Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Bảy, 30 tháng 5, 2015

viết sau cuộc va chạm có vẻ khốc liệt giữa hai con người trần gian



Các bạn biết không, tôi rất mê loài chim biết hót. Mê nhất là chim hoạ mi. Cũng chẳng biết mê vì tiếng hót như xoáy vào tâm can, hay là vì tên gọi của nó thường gợi tôi nghĩ về một vẻ đẹp đáng kể nhất trong trời đất: giai nhân. Hoạ mi có nghĩa là vẽ mày đấy các bạn ạ. “Làm thế nào để thuần dưỡng một con hoạ mi rừng thành một con hoạ mi hót thật hay”. “Thức ăn và phòng bệnh cho chim hoạ mi”. “Một chiếc lồng đúng nghĩa là lồng chim hoạ mi”. Vân vân. Trên tủ sách của tôi, bên cạnh sách của các ông Pushkin, Cervantes... là những sách về chim hoạ mi. Có thể nói vào giai đoạn mê chim hót, tôi xếp chim hoạ mi cao hơn các ông Pushkin, Cervantes, bởi vì các ông ấy không biết hót (theo nghĩa hiện thực của từ này). Một con hoạ mi rừng người ta rập được trên rừng đem bán thì giá cả rất dễ mua. Nhưng cuộc chơi bắt đầu bằng kiểu này thì nguôi lắm. Đôi khi còn làm ta thất vọng. Nuôi con hoạ mi rừng thì cuối cùng con chim sẽ chết, hoặc không biết hót. Con đường tiến vào cuộc chơi nhanh nhất là mua một con hoạ mi đã biết hót. Sáng nào tôi cũng đến quán cà-phê-chim sầm uất nhất thành phố để nghe chim hoạ mi hót. Cuối cùng thì tôi đã phát hiện được con hoạ mi hót hay nhất thành phố mà các bạn chơi chim ở đó đều thừa nhận. Vấn đề còn lại là làm sao mua được con chim. Tôi xáp vào thằng cha chủ chim. Sáng nào gặp thằng cha ấy ở quán cà-phê-chim, tôi cũng đờn vào tai chả. Và tôi đã gặp may. Thằng cha chủ chim cũng là tay mê sách. Tôi cũng là tay mê sách, nhưng đến lúc ấy thì tôi mê chim hơn mê sách. Tôi mang các ông Pushkin, Cervantes... cả thảy là mười một ông, đến đổi lấy con hoạ mi hót hay nhất thành phố. Được con hoạ mi hót hay nhất thành phố rồi, tôi lo tiếp cái lồng chim hoạ mi đẹp nhất thành phố. Các bạn biết không, thời ấy một trăm nghìn đồng lớn lắm. Nhưng tôi đã dám bỏ ra một trăm nghìn đồng để mua cái lồng chim hoạ mi đẹp nhất thành phố. Hút một lượt ba điếu thuốc, tôi cùng thằng cha làm lồng chim cùng hô “chim hoạ mi vạn tuế”, rồi tôi xách cái lồng chim mới về thay lồng chim cũ. Từ đó, con chim hoạ mi như một phần đời của tôi. Sáng ra là tôi xách cái lồng chim hoạ mi ra treo trước hiên hè, bắt ghế ngồi chờ. Phải chờ, chứ đâu hễ muốn con hoạ mi hót là nó hót. Và những phút giây thiêng liêng ấy đã đến. Thánh thót. Chơi Vơi. Như châu như ngọc. Như áo em bay giữa trời tháng tám. Cho vào ngoặc hết. Không có từ nào diễn được tiếng hót của hoạ mi. Nó là âm vang của đất trời, làm sao có thể diễn được bằng thứ tiếng nói của con người. Chỉ nói được với các bạn, là khi nghe con hoạ mi của tôi hót, tôi đã rơi vào thứ trạng thái tinh thần các nhà huyền học gọi là huyền nhập, hay nói theo cách của phái Pythagore huyền bí là rơi vào nhịp điệu của vũ trụ, hay cũng có thể nói theo cách của nhà triết học Bergson là rơi vào thứ cảm thức tiếp diễn. Nghe con chim hoạ mi hót, tôi cứ thấy như mình đang rơi vào trạng thái không thức không ngủ. Ta đang cập bến bờ nào nhỉ? Cho đến một hôm, nghe con hoạ mi hót một hồi, tôi bỗng thấy tiếng hót của nó biến thành một bức thư tình:
Anh yêu thương của em. Em yêu anh với tất cả tinh hoa của loài giống em. Em phải hót cho anh nghe đến khi chẳng còn thấy bóng tối phủ lên nhân gian. Em phải hót cho anh nghe đến khi mặt trời mặt trăng không còn nỗi buồn nào.
Bức thư thì dài, tôi chỉ trích ra cái thần của thư. Tức cái làm tôi phải nghĩ ngợi:
Em biết anh cũng yêu em. Rất nhiều. Nhưng anh đã dành cho em bầu trời bay lượn quá thấp và quá nhiều mây đen.
Các bạn biết không, tôi chỉ mang cái lồng chim của tôi ra ngoài khi có bầu trời trong xanh và gió nhẹ. Thư là thư tình, nhưng lại làm tôi nghĩ ngợi khổ sở. Sao lại là bầu trời quá thấp và quá nhiều mây đen nhỉ? Hay là con chim hoạ mi của tôi nó muốn gợi ý về triết học tồn tại của bầu trời và những đám mây? Đồ ngu, tôi chửi tôi. Làm sao một con chim lại có thể gợi ý triết học! Tôi nghi con chim hoạ mi của tôi bị bệnh, liền đưa đến bệnh viện khám. Các bác sĩ đều nói chẳng có bệnh viện nào có khoa khám bệnh cho chim. Ra đến cửa bệnh viện tôi còn nghe bọn họ bàn tán: anh chàng bị bệnh tâm thần rồi. Tôi nghe hết, nhưng chỉ cười trong bụng. Biết ai bị bệnh tâm thần nhỉ? Các bạn biết không, rồi tôi bị bệnh tâm thần thật. Tôi thả con chim hoạ mi của tôi vào bầu trời cao rộng trên đầu mà chẳng thấy chút luyến tiếc nào. Giờ đây chỉ còn lưu lại trong tôi mỗi chút tiếng hót xa vắng của chim.

giã, 3pm 4/3/2015


----------------

Phần nhận xét hiển thị trên trang

NGƯỜI TÔI YÊU

Tình tôi gửi cho người chưa biết
Người chưa quen, chưa gặp bao giờ
Chưa lần nắm tay
Chưa hề gặp mặt
Rất khó trong đời
Và thực dễ trong mơ!

Người tồn tại trong tôi,
tim Người tôi vắng mặt
Tôi chỉ thoáng qua
ngọn gió bên thềm
Không đáng gì đâu để người khao khát
Dù một giây thôi..
 trong ánh mắt người!

Người xa lắm
và kiêu hãnh lắm
Tháng năm dài tình tôi đi theo
Không cần biết mai này
số kiếp
Buồn hay vui..
hay chung cuộc thế nào!

Có thể tôi điên,
có thể tôi khờ khạo
- Ai lại yêu khi chưa biết gì?
Chỉ giọng nói một đôi lần ..bối rối..
Cho đến tận giờ
tôi chưa biết vì sao?

Tốt nhất người cứ quên tôi đi như chưa hề biết!
Chưa hề quen,
chưa hẹn câu nào..
Như thế giới này đang tím bầm vô cảm
- Có cần chi..
thêm hoặc bớt một tình yêu?










Phần nhận xét hiển thị trên trang

Số phận thăng trầm của một bài phỏng vấn nổi tiếng


Bài báo “Những đòi hỏi mới của thời cuộc” được in trên báo Quốc Tế cách đây đúng 10 năm. Khi đó, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt tái khẳng định rằng chiến thắng 30-4 là vĩ đại nhưng người Việt Nam cũng “đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát”, vì thế một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm sẽ “có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Ông Nguyễn Vĩnh, nguyên Tổng Biên tập báo Quốc Tế (nay là báo Thế Giới và Việt Nam), kể về một câu chuyện trắc trở xung quanh bài phỏng vấn lừng lẫy ấy. Theo ông Nguyễn Vĩnh, đó là một trong những bài báo in trên Quốc Tế được xây dựng công phu nhất nhưng cũng lại là bài báo có số phận trải đủ cung bậc thăng trầm...


SỐ PHẬN BÀI BÁO "TRIỆU NGƯỜI VUI, TRIỆU NGƯỜI BUỒN"...

@ Xây dựng công phu nghĩa là thế nào, thưa ông?
Nguyễn Vĩnh: Cuối năm 2004, anh em nghiên cứu chính sách đối ngoại bên ngoại giao và báo Quốc Tế được gặp ông Võ Văn Kiệt nhằm trao đổi một số vấn đề đối ngoại. Sau buổi gặp, một phó tổng biên tập được phân công chấp bút, lựa những điều ông Kiệt trăn trở và tâm đắc nhất để soạn lại thành một bài viết dạng phỏng vấn. Hướng nhắm tới là cột mốc quan trọng năm 2005: 30 năm ngày giải phóng miền Nam, rất thích hợp để phát đi một tín hiệu đối ngoại quan trọng từ một nhân vật nguyên là lãnh đạo cấp cao. Bài được gửi xin ý kiến và được nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đồng ý cho đăng với kế hoạch thời gian sẽ đăng Quốc Tế số tết Ất Dậu 2005.

@ Vậy còn thăng trầm?
Nguyễn Vĩnh: Đó là khi bài đã lên khuôn ở nhà in thì tôi nhận được chỉ đạo qua điện thoại không cho phép đăng bài đó.

@ Một bài báo quan trọng như thế thông thường khi chưa lên trang chỉ nhân vật và tòa soạn biết, tại sao lại rò rỉ để đến mức bị chỉ đạo gỡ bài?
Nguyễn Vĩnh: Đó cũng chính là câu tôi đã hỏi vị lãnh đạo đó. Nhưng ông ấy từ chối trả lời mà chỉ yêu cầu tôi thực hiện không cho bài ấy xuất hiện. Cuối cùng, chúng tôi phải bóc hết một “tay in” là tám trang, rồi thay vào một bài khác.

@ Bài bị gỡ thường là “có vấn đề”, lúc đó ông có sợ trách nhiệm cá nhân của mình không?
Nguyễn Vĩnh: Khi thực hiện bài phỏng vấn đặc biệt này, tôi đều có báo cáo với cơ quan chủ quản của báo là Bộ Ngoại giao. Bài viết hoàn thành, chúng tôi cũng gửi lại cho nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt đọc, sau đó ông có phê vào bản thảo là đồng ý cho đăng.

@ Phản ứng của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt khi biết bài không được đăng như thế nào?
Nguyễn Vĩnh: Ông ấy không hài lòng. Nguyên Thủ tướng còn viết thư riêng gửi cho một lãnh đạo cao cấp yêu cầu giải thích về việc này. Tôi vẫn còn giữ hai lá thư đó, bản gửi cho tôi biết, như một kỷ niệm công việc.

@ Nhưng cuối cùng bài báo đó cũng được đăng với tựa đề là “Những đòi hỏi mới của thời cuộc”.
Nguyễn Vĩnh: Đúng rồi, sau lá thư của ông Võ Văn Kiệt, không rõ từ lý do nào và ra sao mà một thời gian sau ngày bị dừng thì tổng biên tập lại nhận được chỉ đạo phải đăng bài này. Nhưng đúng lúc đó thì nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt lại không đồng ý để bài đó được đăng nữa.

@ Báo Quốc Tế đã làm gì để thuyết phục ông Võ Văn Kiệt đồng ý?
Nguyễn Vĩnh: Việc này vượt ra ngoài tầm của Ban Biên tập. Đích thân đồng chí Nguyễn Phú Bình lúc đó là thứ trưởng Bộ Ngoại giao vất vả lắm mới nhận được cái gật đầu của nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt và bài báo đã được in vào ngày 30-3-2005.

@ Dư luận về bài báo đó ra sao, thưa ông?
Nguyễn Vĩnh: Dư luận rất tốt, rất nhiều báo ở trong nước và ngoài nước in lại hoặc đưa lên mạng bài báo này. Bài báo hay ở nội dung và tư tưởng. Ngay mở đầu bài viết, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt tái khẳng định rằng chiến thắng 30-4 là vĩ đại nhưng người Việt Nam cũng “đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát”. Vì thế một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại theo các lối cũ vẫn làm sẽ “có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Vết thương chung của dân tộc như vậy cần được giữ lành, “thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”. Và muốn để mọi người Việt Nam chung tay hàn gắn thì chúng ta, người chiến thắng và đang lãnh đạo đất nước, “phải thực tâm khoan dung và hòa hợp”. Ở một lãnh đạo cấp cao, ý trên thật mới và rất quan trọng cho hòa hợp dân tộc.

@ Trong bài trả lời phỏng vấn đó, nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn có đánh giá về tướng Dương Văn Minh?
Nguyễn Vĩnh: Đúng, nguyên Thủ tướng phân tích tướng Minh nhậm chức tổng thống Việt Nam Cộng hòa ngày 28-4-1975 là thời điểm mà “một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn”, rồi Sài Gòn không “tử thủ” như các tướng tá khác muốn, trái lại thành phố giữ được nguyên vẹn do ông Minh chấp nhận đầu hàng. Sự việc được ông Kiệt kể lại: “Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30-4, khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường và vào đúng giờ phút ấy mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này”. Với cách nhìn nhận như vậy, ông Kiệt muốn nêu lên một thực tế, ông nói: “Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng Tổ quốc Việt Nam chúng ta giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc”.

@ Việc đánh giá về ông Dương Văn Minh như thế phải chăng cũng là một nguyên do khiến bài phỏng vấn đó bị yêu cầu dừng xuất bản?
Nguyễn Vĩnh: Nguyên nhân thực sự tôi không rõ. Tuy nhiên, với hai ý lớn như thế, lại xuất hiện ở thời điểm 2005, khi mà trong nội bộ chúng ta còn có nhận thức và đánh giá chênh nhau, thậm chí khác nhau về thực chất của hòa hợp dân tộc và lực lượng thứ ba có liên quan đến tướng Dương Văn Minh, thì việc bài báo bị dừng lại, tôi nghĩ cũng là điều có thể hiểu được.

@ Về hưu nhưng ông dường như vẫn quan tâm đến thời cuộc với nhiều bài viết trên blog cá nhân và Facebook... Ông nghĩ thế nào về ngoại giao của ta trong thời điểm hiện nay?
Nguyễn Vĩnh: Chúng ta vẫn thường nghe câu “thêm bạn bớt thù” trong quan hệ quốc tế. Như vậy tức là chúng ta vẫn thừa nhận có thù, làm như điều này “không thể hết được”. Nhưng tôi nghĩ không nên tư duy về thù và “sắp xếp” hai khái niệm bạn/thù theo lối cũ, được như thế thì vẫn tốt hơn. Nói cách khác là nên xác định ở thời nay sẽ chẳng có bạn hay thù nào là vĩnh viễn mà chỉ có quyền lợi đất nước và dân tộc là vĩnh viễn và vĩnh cửu.
@ Nhưng có lúc đấu tranh để bảo vệ quyền lợi dân tộc, chúng ta phải chạm trán với kẻ thù, thưa ông?
Nguyễn Vĩnh: Như thế chúng ta mới cần phải có đường lối và chính sách ngoại giao đúng đắn. Cần nhiều cách ứng xử và biện pháp khác nhau vận dụng khôn ngoan. Trong quan hệ là hợp tác cùng có lợi và bình đẳng, là mềm mỏng nhưng cần thì phải đấu tranh khi lợi ích dân tộc bị xâm hại. Trải qua bao chục năm dâu bể, tôi thoáng nghĩ đến phương cách trung lập. Cái thế địa-chính trị của nước ta nó mách bảo điều này. Lãnh đạo cấp cao chúng ta chẳng nói là nước ta không liên minh với nước này chống lại nước kia, cũng không cho ai đặt căn cứ quân sự và nếu phải sắm vũ khí cũng là để phòng thủ… Đây là một chủ đề rất lớn nên chúng mình để lúc khác bàn đến…

HỒ VIẾT THỊNH thực hiện
Phần nhận xét hiển thị trên trang

THANH TÙNG đầu hàng giai cấp để được làm thơ tình


Nhà gỗ nhỏ, rượu vang, trưa hầm hập khói thuốc, khóc đó cười đó, ngẫu nhiên như khi Chu Bá Thông nghe nhắc đến món nợ Vương phi nước Đại Lý. Ngõ vắng, trúc xanh như thơ, tóc trắng, gió im ắng trước hiên nhà. Thanh Tùng, dẫu trong lúc nhọc nhằn nhất, dẫu trong khi nguy khốn nhất, vẫn lừng lững một hình hài lãng mạn thanh thản đi. Nhất là khi thi sĩ bảo, “Tớ ở tuổi này rồi, không dám nói dối điều gì, cũng không sợ nói thật điều gì”. Thanh Tùng đã sống hết mình, yêu hết mình và không bao giờ giả dối. Thêm nữa là, “Tớ chưa viết hồi ký đâu, vì tớ còn võ. Tớ còn phải thượng đài, cậu cứ giục tớ viết hồi ký từ mấy năm nay, hóa ra tớ không còn võ à. Hết võ thì mới viết hồi ký chứ”.






HẦU CHUYỆN THI SĨ THANH TÙNG

 @ Thưa nhà thơ Thanh Tùng, văn đàn lại thêm phen nổi sóng gió. Đôi khi tôi nghĩ như ông lại hay, cứ im lặng viết, cứ an nhiên vui. Sớm thì nhìn ngõ trúc, chiều lại ngắm phố phường, khuya chong đèn đọc sách.
Thanh Tùng: Tính tôi nó vậy rồi, tụ tập để ầm ĩ không quen. Như tôi vẫn tự nhận, cả đời tôi chỉ biết yêu và viết thơ tình. Tôi cũng được người ta yêu lại nhiều chứ, tôi mà khoe với anh những người yêu tôi thì anh không tưởng tượng được đâu.
@ Theo chỗ tôi được biết, ông làm thơ từ rất sớm?
Thanh Tùng: 7 tuổi tôi tập tành làm thơ, vài năm sau thì có thơ in trên báo Tia Sáng ở thời điểm ấy, tôi còn nhớ mấy câu cuối, bài Ngày Khai Trường, “Thôi thế còn đâu nữa mẹ ơi / Những ngày bên mẹ đã qua rồi / Trên đường học tập mình con bước / Xa mẹ lòng con lạnh quá thôi”. Ông cụ thân sinh tôi cũng làm thơ, tiếc là không tạo được tiếng vang. Sau đó, tôi không nghĩ gì đến thơ ca nữa, tôi đi “đầu hàng giai cấp”.
@ Đầu hàng giai cấp ạ?
Thanh Tùng: Đầu hàng giai cấp chứ còn gì nữa, thời đấy anh không hình dung được đâu. Nhà tôi gốc tư sản, không thuộc về giai cấp cần lao nên mình phải lao động một cách tự nguyện. Tôi tham gia lực lượng thanh niên xung phong.
Hồi đấy, tôi góp phần thi công con đường 12B Hòa Bình. Tôi được phân công làm Trung đội phó. Sau đó, tôi được cử đi học trường Thể dục Thể thao, rồi về làm công nhân nhà máy đóng tàu.

@ Toàn những chuyện không liên quan gì đến thơ. Thế nhưng, thi sĩ lại trở thành nhà thơ chuyên nghiệp?
Thanh Tùng: Tôi không phải là nhà thơ chuyên nghiệp đâu, chưa bao giờ tôi là nhà thơ chuyên nghiệp cả. Như thế này, muốn chuyên nghiệp phải có điều kiện phục vụ cho sự chuyên nghiệp chứ. Thời tôi thì có gì để hình thành nên sự chuyên nghiệp, không bút, không giấy, không bàn viết. Tôi đọc thấy rằng, chỉ có hai lớp người không cần đến sự chuyên nghiệp mà vẫn được ghi nhận về tài năng, đó là nhà thơ và nhà toán học.  Họ chỉ cần một cây bút và một quyển sổ cộng với tài năng, chuyên cần. Còn lại, đều phải chuyên nghiệp cả. Ví dụ như muốn thành nhà hóa học mà không có cái bình cổ cong thì trở thành nhà hóa học bằng cách nào. Cái bình cổ cong không phải là hình thức đâu, mà nó chính là phương tiện bắt buộc trong phòng thí nghiệm, không có nó thì làm được gì. Ngày ấy, tôi viết bất cứ ở đâu khi có tứ thơ. Tôi viết trên giấy bao xi – măng, trên vỏ bao thuốc lá, trên tấm tôn. Có viết thì dùng viết, không có viết thì lấy gạch viết. Viết khi nghỉ giải lao, viết lúc bom rơi súng nổ.
@ Chủ đạo là thơ tình?
Thanh Tùng: Chứ không thơ tình thì tôi viết gì đây.

@ Thời của thi sĩ mà viết toàn thơ tình thì có khi cũng gặp rắc rối?
Thanh Tùng: Không sao đâu, tính tôi thế nào thì mọi người biết cả, tôi có mưu cầu gì đâu. Tôi chỉ thích và muốn viết thơ tình, vậy thôi. Theo quan sát của tôi, ở nước mình chỉ có đúng hai nhà thơ thật lòng hiến dâng đời mình cho thơ tình là Xuân Diệu và Nguyễn Bính, tôi cũng hiến đời tôi cho thơ tình.  Cả khi tôi viết về những ngày khói lửa, tôi vẫn thấy tình yêu trong đấy. Như khi tôi viết bài Đỉnh Núi, có đoạn “Đỉnh núi bây giờ ta đặt pháo / Anh với em lên đào chiến hào / Đêm đêm cỏ mật bừng ngây ngất / Anh ở gần em hay gần sao / Gió bấc lồng điên dại/ Vò cánh chim nát nầu / Nai lạc trong khe sâu / Mặt trời đi trốn mãi / Có phải thương anh nên em muốn thành tấm áo/ Thành lá ngàn ngăn sương buốt mênh mông/Giặc Mỹ đâu đây lẩn khuất cuồng ngông / Chúng thù từng nồi cơm đang chín, chúng thù từng mầm xanh cỏ cây / Ôi, dáng đứng trên đỉnh cao của muôn nghìn căm phẫn / Xả lửa hờn thiêu dạt những đường bay”.
Thơ chiến đấu của tôi vẫn đầy cái tình, “Mai này giặc hết / Anh với em lên lấp chiến hào / Ngạt ngào hương cỏ mật / Anh với em ngồi lẩn vào sao”, đi đâu rồi cũng về thơ tình.
@ Ngay  bài thơ lừng danh Thời Hoa Đỏ cũng là thơ tình, thưa thi sĩ Thanh Tùng. Theo chỗ tôi đã thấy, Thời Hoa Đỏ không đơn thuần là một bài thơ hay, nó đã thành một biểu trưng của cả một thời bi hùng đầy lãng mạn. Đây là một điều rất đặc biệt trong thi ca Việt Nam.
Thanh Tùng: Anh nói đúng, đó là một thứ thơ tình thật sự, hoàn toàn là thơ của tình yêu. Chứ không phải giả vờ là tình yêu, là chỉ ghé vào tình yêu.

@ Và một trường hợp đặc biệt như Thời Hoa Đỏ thì bao giờ cũng có thân phận riêng. Đặc biệt là trong giai đoạn mà tất cả cho tiền tuyến, nhắc đến tình yêu có khi cũng bị đánh đồng với sự ủy mị. Rất dễ gây nên một tai  họa cho người viết và cả người duyệt in.
Thanh Tùng: Đúng thật, biên tập viên báo Văn Nghệ Quân Đội sau cho in bài Thời Hoa Đỏ đã gặp nhiều rắc rối. Văn Nghệ Quân Đội ngày đó kinh lắm, được in một bài thơ trên đấy là tạo tiếng vang ngay.
Anh cũng biết là ngày trước các biên tập viên văn nghệ thường hay lang thang các tỉnh thành để tìm tác phẩm hay mang về in. Anh biên tập viên Văn Nghệ Quân Đội tìm đến nhà tôi khi này đang ở Hải Phòng, anh lục trong đống bản thảo tôi viết trên bao xi măng thấy được bài Thời Hoa Đỏ. Anh đọc xong, nghĩ mông lung lắm. Lúc lâu bảo, “Thôi, tôi về Hà Nội đây, Thanh Tùng ạ”. Tôi tiễn anh ra đến ga tàu, lên đến tàu rồi anh lại đi xuống, nói “Thôi, hủy chuyến này đi. Tôi cần nói chuyện với Thanh Tùng”. Sau đó, anh chép vào sổ tay bài Thời Hoa Đỏ và đưa in. Báo ra, tạo nên một làn sóng dữ dội, làn sóng ấy vượt khỏi Hà Nội tràn về Hải Phòng. Có người quen bảo tôi, “Thanh Tùng ơi, lên Hà Nội đón hào quang Thời Hoa Đỏ đi!”. Tôi ra đường, gặp nhà thơ Xuân Quỳnh, gặp nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ. Hai cô đều bảo, “Anh Thanh Tùng ơi, sao mà anh tử tế với phụ nữ đến vậy”.
Lâu lắm rồi, tôi đi dự Đại hội Nhà văn, có nhà văn còn xin gặp riêng tôi để nhờ tôi chép hộ 4 câu trong bài Thời Hoa Đỏ để “Nhà cháu rất thích những câu ấy trong thơ của bác”. Đó là những câu, “Trong câu thơ của em anh không có mặt / Câu thơ hát về một thời yêu đương tha thiết / Anh đâu buồn mà chỉ tiếc / Em không đi hết những ngày đắm say”. Sau này, báo Văn Nghệ Quân Đội kỷ niệm 40 năm có mời tôi đến dự. Trên băng – rôn kỷ niệm hôm ấy ghi là “Thời Hoa Đỏ”.

@ Thưa nhà thơ Thanh Tùng, nếu tôi nhớ không nhầm thì thi sĩ Xuân Diệu từng đánh giá về ông như sau, “Thanh Tùng, có dáng dấp của một thi sĩ”.
Thanh Tùng: Đúng là nhà thơ Xuân Diệu có nhận xét vậy. Hồi đó, chỉ có những bậc đại thụ như Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh mới được gọi là nhà thơ. Tôi thế này mà được bảo có dáng dấp của một thi sĩ là điều kinh lắm đấy. Nhà thơ Xuân Diệu nhận xét về tôi như vậy vào năm 1982, chính nhà thơ Xuân Diệu và nhà thơ Chế Lan Viên giới thiệu tôi vào Hội.
@ Vào Hội Nhà văn thời điểm ấy vinh dự lắm?
Thanh Tùng: Chứ còn gì nữa.

@ Thưa thi sĩ Thanh Tùng, tôi là lớp hậu bối. Không liên quan đến thi đàn, danh vọng lại càng không. Thế nhưng, theo cảm quan của tôi thì không cứ vào Hội Nhà văn sẽ trở nên nổi tiếng và tác phẩm sẽ có giá trị theo. Cũng như, không cứ ra khỏi Hội Nhà văn là lập tức tên tuổi sẽ đạt được một đẳng cấp khác. Bởi lẽ, người nghệ sĩ sáng tác hoàn toàn không phụ thuộc vào Hội hay không? Cũng như nhà thơ Thanh Tùng vậy, Thanh Tùng biết đến là nhờ thơ chứ đâu phải Thanh Tùng được biết đến vì từng là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam hay đã không còn là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam nữa. Quan điềm của nhà thơ về vấn đề này như thế nào?
Thanh Tùng: Nhà văn hay nhà thơ là do tác phẩm quyết định, là do độc giả xác tín chứ không phải là do Hội này hay Hội kia muốn quyết là được. Phải nói ý này, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam hiện tại là nhà thơ Hữu Thỉnh, ông ấy là nhà thơ đích thực ấy, có tài ấy chứ không phải chỉ là người sống lâu lên lão làng đâu. Tôi nghĩ, vào Hội Nhà văn Việt Nam cũng có những cái hay riêng, mình có thêm điều kiện để giao lưu với văn nghệ sĩ trong nước và quốc tế. Nhưng đó không phải là một huy hiệu được mạ vàng hay đơn giản hơn chỉ là một cái bục kê để tên tuổi văn nghệ sĩ trở nên vang danh hơn.
@ Đơn giản nhất chỉ là, thấy còn thích thì vui, không còn thích thì thôi chứ ầm ào thì trông nó hơi kỳ kỳ, phải không thưa nhà thơ?. Mà trong những người ầm ào đấy, tôi biết là đã có những vị ăn lộc của Hội Nhà văn dầy lắm, nhiều lắm. Ăn đầy lộc giờ lại phản ứng này kia kia nọ thì thật buồn cười.
Thanh Tùng: Tôi cũng biết nhiều chuyện hơn cả anh chứ. Nhưng tôi nghĩ rằng, đã là văn nghệ sĩ chỉ nên lấy sáng tác làm trọng.
@ Xin cảm ơn nhà thơ Thanh Tùng vì cuộc trao đổi này. Kính chúc ông nhiều sức khỏe.
                                                                                                NGÔ KINH LUÂN
                                                                                                            (Thực hiện)

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Trao đổi giữa nhà văn Nguyên Ngọc và ông Thomas J. Vallely:


Giáo dục - Giá trị vĩnh cửu của hoà bình 

Họ là hai người khác nhau về chủng tộc, ở hai quốc gia cách xa nhau về địa lý và khác biệt về lịch sử hình thành. Những năm tháng chiến tranh, có lúc họ là kẻ thù một mất một còn của nhau trên mảnh đất nhỏ ven sông Thu Bồn (Quảng Nam). Sau khi cởi bỏ bộ đồ lính trận, trở về cuộc sống thường nhật trong thời bình, họ lại gặp nhau ở Việt Nam như một cơ duyên. Vậy mà cũng đã trên hai mươi năm. Điểm tương đồng gắn kết họ lại với nhau: một niềm tin bất diệt vào sức mạnh giáo dục đối với sự trường tồn của mỗi quốc gia. Đó là giá trị vĩnh cửu của hoà bình.



Nguyên Ngọc và Thomas Vallely. Ảnh Vũ Thành Tự Anh


Cuộc trò chuyện của chúng tôi với hai - kẻ - cựu - thù - hai - người - bạn - hai  -  nhà - văn - hoá ở cách nhau hơn nửa vòng trái đất luôn đau đáu về nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục mang trong mình nó nhiều khuyết tật…
Được biết hai ông vốn là cựu thù tại chiến trường bãi dâu sông Thu Bồn - Quảng Nam  trong cuộc chiến Việt Nam, nhưng may mắn, cả hai còn nguyên vẹn trở về. Ký ức chiến tranh ấy có ám ảnh các ông trong cuộc sống hoà bình hôm nay?
Nguyên Ngọc: Có hôm tôi kể với Thomas Vallely hồi cuối năm 1969 - 1970, khi Mỹ đánh phá cực kỳ ác liệt trên vùng nông thôn Quảng Đà (tên của vùng Bắc Quảng Nam hồi bấy giờ), cố cày trắng, quét sạch hết các cơ sở cách mạng, để đánh bật và tiêu diệt chủ lực Việt Cộng, thì chúng tôi, đứng đầu bấy giờ là anh Bí thư Quảng Đà, đối phó bằng cách quyết trụ lại trong các bãi bói ven sông Thu Bồn thuộc vùng Gò Nổi, Điện Bàn. Bí thư tỉnh quyết trụ ở nơi ác liệt nhất thì không bí thư huyện, từ đó cũng không bí thư xã nào, rồi không cơ sở cách mạng nào ở từng thôn xóm bỏ đất của mình mà chạy. Vô cùng gian nan, trầm luân nữa, từng ngày, nhưng cuối cùng cứ như vậy mà giữ được đất, từng tấc, được dân, từng người, giữ được phong trào… Miệt bói ấy ngày trước là những bãi dâu (tiếng Quảng Nam gọi là “biền dâu”) xanh mướt và mênh mông, cơ sở của nghề lụa nổi tiếng xứ Quảng. Khi dâu đã bị quét sạch, thì tự nhiên mọc lên một loại cây gọi là cây bói, giống như lau sậy, hoang dã hơn, cũng mênh mông, mịt mùng hơn. Chúng tôi đào hầm bí mật trụ lại trong bói. Ngày nào Mỹ cũng bắn vào đấy, cả đêm nữa, có hôm còn tưới xăng đốt, chúng tôi cháy sém cả tóc, chậm chân một chút chết thiêu ngay… Thomas bảo, đúng năm ấy ông là thủy quân lục chiến ở Quảng Đà, chính ông đã bắn vào các bãi bói đó. Tôi bảo, cũng may ông bắn xoàng… Và chúng tôi cùng cười.




Vậy đó, chiến tranh sau gần nửa thế kỷ. Hôm ấy, hai chúng tôi ngồi ở một quán nhỏ ven sông Hoài - Hội An.  Bên ngoài lắc rắc mưa xuân. Rất yên tĩnh… Chị gọi chúng tôi là “cựu thù”. Đúng thôi. Nhưng bây giờ, quả thật rất khó hình dung. Trong cuốn sách rất hay “Nếu đi hết biển” của mình, đạo diễn Trần Văn Thủy có dẫn lời một nhà văn cựu chiến binh Mỹ, Wayne Karlin, nói rằng chiến tranh đắp lên khuôn mặt của người ở bên kia chiến tuyến một chiếc mặt nạ, chiếc mặt nạ hì hợm của kẻ thù. Để cho ta khinh bỉ, căm thù và tiêu diệt. Nhiệm vụ của văn học hôm nay là gỡ chiếc mặt nạ ấy ra, trả lại khuôn mặt người cho con người, để ta nhận ra khuôn mặt nguời của nhau. Chúng tôi thường không gọi ông là Thomas Vallely, cũng ít khi gọi Thomas, chỉ quen gọi Tommy. Nhìn mà xem, Tommy, cũng lạ, nhiều lúc ngồi với ông, tôi không có cảm giác đang nói chuyện với một người Mỹ. Mà với một ông già Việt phúc hậu, thậm chí có gì đó…  hơi quê mùa, thật thà và quê mùa…
Vậy đó, giá trị của hòa bình. Trả lại những gì giản dị nhất của đời thường. Thật buồn và đau đớn, phải đổ biết bao nhiêu máu xương để có lại được điều giản dị này…
Có lẽ nhân đây cũng xin nói luôn: Tôi muốn gọi ngày 30/4 giản dị thế này: Ngày Hòa bình. Không gì vĩ đại hơn đâu. 
Thomas Vallely: Tôi phục vụ 13 tháng tại Việt Nam trong khoảng thời gian giữa 1969 và 1970. Như đã tâm sự với người bạn già Nguyên Ngọc của tôi trong một bữa ăn trưa gần đây bên bờ sông Hoài ở Hội An, tôi - một thanh niên 19 tuổi - bước vào cuộc chiến mà hầu như không hiểu tí nào về hệ tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản hay các giả định chiến lược có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. (Tôi chỉ học được chút ít về chủ nghĩa cộng sản khi tôi vào đại học - tức là sau khi tôi từ Việt Nam trở về). Giống như nhiểu thanh niên trai trẻ thế hệ mình, tôi lớn lên với sự quyến rũ của dư âm Thế chiến II, cuộc chiến mà người Mỹ từ trước đến giờ luôn xem là “Cuộc chiến chính nghĩa” được tiến hành vì mục đích cao cả. Nhưng khi là một người lính thủy quân lục chiến đặt chân tới Quảng Nam, tôi thấy ngay rằng vai trò của Mỹ ở Việt Nam khác hoàn toàn. 
Khi tới Việt Nam lần đầu, tôi đã không biết gì về đất nước này và tôi cũng đã không học được nhiều trong thời gian tôi ở đó. Trên thực tế, có thể nói là tôi đã học được hai điều. Thứ nhất, tôi  hiểu rằng Hoa Kỳ không thể thắng trong cuộc chiến này. Chiến thắng là điều không thể khi mà hỏa lực Mỹ giết hại quá nhiều dân thường vô tội. (Bạn không cần phải là một chuyên gia chống chiến tranh du kích nổi tiếng như John Paul Vann (*) để nhận ra điều đó). Thứ hai, tôi đã rất vui khi sống sót trở về.   
Phải rất lâu sau tôi mới bắt đầu học hỏi về Việt Nam. Tôi đã có rất nhiều người thầy tuyệt vời.  Một trong những người tuyệt vời nhất là Nguyên Ngọc. Tôi học được rất nhiều điều từ Nguyên Ngọc, nhưng có một bài học nổi bật hẳn lên vì nó liên quan đến Việt Nam ngày nay. Nguyên Ngọc cho rằng khi chiến tranh kết thúc năm 1975, rất nhiều người Việt Nam nhầm tưởng là đấu tranh đã kết thúc. Trên thực tế, những thách thức lớn nhất vẫn đang chờ ở phía trước. 
 Nghe nói hai ông đang cùng phản biện cho một phim tài liệu lịch sử về chiến tranh Việt Nam? Sự thật lịch sử quan trọng nào của cuộc chiến tranh này sau 40 năm được công bố?
Nguyên Ngọc: Theo chỗ tôi được biết Tommy là cố vấn của bộ phim tài liệu về chiến tranh Việt Nam, đã quay trong mấy năm qua. Ông đến Hội An tìm tôi, là bạn cũ, trong chiến tranh và trong hòa bình, rủ tôi sang xem một số phần bộ phim đang ở dạng bản nháp đó, và có ý kiến.
Tôi nghĩ chắc không có “sự thật lịch sử quan trọng” (và mới) nào đáng để tò mò, được công bố đâu. Nếu có thì cũng là đôi cách cắt nghĩa khác nhau nào đó về một số sự kiện trong chiến tranh, cũng là những sự kiện đã được nói đến rồi. Có lẽ điều quan trọng nhất qua bộ phim này là nhìn lại cái cuộc bi thảm ấy (còn gì bi thảm hơn chiến tranh?) như thế nào. Hiểu về nó ra sao? Và để làm gì? … Những năm qua, ngày tôi càng nghĩ rằng chắc không thể tách một cuộc chiến tranh ra khỏi hậu chiến của nó. Có hôm tôi hỏi Tommy: có phải ngày ấy ông sang Việt Nam, cầm súng và đánh nhau, vì ông được người ta nói rằng phải ngăn cộng sản ở bên ấy lại, để lan ra cả Đông Nam Á thì hậu quả khôn lường… Tommy bảo không hề. Ông là người dân Mỹ, được gọi đi làm nghĩa vụ công dân, ông đi, thế thôi… Ở cái quán nhỏ bên sông Hoài, chúng tôi đã nói với nhau về những điều như thế. Suốt hơn 30 năm sau chiến tranh, Tommy trở lại Việt Nam, đã làm bao nhiêu việc vì Việt Nam, từ những điều to lớn góp phần cho thay đổi và phát triển của đất nước này, đến những việc có ích cụ thể, thiết thực… Vì sao? Tôi nghĩ, từ hậu chiến nhìn lại, chắc nhiều người Mỹ hiểu ra rằng chỉ đơn giản ra đi vì “nghĩa vụ công dân” như họ đã đơn giản ra đi, lại có thể tàn phá cả một đất nước tận ở đâu đâu. Nay họ muốn góp phần làm lại …
 Còn chúng ta, hậu chiến cho ta nghĩ gì? Nếu vì một hậu chiến như thế này hôm nay, thì có đáng cho những hy sinh khủng khiếp như đã qua? Ta cũng phải từ hậu chiến mà nhìn lại chiến tranh. Thôi, phải nói thôi, cho tôi nói thật: chúng ta đang sống chẳng xứng chút nào với những gì vì nó mà những năm tháng da82n đđẵng ấy ta đã cắn răng lại mà sống và chiến đấu. Ta vẫn thường nói chiến tranh chưa thôi đào bới lương tâm nước Mỹ. Cũng phải để cho nó còn đào bới lương tâm chúng ta nữa chứ. Theo nghĩa đó, đừng quên chiến tranh. Đừng phản bội chiến tranh. Sống và làm ăn sao đây hôm nay, để đừng tiếc một cuộc chiến tranh đã quá khủng khiếp. 


Thomas Vallely: Cũng chỉ mới gần đây, khi tham gia với tư cách là cố vấn cho một dự án phim tài liệu ở Mỹ, tôi mới bắt đầu đào sâu hơn nữa vào lịch sử cuộc chiến mà tôi và ông Nguyên Ngọc đã đối đầu. Tôi hy vọng rằng, hai năm nữa khi bộ phim được phát hành, nó sẽ giúp khán giả hiểu rõ hơn về cuộc chiến này. Ở Hoa Kỳ có những bất đồng tai hại ngay cả về những sự kiện cơ bản. Ngay cả khi chúng tôi có nhiều khả năng tiếp cận tư liệu lịch sử hơn so với phía Việt Nam thì để những tư liệu này nói lên sự thật ở phía Hoa Kỳ cũng không đơn giản. Ở Việt Nam, thách thức này thậm chí còn lớn hơn bởi vì rất nhiều tài liệu lưu trữ cho đến nay vẫn rất khó tiếp cận. Một trong các lý do tại sao tôi quyết định tham gia thực hiện bộ phim này là vì các nhà làm phim thực tâm muốn xem xét cuộc chiến từ quan điểm của tất cả các bên chứ không chỉ từ phía Hoa Kỳ. Chúng tôi rất biết ơn sự hỗ trợ từ chính phủ Việt Nam cho phép đoàn làm phim đến Việt Nam và trò chuyện với nhiều người đã từng tham gia cuộc chiến. Mong rằng nhiều người Việt Nam sẽ xem phim. Họ có thể đánh giá bộ phim về chủ đề phức tạp như thế thành công ra sao. 
 Nguyên Ngọc: Nói thật nhé, điều tôi quan tâm, và cảm thấy hạnh phúc: Tommy và tôi bây giờ, chúng tôi đã được gỡ mặt nạ, để nhìn thấy nhau là hai con người, bình thường, giản dị, có thể  nói với nhau về nhưng ưu tư cho hạnh phúc của con người, ở bên này và bên kia.
Nhà báo Mỹ gốc Ý  quá cố Oriana Fallaci  từng  viết cuốn sách rất hay trong thời điểm  chiến tranh Việt Nam ở giai đoạn khốc liệt nhất, trước và sau Mậu Thân 1968. Từ Việt Nam, bà nhận ra rằng: “Cuộc sống, cuộc chiến tranh và rồi chẳng có gì” - NXB TP. HCM - năm 1991. Trong bài  thơ “Đá ơi”, tuyển tập Thơ Nguyễn Duy, NXB Hội Nhà văn - 2010,  người chiến sĩ năm xưa ấy cũng thốt lên lên tiếng thở dài: “Nghĩ cho cùng / trong mọi cuộc chiến tranh. Bên nào thắng thì nhân dân đều bại” . Với hai ông, chiến tranh là gì? Cuộc sống là gì, và hoà bình có phải là điều mà con người luôn chiến đấu để gìn giữ?
Nguyên Ngọc: Tôi có đọc cuốn sách của Oriana Fallaci, đã rất lâu, một cuốn sách thật hay. Sách viết bằng tiếng Ý. Trong bản dịch tiếng Pháp của Jacqueline Remilet - NXB Robert Laffont - Paris, nó có tên là La vie, la guerre, et puis rien, Cuộc sống, cuộc chiến tranh, và rồi không còn gì nữa hết. Cuốn sách ấy bắt đầu bằng một câu hỏi : Qu’est-ce que la vie ? Cuộc sống là gì ? Cũng có nghĩa : Con người là gì? Trong chiến tranh, con người không từ bất cứ điều gì để tiêu diệt con người ở phía bên kia. Và, bằng một biện chứng éo le mà kinh hoàng, cũng đồng thời tự diệt đi con người ở trong chính mình. …et puis rien, và rồi không còn gì nữa hết! Tôi nghĩ Tommy, bạn tôi, làm nhiều việc cho Việt Nam, kiên trì, tận tụy, cũng chính là để tự làm lại mình, con người của mình, trong mình, sau chiến tranh. Chúng ta cũng vậy, phải vậy. Cho nên, tôi nghĩ, đẹp thay, mà cũng là tất yếu chăng, ông ấy và tôi, chúng tôi lại gặp nhau trong giáo dục. Nhất thiết phải là trong giáo dục, bằng giáo dục. Không có cách nào khác. Chỉ có thể làm lại con người bằng giáo dục. Năm ngoái, Thomas Vallely được trao giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh vì cống hiến cho giáo dục Việt Nam. Trong diễn từ nhận giải thưởng tháng 3/2014, Tommy khẳng định chỉ có thể cứu đất nước này bằng giáo dục! Nghĩa là từ làm lại con người. Tôi nghĩ chắc ở nước mình, thậm chí có thể cho đến tận hôm nay, Phan Châu Trinh là người thật sự thống thiết hiểu rằng cần phải làm lại con người để mà xây dựng lại đất nước này, và chỉ có thể bằng giáo dục.
Có phải giáo dục trong ý nghĩa ấy đã kết hai ông lại cùng nhau trên con đường gian truân của giáo dục Việt Nam? Nhìn nhận của hai ông một cách thẳng thắn về thực trạng giáo dục Việt Nam? Và nó còn có cơ may nào cho một nền giáo dục vốn đứt quảng và có quá nhiều bất cập hiện nay?
 Nguyên Ngọc: Đã mấy chục năm nay rồi, ở Việt Nam chúng ta bàn cãi miên man về giáo dục, cải cách đi rồi cải cách lại, đổi mới rồi đổi mới căn bản và toàn diện… Nói đủ thứ chuyện, và đều hay ho, cũng không sai. Nhưng rồi đâu lại vào đó. Về cơ bản, chưa nhích lên được gì. Tôi cũng có một ngôi trường nhỏ, gần mười năm nay tôi loay hoay với nó. Đến nay thì có lẽ tôi đã hiểu: nếu tôi, chúng tôi, dù đã có đủ thứ lý thuyết thâm thúy, đủ thứ chương trình tiên tiến, hiện đại…, nhưng nếu chúng tôi không tạo được một môi trường thật sự tự do cho những người học thật sự tự do, thì chắc chắn chúng tôi sẽ thất bại. Như giáo dục của chúng ta bây giờ.
 Chị muốn tôi nói chỉ vài chữ về thực trạng giáo dục của chúng ta ư? Chúng ta không có một nền giáo dục tự do. Và đó là nguy cơ cho dân tộc. Chúng ta cần một nền giáo dục tự do.
 Với tôi, đến hơn 40 tuổi tôi mới thật sự hiểu cần nhất, quý nhất cho con người là tự do. Lần sau, nếu còn có lần đó, tôi sẽ cố gắng hiểu ra sớm hơn.
Thomas Vallely: Nguyên Ngọc và tôi thoạt đầu trở thành bạn bè không phải vì chúng tôi có cùng một quá khứ là cựu chiến binh mà vì niềm tin của chúng tôi vào vai trò vô cùng quan trọng của giáo dục đối với tương lai của Việt Nam. Tôi đã vinh dự nhận giải thưởng Phan Châu Trinh năm ngoái. Tôi hiểu rằng Phan Châu Trinh có một niềm tin sắt đá rằng giáo dục là chìa khóa để chuyển hóa Việt Nam thành một xã hội tiên tiến. Rõ ràng là Nguyên Ngọc đang tiếp nối sự nghiệp của Phan Châu Trinh, cả hai đều thông qua giáo dục đại học và thông qua các nỗ lực của mình để gìn giữ và tôn vinh di sản văn hóa phong phú của Việt Nam. 
Tôi đồng ý với Nguyên Ngọc rằng tự do là yếu tố nền tảng của một nền giáo dục có chất lượng. Nhưng nó không phải là yếu tố quan trọng duy nhất. Giáo dục phải truyền cảm hứng cho học viên, thôi thúc họ tự suy nghĩ cho bản thân mình và cho họ khả năng theo đuổi học tập suốt đời. Thi sĩ William Butler Yeats từng phát biểu một câu nổi tiếng rằng “giáo dục không phải là rót cho đầy tri thức mà là thổi bùng ngọn lửa”. Hẳn nhiên, giáo dục cũng phải chuẩn bị cho học viên đóng góp một cách có ý nghĩa cho xã hội của họ. Hiện tại, tôi đang tham gia vào nỗ lực thành lập trường Đại học Fulbright Việt Nam (FUV), một trường đại học độc lập, không vì lợi nhuận. Tôi hy vọng rằng cho dù FUV đi theo hướng đổi mới công nghệ để cung cấp cơ hội học tập được thiết kế nhằm chuẩn bị cho sinh viên đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế tri thức thế kỷ 21, FUV vẫn sẽ thể hiện tinh thần của Phan Châu Trinh. 
Thomas J. Vallely trở lại Việt nam khá sớm, từ những năm 80 của thế kỷ trước, ông từng hướng dẫn các lãnh đạo cao cấp của Việt Nam nghiên cứu thực địa sự phát triển của một số nước Đông Nam Á với kỳ vọng Việt Nam sẽ “phát triển theo hướng rồng bay”. Mục tiêu này của ông có đạt được?
Thomas Vallely: Trọng tâm công việc của tôi ở Việt Nam trong 30 năm qua là làm thế nào để Việt Nam vượt qua được những thách thức này và khai thác hết tiềm năng to lớn của mình. Một cách công bằng, tôi rất tôn trọng những thành quả của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Tuy nhiên, Việt Nam có thể và còn phải làm nhiều hơn thế nữa. 
Cách đây vài năm, một số đồng nghiệp của tôi ở Trường Fulbright dịch cuốn sách Tại sao các quốc gia thất bại (**) trong đó tìm hiểu lý do vì sao một số ít quốc gia có thể trở thành nước phát triển cao trong khi đa số các nước khác lại thất bại. Các tác giả của cuốn sách này kết luận rằng chất lượng thể chế ở mỗi nước là yếu tố quyết định. Bởi vì thể chế phản ánh hệ thống chính trị của mỗi quốc gia, nên đó là một cách khác để nói rằng chính trị xác định quỹ đạo phát triển của mỗi quốc gia. 
Cuốn Tại sao các quốc gia thất bại lập luận rằng những quốc gia thành công nhất là những quốc gia phát triển thể chế chính trị dung hợp. Ở mức độ khiêm tốn, quá trình này có thể được quan sát thấy tại Việt Nam. Theo tôi, việc củng cố vai trò và uy tín của Quốc hội là một trong những xu hướng đáng khích lệ nhất gần đây ở Việt Nam. Tuy nhiên, tôi không biết bất kỳ ai ở Việt Nam tin rằng tiến triển hiện nay đủ nhanh và đúng hướng để tiến tới các thể chế chính trị thực sự dung hợp.
Trong khi dường như có sự đồng thuận rộng rãi bề ngoài về những ưu tiên chính sách quan trọng như sự cần thiết phải cải cách thể chế, cải cách pháp lý và tái cấu trúc nền kinh tế, tôi không cho rằng những ưu tiên này rốt cuộc đã trở thành một tầm nhìn chung cho tương lai của xã hội Việt Nam.  Xây dựng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” là một mục tiêu đáng hoan nghênh, nhưng trên thực tế các khẩu hiệu kiểu như thế thực sự hàm ý gì? Một tầm nhìn chung như vậy chỉ có thể phát khởi thông qua các cuộc tranh luận và thảo luận cởi mở. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã thấy ví dụ về những thảo luận rộng rãi trên cả nước có thể đưa đến tầm nhìn thống nhất hơn. Chúng ta đã thấy điều đó ở thảo luận về đổi mới hiến pháp năm 2013. Chúng ta đã chứng kiến điều đó qua sự thể hiện tình cảm đặc biệt tiếc thương đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời. Đến nay, những thảo luận này vẫn được tiếp tục hàng ngày trên internet. Đáng tiếc là những cuộc thảo luận này lại diễn ra chủ yếu ở bên ngoài thể chế công. Quốc hội có thể tạo ra một diễn đàn Việt Nam cần để kiến tạo một tầm nhìn quốc gia thuyết phục hơn. 





Tôi cho rằng những yếu kém kinh tế là mối đe dọa lớn nhất đối với Việt Nam. Trong số những người tôi quen, không thấy ai tin rằng Việt Nam đang phát triển hết tiềm năng vốn có. Nếu không trở lại mức tăng trưởng kinh tế nhanh và toàn diện hơn thì nhiệm vụ quản trị quốc gia sẽ trở nên ngày càng khó khăn. Việt Nam thường được khen ngợi về tính “ổn định chính trị”, nhưng nguồn gốc của sự ổn định này là gì? Tôi cho rằng nó bắt nguồn từ cảm giác lạc quan về tương lai. Kể từ lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam năm 1985, những người Việt Nam tôi quen biết phần lớn đều tự tin vào tương lai của họ cũng như tương lai của đất nước. Họ nhiệt thành tin rằng cuộc sống của con cháu họ sẽ tốt đẹp hơn họ. Liệu người Việt Nam năm 2015 có còn tin tưởng vào tương lai? Tôi không chắc. 
Chúng ta đều biết rằng khi các nước phát triển, việc duy trì tốc độ tăng trưởng nhanh để nâng cao mức sống cho đại bộ phận người dân sẽ càng ngày càng khó khăn hơn. Một nền kinh tế phát triển chia sẻ trên bình diện rộng không chỉ tạo ra sự thịnh vượng mà còn mang lại nhiều lợi ích vô hình khác cho xã hội. Một nhà kinh tế ở trường Đại học Harvard viết cuốn sách nhan đề “Hệ quả đạo đức của tăng trưởng kinh tế” trong đó lập luận rằng các xã hội được hưởng thành quả của tăng trưởng kinh tế thường khoan dung hơn với sự đa dạng, nhiệt thành với dân chủ hơn và tạo ra nhiều cơ hội thăng tiến xã hội hơn. Ngược lại, kinh tế đình trệ thường dẫn tới xáo trộn xã hội, suy giảm sự khoan dung và bất ổn dân sự. Bởi vậy, có rất nhiều lý do tại sao Việt Nam cần phát triển kinh tế tốt hơn. 
Nhà văn Nguyên Ngọc từng chọn cho
 mình 3 địa điểm trên đất nước khốn khổ của ông để yêu mến với niềm tự hào và ray rứt khôn nguôi: Tây Nguyên, Hội An và Hà Nội. Còn Thomas,  nơi nào ở Việt Nam mà ông có thể có chút cảm tình? Vì sao như vậy?
Nguyên Ngọc: Hồi kỷ niệm 1000 năm Thăng Long, tôi có nói: «Hà Nội đẹp đến nỗi nó bị phá thế mà vẫn còn đẹp!». Thế nhưng, sự xuống cấp của Hà Nội không chỉ có ý nghĩa tự nó. Nó tiêu biểu cho sự xuống cấp văn hóa của đất nước này. Thanh lịch nghìn năm bị thay thế bằng hai thứ trộn lẫn: vừa nhếch nhác quê kệch vừa hợm hĩnh diêm dúa lố bịch, nghĩ cho cùng cũng chỉ là một. Nơi là khuôn mặt từng yêu kiều của đất nước nay đang trưng ra một diện mạo xấu và không ít lần làm trò cười cho thiên hạ: giật hoa đào, giành suất ăn khuyến mãi, leo tường vào tắm miễn phí, chặt cây xanh hay như chuyện xây tháp truyền hình cao nhất thế giới gần đây, v.v...
Những người yêu Hà Nội đều đau! Tôi nghĩ: cả nước cần xúm lại mà cứu Hà Nội, vì cả nước. Còn Tây Nguyên, mấy năm trước đây tôi đã từng báo động : những giới hạn quan trọng đến mức sinh tử ở đây đã bị vượt qua: phá sạch rừng, đảo lộn dữ dội cơ cấu dân cư, hủy hoại tất cả các dòng sông lớn, hút cạn nước ngầm, phá vỡ các làng…, để cuối cùng phá nát văn hóa. Ở nơi vốn là một vùng văn hóa vào loại độc đáo và đặc sắc nhất nước, nay chỉ còn văn hóa Tây Nguyên dỏm. Hầu như không còn có thể quay trở lại, và đang thật sự không có đường ra… Vậy mà, chẳng hạn, người ta vẫn tiếp tục nói dối về chương trình bô-xít tai họa, nghĩa là cuộc tàn phá suốt 40 năm chưa hề chịu dừng lại.
Nhiều lần tôi tự hỏi : Vì sao ? Chỉ có thể là tham lam, ngu dốt, và kiêu ngạo, coi thường mọi thứ. Hỏi xem : Có ai đến Tây Nguyên để học? Học sự hiền minh bất tận của rừng, và của những dân tộc từng biết cách sống với rừng, nghĩa là với tự nhiên, hàng nhiều ngàn năm nay. Một bài học có thể cho cả nhân loại và nền văn minh đang lúng túng của mình ngày nay. Chúng ta đừng ngạo mạn, xấc xược đối với các dân tộc Tây Nguyên và với văn hóa. Hình như đang có một dòng lũ vô văn hóa đang muốn cuộn phăng cả đời sống chúng ta. Điều này thật đáng sợ. May thay, còn có một Hội An. Hội An nhỏ thôi, nhưng trong văn hóa không có khái niệm nhỏ hay lớn.
Tôi cũng không muốn nói thêm nhiều về Hội An. Chỉ xin có một nhận xét: Hội An luôn thấy mình có vấn đề, luôn lo lắng, đặc biệt về văn hóa. Bởi vì ở đây người ta hiểu một chân lý khắc nghiệt: cái đẹp luôn mong manh, từ một người con gái đẹp cho đến một văn hóa đẹp. Nó luôn bị thách thức từng ngày, và trong từng con người. Phải thận trọng từng chút, trân trọng từ cái nhỏ nhất. Đến Hội An có thể nhận ra một trong những điều lạ này, ở từng công việc, từng con người: vừa nhẹ nhàng, thong dong, thoải mái, vừa cẩn trọng, tinh tế trong từng chút nhỏ; có lẽ vì vậy mà ở đây cái bình dân với cái tinh hoa có thể hài hòa thật hay…
 Còn một chỗ để ta không hoàn toàn bi quan.




Thomas Vallely: Địa điểm yêu thích của tôi ở Việt Nam không phải là một thành phố hay tỉnh lị nào mà là một ngôi nhà. Chính xác hơn, đó là ngôi nhà và phòng tranh của người bạn thân của tôi, họa sĩ Phạm Lực, một hậu duệ trực tiếp của Nguyễn Du. Bất cứ khi nào tôi tới thăm Phạm Lực, trò chuyện về tranh của ông, tôi đều được học hỏi thêm về Việt Nam, cả về quá khứ và hiện tại. Tranh của Phạm Lực thấm đượm di sản văn hóa phong phú của Việt Nam, nhưng đồng thời cũng là tiếng nói vang vọng về cuộc sống trong những thời kỳ sáng tác của ông. Ví dụ, một chủ đề quen thuộc trong tranh Phạm Lực những năm chiến tranh là những mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu. Ngày nay, một trong số những bức tranh của ông đề cập đến vấn đề môi trường suy thoái, sự câu kết độc hại của tiền bạc, quyền lực và lòng tham. Sáng tác của ông vừa mang tính cách đặc trưng Việt Nam nhưng đồng thời cũng rất có tính phổ quát.
 Tôi luôn rời nhà Phạm Lực với cảm giác được tiếp thêm sức lực. Và đó là một lý do vì sao tôi không hoàn toàn đồng ý với nhiều bạn bè Việt Nam cùng hay trên lứa khi họ cho rằng văn hóa nghệ thuật của Việt Nam ngày nay thiếu sức sống hay không đáng được trân trọng như trong quá khứ. Trên thực tế, với tôi, văn hóa Việt Nam ngày nay sôi động chưa từng thấy. Điều này mới đây lại được khẳng định khi tôi tham dự lễ trao giải thưởng Phan Châu Trinh 2015, trong đó  vinh danh một số nghệ sĩ tài năng. Lễ trao giải có sự tham dự của nhiều cá nhân ưu tú, đại diện cho rất nhiều giai tầng của xã hội Việt Nam. Tôi rời buổi lễ với cảm giác lạc quan về tương lai của Việt Nam.
Xin cảm ơn Thomas Vallely và nhà văn Nguyên Ngọc đã dành thời gian quý báu để cùng trao đổi một câu chuyện dài trong thời bình về Việt Nam một cách thẳng thắn và đầy trách nhiệm.Chúng tôi cũng không quên cảm ơn TS Vũ Thành Tự Anh, người giúp chúng tôi tiếp cận với ông Thomas Vallely để thực hiện cuộc phỏng vấn này.

Minh Nguyễn thực hiện (nguồn Bizlive)

______________


 (*) Năm 1988, NXB Vintage Books - A Division of Random House - New York xuất bản cuốn: “A Bright Shining Lie - John Paul Vann and America in Vietnam” của Neil Sheehan,  phóng viên của hãng thông tấn UPI và báo New York Times. Ông là người chứng kiến cuộc chiến tranh Việt Nam từ giữa năm 1962 - 1972. Từ đó, Neil Sheehan phát hiện ra John Paul Vann - một chuyên gia chống chiến tranh du kích - một con người  mà thông qua cuộc đời - người ta có thể viết về sự dính líu của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam. John Paul Van đã chết ở Việt Nam năm 1972 trong lúc vẫn tin rằng nước Mỹ sẽ thắng trong cuộc chiến. John Paul Vann là biểu tượng, là nhân vật của cuốn sách đoạt giải thưởng Pulitzer và giải thưởng sách quốc gia của Mỹ năm 1988.
Bản dịch của NXB TP. HCM năm 1990 và tái bản lần thứ hai vào năm 1995, mang tên: “Sự lừa dối hào nhoáng - John Paul Vann và nước Mỹ ở Việt Nam” do nhóm dịch giả ở Sài Gòn và nhà báo quá cố Lê Minh Đức hiệu đính.
 (**) “Vì sao các quốc gia thất bại” của Daron Acemoglu và James A. Robinson, Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Chi với sự hợp tác của Hoàng Thạch Quân và Hoàng Ngọc Lan.
Hiệu đính: TS. Vũ Thành Tự Anh - NXB Trẻ - Năm 2013.  



--------

Phần nhận xét hiển thị trên trang