Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Chủ Nhật, 27 tháng 4, 2014

Hoàng Dân bình thơ Trần Nhương


Hoàng Dân
CHẲNG CÓ GÌ QUAN TRỌNG

Những cuốn sách một thời như sấm trạng
Giờ bán cân bà đồng nát mua về
Những qui phạm một thời như thước ngọc
Thành vết hằn ghi dấu sự ngô nghê

Dòng sông Đà hùng dũng nhường kia
Giờ ngăn đập sông luồn qua cửa cống
Biển Vũng Tàu cứ tưởng mình dài rộng
Dàn khoan dầu biển hoá mảnh ao quê

Người quan trọng một thời bao thuộc hạ
Giờ vẩn vơ đợi khách chẳng ai thăm
Em hoa hậu đẹp như nhành lửa ấm
Bếp thời gian để lại chút than hoa

Em của anh ơi, chẳng gì là quan trọng
Đến tình yêu cũng có thể già
Ta hãy sống vô tư như trẻ nhỏ
Sáng xuân này lối ngõ nở đầy hoa…
                                                                          
                                                                               Đại Lải, 12.11.2002.TN

Lời bình

Số phận của những kiệt tác một thời có thể:
Những cuốn sách một thời như sấm trạng
Giờ bán cân bà đồng nát mua về
bởi bây giờ không phải là thời của văn hoá đọc, mà là thời “hoàng kim” (kim loại quí hiếm, màu vàng, đắt tiền…) của động từ “đếm”, mà càng đếm thì càng mê man sung sướng; càng đếm thì thao tác càng trở nên chuyên nghiệp, tế nhị. Điều đó là đúng qui luật thôi. Chúa và Đức Phật đã chẳng từng kiên nhẫn đến khản cổ nhắc nhở con chiên và chúng sinh tới cả ngàn năm rằng “Bản tính của con người là tham lam!”. Chỉ có điều, một thời chúng ta lên án, thậm chí là “qui địa chủ, tư sản” cho những kẻ nào dại dột bóp mồm bóp miệng ki cóp để dành chút ít của cải phòng thân. Suy cho cùng, kiệt tác “bán cân” vẫn còn có ích, bởi nó sẽ được nghiền thành bột giấy để tái chế thành những cuộn sản phẩm trắng xốp khá bắt mắt mà chúng ta vẫn dùng hằng ngày trong toa-lét!
Nhưng:
Những qui phạm một thời như thước ngọc
Thành vết hằn ghi dấu sự ngô nghê
thì đáng sợ hơn nhiều, dai dẳng hơn nhiều, di căn khủng khiếp hơn nhiều, bởi nó vẫn đang hiện hữu trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, và sẽ còn hiện hữu rất là lâu nữa… Nói trắng ra, “sự ngô nghê” chính là sự dốt nát, mà đã dốt nát thì càng nhiệt tình càng gây hậu quả nặng nề, càng ở ngôi cao càng gây tai hoạ lớn. Năm 1948, trong truyện ngắn ĐÔI MẮT, Nam Cao đã viết một câu mà hôm nay đọc lại, chúng ta vẫn toát mồ hôi hột, câu ấy là: “Nó là anh bán cháo lòng thì nó chỉ biết đánh tiết canh, biết làm uỷ ban thế nào mà bắt nó làm?”. Xưa, chúng ta ngây thơ tin rằng “tư tưởng hàng đầu, chính trị thống soái”, cho nên chúng ta dị ứng với những người có bằng cấp, kẻ nào mà dại dột khoe bằng cấp thì ngay lập tức bị chụp cái mũ “tạch tạch sè”; nay thì ngược lại, người ta sính bằng cấp tới mức mê muội, chạy bằng cấp bằng mọi giá. Báo chí đang rôm rả với cái tít: “24.300 tiến sĩ và 9.000 giáo sư – các vị ở đâu và đang làm gì cho đất nước?!”