Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2014

Đà Linh người xây cây cầu văn hóa

TP - Nói đến Đà Linh - tên thật Nguyễn Đức Hùng (bút danh khác: Đa Huyên, 1958 - 2013) là nói đến bản lĩnh của một người làm xuất bản.

Những cuốn sách “nhạy cảm” nhất, những cuốn sách “gai góc” nhất, những bản thảo tác giả và đối tác xuất bản biết là “khó” nhất, họ hầu như đều tìm đến Đà Linh để gửi gắm. Tên tuổi anh gắn liền với những cuốn sách “Ba người khác” (Tô Hoài), “Trần Dần - Thơ”, Bóng đè (Đỗ Hoàng Diệu), “Ngồi” (Nguyễn Bình Phương)...
Nhà văn Hồ Anh Thái nhớ lại “Thời Đà Linh là người chịu trách nhiệm bản thảo, sách của nhà xuất bản Đà Nẵng thường được người mua tin rằng đã được bảo đảm chất lượng”. Tháng 9 năm ngoái, nhà văn Đà Linh ra đi mãi mãi, nhớ về người bạn, người cộng sự thân thiết, TS Trần Thu Dung gửi bài viết này tới TPCN.
Tranh của: Nguyễn Xuân Hoàng
Một lần, Đà Linh qua Paris với giáo sư Hoàng Ngọc Hiến để làm việc với nhà triết học F. Jullien. Quán ăn Việt Nam ở Monge tổ chức buổi nói chuyện văn hóa và biểu diễn văn nghệ ủng hộ trẻ em bị chất độc da cam. Anh Hiến và Đà Linh mời tôi đến nghe nói chuyện về văn học và vấn đề xuất bản sách ở Việt Nam hiện nay.
Đà Linh nói về tình hình xuất bản. Buổi đó anh nói anh sẵn sàng in những tác phẩm của các tác giả người Việt hải ngoại có giá trị. Cánh cửa nhà xuất bản Đà Nẵng luôn mở cửa đón chờ tác phẩm từ hải ngoại. Anh đã biên tập và cho in một số cuốn sách gây được tiếng vang. Anh nói ngắn gọn, không thích đao to búa lớn, nhưng tôi biết anh chưa nói hết những điều anh khát vọng.
Văn học, hội họa âm nhạc không biên giới. Anh muốn đem văn học Việt ra giới thiệu ở nước ngoài và đem văn học Pháp giới thiệu với độc giả Việt Nam. Nhưng khả năng ngoại ngữ có hạn, anh muốn Việt kiều chung sức với anh để làm cầu nối giữa Việt Nam và thế giới. Việt kiều vẫn còn e dè vì nhiều vấn đề tế nhị. Anh khát vọng hòa hợp dân tộc qua nhà xuất bản Đà Nẵng. Văn hóa cũng là hình thức hòa hợp dân tộc, xích con người gần nhau, và thân thiện với nhau.
Trong thâm tâm, anh muốn cùng Việt kiều xây cây cầu thân thiện nối kết tình cảm người Việt trên thế giới bằng con đường văn hóa, và xóa bỏ hận thù do chiến tranh để lại. Nhưng buổi đó anh chỉ nói sự mạnh dạn tiên phong của nhà xuất bản Đà Nẵng trong việc xuất bản. Kẻ tiên phong bao giờ cũng là kẻ phiêu lưu, liều lĩnh.
Kẻ dám giơ ngực ra hứng đạn đầu tiên trong lúc xung trận. Không ai nghĩ cái dáng phong nhã của anh chứa cái máu phiêu liều của người nghệ sỹ mạnh đến thế. Anh dám làm. Anh đã song hành cùng Hoàng Ngọc Hiến để giới thiệu sách triết của Jullien đến Việt Nam, và xuất bản vài cuốn của tác giả hải ngoại.
Rất tiếc những ước mong của anh cùng Hoàng Ngọc Hiến làm cầu nối văn hóa Pháp - Việt đang mới bén rễ, thì anh phải rời cương vị, chuyển về Hà Nội công tác và Hoàng Ngọc Hiến ra đi mãi mãi.
Văn nghệ, văn hóa là cầu nối cho mọi ngả đường thế giới, là con đường giữ hòa bình đẹp nhất. Mỗi lần tôi về Việt Nam, Đà Linh hay dẫn đến chỗ bạn bè văn nghệ như Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha, và cả lớp trẻ như Lê Anh Hoài, Đặng Thân, rồi Trần Nghi Hoàng - Việt kiều Mỹ… với hy vọng bạn bè trong và ngoài nước gần gũi nhau qua văn chương. 
“Hiếm thấy một người hết mình với bạn bè như Đà Linh. Anh còn hết mình hơn nữa trong công việc. Gặp nhau ở đâu anh cũng say đắm nói đến công việc. Trong những ngày trọng bệnh, bạn bè đến thăm, anh say sưa nói về những dự định sáng tác, xuất bản, chỉ đến khi mệt lả mới dừng lại lấy sức”.
Hữu Thỉnh
Đà Linh là người hóm hỉnh, hay đùa, thường quan tâm đến bạn bè. Hầu như thư nào tôi nhận được cũng kèm theo câu đùa tếu nhưng là sự quan tâm sức khỏe bạn bè.
Đà Linh ra đi bất ngờ đối với tôi cũng như nhiều bạn bè khác, vì mới mấy tháng trước, anh còn đùa với tôi trên mạng. Anh gọi tôi là nữ “du kích” vì hay xuất hiện bất ngờ chẳng bao giờ báo trước. Hễ “nữ du kích” về đến Hà Nội, nhắn tin vào điện thoại thì anh trả lời ngay và mời đi uống cà phê cùng một số bạn bè.
Đối với tôi, anh hay “bắt cóc”. Nhiều khi tôi đang bận việc nơi khác, anh cũng giục tôi phải đi taxi đến ngay nơi anh và bạn bè đang ngồi chờ. Anh gọi liên tục, buộc tôi phải bỏ cuộc nơi này sang chỗ anh để vui vẻ cùng bạn bè. Vậy mà vài tháng sau anh đã ra đi.
Ham vui, hào phóng nhưng anh cũng rất giản dị, không lãng phí. Cuộc vui sắp tàn, anh vẫn gọi thêm đĩa cá hấp rất lớn. Món ăn đầy hấp dẫn, nhưng bốn người đã no, hầu như không ai động đũa.
Anh không ngần ngại hay sỹ diện như một số người mới có chút tiền, ra vẻ đại gia, bỏ thừa mứa trên bàn, ăn xong khệnh khạng đi ra nói năng hênh hoang, trong khi người đói và thiếu ăn ở Việt Nam còn nhiều. Anh gọi chủ quán đóng gói đem về để nhỡ nửa đêm đói thì ăn.
Buổi tối anh về làm việc rất khuya, vợ con đều ở Đà Nẵng, nên anh lười nấu ăn. Pháp và Việt Nam lệch múi giờ, bên này ngày, bên kia đêm, nhiều lúc nhận được thư anh, cùng trao đổi, bàn luận, tôi biết anh làm việc rất khuya. Người cầm bút thường có cuộc sống như con chuột chũi. Hà Nội nóng nực, ồn ào nhất là mùa hè. Đêm yên tĩnh mới tỏa ý được trên giấy...


Tự nhốt mình làm bản dịch cuối cùng
Đà Linh vốn nổi tiếng can đảm trong việc chọn in những tác phẩm “hóc”. Nhưng ít ai biết anh cũng rất can đảm trong dịch thuật.

Tháng 8/2012, Đà Linh gọi điện thoại cho tôi nhờ dịch cùng để hoàn thành kịp cuốn triết học của F. Julien mà Hoàng Ngọc Hiến đã nhận dịch nhưng mới bắt đầu đã ra đi vội vàng vì căn bệnh ung thư. Hoàng Ngọc Hiến bỏ lại Đà Linh chới với giữa đống công việc ngổn ngang. Công trình nghiên cứu chung với Hoàng Ngọc Hiến của tôi cũng bị dở dang. Lúc đó tôi đang kẹt phải đọc lại bản thảo của tôi sắp in, tôi không có thời gian nhiều để giúp, chỉ giúp xem lại một phần và dịch giúp một số đoạn.
Để hoàn thành cuốn sách này, Đà Linh tự nhốt mình không tiếp xúc bạn bè gần như mấy tháng mặc dù anh rất ham vui. Tôi ở xa về Hà Nội, nên anh có chút “ưu ái”, và có cớ để chui ra khỏi nhà thở hít bụi Hà Nội. Anh thư cho tôi hôm thứ tư, 8/8/2012: …“Chôn chân ở Đà Nẵng vì có "Thư viện" tại gia, để cố làm xong cuốn "Philosophie du vivre" của Francois Jullien...”.

(Philosophie du vivre = Triết lý sống, sau này cuốn sách được in với tựa đề “Triết sống”/TTD). 
Có lẽ sự cố gắng dồn sức của Đà Linh với cuốn sách này đã thúc đẩy căn bệnh dạ dày làm anh nhanh chóng ra đi. Khi tôi nhận được thư của nhà văn Lê Anh Hoài báo Đà Linh vào bệnh viện vì ốm nặng, tôi giật mình.
Tôi gọi điện thoại hỏi thăm anh, anh đã không nghe được nữa. Tôi nhắn tin cho anh, anh không trả lời nữa. Tôi gửi thư điện tử, anh không đọc được nữa. Mọi khi tôi viết thư hay tôi gọi dù ở đâu anh cũng trả lời ngay. Tôi hiểu tôi sắp mất một người bạn thân.
Anh Hoàng Ngọc Hiến đang làm dở với tôi cũng đã ra đi. Đà Linh – Nguyễn Đức Hùng luôn sát cánh cùng Hoàng Ngọc Hiến bao nhiêu năm nay để giới thiệu những cuốn triết học nhân bản sâu sắc của F. Julien đến với bạn đọc Việt Nam cũng sắp ra đi.

Cũng may anh đã kịp hoàn thành cuốn sách. Có thể anh đã cảm thấy mình không còn sức khỏe nữa, nên gắng hết sức. Trong một lá thư, Đà Linh tâm sự với tôi:
…“ngày 25/8 phải chuyển qua Hội đồng thẩm định bên Pháp rồi, chính vì thế lúc này hết sức cần " tăng tốc",... làm sao chị gửi lại cho tôi trước ngày 23/8, khối lượng thực tế chị thực hiện (không cầu toàn), còn 2 ngày, tôi sẽ dốc sức "tout" cả 237 trang, như vậy mới đúng hạn”.

(Tout = tất cả - TTD)
Anh luôn là người cầu tiến, không ngại giấu những gì mình không biết. Anh sẵn sàng học và đi hỏi bạn bè. Khi biết tôi bày cho anh Hoàng Ngọc Hiến sử dụng một lúc hai văn bản song song trên màn hình để đối chiếu, anh cũng nhờ tôi giúp anh. Anh nhờ tôi viết hộ thư F. Jullien (vì trước đây mọi liên lạc là Hoàng Ngọc Hiến). Anh tự học tiếng Pháp là chủ yếu vì vốn tiếng Pháp nhà trường không đủ. Anh là người can đảm khi tiếp tục công việc dịch triết F. Jullien do Hoàng Ngọc Hiến để lại.
Anh bơi vào lĩnh vực triết học. Dịch bài văn thường đã bở hơi tai, còn dịch văn bản triết là một kỳ công. Đọc triết bằng tiếng Việt không đã mệt, lại còn phải hiểu nghĩa từ tiếng Pháp lại càng mệt huống chi dịch. Vậy mà anh vẫn quyết tâm lao vào. Tôi ở Pháp bao nhiêu năm và học tiếng Pháp từ thời trường năng khiếu mà còn thấy khó. Tôi cảm phục sự chịu khó và quyết tâm của anh. Tôi than dịch khó, tuy nhiên cũng nhận giúp anh một phần.

Tôi viết bài này để nhớ một người bạn cởi mở, hòa nhã luôn sẵn sàng giúp bạn bè, một người đàn ông thanh lịch, độ lượng nhưng rất thẳng tính. Với anh, bạn bè vẫn là trên hết. Sống cần tha thứ và giúp nhau. 
Lần cuối cùng tôi gặp anh là ngày bão lớn ở Hà Nội, anh điện thoại cho tôi “bị ướt hết và cây đổ giữa đường”. Cuối cùng anh vẫn đến để tiễn tôi về Pháp. Anh nhờ tôi mang sách sang tặng bạn bè bên Pháp. Anh tặng tôi một chiếc khăn hồng làm kỷ niệm. Rồi anh vội về để làm nốt cuốn sách dịch. 

Bão to có lẽ đó là điềm báo trước anh ra đi và chúng tôi không bao giờ gặp nhau nữa. Từ Đà Nẵng anh bay ra gặp lại tôi trước khi về Pháp, anh gửi thư:

“Tôi sẽ cố gắng thu xếp, để gặp chị... Cùng lúc, tôi không chỉ làm Francois Jullien, thực sự công việc rất nhiều, tôi không nhớ ngày tháng ...”
Cuốn sách “Triết sống” chào đời thì anh ra đi. Trong bản dịch có mấy câu thơ mà tôi đã dịch gửi cho anh như điềm báo trước tiễn anh đi.
Thuyền nhẹ đón khách sang 

Hồ xa bồng bềnh tới
Ly rượu bên lan can
Bốn bề hoa sen nở

Núi thu chút nắng tàn
Chim vội vã theo đàn
Ánh sáng sắp tắt dần
Đêm không nơi ẩn náu

Rất tiếc Đà Linh và Hoàng Ngọc Hiến đều ra đi đột ngột. Hy vọng ước mơ của hai anh sẽ có nhiều người tiếp sức để xây cây cầu nối văn hóa giữa Việt Nam với thế giới và dùng văn hóa nối kết người Việt trên khắp địa cầu.
2/9/2014
Trần Thu Dung 

Từ Paris, Pháp
2. Bài của Nguyễn Vũ Hồng Ngọc trên Hồn Việt

Nhân có bài báo về Trần Dần


NGUYỄN VŨ HỒNG NGỌC


Sau bài báo của tác giả Bích Châu đăng trên Hồn Việt (số 87, tháng 11-2014) Biến nghịch lý trở thành chân lý!?, báo Tiền Phong(ngày 16-11-2014) có bài đáp lại của Trần Tuấn: Ụp mũ lên Trần Dần – Thơ. Thiết nghĩ, việc trao đi đổi lại một vấn đề để tìm ra lẽ phải, sự đồng thuận là cần thiết, chúng tôi xin góp bàn vài lời.
Ông Trần Tuấn (mà tôi đồ chừng là con giai ông Trần Dần) lên tiếng, cho tác giả Bích Châu là “ụp mũ” thì cũng không có gì là lạ. Nhưng vấn đề ông Trần Dần, vấn đề Nhân Văn – Giai Phẩm (NVGP), vấn đề thơ Trần Dần thì phức tạp hơn, có những cách nhìn khác nhau. Trước hết, những câu thơ mà tác giả Bích Châu trích ra để đánh giá thơ Trần Dần đó, thì nó là thơ tắc tị, thể hiện sự bế tắc trong cách nhìn, trong tư tưởng của Trần Dần vào một thời điểm của đời ông. “Thơ thuộc về mọi người”, nhưng “lời tôi khó hiểu vì tôi cô đơn” (P. Eluard). Tâm trạng của nhà thơ có chỗ đáng thông cảm, nhưng đem nó phổ biến, thì người ta chẳng hiểu gì hết, người ta phản ứng. Nó cũng thể hiện sự ảnh hưởng của chủ nghĩa hình thức phương Tây, tuyệt đối hóa hình thức, ngôn từ, âm điệu…, từ bỏ nội dung – tư tưởng (mà gần đây chúng ta đọc Tzvetan Todorov – Văn chương lâm nguy mới thấy cái tác hại của nó, mới thấy phương Tây – mà đại diện là nhà lý thuyết hàng đầu Todorov – đã nhìn ra vấn đề). Chẳng có gì là “bí ẩn” như anh Trần Tuấn thần thánh hóa, kỳ bí hóa.
Nhưng về thơ, thì Trần Dần ngoài những bài “tắc tị” đó ra, còn có những bài khác trong sáng hơn, có giá trị hơn. “Sông có khúc, người có lúc”, văn chương biểu hiện con người, cũng như vậy.
Ông Trần Dần là một trong những nhân vật chính của vụ NVGP. Đó là những tiếng nói chống lại chính quyền, sự lãnh đạo, đòi tự do dân chủ, trước hết cho văn nghệ, “trả văn nghệ về cho văn nghệ”... Điều đó có thể hiểu và thông cảm. Văn nghệ sỹ nào mà chả muốn tự do thể hiện tâm trạng, chủ kiến của mình. Chết nỗi, tình hình nước ta lúc đó, ở miền Nam thì cách mạng và kháng chiến bị tàn sát hàng loạt – “chiến tranh đơn phương” -, ở miền Bắc thì Cải cách ruộng đất mắc sai lầm, vừa qua chiến tranh lâu dài, kinh tế nghèo nàn, sức dân mỏi mệt, tâm trạng “hậu chiến”. Tình hình thế giới cũng hết sức phức tạp. Anh đi đòi tự do cá nhân cho anh thì cũng phải nghĩ đến đại cuộc, đến đất nước. Bất mãn, phẫn uất…, cuối cùng kêu gọi “biểu tình” chống đối. Thế thì nhà cầm quyền họ nhân danh toàn cục, nhân danh cuộc chiến đấu của cả dân tộc và nhân danh cả những nguyên tắc cứng rắn của họ, họ trấn áp. Vả lại cũng chỉ đưa ra Tòa, xử tù 2 người cầm đầu là Thụy An và Nguyễn Hữu Đang, 2 người hoạt động chống phá – gián điệp và như ông Nguyễn Hữu Đang nói, ông ta cũng chẳng kêu ca gì. Nhà cầm quyền hồi đó hành động như thế, cũng là có cân nhắc. Nhưng rồi đáng lẽ kỷ luật 3 năm, thì kéo dài gần như suốt đời. Rồi coi NVGP như “địch”, căm thù, mạt sát quá đáng là không đúng. Họ có sai lầm, nhưng đó là những người trong “nội bộ”, những người tham gia kháng chiến và cách mạng. Ở Sài Gòn, kẻ địch lợi dụng họ, khoái chí thấy họ nổi lên chống đối, nhưng họ chưa hề là địch. Xử trí sau NVGP có chỗ đáng bàn. Nhưng đó là chuyện một thời, ta nên nhìn lại, nhưng không thể khoét sâu vào vết thương hoặc tôn vinh quá đà, quá mức thành thần, thành thánh… Quy luật Archimed có trong văn chương. Rồi đến đổi mới, bắt đầu có nhiều người nghĩ lại. Ta nói gác lại quá khứ, hòa hợp dân tộc…, những người này là anh em đã đồng cam cộng khổ một thời, có sai lầm gì đi nữa cũng nên xóa “kỷ luật”. Đó là nguồn gốc cái mà PGS Hoàng Ngọc Hiến gọi là “chiêu tuyết” – trao giải thưởng Nhà nước cho một số tác giả NVGP… Gọi là “chiêu tuyết” e chưa đúng hẳn, vì họ có sai lầm thật. Nhưng thôi, tình hình bây giờ bao nhiêu chuyện, hơi đâu mà đi cãi chữ. Khi nhiều người trong Hội Nhà văn làm việc này, cũng là làm với một ý nghĩ, một động cơ như vậy. Còn lịch sử thì vẫn còn đó, tư liệu vẫn còn đó. Không nên vì bị động với trào lưu gọi là dân chủ - nhân quyền của Tây hay sự sụp đổ của Liên Xô, Đông Âu mà khới lên vấn đề đòi xét lại toàn bộ lịch sử!
