đó là bà Trần Thị Liên, SN 1951, trú quán tại xóm 3 thôn Thanh Nga, xã Phú Phúc.
Lời chứng của bà Liên như sau: "Tôi xin làm chứng rằng trong cuộc xô sát giữa thôn Thanh Nga và thôn Nhân Phúc chiều ngày 29/11/1992, ông Trần Văn Vót đã không đưa lựu đạn cho Trần Ngọc Thanh.
Trần Ngọc Thanh cũng không có mặt ở hiện trường xảy ra xô sát. Như vậy ông Trần Văn Vót và Trần Ngọc Thanh không gây ra cái chết của Trần Văn Việt. Đồng thời tôi xin làm chứng rằng người ném lựu đạn trong cuộc xô sát này là Trần Văn Hữu, con ông Bốn ở xóm 1 Thanh Nga”.
Chúng tôi hỏi bà Liên:
- Căn cứ vào đâu mà bà khẳng định rằng Trần Văn Hữu là người đã ném trái lựu đạn trong cuộc xô sát giữa hai thôn vào chiều ngày 29/11/1992?
- Tôi biết thằng Hữu có lựu đạn. Và biết chúng nó có ý đồ xấu, nên tôi đã bí mật theo dõi nó. Chiều ngày 29/11/1992, dân Thanh Nga ra bãi, ngoài thằng Hữu với vài thằng khác, thì chỉ toàn đàn bà thôi. Chính mắt tôi nhìn thấy thằng Hữu ném.
Như vậy là ở đây có hai người đáng chú ý. Thứ nhất là Trần Văn Cự. Theo anh Trần Ngọc Chương, thì 4 cán bộ công an huyện Lý Nhân có mặt ở hiện trường chiều ngày 29/11/1992, khi đẩy anh Chương ngã xuống lúc lựu đạn nổ, họ đã nhìn rõ người ném trái lựu đạn, chỉ không biết tên tuổi, nên mới hỏi anh Chương.
Khi được anh Chương cho biết tên người đó là Trần Văn Cự, những anh công an đó đã lấy vỏ bao thuốc lá ghi tên tuổi của Cự. Và sau đó công an đã khởi tố vụ án “giết người” và “tàng trữ trái phép vũ khí”. Rồi tiếp tục khởi tố bị can đối với Trần Văn Cự về hai hành vi trên.
Khởi tố vụ án thì đương nhiên rồi. Nhưng từ chỗ khởi tố vụ án đến khởi tố bị can, là một thời gian xác minh công phu, nghiêm túc. Và chắc chắn rằng phải có đủ căn cứ thì cơ quan điều tra mới khởi tố bị can, ra lệnh truy nã toàn quốc đối với Trần Văn Cự.
Thế mà khi Cự bị bắt, thì từ chỗ bị khởi tố bị can về hai hành vi “giết người” và “tàng trữ trái phép vũ khí”, Cự lại được chuyển tội danh thành “gây rối trật tự công cộng”. Đây quả là một điều khó hiểu. Một trong 4 công an huyện Lý Nhân có mặt tại hiện trường hôm đó là anh Hòa.
Sau đó không hiểu vì lý do gì, anh Hòa phải ra khỏi ngành công an, hiện đang sống ở Hà Nội. Chúng tôi đã liên lạc với anh bằng điện thoại, với mong muốn tìm hiểu thêm thông tin về vụ án nhưng anh từ chối.
Thứ hai, bà Trần Thị Liên thì khẳng định người ném trái lựu đạn là Trần Văn Hữu, trú quán tại xóm 1 thôn Thanh Nga. Điều này chưa hề được cơ quan điều tra xác minh làm rõ.
Vậy ai là người đã thực sự ném trái lựu đạn đó?
Nhưng theo chúng tôi, dù ai ném chăng nữa, thì cũng không phải Trần Văn Vót và Trần Ngọc Thanh. Vì những lẽ sau đây:
- Rất nhiều nhân chứng như đã nói ở bài trước, đã khẳng định tình trạng ngoại phạm của Thanh và Vót khi vụ án xảy ra.
- Trần Văn Vót là người đã có 18 năm quân ngũ, được tặng Huân chương Chiến sỹ giải phóng hạng Ba; Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì; được Nhà nước Lào tặng thưởng Huân chương chống Mỹ.
Khi rời quân ngũ, Trần Văn Vót là bệnh binh mất 71% sức khỏe. Khi vụ án xảy ra, Trần Văn Vót đang là Bí thư Chi bộ đội 4 (Lý Nội). Là một Bí thư Chi bộ, hẳn Vót có nhận thức chính trị cao hơn người thường.
Là cựu binh, Trần Văn Vót hẳn hiểu biết về mức độ nguy hiểm của trái lựu đạn khi nó nổ ở chỗ đông người. Không dại gì mà Vót lại đưa lựu đạn cho Trần Ngọc Thanh làm việc nguy hiểm đó.
- Xô sát xảy ra là giữa dân Thanh Nga và dân Nhân Phúc. Thanh và Vót đều là người Nhân Phúc. Vậy nếu giả sử có ném trái lựu đạn, thì Thanh phải ném về phía dân Thanh Nga chứ không đời nào ném về phía dân Nhân Phúc, nơi có rất nhiều người không chỉ là hàng xóm mà còn cả người thân của mình.
- Bản án của hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đều dài tới 50 trang giấy khổ A4, lập luận rất dài dòng, nhưng tuyệt không đưa ra được một nhân chứng nào khẳng định đã nhìn thấy Trần Văn Vót đưa lựu đạn cho Trần Ngọc Thanh, cũng như không đưa ra được một nhân chứng nào khẳng định đã nhìn thấy Thanh, Vót có mặt ở hiện trường lúc xảy ra vụ án.
Tất cả chỉ dựa vào duy nhất lời khai của Trần Ngọc Thanh. Mà Thanh thì khai tại tòa rằng mình đã bị dùng nhục hình, bức cung. Sợ mất an toàn cho bản thân nên Thanh bắt buộc phải khai theo ý điều tra viên, chờ ra tòa sẽ nói lên sự thật. Nhưng lời khai của Thanh tại tòa không được đếm xỉa.
Vụ án này cón rất nhiều câu hỏi, chưa được làm sáng tỏ. Đã gây bức xúc cho người dân Nhân Phúc suốt 23 năm qua. Chúng tôi kiến nghị những người có trách nhiệm của các cơ quan có thẩm quyền, hãy có những biện pháp tư pháp cần thiết để xem xét lại vụ án.

Vũ Hữu Sự

Thủ tướng yêu cầu xem xét giải quyết vụ 'Liệu có thêm hai ông Chấn?' 
Cập nhật: 12:29, Thứ 4, 17/06/2015
Bản án hình sự phúc thẩm số 1030 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã tuyên y án sơ thẩm. Suốt 23 năm qua, Trần Văn Vót và gia đình liên tục kêu oan nhưng chưa có kết quả./ 23 năm, bị hại liên tục kêu oan cho 'hung thủ'
Cụ Trần Anh Điền (giữa) bố của nạn nhân Trần Văn Việt trong vụ án ngày 29/11/1992
Cụ Trần Anh Điền (giữa) bố của nạn nhân Trần Văn Việt trong vụ án ngày 29/11/1992
Báo Nông nghiệp Việt Nam số ra từ ngày 20-22/5/2015 đăng tải loạt bài điều tra về một vụ án ở huyện Lý Nhân (tỉnh Hà Nam) “Liệu có thêm hai “ông Chấn”?” của tác giả Vũ Hữu Sự.
Trong đó có nội dung về Bản án hình sự phúc thẩm số 1030 ngày 27/8/1994 của Tòa phúc tẩm Tòa án nhân dân Tối cao tại Hà Nội đối với bị cáo Trần Văn Vót có dấu hiệu oan sai và kiến nghị xem xét lại bản án.
Sau khi Báo NNVN đăng tải, GS.TS Nguyễn Lân Dũng đã có thư gửi Thủ tướng Chính phủ kèm theo loạt bài điều tra của nhà báo Vũ Hữu Sự. Ngày 12/6/2015, Văn phòng Chính phủ có văn bản thông báo số 4364 gửi Viện trưởng Viện KSND tối cao và Chánh án TAND tối cao thông báo ý kiến của Thủ tướng Chính phủ như sau: Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đề nghị đồng chí Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, đồng chí Chánh án TAND tối cao chỉ đạo xem xét, giải quyết phản ánh của GS.TS Nguyễn Lân Dũng về Bản án hình sự phúc thẩm số 1030 ngày 27/8/1994 của Tòa phúc tẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội theo qui định của pháp luật và thông báo cho Thủ tướng Chính phủ biết kết quả.
Trần Văn Vót là bị cáo trong vụ án xảy ra ở huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam vào năm 1992. Theo Bản án số 37 ngày 26/2/1994 của TAND tỉnh Nam Hà tuyên phạt Trần Văn Vót: Tù chung thân về tội giết người, 10 năm tù về tội phá hoại việc thực hiện chính sách xã hội, 2 năm tù về tội tàng trữ trái phép vũ khí, 3 năm tù về tội gây rối trật tự công cộng, tổng hợp hình phạt chung cho cả 4 tội là tù chung thân...
Sau khi bị cáo chống án, từ ngày 25-27/8/1994, tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã phúc thẩm vụ án trên. Bản án hình sự phúc thẩm số 1030 của Tòa phúc thẩm TANDTC tại Hà Nội đã tuyên y án sơ thẩm. Suốt 23 năm qua, Trần Văn Vót và gia đình liên tục kêu oan nhưng chưa có kết quả.
Hoàng Anh

Nguồn: Nongnghiep 

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Anh Cơ trong tâm trí riêng tôi!

Vũ Khoan


Thế là tiếng nói oang oang, tiếng cười sảng khoái của anh Trần Quang Cơ đã tắt! Tôi trộm nghĩ mình không nhầm nếu nói rằng, toàn thể anh chị em cán bộ, nhân viên Bộ Ngoại giao, nhất là những người đã từng cộng sự trực tiếp đều tiếc thương vô hạn vì trong tâm chí mọi người Anh là một nhà ngoại giao cực kỳ sắc sảo và kiên định, một con người hết sức khảng khái và tự trọng, một nhà lãnh đạo mẫu mực, công tâm.

Từng xông pha trận mạc trong hàng ngũ Quân đội nhân dân, lăn lộn trong hoạt động địch vận, anh Cơ đã về công tác trong ngành ngoại giao ngay sau khi tiếp quản Thủ đô năm 1954. Trong ngành Anh đã kinh qua rất nhiều lĩnh vực trên các cương vị khác nhau: khi thì làm Phó Chủ nhiệm Khoa của Trường Đại học ngoại giao – ngoại thương, khi thì phụ trách các đơn vị trọng điểm của Bộ Ngoại giao là Vụ châu Á, Vụ Bắc Mỹ, Vụ Tây Âu; khi thì công tác tại các cơ quan đại diện ngoại giao ở Sri Lanka rồi Indonesia và sau làm Đại sứ ở Thái Lan.
Đặc biệt Anh là một trong số rất ít cán bộ ngoại giao đóng vai trò nòng cốt và có mặt trên tuyến đầu của cả ba “trận chiến” quan trọng nhất của ngành ngoại giao trong những năm 60 – 80 thế kỷ trước: đó là cuộc đấu trí, đấu lý ở Paris ròng rã 6 năm trời đưa tới Hiệp nghị năm 1973 chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam và Mỹ phải rút quân về nước; đó là cuộc đấu tranh ngoại giao hết sức cam go, vô cùng phức tạp kéo dài hơn một thập kỷ nhằm đẩy lùi những hành động chống phá và bao vây, cô lập Việt Nam trong những năm 80; đó là đợt hoạt động ngoại giao sôi động, đầy sáng tạo cuối những năm 80, đầu những năm 90 nhằm mở cửa ra thế giới bên ngoài sau khi nước ta bước vào thời kỳ đổi mới.
Trong những thắng lợi ngoại giao vào những năm tháng đầy thử thách đó có phần đóng góp không nhỏ của Anh. Trong trận chiến đầu anh Cơ là một trong những cán bộ lãnh đạo đơn vị chuyên trách nghiên cứu, tham mưu về giải pháp phục vụ cho cuộc hòa đàm Paris, sau đó trực tiếp tham gia Đoàn đàm phán cả công khai lẫn bí mật. Trong trận chiến thứ hai, anh Cơ phụ trách đơn vị chuyên trách về giải pháp cho vấn đề Căm-pu-chia và trực tiếp tham gia đấu tranh ngoại giao để đi tới Hội nghị Pari về Căm-pu-chia năm 1991. Còn trong trận chiến thứ ba, anh Cơ đã là ủy viên dự khuyết rồi ủy viên chính thức Trung ương Đảng, Thứ trưởng rồi Thứ trưởng thường trực tham gia chỉ đạo công việc của Bộ.