. Cũng theo báo chí, nước ta hiện có số lượng giáo sư, tiến sĩ cao nhất khu vực và thế giới; nhưng các công trình khoa học thì lại đội sổ khu vực và thế giới; trong khi đó tác giả của những phát minh sáng chế từ máy bóc vỏ sắn, máy làm cỏ, máy gieo hạt, máy gặt, máy tuốt, máy vớt bèo lục bình (bèo tây)… cho đến máy bay trực thăng mi ni, tàu ngầm mi ni… đều là các anh Hai Lúa! Báo điện tử Dân Trí ngày 27.3.2014 có bài của Phước Minh, nhan đề “Đừng để Việt Nam mang tiếng là quốc gia có nhiều tiến sĩ”, bài báo cho rằng ở nước ta hiện nay, hình như các học vị ấy chỉ dùng để “kiếm danh, kiếm quyền, kiếm tiền” chứ không phải để làm khoa học – Quả là cười ra nước mắt! Tất nhiên, chúng ta không nên vơ đũa cả nắm, bởi cũng có những tiến sĩ suốt đời miệt mài với khoa học, tiếc rằng số này hơi ít. Nói cách khác, “sự ngô nghê” chỉ từ cực này (chủ nghĩa lí lịch) đột nhiên nhảy tót sang cực khác (chủ nghĩa bằng cấp), chứ bản chất của “sự ngô nghê” thì đã thâm căn cố đế mất rồi!
Tôi thích hai câu đầu ở khổ thơ cuối:
Em của anh ơi, chẳng gì là quan trọng
Đến tình yêu cũng có thể già
Ta hãy sống vô tư như trẻ nhỏ
Sáng xuân này lối ngõ nở đầy hoa
vì cách lí sự bằng thơ rất hóm của tác giả. Người ta bảo tình yêu không có tuổi: “Yêu nhau có ai hỏi/Tuổi ít hay tuổi nhiều/Tình yêu không có tuổi/Tuổi tình yêu trong yêu” (Hoàng Xuân Độ),thế mà tác giả lại bảo “Đến tình yêu cũng có thể già” là cớ làm sao? Cái gì rồi cũng sẽ bị lão hoá, mà bản chất của lão hoá là sự đào thải. Kết thúc của quá trình đào thải là cái chết. Theo tác giả thì tình yêu cũng không là ngoại lệ, nhưng ông hóm ở chỗ đã chen vào câu thơ hai chữ “có thể”! Nghĩa là có thể già hoặc có thể không già. Vậy tình yêu nào sẽ già, còn tình yêu nào thì không? Tình yêu của hai vợ chồng ư? Xin thưa, ngạn ngữ phương Đông có câu “Vợ chồng yêu nhau 3 tháng, thương nhau 3 năm và chịu đựng nhau suốt đời!”. Như thế, sau 3 tháng thì tình yêu vợ chồng “hấp hối” và sau 3 năm thì “chết thẳng cẳng”! Tất nhiên là có ngoại lệ (bởi chuyện gì mà chẳng có ngoại lệ), trăm năm “chưa chết”, nhưng đã là ngoại lệ thì cực hiếm! Tôi đoán rằng chỉ có tình yêu cái đẹp là bất tử mà thôi! Bằng chứng thì nhiều lắm, xin miễn liệt kê chỉ tổ làm mất thời giờ của độc giả.
Hai câu thơ cuối thì vui, lạc quan, nhưng hơi bị… ảo tưởng! Khi kêu gọi “Ta hãy sống vô tư như trẻ nhỏ” thì có lẽ tác giả cũng hồn nhiên tin rằng đó là phép giải thoát tối ưu cho chứng nan y “vỗ ngực tự cho mình là cái rốn của vũ trụ”? Nhưng làm cách nào để “vô tư như trẻ nhỏ” được? Cái “vô tư” tự nhiên nhi nhiên trong ta thì đã bị đào sâu chôn chặt từ đời tám hoánh rồi, không thể dựng dậy cái thây ma ấy trong một con người đã già nua, meo mốc; mà nói như một câu tục ngữ của người Việt thì “Già sinh tật, đất sinh cỏ”!  
Nếu (vâng, nếu trái đất bằng quả cam thì ta có thể bỏ vào túi áo) vô tư được thì ước mơ “lối ngõ nở đầy hoa” sẽ trở thành hiện thực nhỡn tiền, thế thì trên cả tuyệt vời rồi còn gì? Và, xin hãy cứ mơ đi, ai cấm được ta, nhỉ?!
 Thạch Bàn, 23.3.2014. HD

Phần nhận xét hiển thị trên trang

Không có nhận xét nào: