Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 30 tháng 6, 2014

Trung Quốc đã bất chấp đạo lý, pháp lý

(Dân trí) - Một lần nữa lên án hành động bất chấp đạo lý, pháp lý, quan hệ hữu nghị Việt – Trung của Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương 981, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng yêu cầu Chính phủ nỗ lực cao nhất đấu tranh bảo vệ chủ quyền tổ quốc…

Ngày 30/6, Thủ tướng chủ trì phiên họp thường kỳ tháng 6/2014. Chính phủ tập trung đánh giá tình hình kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đối ngoại, kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ tháng 6 và 6 tháng đầu năm, thảo luận và định hướng nhiệm vụ 6 tháng cuối năm.
Báo cáo của các bộ ngành chức năng tại phiên thảo luận sáng cập nhật thông tin về tình hình Biển Đông và giải pháp ứng phó.
 
Ngày làm việc đầu tiên, Chính phủ tổ chức họp trực tuyến với các tỉnh thành (ảnh: chinhphu.vn).
Ngày làm việc đầu tiên, Chính phủ tổ chức họp trực tuyến với các tỉnh thành (ảnh: chinhphu.vn).
Phát biểu tại phiên họp, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng lưu ý, phiên họp diễn ra trong bối cảnh đặc biệt, đó là từ 2/5 tới nay, Trung Quốc đã bất chấp đạo lý, pháp lý, quan hệ hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc đưa và hạ đặt trái phép giàn khoan thăm dò dầu khí trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam.
Thủ tướng nhấn mạnh, hành động này của Trung Quốc không những xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam, ảnh hưởng xấu tới quan hệ Việt Nam- Trung Quốc mà còn đe dọa nghiêm trọng đến hòa bình, ổn định, an ninh của khu vực.
Trong bối cảnh đó, Thủ tướng nhắc, nhiệm vụ đặt ra là vừa phải nỗ lực cao nhất bằng các giải pháp phù hợp với luật pháp quốc tế để đấu tranh bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc, vừa bằng mọi giải pháp phù hợp để gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định, an ninh trật tự để xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Người đứng đầu Chính phủ cũng yêu cầu quyết tâm, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu đã được đề ra từ đầu năm 2014 trên tinh thần không điều chỉnh các chỉ tiêu, mục tiêu phát triển kinh tế -xã hội được đề ra cho năm 2014.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị các thành viên Chính phủ, lãnh đạo các địa phương, các đại biểu tham dự đề cao tinh thần trách nhiệm, đóng góp các ý kiến thiết thực, cụ thể nhằm ban hành Nghị quyết của Chính phủ với các định hướng, chỉ đạo phù hợp, sát với tình hình thực tế.
Về kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2014, báo cáo do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trình bày thể hiện, trong 6 tháng đầu năm, các Bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai các Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết số 01 năm 2014 của Chính phủ, các nghị quyết của Chính phủ và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Kết quả tăng trưởng GDP quý II đã tăng cao hơn quý I. Ước tính 6 tháng đầu năm tốc độ tăng GDP đạt 5,18%, tăng cao hơn nhiều so với mức tăng cùng kỳ 2 năm trước. Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng tăng thấp, giá cả thị trường khá ổn định, cung - cầu hàng hóa được bảo đảm.
So với tháng 12/2013, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6 có mức tăng thấp nhất so với cùng kỳ 13 năm qua. Lãi suất được điều chỉnh giảm, góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Tỷ giá, thị trường ngoại hối diễn biến cơ bản ổn định. Xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng cao, tiếp tục có xuất siêu. Tiến độ thu ngân sách Nhà nước đạt cao hơn cùng kỳ các năm trước; cán cân thanh toán thặng dư cao.
Theo chương trình, phiên họp sẽ diễn ra đến hết ngày 1/7.
P.Thảo


Phần nhận xét hiển thị trên trang

Việt Nam đang không đủ năng lực trả nợ!


TS Nguyễn Đình Cung:

(Tài chính) - Cần hiểu rằng việc đi vay nợ về để trả nợ điều đó đang chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. 


TS Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Quản lý kinh tế Trung ương đã nhận định như vậy trước tình trạng Việt Nam phải đi vay nợ để đáo hạn các khoản nợ trước kia. TS Cung cho rằng: "Một cách hiểu khác còn nợ mà phải đi vay thêm nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ".
Không thể xem là bình thường!
PV: -Thưa ông tại kỳ họp thứ 7 vừa qua, các vị ĐBQH đã chỉ thẳng tình trạng, vay nợ về để đáo nợ và lo ngại, điều này sẽ khiến vấn đề nợ công ngày càng nặng nề và khó giải quyết.Theo ông, vấn đề đi vay về đề trả nợ có phải là một vấn đề mới không và vì sao?
TS Nguyễn Đình Cung: - Chuyện đi vay về trả nợ vừa được Quốc hội bàn thảo và Bộ trưởng Bộ Tài chính từng giải trình việc này không có vấn đề gì, không làm phát sinh thêm nợ mới. Cá nhân tôi thì không đồng ý với quan điểm này.
Cần hiểu rằng việc đi vay về để trả nợ điều đó đang chứng tỏ khả năng tạo ra vốn để trả nợ là không có. Hay nói cách khác phải đi vay thêm nghĩa là anh đang không có đủ năng lực để trả nợ.
Tình trạng như thế không thể nói là bình thường được. Chỉ cần hiểu đơn giản theo mô hình của một gia đình, phải đi vay nợ nhưng đến kỳ hạn trả lại không tích lũy được tiền để trả nợ, như vậy là khả năng trả nợ kém đi. Trong trường hợp này phải đi vay về để đảo nợ.
Đáng lẽ ra trong hoàn cảnh khó khăn về nguồn vốn, phải đi vay rồi thì nguồn vốn đó phải dùng để tạo ra năng lực để trả nợ. Đằng này vay về không phải để đầu tư, cũng không tạo ra nguồn lực mà là vay nợ về trả nợ có nghĩa là yêu cầu về trả nợ ngày càng tăng lên. Điều này kéo theo khả năng trả nợ tiếp tục giảm đi.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh hiện nay thì buộc phải áp dụng biện pháp trước đi vay về để đảo nợ trong giai đoạn ngắn hạn.
PV: - Đúng là nguồn vốn vay đã không được đầu tư để sinh lời, trong khi đầu tư công tràn lan lãng phí đã được nói đến nhiều lần; công trình vay ODA giá cao và đội vốn gấp đôi đều đã được ghi nhận, nợ của các tập đoàn nhà nước mà Chính phủ bảo lãnh ở mức rất cao… Với tình trạng hiện tại, liệu Việt Nam còn kịp nhìn lại và điều chỉnh việc sử dụng các nguồn vốn vay? Muốn như vậy thì phải làm gì? Tình trạng hiện nay nếu không được giải quyết sẽ dẫn đến hệ lụy gì thưa ông?
TS Nguyễn Đình Cung: - Thực ra vấn đề này hiện nay chúng ta đều đã biết và nhận ra. So với trước đây thì nay chúng ta đang hy vọng nhiều vào Luật đầu tư công như một công cụ để quản lý đầu tư công.
Rõ ràng việc thắt chặt ngân sách đối với đầu tư công phải áp dụng một cơ chế, kỷ cương kỷ luật tài chính hết sức chặt chẽ đối với đơn vị đầu tư nói chung và từng dự án nói riêng.
Muốn thắt chặt thì cần phải làm rõ trách nhiệm giải trình của từng cá nhân phụ trách đối với từng dự án và cơ quan quản lý cũng phải rõ ràng, rành mạch. Ví dụ đối với từng dự án không thể có chuyện điều chỉnh dự toán đầu tư một cách tùy ý và tùy tiện như hiện nay.
Có thể phải coi kỷ luật ngân sách đối với từng dự toán như một đạo luật, trong đó chính cơ quan đầu tư phải xác định được rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiện. Theo đó rủi ro nếu xảy ra sẽ có tác động đối với dự toán như thế nào và chỉ khi xảy ra thì mới được điều chỉnh dự toán. Khi đó mức độ rủi ro ở mức nào thì điều chỉnh dự toán đến mức đó.
Cũng phải nói rằng phải xác định mức trần về rủi ro có thể xảy ra và được điều chỉnh để từ đó thắt chặt ngân sách đối với dự án đầu tư.
Nếu những thứ làm thay đổi dự án, tức là yếu tố khác ngoài rủi ro đã được xác định trước dẫn tới việc làm tăng dự toán thì chủ đầu tư và các bên khác phải chịu trách nhiệm chứ ngân sách sẽ không bỏ thêm một xu.
Nếu không làm được điều này thì một nguy cơ rất lớn sẽ xảy ra là lúc đầu xây dựng dự toán rất thấp để được thông qua. Khi có vốn rồi trong quá trình thực hiện họ cứ tâng lên dần, điều chỉnh vốn lên mà không theo một giới hạn nào. Đáng lẽ một dự án cần 10 tỷ đồng mới thực hiện xong nhưng khi lập chỉ đề ra 5 tỷ rồi điều chỉnh lên không giới hạn.
Do vậy buộc các bên phải tính toán dự toán thật chu đáo và cẩn trọng trước khi phê duyệt. Khi thực hiện thì phải hết sức khắt khe và kỷ luật. Ngay cả ngân sách quốc gia khi Quốc hội đã ban hành rồi thì tất cả các khoản chỉ được chi trong dự toán. Những gì được xem là chi vượt dự toán chỉ có thể duyệt khi xảy ra rủi ro đã được xác định từ khi lập dự toán.
Việc này phải được thực hiện một cách nghiêm túc chứ không phải việc điều chỉnh xảy ra thường xuyên như thời gian vừa qua. Trong khi đó việc tại sao phải điều chỉnh nhiều như thế và ai là người chịu trách nhiệm trong việc điều chỉnh thì không thấy được giải trình.
Chính câu chuyện này khiến cho tình trạng nợ càng nợ thêm như chúng ta đã thấy.
Nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô
PV: - Chúng ta nói sẽ thắt chặt chi tiêu nhưng việc xin đầu tư xây dựng cơ bản vẫn đang tiếp tục tiếp diễn. Doanh nghiệp Nhà nước dù cổ phần hóa vẫn muốn xin được Chính phủ bảo lãnh nợ.
Ông bình luận như thế nào về thực trạng này? Nếu tiếp tục nuông chiều những đề xuất không hợp lý, vấn đề nợ công của Việt Nam sẽ còn ở mức như thế nào? Nhìn ra trên thế giới, bài học nào khiến Việt Nam phải xem xét và suy nghĩ?
TS Nguyễn Đình Cung: - Vấn đề hiện nay chúng ta không chỉ có đầu tư mà là chi thường xuyên cũng tăng rất nhanh.
Có lẽ chúng ta phải quay trở lại vai trò của nhà nước. Nhà nước thực hiện vai trò đến đâu?. Nếu vai trò của nhà nước thu nhỏ lại thì hoạt động sẽ ít đi. Còn hiện nay vai trò của nhà nước vẫn mở ra mà không nhìn thấy giới hạn thì rõ ràng hoạt động của nhà nước đến đâu thì chi đến đó.
Cho nên muốn thắt chặt được ngân sách thì gốc của nó là vai trò của nhà nước và vai trò của thị trường, các bộ, ngành đến đâu. Tức là chúng ta chỉ cần làm rõ vai trò của từng chủ thể đến đâu sẽ dễ dàng để nhìn thấy các khoản chi cần thiết tới mức nào.
Ví dụ nhà nước có cần đầu tư một hệ thống nhà hát hay không? Hay là một hệ thống bảo tàng? Đây quả là những việc hoàn toàn không cần thiết nhà nước phải đầu tư  mà có thể để xã hội hóa.
Còn chuyện doanh nghiệp xin ưu đãi thì phải tuyệt đối không có, kể cả với DNNN hay tư nhân. Trong trường hợp buộc phải có ưu đãi thì chỉ có thể là dành cho nhiệm vụ của nhà nước.
Vấn đề này lại quay lại chức năng vai trò nhà nước ở mức độ nào và nhà nước tập trung ưu tiên trong giai đoạn này vào lĩnh vực nào, mục tiêu nào rồi mới ưu tiên ưu đãi để thu hút nguồn lực vào thực hiện. Chứ không thể thực hiện theo kiểu dàn trải, chỗ nào cũng ưu ái thì rõ ràng là dẫn tới tình trạng không có giới hạn của việc chi tiêu.
Còn nếu cứ tiếp tục nuông chiều thì đến một lúc nào đó sẽ không thể cân đối được nguồn vốn. Mọi thứ sẽ bị phá vỡ thì đương nhiên nhiều hệ lụy như khủng hoảng nợ công, nợ thương mại và dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô.
Bài học khủng hoảng châu Á 1997 -1998, khủng hoảng 2008-2009 của Hoa Kỳ chính là hệ lụy của sự bao bọc khi nhà nước làm không tròn vai.
PV: - Hiện tại ở Việt Nam tồn tại hai thực tế: khai thác tài nguyên thô để bán giá rẻ, vay nợ đầu tư mà không mang lại giá trị thặng dư (dẫn tới tình trạng đi vay để tả nợ vay). Như vậy, phải nhìn nhận về nội lực của nền kinh tế Việt Nam như thế nào?
TS Nguyễn Đình Cung: - Điều đó có thể thấy cách thức tạo động lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế không có.
Nếu việc kiểm soát hành vi hoạt động của doanh nghiệp mà chính quyền không thật sự chặt chẽ thì đương nhiên các tổ chức, doanh nghiệp sẽ chỉ chạy theo chỉ tiêu phát triển. Trong khi đó đồng vốn không được quay vòng để tạo ra sản phẩm cạnh tranh trên thị trường thì chuyện phải đầu tư để có tăng trưởng, phải bán than để tăng trưởng, bán đất để lấy tiền đầu tư.
Khi một nền kinh tế không có động lực để phát triển thì lợi ích nhóm, tham nhũng cũng sẽ xuất hiện.
Xin trân trọng cảm ơn ông!
Bích Ngọc (thực hiện
  • Việt Nam vay nợ để... trả nợ: Bóc ngắn cắn dài!
  • Vay nợ về trả nợ:Nền kinh tế sẽ phải trả giá đắt...
  • Phần nhận xét hiển thị trên trang

    Bạn muốn giỏi tiếng Trung Quốc?


    Lê Quý Hiền - FB Lê Quý Hiền: Tôi không định tiếp thị cho trung tâm ngoại ngữ dạy tiếng Tàu nào đấy nhưng dân ta sống cạnh anh hàng xóm khổng lồ mới phất đầy tham lam, hợm hĩnh và ngạo mạn này cũng nên biết dịch ngôn ngữ, hành động của họ ra nghĩa Việt kẻo hiểu lầm nhau thì cực phiền hà !

    Đơn giản như câu “Cấm không được đái” theo tiếng Tàu phải đọc từ phải sang nghĩa là “Đái được không cấm”. Tiếng TQ hay ở chỗ dịch ra tiếng Việt thì phải đọc ngược, hiểu ngược, nhất là lời lãnh đạo họ mới thật là biết hết sự “uyên thâm” của nước lớn này mà ta bay bướm thì gọi là “thi tại ngôn ngoại” hay nói nôm ra cho dễ hiểu là “nói một đằng làm một nẻo” !

    Vừa rồi, khi tiếp các nhà lãnh đạo Ấn Độ và Miến Điện vào cuối tuần tại Bắc Kinh, ông Tập Cận Bình nói rằng nước ông sẽ không bao giờ tìm cách áp đặt ý chí của mình lên các nước khác cho dù Trung Quốc có mạnh như thế nào đi chăng nữa.Đúng là ông không áp đặt thật, ông chỉ áp đặt những giàn khoan vào biển VN, vào cửa Vịnh Bắc Bộ đang tranh chấp! Ông chỉ áp đặt tàu chiến và tàu chiến sơn màu khác để húc đâm , phun vòi rồng vào tàu chấp pháp VN cũng như húc cho tàu cá VN chìm nghỉm, như dân VN bị thương vong thôi ! Vừa rồi ông chỉ áp đặt bằng “bản đồ dọc”coi biển Đông là lãnh thổ của ông theo cái lưỡi bò liếm sát vào bờ biển láng giềng cũng như phần đất của Ấn Độ cũng thành lãnh thổ của lục địa Trung hoa !

    Khi ông Tập bảo : “ Trước sau như một Trung Quốc sẽ theo đuổi con đường phát triển hòa bình vì đây cũng lợi ích của Trung Quốc, lợi ích của châu Á và của cả thế giới” thì các bạn phải “dịch” thế nào để ai cũng hiểu được ý thật trong đầu ông ? Tiếng TQ , nhất là lời nói của lãnh đạo TQ quả thật không đơn giản ! Ai không hiểu xin hỏi thêm bà con ngư dân miền Trung và các chiến sĩ CSB, Kiểm ngư đang làm nhiệm vụ ngoài biển dịch hộ !

    Hành động của TQ cũng cần phải dịch ngược mục đích ! Giúp VN đánh Mỹ và kể công không dứt thì mục đích là buôn bán với Mỹ trên xương máu đồng bào ta qua cái thông cáo Thượng Hải năm 1972 !


    Vừa rồi “đồng chí” Dương Khiết Trì đem “4 không” sang ta bị anh Phạm Bình Minh nhìn thẳng vào mặt khiến “Sứ triều” không dám nhìn lại, và nhà nước tiếp cũng chả trống giong cờ mở nên sau đó TQ hung hãn hơn ở vùng biển Hoàng sa. Ngay “đồng chí” Trì cũng điên lên mà gọi ta là đứa con hư muốn sang để ta quay đầu lại theo quỹ đạo TQ chứng tỏ nước lớn nhưng dịch đúng thì TQ đang núng thế, thấy yếu !

    Cái “bản đồ dọc” tung ra tưởng là mạnh mới làm vậy nhưng dịch ra thì yếu mới phải làm vậy. Mạnh thật nhá, làm một phát chiếm gọn Biển Đông nhưng vừa tham, vừa hợm , vừa yếu ( cả về QS và pháp lý) nên mới chơi trò đánh lấn, thăm dò mà các cụ ta dịch là “vừa đ. vừa run !”.

    Tử huyệt của TQ là sợ bị kiện. Giỏi và đúng thì cùng nhau ra tòa đi. Nó càng gàn ta không được kiện thì ta càng phải kiện nhanh, kiện tắp lự ! Nó càng yêu cầu ta không trưng chứng cứ HS, TS ra cho khỏi phức tạp thì ta càng phải trưng ! Nó dứ tiền viện trợ ODA và cho vay tín dụng thì ta càng phải từ chối !

    Tóm lại, với các “đồng chí” TQ thì phải dịch ngược mọi hành động, mọi lời nói của “đồng chí” này !


    Phần nhận xét hiển thị trên trang

    Trung Quốc là kẻ đắc lợi nhất từ cuộc đảo chính ở Thái Lan


    Tác giả: Patrick Jory | Biên dịch: Lê Hoàng Giang
    Dù cuộc đảo chính quân sự gần đây tại Thái Lan đã thu hút nhiều sự chú ý của thế giới do chính quyền quân sự mới nắm quyền đã ra lệnh ngừng một số quyền dân chủ và nhân quyền, nhưng đồng thời nó cũng mang những ý nghĩa địa chính trị sâu rộng cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á.
    Tại hội nghị an ninh Đối thoại Shangri-La tại Singapore hai tuần trước, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Chuck Hagel đã phát biểu một cách trực diện bất thường khi nói về tình hình ở Thái Lan, kêu gọi chính quyền quân sự trả tự do cho những người bị bắt giữ, ngừng kiểm duyệt truyền thông và “nhanh chóng tổ chức tổng tuyển cử”. Lời bình luận của ông được đưa ra một ngày sau khi lãnh đạo cuộc đảo chính là Tướng Prayuth Chan-ocha đưa ra một kế hoạch cải cách chính trị, trong đó xác định sẽ tổ chức bầu cử “trong vòng 15 tháng”.
    Trước đó, một người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ đã tuyên bố rằng Mỹ sẽ sử dụng “mọi biện pháp chính trị, kinh tế một cách thích hợp” để gây áp lực yêu cầu chính quyền quân sự đưa Thái Lan trở về chế độ dân chủ.
    Thái Lan từ lâu đã có quan hệ thân thiết với Mỹ. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Thái Lan từng là một trong những đồng minh trung thành nhất của Mỹ tại khu vực Đông Nam Á. Nhưng nhiều người thuộc phe bảo hoàng Thái Lan giờ đây cho rằng Mỹ đã bỏ rơi họ.
    Sau khi Kristie Kenney, Đại sứ Hoa Kỳ tại Thái Lan, chỉ trích cuộc đảo chính, một chiến dịch truyền thông xã hội của phe bảo hoàng đã được phát động – kêu gọi Washington triệu hồi đại sứ của mình về nước.
    Khunying Songsuda Yodmani, con gái của cựu lãnh đạo độc tài quân sự thân Mỹ Thanom Kittikachorn, cũng đã kịch liệt chỉ trích Mỹ vì đã “xen ngang” vào công việc của Thái Lan và kêu gọi Bộ Ngoại giao Mỹ “tôn trọng đồng minh của mình và đối xử với họ một cách bình đẳng chứ không phải như với các thuộc địa”.
    Quan hệ giữa phe bảo hoàng Thái Lan và Mỹ bắt đầu đi xuống từ năm 2012, khi Tổng thống Mỹ Obama đến thăm Thái Lan và bày tỏ sự ủng hộ mạnh mẽ cho chính quyền được bầu ra của bà Yingluck Shinawatra, em gái của nguyên thủ tướng Thaksin Shinawatra hiện đang sống lưu vong. Có vẻ như Mỹ đã chuyển sự ủng hộ của mình từ liên minh hoàng gia và quân đội, vốn chi phối nền chính trị Thái Lan, sang phía Thaksin.
    Cuộc đảo chính tháng trước, như vậy, giống như một cái tát vào mặt nước Mỹ.
    Quan hệ trắc trở giữa Thái Lan và Mỹ có vẻ sẽ ít gây ra nhiều hậu quả nếu như không có những căng thẳng ngày càng leo thang giữa Mỹ, Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á sau những hành động đòi chủ quyền ngày càng xác quyết của Trung Quốc trên biển Đông.
    Chính vào chính thời điểm mà Mỹ muốn ASEAN tỏ ra là một mặt trận thống nhất, phe bảo hoàng Thái Lan giờ đây lại có vẻ muốn dùng “lá bài Trung Quốc” như là một cách để cự tuyệt với Mỹ. Nếu như Thái Lan, dưới chính quyền quân sự mới, chuyển lòng trung thành chiến lược của mình sang phe khác, thì việc này sẽ có ý nghĩa tác động đến cả khu vực. Nhưng liệu liên minh hoàng gia-quân sự có bỏ rơi người bảo trợ quen thuộc là Mỹ sau 60 năm hay không? Và liệu họ có bỏ Mỹ để đến với Trung Quốc hay không?
    Dù đúng là Thái Lan có những mối liên kết quân sự, ngoại giao, giáo dục và văn hóa lâu dài với Mỹ, nhưng lịch sử đã cho thấy rằng người Thái đã luôn sẵn lòng đổi lòng trung thành ngoại giao của mình từ phe này sang phe khác một cách triệt để những khi có khủng hoảng.
    Trong nửa sau của thế kỷ 19, Thái Lan đã cắt đứt mối quan hệ chư hầu có từ hàng thế kỷ với triều đình phong kiến Trung Hoa và chấp nhận bá quyền của Đế quốc Anh khi đó đang trỗi dậy. Dưới thời của Thống tướng Phibunsongkhram – vị thủ tướng có tư tưởng ủng hộ chế độ cộng hòa, sau khi Nhật Bản xâm chiếm Thái Lan vào năm 1941, chính phủ Thái Lan liền chuyển sang trung thành với người Nhật – một quyết định tồi tệ, như sau này thấy rõ.
    Các Công chúa Thái Lan Sirindhorn và Chulabhorn – cả hai đều được cho là đã ủng hộ những người biểu tình phe bảo hoàng muốn lật đổ chính quyền của bà Yingluck – từ lâu đã xây dựng quan hệ gần gũi với Trung Quốc. Cả hai công chúa đều thường xuyên có các chuyến thăm đến Trung Quốc.
    Như Geoff Wade đã chỉ ra, kể từ cuộc đảo chính năm 2006, những liên kết giữa người Thái và người Trung Quốc đã “nảy mầm”, trong đó có cả những liên kết quân sự.
    Giới lãnh đạo quân sự Thái Lan đã đến thăm Bắc Kinh từ ngày 11 đến 13/6 để trao đổi với những người đồng cấp Trung Quốc của họ về việc “hợp tác chặt chẽ hơn trên các lĩnh vực quân sự, huấn luyện quân đội, và phát triển vũ khí”. Theo Naew Na – một tờ báo Thái Lan có khuynh hướng bảo thủ – đưa tin, các nguồn tin từ Bộ Quốc phòng cho biết “Trung Quốc coi những vấn đề chính trị của Thái Lan là chuyện nội bộ và sẽ không can thiệp”. Đồng thời, trong một cuộc gặp với các nhà kinh doanh và đầu tư Trung Quốc vào ngày 6/6, lãnh đạo cuộc đảo chính Tướng Chan-ocha đã tuyên bố Thái Lan đã là “đối tác của Trung Quốc trên mọi cấp độ”.
    Về phần Trung Quốc, xét đến việc quan hệ của Trung Quốc với Việt Nam đang ngày càng xấu đi, và việc quan hệ giữa Mỹ và Myanmar đang ngày càng có tiến triển, quan hệ quân sự thân cận với Thái Lan có vẻ như là một lựa chọn hấp dẫn. Nhân dân Nhật báo, tờ báo chính thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc, gần đây có xu hướng bày tỏ sự ủng hộ đối với chính quyền mới, cho rằng “dân chủ kiểu phương Tây” đã đưa Thái Lan đi chệch đường.
    Trung Quốc có đủ tin tưởng chính quyền cực-bảo-hoàng của Thái Lan để đánh cược rằng chính quyền đó sẽ tồn tại được trong thời gian tương đối dài hoặc lâu dài hay không? Trung Quốc sẽ nhận thức được tình hình bất định xung quanh sự kế thừa ngai vàng sắp tới. Trớ trêu là, một chính phủ dân chủ, ủng hộ Thaksin có lẽ sẽ giúp Trung Quốc có được lợi thế hơn. Trước đây ông Thaksin cũng đã từng nói về quan hệ thân cận giữa ông và giới lãnh đạo Trung Quốc. Có thể cho rằng Mỹ và Châu Âu sẽ tiếp tục gia tăng áp lực lên chính quyền quân sự, thậm chí là dùng đến các lệnh trừng phạt. Chúng ta có thể tưởng tượng ra áp lực này có thể sẽ lớn đến mức nào nếu chính quyền quân sự tỏ ra “chuyển sang” phía Trung Quốc nếu xét đến lợi ích các bên trong bối cảnh an ninh khu vực Đông Á.
    Nếu như, sau khi bị công kích mạnh mẽ bởi Mỹ và các nước phương Tây khác, chính quyền quân sự thực sự cố gắng tìm kiếm sự ủng hộ từ Trung Quốc, thì Thái Lan có thể sẽ bị cô lập trong khu vực Đông Nam Á – nơi đang ngày càng trở nên căng thẳng cao độ trước những hành động của Trung Quốc trên biển Đông.
    Chính quyền quân sự Thái Lan đang phải đứng trước một sự lựa chọn khó khăn và tình thế đang trở nên nguy cấp hơn bao giờ hết cho phe bảo hoàng Thái Lan.
    Patrick Jory là Giảng viên Cao cấp ngành Lịch sử Đông Nam Á tại trường ĐH Queensland.
    Bài gốc tiếng Anh: East Asia Forum
    - See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/06/29/trung-quoc-la-ke-dac-loi-nhat-tu-cuoc-dao-chinh-o-thai-lan/#sthash.NZV3eTUH.dpuf

    Phần nhận xét hiển thị trên trang

    DÂN TRÍ

    Biển Đông là “lá chắn tự nhiên” giúp Trung Quốc có được ưu thế phòng thủ trước Mỹ, cũng như khả năng tiếp cận với nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên, nhất là dầu khí và nguồn lợi thủy sản tại đây. Đó là những đánh giá được Học viện Phát triển Philippines (DAP) đưa ra nhằm làm rõ ý đồ độc chiếm Biển Đông của giới lãnh đạo Bắc Kinh.

    Báo cáo chiến lược 12 trang của DAP có tiêu đề “Duy trì cân bằng quyền lực và tăng cường lãnh địa ảnh hưởng ở Biển Đông: Theo dõi bước đi của Trung Quốc” là tài liệu dùng để giảng dạy cho sĩ quan quân đội Philippines, tập trung phân tích những động thái của Trung Quốc ở Biển Đông trong 1 năm trở lại đây.
    Trung Quốc tăng cường tiềm lực hải quân để sẵn sàng đối phó với Mỹ. Ảnh: AP
    Trung Quốc tăng cường tiềm lực hải quân để sẵn sàng đối phó với Mỹ. Ảnh: AP
    Đánh giá về tầm quan trọng địa chiến lược, quân sự, tài liệu nhấn mạnh: Bắc Kinh xem Biển Đông có vai trò rất quan trọng, vì đây là “lá chắn tự nhiên” đối với an ninh của Trung Quốc ở phía Nam. Giành quyền kiểm soát Biển Đông, Trung Quốc sẽ thiết lập được khu vực phòng thủ chiến lược với một dải bờ biển dài 1.000 km, tạo ra nhân tố “kiềm chế” tầm hoạt động, tác chiến đối với Hạm đội 7 của Mỹ đóng tại châu Á - Thái Bình Dương. Đi xa hơn, độc chiếm Biển Đông sẽ “giúp phát triển kinh tế, quyết định sự tồn tại chính trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc”, báo cáo nhìn nhận.
    Báo cáo của DAP trích dẫn một đoạn trong tài liệu của Cục Hải dương Quốc gia Trung Quốc, chỉ ra rằng “đại dương đã trở thành một khu vực quan trọng của chạy đua quốc tế nhằm tạo lập quyền lực quốc gia tuyệt đối cũng như những ưu thế chiến lược dài hạn”.
    Theo các học giả thuộc DAP, Mỹ luôn kiên định duy trì hiện diện quân sự lớn mạnh ở Tây Thái Bình Dương. Trong điều kiện đó, Bắc Kinh thấy rằng phải có được thế đứng vững chắc ở Biển Đông để có được khoảng không cho tác chiến chiến lược. Trung Quốc thừa nhận vị trí địa lý của mình dễ bị tổn thương ở cả trên bộ và trên biển, nhưng tin rằng “bất cứ thách thức nào đối với chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước này trong tương lai đều sẽ đến từ đại dương, trong đó có Biển Đông. Đó là lý do Bắc Kinh đã phát triển khả năng chống tiếp cận/phong tỏa khu vực (AA/AD)”.
    Đối với tài nguyên thiên nhiên, báo cáo của DAP dẫn số liệu của Cơ quan Năng lượng Mỹ cho biết: Vùng biển Trường Sa có thể có trữ lượng dầu mỏ lên đến 5,4 tỉ thùng, cùng với 55,1 tỉ m3 khí, và hầu hết đều tập trung ở khu vực “Bãi Cỏ Rong ngoài khơi tỉnh Palawan”. Không những vậy, “các chuyên gia còn cho rằng Biển Đông cung cấp khoảng 25% nhu cầu protein đối với khoảng 500 triệu người, với sản lượng hơn 5 triệu tấn cá đánh bắt hàng năm, chiếm 10% sản lượng toàn cầu.
    Tầm quan trọng của Biển Đông giải thích tại sao Bắc Kinh quyết đòi lãnh thổ trong phạm vi chuỗi đảo Kalayaan (KIG) thuộc Philippines. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, Trung Quốc luôn xem thường Philippines, coi đây là “một nước nhỏ, với tiềm năng quân sự yếu kém”.
    Trong một diễn biến khác, hôm 27/6, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình kêu gọi tăng cường khả năng phòng thủ trên hướng bộ và biển, khi ông phát biểu tại một phiên họp quốc gia có sự hiện diện của Thủ tướng Lý Khắc Cường và Phó Thủ tướng Trương Cao Lệ.
    Theo Hoài Thanh
    Tin tức/Inquirer

    Phần nhận xét hiển thị trên trang

    Trạnh chấp chủ quyền: Chọn hữu nghị viển vông hay quốc gia, dân tộc?

    TRẦN SƠN LÂM

    (GDVN) - Trung Quốc từng giúp Việt Nam, nhưng cũng từng bán 
    đứng và xâm lược Việt Nam... Đến nay, chủ quyền lãnh thổ, có nên xem xét dưới góc "đồng chí, anh em"?
    LTS: Tác giả Trần Sơn Lâm, từng là người lính trong chiến tranh vệ quốc cuối thế kỷ 20, đồng thời là nhà khoa học. Khi hòa bình lập lại, ông tham gia công tác chính quyền và nhiều năm nắm giữ vị trí Hàm vụ trưởng, Vụ khoa giáo-văn xã của Văn phòng Chính phủ. Với kinh nghiệm thực tế và dưới nhãn quan của một nhà nghiên cứu khoa học, ông đã viết bài báo này gửi riêng cho Báo Giáo dục Việt Nam. Tòa soạn xin đăng nguyên văn, với mục đích góp thêm một góc nhìn mới của tác giả về giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ giữa nước ta và Trung Quốc, hiện rất căng thẳng kể từ khi Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan 981 trên biển Đông. 
    Xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả!
    Việc Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt trái phép giàn khoan 981 tại vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam đã gây nên một cuộc khủng hoảng tồi tệ trong quan hệ giữa 2 nước.
    Trung Quốc hạ đặt bất hợp pháp giàn khoan 981 trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, bất chấp luật pháp và dư luận quốc tế.
    Lâu nay lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta cũng vẫn luôn mong muốn giữ quan hệ hữu nghị giữa hai nước theo phương châm 16 chữ và 4 tốt để có môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển đất nước.
    (GDVN)- Năm 1972, trong lúc mà Hà Nội bị ném bom rải thảm, các học giả phương tây đã bình luận rằng: "Trung Quốc quyết tâm đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng".
    Tuy nhiên đại đa số quần chúng nhân dân tin rằng phải đặt mối quan hệ giữa hai nước Việt - Trung trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng chủ quyền và lợi ích hợp pháp của nhau, cần giải quyết mọi bất đồng trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế mà các nước đã tham gia ký kết.
    Qua vụ giàn khoan 981, các vị lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước ta đã thể hiện sự lắng nghe, tiếp thu những tâm tư tình cảm này của nhân dân và đã có những phản ứng kịp thời, phù hợp, đúng luật pháp quốc tế nhưng vẫn đanh thép trước Trung Quốc.
    Trung Quốc từng giúp Việt Nam, nhưng cũng từng bán đứng và xâm lược Việt Nam 
    Chúng ta cũng cần nhìn nhận một sự thật là người dân Việt Nam hay Trung Quốc đều luôn mong muốn hòa bình và không có chiến tranh. Với Việt Nam đã liên tục trải qua những năm chiến tranh khốc liệt, hơn ai hết lại càng khát khao hòa bình, hữu nghị, hợp tác và cùng phát triển.
    Tuy nhiên dường như những nhà lãnh đạo Trung Quốc không phải ai cũng có mong muốn ấy. Họ luôn giữ tâm thái nước lớn, bao giờ cũng muốn các nước khác phải theo mình, sẵn sàng làm mọi thứ có lợi cho mình mà coi thường, chà đạp ích chính đáng, hợp pháp của dân tộc khác. 
    (GDVN)- “Màu đồng chí” không chỉ đơn thuần là màu đỏ trên lá cờ mà còn là màu đỏ của máu hàng vạn người dân Việt Nam.
    Là một nước láng giềng cạnh Trung Quốc, Việt Nam bao đời này luôn là mục tiêu nhòm ngó của các triều đại phong kiến, cho đến bây giờ lãnh đạo của họ vẫn không thôi âm mưu thôn tính lãnh thổ, lãnh hải nước ta.
    Việc nhân dân Trung Quốc từng giúp Việt Nam trong kháng chiến giành độc lập và thống nhất Tổ quốc, chúng ta ghi nhận và biết ơn họ đã nhường cơm, xẻ áo cho chúng ta trong những năm chiến tranh ác liệt. Nhưng chúng ta cũng cần ghi nhớ rằng, chính những người lãnh đạo Trung Quốc cũng có mục đích dùng Việt Nam làm lá chắn để Mỹ và phương Tây không áp sát được biên giới Trung Quốc, dùng Việt Nam làm tiền đồn để Trung Quốc chống Mỹ.
    Năm 1972 Mao Trạch Đông và Richad Nixon đã thỏa thuận, đổi chác lợi ích ngay trên lưng Việt Nam.
    Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, Trung quốc đã không ép được ta theo họ chống Liên Xô. Năm 1972, Mao Trạch Đông đã gặp Richard Nixon, và sau cuộc gập này Mỹ đã thực hiện phong tỏa toàn bộ đường biển của Việt Nam và ném bom ác liệt nhằm đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá bằng máy bay B 52.
    Năm 1974, với sự bật đèn xanh của Mỹ, Trung Quốc đã cất quân xâm lược, đánh chiếm nốt phía Tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam thời điểm đó đang do chính phủ Việt Nam Cộng hòa đại diện dân tộc Việt Nam quản lý chờ ngày tổng tuyển cử thống nhất đất nước theo Hiệp định Geneva năm 1954 mà chính Trung Quốc cũng tham gia ký kết, nhiều quân nhân Việt Nam Cộng hòa đã hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ quần đảo thiêng liêng của Tổ quốc trước ngoại bang.
    Năm 1975 Việt Nam thống nhất, diễn biến này xảy ra quá nhanh chóng và ngoài ý muốn của Trung quốc. Một lần nữa, khi không ép buộc được Việt Nam thay đổi đường lối độc lập tự chủ, chống Liên Xô, Trung Quốc đã tìm mọi cách gây chia rẽ giữa Việt Nam và Campuchia, kích động hằn thù dân tộc, giật dây Khơ Me Đỏ gây chiến tranh ở biên giới phía Tây Nam với ta suốt từ năm 1975 đến 1979 giết hại hàng vạn người dân vô tội. 
    Đỉnh cao của tư tưởng Sô vanh Đại Hán, tháng 3/1979 lãnh đạo Trung Quốc đã xua 60 vạn quân tấn công toàn bộ tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam, giết hại hàng chục vạn dân thường vô tội mà Đặng Tiểu Bình đã láo xược nói rằng để "dạy cho Việt Nam một bài học". Mặc dù sau 1 tháng tấn công xâm lược, quân Trung Quốc bị thất bại thảm hại phải rút về nước nhưng vẫn thường xuyên nã pháo qua biên giới sang Việt Nam cho mãi đến năm 1989.    
    Năm 1988 Trung Quốc lại cất quân xâm lược, đánh úp 6 bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, giết hại nhiều chiến sĩ của quân đội ta. Và suốt từ đó cho đến nay, cậy mình có lực lượng quân sự hùng mạnh luôn tỏ rõ ý đồ tham lam độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã ban hành nhiều lệnh cấm đánh bắt cá phi lý, đánh đập, bắt giữ, ức hiếp, phá nát, đâm chìm tầu đánh cá của ngư dân, làm ảnh hưởng đến cuộc sống của hàng triệu ngư dân Việt Nam.
    Họ đã điều các tàu hải giám, tàu cá ngụy trang ngang nhiên cắt cáp và quấy nhiễu của các tàu nghiên cứu khoa học Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của ta. Đỉnh điểm của sự lộng hành này chính là vụ hạ đặt trái phép giàn khoan 981 ngay trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam, thể hiện sự coi thường pháp luật quốc tế với tư tưởng bá quyền, cá lớn nuốt cá bé.
    Tàu Trung Quốc hung hãn đâm vỡ lan can tàu Kiểm Ngư Việt Nam ngay trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam. Tàu cá Việt Nam cũng đã bị tàu Trung Quốc đâm chìm.
    Về mặt kinh tế ngoài việc khuyến khích thương nhân Trung Quốc thực hiện các hành vi phá hoại nền kinh tế của ta như mua vó bò, mua đỉa, lá vải, hoa thanh long…họ còn tìm mọi thủ đoạn để đội vốn, đưa công nghệ lạc hậu vào các dự án, công trình của ta làm ảnh hưởng đến nhịp độ phát triển kinh tế và hiệu quả của đồng vốn đầu tư của Việt Nam.
    Qua các hành vi trên, quả thực không thể hiểu nổi giới chức Trung Quốc theo hệ tưởng gì, nó hoàn hoàn toàn xa lạ với các học thuyết tư tưởng, tôn giáo tiến bộ của nhân loại. Những hành động của lãnh đạo Trung Quốc đối với láng giềng chỉ cho thấy một lòng tham vô đáy, bành trướng, hung hăng.
    Trung Quốc không chỉ bành trướng lãnh thổ, mà còn di cư ồ ạt những người thuộc dân tộc Hán đến các quốc gia khác và đang gây ra những vấn đề nhức nhối, dẫn đến phản ứng gay gắt về sắc tộc tại những khu vực này. Tại đất nước họ, sự phân hóa giầu nghèo, khoảng cách phát triển và bất công xã hội đang tăng lên. Tất cả những vấn đề này đang làm cho xã hội Trung Quốc bất ổn, đời sống người dân bất an, đánh bom khủng bố nổ ra liên tục. Điều đó cho thấy chính các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn không được lòng dân của họ.
    Đây là gốc của vấn đề chúng ta cần làm rõ để xác định rõ ràng rằng, Nhà nước ta khác với Trung Quốc. Chúng ta đặc biệt tôn trọng lợi ích dân tộc, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình cũng như của các nước láng giềng. Chúng ta không đi xâm lược, chúng ta không gây hấn, khiêu khích với ai, nhưng chúng ta cũng sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam.
    Khởi kiện Trung Quốc là lựa chọn tốt nhất cho Việt Nam, phải dựa vào luật pháp quốc tế để bảo vệ chủ quyền 
    Việc chúng ta khởi kiện Trung Quốc xâm lược, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, 7 bãi đá ở Trường Sa (năm 1988, 1995) và cả những hành động xâm phạm vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam như vụ giàn khoan 981 ra tòa án quốc tế việc là một việc làm rất cần thiết, vì đây là đất của ta, vùng biển của ta đã được Hiệp định Geneva công nhận và bản thân Trung Quốc đã ký vào hiệp định này.
    Theo thăm dò trên các mạng xã hội cho thấy, kết quả tính đến ngày 27/6 trong tổng số người được hỏi tại báo mạng Dân trí có 250375(96%) tán thành kiện Trung Quốc, có 9126(4%) không tán thành. Các báo mạng khác đều cho thấy tỷ lệ tán thành ý kiến kiện Trung Quốc luôn ở tỷ lệ đa số.
    Bản thân hội Luật gia Việt Nam cũng đã hai lần tuyên bố phản đối hành động của Trung Quốc và khẳng đỉnh cần kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế và nêu rõ nếu kiện chúng ta sẽ thắng.
    Tôi cho rằng, việc kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế cũng sẽ làm cho quan hệ của ta với Trung Quốc trở nên bình thường, bớt căng thẳng và không gây nên nguy cơ xung đột quân sự vì nếu Việt Nam và Trung Quốc không tự phân xử được thì để quốc tế phân xử. 
    Trung Quốc có thể không tham gia vào vụ kiện này và có thể không chấp nhận mọi phán quyết của Tòa án Quốc tế, nhưng thế giới văn minh sẽ thấy rõ bản chất côn đồ, ngoài vòng pháp luật của Trung Quốc và uy tín quốc tế của họ sẽ xuống dốc.
    Đến thời điểm này, không đắn đo gì nữa, chúng ta cần nhận thức một cách sâu sắc rằng, dư luận quần chúng chính là Hội Nghị Diên Hồng trong thế kỷ 21 và phải xác định rõ mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung quốc là mối quan hệ bình đẳng giữa hai nước độc lâp, có chủ quyền, bình đẳng, phải tôn trọng  lợi ích, sự toàn vẹn lãnh thổ theo các hiệp định quốc tế  đã được 2 bên cùng ký kết, cần giải quyết mọi bất đồng theo luật pháp quốc tế.

    Chỉ đơn giản là đừng để hết trứng vào cùng một giỏ không cần nói nhiều!

    "Khôn khéo là giải pháp lâu dài, nổi giận là sức mạnh của đất nước"
    "Không có bất kỳ bài toán nào dễ xung quanh vấn đề Trung Quốc. Nó sẽ đeo đẳng lâu dài với số phận dân tộc chúng ta, và chúng ta buộc phải suy nghĩ về nó như là một thuộc tính để cấu tạo ra điều kiện sống của dân tộc mình" - chuyên gia Nguyễn Trần Bạt trao đổi với phóng viên Người Đô Thị về việc gia cường sức mạnh quốc gia bên cạnh mối quan hệ mang tính địa chính trị với Trung Quốc...

    Cuối tháng 3.2014, một lượng lớn dưa hấu đã hỏng do xe chở ùn ứ tại cửa khẩu Tân Thanh (biên giới Việt-Trung).



    Chúng ta đang bỏ quá nhiều trứng vào một giỏ trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc.Nhiều người đang lo sợ kịch bản xấu nhất có thể xảy ra với nền kinh tế Việt Nam từ tác động của vấn đề biển Đông, còn ông?

    Nguyễn Trần Bạt: Nhiều người tỏ ra không sợ điều này, nhưng tôi thuộc vào nhóm người sợ. Kịch bản như vậy đáng ra phải được cảnh báo ít nhất từ năm năm trước. Chỉ riêng việc hiện nay có 80 - 90% đơn vị trúng thầu các dự án lớn ở Việt Nam là công ty Trung Quốc cũng đã cho thấy chúng ta không cho trứng vào một giỏ mà là cho quá nhiều trứng vào một giỏ. Điều ấy thể hiện sự thiếu cảnh giác chính trị nghiêm trọng, và cả sự suy thoái về tiêu chuẩn của giới trí thức Việt Nam. Bởi nói gì thì nói, tất cả những người lãnh đạo những cuộc đấu thầu và hợp tác đấu thầu ấy đều là những người được đào tạo rất cẩn thận.

    Vậy theo ông, ta nên ứng xử với thế đã rồi này như thế nào?

    Nguyễn Trần Bạt: Vấn đề này khó cho nên phải khéo. Người Việt Nam chúng ta có nhiều cách để giải quyết cái khó và về cơ bản, các giải pháp được sắp xếp thành hai nhóm. Thứ nhất là giải pháp nổi giận và thứ hai là giải pháp khôn khéo. Khôn khéo là giải pháp lâu dài, thường xuyên và hay dùng.
    Còn nổi giận thì hiện nay, cả xã hội chúng ta chẳng đang nổi giận là gì?

    Nguyễn Trần Bạt: Tôi từng đi lính, từng tham gia chiến tranh, tôi cũng có lúc nổi giận, nhưng tôi thấy tất cả những thành công mà mình có được đều do khôn khéo mà nên. Phải biết kết hợp giữa nổi giận và khôn khéo và phải phân biệt giữa ý chí và thái độ. Ý chí độc lập dân tộc là sắt đá và bền vững, còn thái độ thì phải mềm dẻo và khôn ngoan.

    Trong Kinh Dịch, người ta mô tả sự sắt đá bằng một đường liền và mô tả sự mềm dẻo bằng một đường đứt. Nước là đường đứt còn lửa là đường liền, và nước bao giờ cũng thắng lửa. Chúng ta cũng có thể thấy điều này trong cái nguyên lý mà chúng ta vẫn hay nhắc đến là dĩ nhu trị cương. Cho nên tôi ủng hộ một thái độ mềm dẻo và một ý chí sắt đá để giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ. Đừng xem việc thay đổi từ thái độ cứng rắn sang mềm dẻo là thua, là đầu hàng, là lùi bước. Không phải. Khi con người còn đủ khôn ngoan để mềm dẻo thì tức là con người còn đứng vững trên đôi chân của mình. Mà con người đứng vững trên đôi chân của mình là con người thắng trong các cuộc va chạm.

    Chúng ta phải để Trung Quốc hiểu rằng Việt Nam không phải là chỗ toàn những người dễ chịu, không biết nổi giận, nhưng cũng để cho họ thấy một thực tế nữa là ở Việt Nam không chỉ có những người nổi giận, mà còn có những người khôn khéo. Và đôi khi để đảm bảo ổn định và hoà bình thì chúng ta phải khéo. Còn kết hợp giữa hai cái đó như thế nào là công việc của nhà lãnh đạo. Nghĩa vụ của họ là nghĩ ra các giải pháp để kết hợp giữa nổi giận và khôn khéo. Tất nhiên, với sự xác định rõ ràng là Trung Quốc ở cạnh chúng ta lâu dài, một triệu năm nữa, đến đời chắt, chít của chúng ta thì Trung Quốc vẫn ở bên cạnh.

    Ông nghĩ sao về việc Việt Nam cần có thị trường nguyên liệu mạnh để “thoát Trung” trong lĩnh vực kinh tế?

    Nguyễn Trần Bạt: Rất nhiều người đưa ra khái niệm thoát Trung, thoát Hán. Đấy là những lý thuyết mà tôi không thể vỗ tay được. Chúng ta có một sự gắn bó số phận đối với Trung Quốc. Vì vậy, chúng ta buộc phải nghĩ ra cách để sống cạnh họ một cách êm ả, một cách tử tế, một cách có lợi chứ chúng ta không chạy ra khỏi họ được. Đừng tưởng rằng chúng ta muốn thì chơi, còn không muốn thì không chơi với họ. Trung Quốc có thể đem quân đến xâm lược chúng ta, chính phủ chúng ta có thể đánh trả người Trung Quốc và đánh trả không tồi, nhưng chúng ta không thể mang quân đánh trả một sự tràn ngập thương mại biên giới thường xuyên, bởi vì chính người dân ta thồ hàng cho họ. Quan hệ thương mại, kinh tế của Việt Nam và Trung Quốc là một quan hệ không dễ gì giãy ra được. Vấn đề là chúng ta phải khôn ngoan hơn, chặt chẽ hơn, phấn đấu nâng cao năng lực của mình lên để cân bằng quyền lợi.

    Cụ thể, chúng ta sẽ rút bớt trứng bỏ sang giỏ khác theo cách nào, thưa ông?

    Nguyễn Trần Bạt: Nên nhớ rằng không phải cứ bỏ trứng vào giỏ Trung Quốc là thiếu khôn ngoan. Chúng ta phải có cách thức của kẻ khôn ngoan, không nên xem Trung Quốc là một chiến trường mà nên xem Trung Quốc là thị trường. Khi xem đó là thị trường, chúng ta phải có đầy đủ các cách thức để có thể xâm nhập vào đời sống kinh tế của họ một cách chủ động hơn. Trong khi chúng ta đang đàm phán về TPP thì người Trung Quốc sẵn sàng bỏ tiền vào Nam Định làm khu liên hợp dệt may để chuẩn bị xuất hàng sang TPP. Thế thì tại sao khi gia nhập TPP chúng ta không nghĩ đến chuyện liên minh với người Mỹ để chuẩn bị xuất hàng sang thị trường Trung Quốc chẳng hạn. Chúng ta phải dám nghĩ như họ và có gan để làm như họ. Tôi nghĩ đấy là cách duy nhất để chúng ta tồn tại bên cạnh Trung Quốc. Không có bài toán nào dễ, không có cách gì dễ trong vấn đề với Trung Quốc. Chúng ta buộc phải gian khổ để sống được với họ, sống cùng với họ và để sống sót.

    Trở lại với sự kiện HD 981 ở biển Đông, theo ông, chúng ta có cách nào để giải quyết vấn đề ngoài biển mà không làm tổn thương nền kinh tế?

    Nguyễn Trần Bạt: Sự trả đũa là không tránh được. Vì thế, nó buộc chúng ta phải suy nghĩ cẩn thận và cũng buộc chúng ta phải sử dụng lực lượng khôn khéo. Tất nhiên, chúng ta không thể nào bỏ qua lực lượng nổi giận, vì nếu bỏ qua tức là bỏ qua một nửa hay một phần lớn tình cảm dân tộc, cái đó rất quý và phải được tôn trọng.

    Chúng ta buộc phải nghĩ đến nó và phải tận dụng cả khả năng nổi giận lẫn khả năng khôn khéo của người Việt. Người Việt trong những lúc như thế này không đi làm cửu vạn để chở hàng lậu cho người ta nữa, đấy là một sự phấn đấu. Không lấy móng trâu móng bò bán cho người ta cũng là một sự phấn đấu. Những sự phấn đấu ấy cũng không hề dễ. Không phải chỉ có sự tràn ngập của một nền kinh tế hàng hoá rẻ tiền mau hỏng khổng lồ, mà còn có cả một âm mưu kinh tế rẻ tiền từ tất cả các lực lượng phi nhà nước của họ nữa.

    Không có bất kỳ bài toán nào dễ xung quanh vấn đề Trung Quốc. Nó sẽ đeo đẳng lâu dài với số phận dân tộc chúng ta, và chúng ta buộc phải suy nghĩ về nó như là một thuộc tính để cấu tạo ra điều kiện sống của dân tộc mình.

    Về vấn đề biển Đông, chúng ta có nên tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế bằng cách nói cho thế giới biết quyền lợi của họ về kinh tế từ giao thương hàng hải sẽ bị ảnh hưởng khi Trung Quốc gây hấn ở vùng biển này?

    Nguyễn Trần Bạt: Tôi làm nghề tư vấn, xúc tiến các mối quan hệ kinh tế quốc tế, tôi biết rất rõ rằng chúng ta là kẻ ít khả năng nhất để giải thích cho thế giới biết quyền lợi của thế giới. Lý do không phải họ nhìn thấy hết mà họ cấu tạo ra lợi ích. Chúng ta phân tích lợi ích như một thứ trời cho, như một thứ của rơi, còn họ cấu tạo ra lợi ích của họ thì làm sao lại phải giải thích cho họ? Thay vì đặt ra mục tiêu giải thích cho thế giới thấy lợi ích của thế giới, thì chúng ta phải học xem thế giới có những lợi ích nào và chúng ta có thể dựa vào những lợi ích ấy như thế nào để tìm kiếm sự đồng thuận của họ đối với vấn đề của mình.

    Ông có nghĩ rằng việc tái cơ cấu kinh tế hiện nay cần được tiến hành song song với cải cách thể chế - như tinh thần thông điệp của Thủ tướng hồi đầu năm?

    Nguyễn Trần Bạt: Tôi khẳng định lại là không thể nào có tái cơ cấu kinh tế nếu không tái cơ cấu thể chế, mà ở đây là cả thể chế chính trị chứ không chỉ có thể chế kinh tế. Tuy nhiên, cải cách chính trị là việc vô cùng khó. Vấn đề đặt ra bây giờ là làm thế nào để các công việc mới không trái với các tâm lý cũ. Có một số trí thức nói chính trị của chúng ta lạc hậu, nhưng nên nhớ rằng trí thức không lạc hậu nhưng trí thức thì bao giờ cũng ít. Sự không lạc hậu của một số ít không hề đảm bảo cho sự không lạc hậu của xã hội, mà các nhà lãnh đạo của chúng ta thì buộc phải cân đối sự bảo thủ của số đông với sự cấp tiến của số ít. Hơn nữa bản thân hệ thống chính trị của chúng ta cũng có những giới hạn năng lực của nó. Liệu nó có thể thực hiện, triển khai được tất cả những sự cấp tiến chính trị thái quá, vượt quá năng lực của nó không? Cho nên, tôi vẫn luôn nói rằng mức độ của cải cách bao giờ cũng gắn liền với năng lực chịu đựng của các lực lượng xã hội, trong đó có cả Nhà nước.

    Ông Nguyễn Trần Bạt là Chủ tịch InvestConsult Group
    (Tầm nhìn)
    http://tamnhin.net/khon-kheo-la-giai-phap-lau-dai-noi-gian-la-suc-manh-cua-dat-nuoc.html


    Phần nhận xét hiển thị trên trang