Cá nhân tôi có may mắn được làm việc gần gụi với anh Cơ từ cuối những năm 80 với tư cách là Trợ lý Bộ trưởng rồi Thứ trưởng Bộ Ngoại giao. Những năm tháng ấy đã để lại trong tôi những ấn tượng sâu sắc về trí tuệ và sự kiên định của Anh. Khi Bộ bàn thảo cục diện thế giới và đề xuất đối sách anh Cơ luôn đưa ra những đánh giá và chủ trương rất sắc sảo và độc đáo nhờ kiến thức sâu rộng, kinh nghiệm phong phú tích lũy được qua các cuộc chiến cam go trước đó. Đặc biệt anh đã có nhiều đóng góp quý giá vào các đợt nghiên cứu chiến lược quốc tế và đề xuất đường lối, chủ trương đối ngoại vào cuối những năm 80, đầu những năm 90, tạo ra bước ngoặt mới trong lĩnh vực đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Như lệ thường, trong những tình huống phức tạp và những bước ngoặt xoay chiều trong cục diện cũng như về chủ trương, đối sách hay nẩy sinh những ý kiến trái chiều nhau; trong những trường hợp ấy anh Cơ luôn kiên định ý kiến của mình dựa trên những đánh giá tỉnh táo, những trăn trở sâu sa về lợi ích dân tộc, trước sau thấm nhuần tinh thần độc lập, tự chủ cho dù bản thân gặp phải không ít phiền toái, khó khăn. Khi là Thứ trưởng Bộ, mỗi khi gặp vấn đề nan giải tôi luôn tìm tới anh không chỉ với tư cách Thứ trưởng thường trực mà còn một người anh dầy dạn kinh nghiệm luôn chân thành chia xẻ những suy nghĩ thông tuệ của mình.
Bên cạnh sự cảm phục về tài trí của Anh, tôi, và chắc là tất cả anh chị em cán bộ trong Bộ thời đó, đều đặc biệt vì nể và quý trọng anh Cơ về lòng tự trọng và sự khẳng khái hiếm thấy của một cán bộ lãnh đạo, một đảng viên chân chính. Sau Đại hội VII của Đảng, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch nghỉ hưu và lúc đó đã có ý kiến đề cử anh Cơ lên thay song anh nhất quyết khước từ, thậm chí đã đi nước ngoài lánh mặt. Về sau này, nhân một lần tâm sự với Anh tôi đã hỏi vì sao Anh đã hành xử như vậy thì Anh thản nhiên trả lời: “giản đơn là tớ tự nhận thấy, với tính cách của mình, sẽ khó làm việc, vậy thôi!”. Sau khi anh Nguyễn Mạnh Cầm được cử làm Ngoại trưởng, anh Cơ đã hết lòng hợp tác, tâm đồng ý hợp với anh Cầm, góp phần làm cho không khí đoàn kết trong ngành thêm bền chặt và giúp Bộ có những đóng góp xứng đáng trên mặt trận ngoại giao. Và tới năm 1994, Anh đã tự ý xin thôi tham gia Ban chấp hành Trung ương vì lý do sức khỏe mặc dầu chưa hết nhiệm kỳ. Sau khi nghỉ hưu, tuy bị bệnh hiểm nghèo Anh vẫn chăm chú theo dõi thời cuộc; mỗi lần chúng tôi kéo đến thăm, Anh vẫn trăn trở, xẻ chia suy ngẫm của mình bằng cái giọng sang sảng và tiếng cười hồn nhiên quen thuộc.
Không dễ gì một cán bộ lãnh đạo khi ra đi được tất cả đồng sự hết lòng quý trọng, chân thành tiếc thương. Riêng anh Cơ đã giành được điều đó nhờ trí tuệ và nhân cách của mình. Tiếng cười sảng khoái của anh trên nhân gian không còn nhưng anh có thể mỉm cười nơi chín suối vì mình đã sống một cuộc đời xứng đáng là một “Con Người”.

Nguồn: Chienthang47

Phần nhận xét hiển thị trên trang