* * *
Ông Trần Tuấn cũng như báo Tiền Phong mới chỉ nói về Trần Dần. Bài của Trần Thu Dung (ở Paris) trên báo Tiền Phong ca ngợi những tác phẩm mà Đà Linh và NXB Đà Nẵng in. Trả lời, tác giả Bích Châu kể ra 3 tác phẩm, trong đó có cả Bóng đè và Ba người khác.
Có hai tầng nghĩa trong các truyện Vu quy – Bóng đè
Tầng nghĩa bình thường, nếu đọc lướt qua thì là sex. Nhưng trả lời phỏng vấn, tác giả của nó nói rằng “tôi không viết truyện sex”. Mặc dù việc tả làm tình ở đây rất đậm, đôi chỗ dơ dáy, dâm loạn.
Tầng nghĩa thứ hai, tầng nghĩa chính, là chính trị.
Nhân vật nữ trong Vu quy, 16 tuổi ngủ với đàn ông, và sau đó với “người đàn ông đượm rát mùi phù sa sông Hồng”, ngủ với nhiều đàn ông khác, phá thai, rồi với một “người Tàu” – tay “thương nhân”, “quyền uy”, “lãnh chúa”, “hoàng đế” “toát ra mùi đền đài, lăng tẩm: Uy quyền” ấy đã nói: “Nếu rời xa tôi, em sẽ chết. Em đang mắc căn bệnh trầm kha, chỉ có tôi giúp em mới hồi sinh đượcEm đang sinh ra để dựa dẫm vào tôi”. Và: “Nắng biển Đông chết ngoài khơi xa trước mắt ông. Tấm thân tôi cong lên hình chữ S, một hình chữ S cố phản kháng”. Rõ ràng, đây là ẩn dụ của mối tình Tàu - Việt, một mối tình “nhục nhã”, “phản bội”, “quì gối”, “phục tùng” v.v... (tr.52), “tự nguyện quỳ gối trong tư thế của một nô lệ” (chữ dùng trong nguyên tác). Mối tình với Việt, một Việt kiều, người bị mất “xác ba và chị đã rơi giữa biển khơi làm mồi cho cá” (tr.56) và “có cực nhọc làm ra bao nhiêu tiền mang về, bức tường đó cũng không phá bỏ được…” …Như thế là cho rằng ta quì gối lệ thuộc Tàu, một chuyện xuyên tạc trắng trợn.
Và cuối cùng, là một ngoại kiều Tây phương, người đã “đầu tư rất nhiều chất xám vào Việt Nam…” đã phạm “trọng tội” ở Âu châu, có “khuôn mặt Tây phương vô hồn trông đến vài trăm tuổi… từa tựa bức tượng tôi vẫn thường trông thấy mỗi khi đến cơ quan bố… hàm râu quai nón rậm ri loen nhoen nhiều vệt trắng… thân hình lạnh giá như xác chết” (tr.76). Đó là ông Karl (Marx) và hai câu có cái tên này: “Thưa bà Karrl, tối qua ông bà ngủ ngon chứ ạ” được in nghiêng đậm bất thường để lưu ý người đọc cái thông điệp gởi đi, cái mật mã của truyện. Đỉnh cao của bút pháp, cái cay độc của truyện là trong cái đêm “động phòng” với cái “xác ướp” ấy “chỉ có vùng kín ran rát và bàn tay tôi ướt mềm trong lau lách. Hai bàn tay bết dính chất ngà trắng lẫn nhiều sợi bạc mà tôi vẫn đủ tỉnh táo để nhận ra không phải là sợi đàn bà của mình. Trời ơi! Những vệt trắng trên bộ râu quai nón của người đàn ông” (tr.76). Dùng “Sợi bạc” của râu K.Marx để đối với “sợi đàn bà”!?
Bóng đè là câu chuyện cô dâu bị bố chồng (đã chết) hiếp, bị “bóng đè”, và truyện này bạo dâm lộ liễu, còn cái ý chính trị là bị tổ tiên gốc Tàu hãm hiếp, chèn ép. Dòng sông hủi đánh vào công an (tên Công), điều tra viên “kiểm tra trí nhớ của con người”, “kiểm thính lương tri đồng loại”, “thanh lý trí nhớ kẻ khác”, “người lột váy vợ, sờ nắn, ngửi tìm dấu vết một tội phạm (tr.111) –Dòng sông hủi đề tặng Trần Vũ (ở Paris), người đã viết Mùa mưa gai sắc tả Nguyễn Huệ bạo dâm với Ngọc Hân, và anh ta là người điều hành Hợp Lưu ở California, sau Khánh Trường, một tạp chí được Khánh Trường đánh giá là chống cộng hiệu quả nhất, tạp chí đã đăng Vu quy trước khi xuất bản ở NXB Đà Nẵng. Có thể do quan hệ này và bút pháp của truyện, người ta nghi cô gái 28 tuổi ở Hà Nội này chí ít đã được Trần Vũ hoặc ai đó tiếp sức, “biên tập”, “nhuận sắc”, thậm chí “đội tên”…
Các báo Tiền Phong và nhiều báo nữa đã đăng bài thông tin theo chiều ca ngợi Bóng đè, Vu quy, ca ngợi Hội thảo giữa Hà Nội trong “cơn bão” về tác giả và tác phẩm, quảng cáo cho sách và tác giả (cả hai cuốn sách đều đã bán hết sạch). Rất nhiều nhà văn đã ca ngợi và tỏ lòng “kính phục”! Nguyên Ngọc lớn tiếng ca ngợi nhiều nhất trên nhiều diễn đàn rằng tác giả “truyền đến cho chúng ta những nghiền ngẫm sâu thẳm về xã hội, về con người, về đất nước, thậm chí về số phận dân tộc…”, Nguyên Ngọc đã bắt được giải tần sóng phát đi từ truyện. Như thế, đây là cuộc “đồng hè hành động” của xuất bản, báo chí (thậm chí Văn Mới còn có sự kết hợp của VTV1) về một hiện tượng chính trị - tư tưởng – văn hóa rõ như ban ngày. Có sự kết hợp của nước ngoài: Hợp lưu, Talawas,… một cách công khai và cố tình, họ đã “nâng những cung bậc khác nhau của sự phản bội lên thành giá trị” (lời nhà văn Nga Raxputin) công khai dùng phương tiện truyền thông chính thức làm chuyện “lật đổ” (từ của một Việt kiều ở Đức). Đây là một việc hết sức bất thường và đáng lo ngại, tiếp theo không biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra hàng chục năm nay trên lĩnh vực này.
Còn Ba người khác thì tưởng ý kiến của Bích Châu trích dẫn nhà phê bình Dương Trọng Dật thế cũng đủ rõ. Ba người khác là một tác phẩm viết về CCRĐ, rất tự nhiên chủ nghĩa, vụn vặt. Theo ý một nhà văn: “Nói cho ngay, đây là một cuốn sách viết khéo với nhiều cảnh đời sống động và được “lên hương” bằng yếu tố gợi dục đậm đà. Quả là cái khéo của bà hàng xén chợ phiên biết bày bán bắt mắt những món hàng xanh xanh đỏ đỏ”...
* * *
Nhà xuất bản Đà Nẵng và Đà Linh, ngoài những cuốn trên, còn in nhiều cuốn của F. Jullien, một thạc sĩ nghiên cứu cổ Trung Hoa. Các ông Hoàng Ngọc Hiến và một số người khác tán dương ghê lắm. Nhưng rồi “pháo xịt”. Chính các học giả Pháp, Bỉ… viết bài “tố” ông này chẳng hiểu gì mấy về Trung Hoa – phương Đông (xem bài Hữu Ngọc: Huyền thoại “văn minh Trung Quốc” – Phản bác Francois Julien – honvietquochoc.com.vn).
Thôi thì giao lưu quốc tế, có cái được, cái không. Miễn là thiện chí và đừng để ai lung lạc. Báo Tiền Phong nói dư luận nước ngoài cũng phản đối bài của tác giả Bích Châu. Đó là ai, đó là Trần Thu Dung ở Paris, người đã viết bài trên Tiền Phong, gây nên cuộc bàn thảo này. Chúng tôi chưa được hân hạnh biết bà Trần Thu Dung. Nhưng ý của bà là không thích đáng. Còn về ông Đà Linh thì chẳng ai có ý xử “ác” xử “tệ” gì với ông, như có người kêu lên vu cáo. Những gì tốt trong con người ông, chúng ta quí trọng. Nhưng đây là chuyện chính trị, liên quan đến quyền lợi dân tộc, “số phận dân tộc” - như Nguyên Ngọc nói - Bóng đè cũng không phải chuyện nữ quyền như bà mới phát biểu. Nó là thuốc độc chính trị giấu dưới chuyện sex, nên chúng ta trao đổi, tranh luận chứ đâu có nhằm vào cá nhân ai? Ta hoan nghênh Việt kiều, ở nước ngoài góp ý chuyện trong nước, nhiều ý kiến có giá trị lắm nhưng chuyện văn chương – tư tưởng – chính trị này thì không đơn giản. Bà Dung nói Paris tự do, đúng vậy, họ đã đi vào thời Phục Hưng giải phóng cái tôi trước ta 6 thế kỷ! Nhưng nói tự do tuyệt đối thì cũng chẳng làm gì có, khi mà xã hội vẫn giàu – nghèo phân biệt dữ dội, người lao động vẫn khốn khó, thất nghiệp. Dĩ nhiên là họ hơn ta, ta biết, nhưng ta biết khi còn đại tài phiệt, đại tư bản thì tự do cũng chẳng dễ dàng gì: tự do trước hết là cho kẻ có tiền! Ta không khéo thì cũng đi đến đó!

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: