Kho giống má trên cánh đồng chữ nghĩa!

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

Tin văn

Hãy Chết Đi, Nguyễn Huy Thiệp...

Cách đây hai tuần, trong khi đang tập nhị khúc, một bộ môn bắt buộc của Taekwondo, tôi bỗng phát hiện ra ngực mình nổi lên một cục nhỏ như khối u. Khối u rất kỳ dị. Ngự ngay giữa phần hõm của lõm ngực. Chính xác, đầu hơi chếch về bên phải một chút. Đụng vào nhói đau và khi ấn nó đã chạy như có chân. Sự phát hiện bất ngờ làm tôi tê điếng. Dù rất hoảng hốt, tôi vẫn không nói với ai. Chỉ thận trọng theo dõi. Cảm giác đầu tiên ập vào tôi và đánh chiếm lớn dần sau đó là những gương mặt đã chết vì căn bệnh ung thư. Thời gian vừa qua tôi đã tiễn đưa khá nhiều bạn bè và có người thân yêu đến mức sau đó tôi buộc phải gác lại tất cả công việc riêng để ngồi vào bàn thực hiện Di cảo để lại theo lời trăn trối của họ. Không lẽ bây giờ tới lượt mình sao? Tôi không dám nghĩ về điều đó. Vậy khối u chạy trong ngực là gì?

Trước cái chết hiển dụ, tôi thấy mình chưa chuẩn bị được gì và quá bỡ ngỡ. Vợ dại, con thơ, nợ nần, cơm áo… là những “nỗi đau” trần thế nhưng lúc này nghe nhói lòng nếu mình có vé bị loại khỏi cuộc chơi, không còn quyền “can dự” nữa! Ôi cái cuộc đời dã man, mật ngọt, đau đớn và phù du. Nó là cái gì mà chúng ta cứ níu kéo, chì chiết mãi thế? Không thể dứt bỏ!... Nó bí ẩn khôn khuây, tuyệt vọng và tàn bạo! Nó như cái thế giới hỗn loạn được xây dựng và cắt ra từ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Đó là Quỷ ở với người, Cún, Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết, Chảy đi sông ơi, Thương nhớ đồng quê, Thương tất cả cho đời bạc [1]...

Trong thời gian đấu tranh để có thể đủ cam đảm đến bệnh viện xét nghiệm, tôi đã phải đối mặt với các câu hỏi những gì đã từng thụ hưởng về văn hóa trong cuộc đời quá ngắn này liệu còn ý nghĩa? Kẻ lên đường sau bao nhọc nhằn “chiến đấu” những gì mang theo và ai mới là người đáng kể? Thật bất ngờ ở “điểm chết” này tôi đã nhận ra tầm vóc hết sức lớn lao trong những ẩn ngữ văn chương của Nguyễn Huy Thiệp. Y, con phù du lớn nhất. Một tên ngoại hạng. Một tay ngoại cỡ. Một bút pháp điếm loạn viết về cái ác mà không ghê tay. Có thể xem y như người viết về cái ác thành công nhất từ trước đến nay của văn chương chúng ta. Y có thể làm nổi khùng và chửi toáng lên với bất cứ bậc khả kính nào khi đọc văn y nhưng sau đó lại lặng lẽ tẩm ngẩm tầm ngầm đi tìm những tác phẩm mới của y để quét không sót một chữ! Với tôi, trước cái chết, y là tay đáng kể duy nhất và cuối cùng. Vệt sao băng quét qua cuộc đời...
Lạy ơn trên, thật may mắn, khối u của tôi sau gần một tuần đấu tranh đến bệnh viện và siêu âm xét nghiệm kỹ chỉ là vấn đề nhỏ trong y học. Đó là chiếc xương “xương lưỡi kiếm” ẩn sâu trong ngực mà tên Adam nào cũng có. Khi bạn tập tành quá sức như luyện võ, cử tạ… tự khắc nó sẽ “cộm” lên. Sau đó tự khắc nó sẽ lặn đi! Lưỡi kiếm ơi là lưỡi kiếm! Nhưng rõ ràng là tôi không còn bình yên được nữa! Một lưỡi kiếm của Nguyễn Huy Thiệp đã xẹt ngang hồn tôi…
***
Nhiều nhà phê bình vẫn phàn nàn Nguyễn Huy Thiệp là nhà văn không có tim hay không có lương tâm. Sao y có thể say mê tẩn mẩn tỉ mỉ về cái ác đến bệnh hoạn vậy? Tôi thực sự nghĩ rằng đó là vì tấm lòng và tình yêu cuộc sống quá lớn của ông! Trong tác phẩm mới nhất, Vong bướm cũng thể hiện rất rõ điều ấy!
Người bạn vong niên của Nguyễn Huy Thiệp là nhà thơ Nguyễn Bảo Sinh, có nói về tính sa đọa của Thiệp gần đây. “Bạn có để ý hai tác phẩm mới của Thiệp không? Toàn ăn chơi, toàn chim bướm! Đó là dấu hiệu của kẻ sắp rời bỏ và tiếc nuối cuộc trần gian này…”. Giăng lưới bắt chim [2] - tập tiểu luận phê bình và Vong bướm - kịch bản chèo, liệu điều ấy có thực không?
Trước hết, phải nhìn nhận khi viết Vong Bướm quan niệm về thi sĩ và nghiệp văn với Nguyễn Huy Thiệp vẫn là hết sức nhăng nhố. Là người từng gây ra những cuộc tranh luận dữ dội “Trò chuyện với hoa thủy tiên” ông đã chỉ trích thẳng về thói rẻ rúng và đốn mạt của bọn làm thơ bằng mấy câu lục bát của Nguyễn Bảo Sinh “Vợ tôi nửa tỉnh nửa mơ / Hôm qua nó bảo dí thơ vào l…/ Vợ tôi nửa dại nửa khôn / Hôm nay lại bảo dí l… vào thơ”. Và đây, ông viết “Tôi không phủ nhận cảm tình của nhân dân đối với thơ nhưng trên thực tế cái danh nhà thơ là một thứ nhìn chung là nhăng nhít, hữu danh vô thực, chẳng ai muốn dây vào nó; nhà thơ đồng nghĩa với sự chập cheng, hâm hấp, quá khích, vớ vẩn, thậm chí còn lưu manh nữa…” [3].
Và ông rất tâm đắc với ghi chú của một viên cò người Pháp về nghề văn - từ một tư liệu tìm thấy trong hồ sơ của nhà văn Giông tốSố đỏ nổi tiếng: - “Viên cò thời Pháp thuộc ghi vào hồ sơ Vũ Trọng Phụng “Vô nghề nghiệp”. Từ trạng thái vô nghề nghiệp chuyển sang trạng thái lưu manh ranh giới chỉ là một cái tặc lưỡi…” [4].


Với Vong bướm, rõ ràng là Nguyễn Huy Thiệp vẫn theo đuổi cách nhìn phúng dụ và tinh quái ấy! Cách viết ám chỉ bọn vô công rồi nghề, than mây khóc gió, chỉ rặt tài vặt móc méo chặt câu bẻ chữ dăm câu vần vè xuôi ngược làm trò và rốt cuộc, cuộc đời cuộc đời của đám lưu manh, du thủ du ấy thực chẳng ra gì! Đáng thương thay! Có vẻ như Thiệp muốn dạy bọn làm thơ “không cẩn thận là chuốc vào danh hão, hại thân, thân khổ đấy!...” [5]. Kiểu của Thiệp xưa nay vẫn thế khi viết về các nhà thơ, và đặc biệt là thơ Việt Nam!
Tuy nhiên khi đọc Vong bướm, một lần nữa tôi nhận ra Thiệp là người ít tìm được khoái cảm khi làm tình, lúc chim bướm (!). Trong văn xuôi của ông thể hiện nghiêm trọng điều ấy. Bởi những cuộc tình của ông thường nghiêng về âm mưu, chớp nhoáng, chiếm dụng, cưỡng đoạt, cộc cằn, tục tằn, nóng nảy, thô bạo… thể hiện cái phần thú, phần xác nhiều hơn phần hồn. Mà tình yêu đích thực vẫn do sự thăng hoa của cả hai phần thể xác và tâm hồn cộng lại!Vong bướm tập hợp rất nhiều “gái” - cánh bướm - trên sân khấu nhưng không có cuộc “làm tình” nào ra trò (!). Bởi cốt còn bầm dập, khốn nạn chẳng ăn thua gì huống là vong! Tôi nhớ nhà văn Tô Hoài từng vẽ chân dung thi sĩ Nguyễn Bính, một người bạn cùng thế hệ ông như sau: "thấy gái như ếch vồ hoa, quạ vào chuồng lợn” [6]. Nguyễn Huy Thiệp viết về Nguyễn Bính nhưng lại chia đôi Đạo - Đời và hoàn toàn không thấy say đắm, khoái thú vì tình yêu để nguyện nếu chết thì cũng sẽ hóa thân thành bươm bướm bay lượn trên những giấc mơ ái ân cũng chính là cách "đạt đạo" vậy! Cái vẻ bao dung dáng dấp đại ca về vẻ "đáng thương", "nhầm lẫn" theo cách nhìn "cần được giáo dục cho sáng mắt ra" của Nguyễn Huy Thiệp có vẻ thích hợp cho một trại cải huấn tình dục tuổi mới lớn hơn những nghệ sĩ dấn thân.

Vì thế, tôi không thích lắm cái Đạo thuần khiết hay quá tỉnh táo mà ông đặt ra trong Vong bướm. Khi mà trước đó chính ông nhận ra cái chớp mắt sắc sắc không không, vô thường của nó: “Mê mê sảng sảng bon chen hận thù” hay cắt gọt không thừa thãi nén trong mấy câu lục bát quá đỗi tài hoa về cái thói đời nhăng nhố “Ốm đau tử biệt sinh ly / Chợ chiều băm mặt cười khì thế nhân / Đời người giấc mộng phù vân / Chuyến tàu ga xép dừng chân nơi nào…”. Ở điểm này đã phá tan các lớp ngôn ngữ “giải chấp” những sai lầm, trầm luân, khổ đau của kiếp người nghệ sĩ - mà theo cách giải thích của Thiệp - chính là phiên bản cuộc đời của thi sĩ Nguyễn Bính.
Để làm gì? Theo tôi đây là cuộc “giải cứu” vô nghĩa. Theo tôi, cái “đạo” lớn nhất của Nguyễn Bính là đã “phấn đấu” cho dù truân chuyên, bầm dập, “dưới đáy địa ngục”… để trở thành một cánh bướm chấp chới tuyệt đẹp trong vườn dâu (bể) của thi ca Việt Nam. Đạo và đắc đạo chính là chỗ ấy chứ không nằm ở những biện minh, kiểu cảnh, duy lý Điệp Lang ký khế ước với Ma vương làm bạn với bốn con quỷ Tửu (rượu chè), Sắc (trai gái), Yên (ma túy), Đổ (cờ bạc) bốn ngọn núi Sinh - Lão - Bệnh - Tử đến với ánh sáng Chân - Thiện - Mỹ.
Tôi vẫn thích cái “ấm ớ” hơi lơ ngơ lẩn ngẩn của Trang Chu, hỏi một giấc mộng mình hóa bướm hay bướm đã hóa mình. Vong bướm còn chưa thuyết phục tôi ở sơ đồ thân trò hay tích trò đòi hỏi những điểm yếu, điểm mạnh khi xây dựng một cấu trúc chỉnh thể lý tưởng về chèo như chính Thiệp đã viết, “miếng cháo văn hóa tinh thần cho người ốm yếu”, vì hầu hết kịch bản chèo cổ chỉ truyền khẩu chứ không lưu giữ bằng văn tự.
Nhưng thực sự, tác phẩm đã ru hồn tôi bằng những câu thơ oán thán rất “khả năng” của một nhà văn danh tiếng trên văn đàn, cho thấy khả năng “vần vè” của ông xuất chúng, thượng thừa: “Thương thay số kiếp con người / Trầm luân bể khổ cuộc đời đa đoan” hay “Vong này đích thực vong tình / Xem ra vong bướm ở mình ở ta / Đạo nào tất cả cũng là / Âm dương đực cái đàn bà đàn ông”… Rõ ràng cái còn lại của Vong bướm không phải bản chất như tác giả cố tình lý giải mà chỉ là hiện tượng. Sự xuất thần của những câu thơ!
Kịch bản chèo Truyền thuyết tìm vua theo tôi là sắc sảo hơn, đúng chất Nguyễn Huy Thiệp hơn khi ông trở về đề tài quen thuộc của mình đó là chính trị. Nếu so sánh về tâm - lực, tôi nghĩ ông đầu tư và gửi gắm vào vở chèo này nhiều hơn Vong bướm. Tuy viết về một câu chuyện lịch sử còn lưu lại trong Sử ký, xảy ra từ thế kỷ 16, “nhà Lê suy vong, nhà Mạc truất ngôi, Mạc Đăng Dung khởi chuyện động giời, giết Cung Hoàng tiếm ngôi Hoàng đế”. Tướng quân Nguyễn Kim đi tìm chúa Chổm, giọt máu của nhà Lê để tìm vua hành đạo. Tuy chèo cổ nhưng qua ngòi bút tài hoa của nhà văn, dấu nối giữa truyền thống và hiện đại rất mạch lạc, biến hóa, nhuần nhuyễn. Nhân vật, lớp lang, đối thoại, chữ nghĩa… được “dụng công” nhiều hơn.
Có những tiểu xảo mạnh bạo như Nguyễn Huy Thiệp đã cho các nhân vật là Hề và Thầy bói phát ngôn như sau:“HỀ: Ông ơi, ông có thấy Rồng đen quấn cột ở đâu đây không? THẦY BÓI: Tìm ai thì bỏ tiền vào cái đĩa này tôi mách cho! HẾ: Thế bỏ bao nhiêu?-THẦY BÓI: Thôi cứ tùy tâm! Cứ bỏ 100 đô-la Mỹ là được!- HỀ: (nhảy dựng lên) Chết! Ta đang ở trong vô minh lịch sử sao lại tiêu tiền hiện đại thế này? - THẦY BÓI: Lịch sử chẳng qua chỉ là cặn bã của người xưa thôi! Lịch sử mà không có lợi cho “cái đang là” thì nghĩa lý gì! Nào bỏ tiền vào đây!... ”. Dấu ấn và thế lực của đồng tiền lúc nào rõ rệt, làm ngả nghiêng thời đại. “Lịch sử là cặn bã của người xưa” đó là một cái nhìn táo bạo.
Tuy nhiên ở một đoạn khác khi Nguyễn Huy Thiệp đòi “chém phăng lịch sử” thì bông phèng và tếu táo: “HỀ: Gian nan mới tỏ chí anh hùng. Lịch sử giao cho toàn việc nặng. Tớ mà tóm được, phải giết phăng - TIẾNG ĐẾ: Giết phăng ai đấy? HỀ: Giết phăng lịch sử. TIẾNG ĐẾ: Sao lại giết phăng lịch sử? - HỀ: Lịch sử là thằng đéo nào? Giao toàn việc nặng cho tao thế này? Không bắt, không giết phăng đi thì để làm gì?...”. Chữ Đạo đặt ra khi tướng quân Nguyễn Kim đi tìm chúa Chổm như tìm một đấng minh quân, một lý tưởng để ký thác ý nghĩa cuộc sống. Nhưng hành trình đi tìm “vua” đã được xây dựng trên bốn đạo quân Vô Dụng, Vô Đức, Vô Sản, Vô Nhân. Nhà văn đã cho nhân vật nói “Ta lấy hưng quốc dấy nghĩa! Thế là bọn họ tìm đến mà thôi!...”. Câu hỏi như câu trả lời “sao Vô Dụng còn mà Hữu Dụng chết?” như nỗi trêu ngươi muôn đời và thách thức kẻ tri thức và người nghệ sĩ. Nó còn được đúc kết bàng bạc trong câu lục bát “Nay hoàng hôn mai hôn hoàng / Tử sinh thôi cũng chẳng màng dở hay…”.

Hãy đọc để hiểu thêm cách nhìn và từ đây ngẫm nghĩ cách hư cấu của Nguyễn Huy Thiệp khi viết về những nhân vật lịch sử hay có liên quan đến lịch sử: “Kho tàng truyện cổ ở ta đầy rẫy những thằng ngốc, thằng khù khờ nhưng rốt cuộc đều “ăn nên làm ra”…Những anh hùng thì bị chém cổ mà phụ nữ thì đức hạnh tuyệt vời. Giữa cái thế giới người trong truyện cổ và thế giới người của đời thực gây nên nỗi hoang mang dịu ngọt…” [7].

***
Dù sao đi nữa, Vong bướm vẫn cho thấy tài năng, cốt cách nghệ sĩ lớn ở Nguyễn Huy Thiệp. Ông là người có đạo đức, luôn ý thức và đã giữ được phẩm hạnh của mình. Đó là luôn thể nghiệm trên địa hạt chữ nghĩa, cày xới đắc lực trên cánh đồng văn chương. Thiệp là người duy nhất hiện nay cho thấy sự nặng ký, tầm cỡ, đa dạng của ngòi bút ở nhiều thể loại truyện ngắn, kịch, tiểu luận phê bình, tiểu thuyết… và bây giờ là chèo.
Và cũng chính vì lẽ đó mà tôi cũng mong muốn Nguyễn Huy Thiệp cần phải… chết đi! Bởi lẽ từ khi ông xuất hiện, văn đàn không có nhân vật nào đáng kể nữa! Tôi cho rằng Thiệp là người của trời. Sự có mặt của ông trong làng văn chương hôm nay là một biến thiên của trời đất, vũ trụ, nó là duyên nghiệp, không phải muốn là được. Bởi ông viết gì cũng hay, cũng quyến rũ. Cái hay của một bậc thức giả, thâm thúy, thâm nho và thay mặt Thượng đế đánh thức một phía tối nào đó trong tâm hồn chúng ta. Ông đã rắc ánh sáng vào vết thương, vào sự tối tăm của mê lộ, một hành trình chênh vênh của kiếp người u u minh minh, giữa trần gian và địa ngục. Ông lặn sâu vào những vỉa kinh hoàng nhất của đời sống để tạc vào câu chữ.
Để tạm khép lại bài này, tôi nhắc lại một khái niệm về Muối, trong một tiểu luận đã viết của Nguyễn Huy Thiệp: “Trong tác phẩm của mình những nhà văn giỏi bao giờ cũng có một chút muối rắc đâu đó trên từng trang viết. Muối xát lòng người đọc một thì xát lòng người viết ra nó mười lần. Văn học ở ta rất ít muối…” [8].
Cám ơn nhà văn. Một lần nữa trên hành trình sáng tạo, ông đã gửi đến cho chúng ta niềm tin vào khát vọng ngày mai tươi đẹp dẫu hôm nay còn quá nhiều giả dối. Vong bướm, là một tác phẩm có nhiều Muối!


NHÀ VĂN VÀ BỐN TRÙM "MAFIA" 

 NGUYỄN HUY THIỆP

Người xưa cho rằng văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự "kinh tế" (kinh bang tế thế). Song, cũng thấy rõ tính chất phiêu lưu hiểm nguy của văn chương, bởi thế người xưa cũng hết lời khuyên răn đe nẹt nó.
Kinh thánh bắt đầu bằng câu: "Khởi thủy là lời". Câu ấy đi kèm với cái lắc đầu của Chúa. Chúa cũng sợ rằng những hành động tiếp theo Lời không khéo chẳng hay ho gì.
Vậy sau khởi thủy là gì?
Không phải tự dưng mà trong văn chương người ta đề cao chữ tâm. Tôi sẽ nói về điều này sau khi đã trình bày một vài điểm có vẻ như ít siêu hình hơn.
Trong việc làm văn, yếu tố quan sát giữ vai trò tích cực hàng đầu. Những nhà văn nhạy cảm và có tài năng, sau khi quan sát xong sẽ mệt khủng khiếp. Sự lãnh cảm dửng dưng của thói đời, tính chất vô nghĩa của những việc làm, sự đểu giả trong nhân cách và chi chít những hình ảnh thối tha trong xã hội đập vào giác quan họ, họ không mệt sao được?
Sau khi quan sát, nhà văn ngẫm nghĩ để xử lý những lời nói dối và những lời nói thật, xử lý những hành động bất nhẫn và những cử chỉ cao thượng, xử lý của cải vật chất có thật và tinh thần lãng mạn mang màu sắc huyền ảo giống như cách ta lựa chọn thực đơn. Rất ít khi người ta chọn được thực đơn hợp vị. Tôi không tin là nhà văn nào cũng biết phân biệt chính xác tuyệt đối các dữ kiện mà anh ta thu lượm được sau quan sát. Hơn lúc nào hết, đây là lúc nghề nghiệp đòi hỏi trái tim nhà văn lên tiếng, tức là đòi hỏi chữ tâm trong lòng.
Việc ngẫm nghĩ về các dữ kiện thu lượm được sau quan sát đọng lại trong lòng nhà văn thành một thứ kiến thức rời rạc, lỏng lẻo. Chính Lê Quý Đôn đã nhận thấy điều này và điều ông thấy cũng chỉ mờ nhạt chẳng đáng tin cậy chút nào. Ông viết: "Kiến thức do thanh khí sinh ra; bản nguyên của thanh khí có gốc ở trời và cũng liên quan đến thời, từ đó tan vào lòng người, rất kỳ diệu và sinh động. Cảm thấy, ứng thấy, rất lạ lùng, tinh vi, không hình dung được". Trong điểm lưu ý này của Lê Quý Đôn, chứa đựng một phát hiện tài tình, đấy là quy luật "văn đẻ ra văn". Nếu không gọi là quy luật, ta cũng có thể gọi đó là tình trạng phổ biến.
Hầu hết các nhà văn đều chịu ảnh hưởng của người đồng nghiệp đi trước. Tính chất truyền lửa hết sức khó chịu này của trí thức làm cho tất cả các nhà văn khi mới bắt đầu cầm bút đều ngượng chín người. Họ lố bịch lặp lại tư duy, cách xây dựng hình ảnh, thậm chí bố cục của ai đó. Guy de Maupassant cũng đã từng ca hát theo kiểu Flaubert, Gogol thì phải làm theo Puskin, còn Nguyễn Du ở Việt Nam thì dựa theo Thanh Tâm Tài Nhân là một người gần như không có tên tuổi gì ở mãi Trung Quốc.
Trong tác phẩm của nhà văn thiên tài, chứa đựng một số câu văn nào đó làm mồi cho bọn hậu sinh. Việc đọc tác phẩm của họ hết sức quan trọng. Song, nếu đọc họ mà chỉ dừng ở hình thức nghĩa là không đọc. Lê Quý Đôn cũng lại nhận ra điều này nữa. Ý kiến sau đây của ông rõ ràng và minh bạch hơn ý kiến trước nhiều: "Vô luận cổ văn hay kim văn, tuy thể loại và câu văn có khác nhau, nhưng đại để đều phải có nội dung là đạo. Có nội dung ấy thì văn chương phát đạt, không có thì hỗn loạn. Phải viết có nội dung thì văn chương thịnh, không như thế thì suy".
Vậy thế nào là đạo? Và đạo là gì?
Ở phương Đông người ta coi sự kết hợp âm dương là Đạo, sự kết hợp ấy được hình dung như con đường. Ta cũng có thể coi đạo như một mạch sống. Cảm nhận được mạch sống của thời, thể hiện được bằng con chữ, đấy là văn chương thần thánh.
Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, sống cách đây hơn trăm năm, người từng được nhân dân coi là "thần nhân" giải thích về đạo rất kiêu ngạo: "Đạo là cái tâm mà ta sẵn có". "Ta" ở đây không phải là mọi người mà chỉ là một thiểu số cá nhân siêu việt có "lời đạt" (đây là chữ của Tô Đông Pha) mà thôi. Phương Đình coi "lời đạt" bởi "có gốc". Ông giải thích: "Ví như nước vậy. Nước ở biển khơi, tuy gò đảo chắn ở phía trước nhưng dòng không rối loạn. Ao vịnh rất xa, nhưng nguồn mạch thường thông. Được thế, là vì biển chất chứa sâu dày vậy. Tĩnh thì thể nghiệm nó ở thân, động thì tham cứu nó ở sự. Nó là cái mà ta nắm được, để làm trọn vẹn cho "cái vốn có" ở mình. Sau đó, tiếp xúc với sự vật thì nó bật ra. Không một ý nào là không ngân vang..."
Tất cả những điều trên đều đưa đến hệ quả sau đây: "Văn chương hay là có "lời đạt", "lời đạt" là bởi có "đạo", "đạo" xuất phát từ "tâm" tức là từ trái tim người viết". Đã không viết thì thôi, chứ đã viết ắt phải có tâm, phải có tấm lòng. Nhưng vì sao người ta cứ phải cảnh tỉnh văn chương, vẫn cứ phải khuyên răn đe nẹt người viết. Trong văn chương chất chứa sự hiểm nguy gì?
Ở Trung Quốc người ta kể rằng khi xuất hiện chữ viết, thứ chữ viết trên mu rùa của vua Phục Hy thì Quỷ cốc tử nhảy ra ôm mặt khóc ba ngày ba đêm rồi than rằng: "Thiên hạ từ đây đại loạn". Trong chữ viết, trong văn chương, chứa mầm mống loạn. Điều ấy là một thực tế và thực tế ấy đã được chứng minh từ xưa đến nay.
Chúng ta hãy thử hình dung một người sinh ra, làm lụng, ăn uống, sống hoàn toàn mê man trong những phép tắc lề luật, những khuôn khổ đạo đức tù đọng, "hết ngày dài lại đêm thâu", thời gian cứ thế trôi đi, rồi chết. Tất cả những điều ấy diễn ra vô nghĩa, tầm thường, quanh quẩn, không so sánh, không đối chiếu... như thế sẽ kinh khủng như thế nào. Văn chương không cho phép người ta sống thế, văn chương thôi thúc, đánh thức tất cả tiềm năng con người trong họ và cảnh tỉnh rằng: "Này! Sống thế nào thì sống, sống như thế khổ lắm, nhục lắm, sống như thế đểu lắm, khốn nạn lắm... Mau mau lên, sắp hết đời rồi". Sự thôi thúc của văn chương dựng người ta dậy...
Sự thức tỉnh con người ở văn chương có ba bảy đường. Thường các nhà văn xoàng xĩnh lại đặt lòng tin ở ý nghĩa xã hội của văn chương nhiều hơn các thiên tài đặt lòng tin vào nó. Các nhà văn kém cỏi, không tự tin ở tài năng cá nhân mình nên ra sức ráo riết "hoạt động xã hội" để "phản ánh xã hội". Họ lớn tiếng và tin chắc rằng chỉ riêng mình mới có "ý thức công dân", riêng mình mới có lương tâm mà thôi. Tôi đã thấy chuyện ấy xảy ra ở Hà Nội và ở các thị xã tỉnh lẻ. Thường "các hoạt động xã hội" của loại nhà văn này bao gồm việc tụ tập ở quán cà phê, salon và các cuộc hội thảo có nội dung chính là "vấn đề nhân sự". Họ lảng vảng quanh các hội trường, nơi các nhà chính trị bàn bạc và liếc nhìn với ánh mắt lườm lườm. Việc "phản ánh xã hội" của họ trong tác phẩm thường sốt sắng nhưng cũng thường sai be bét. Làm sao mà không sai be bét được? Ngay các nhà chính trị khi định ra "chế", định ra chính sách, hướng dẫn chúng thực hiện chính sách đó, phấp phỏng theo dõi hàng ngày cũng còn không tin sự sai đúng, nữa là một người đứng ngoài cuộc?
Vấn đề "ý thức công dân" và "lương tâm", tôi không muốn đề cập ở đây. Chúng ta đều có ý thức công dân và lương tâm cả thôi, nó có chạy đi đâu mà phải lo lắng sợ hãi.
Ở Việt Nam từ xưa đã lưu truyền một bài ca dao mà tất cả các lời giải thích về nó đều chết cười:
Thằng Bờm có cái quạt mo
Phú ông xin đổi ba bò chín trâu
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy trâu
Phú ông xin đổi một xâu cá mè
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mè
Phú ông xin đổi ba bè gỗ lim
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy lim
Phú ông xin đổi con chim đồi mồi
Bờm rằng: Bờm chẳng lấy mồi
Phú ông xin đổi cục xôi Bờm cười...
Người viết bài ca dao kia vui tính diễn đạt tư tưởng "ăn ngay", "nuốt được vào bụng" của mình hết sức tài tình. Tư tưởng "ăn ngay", "nuốt được vào bụng" có thể ví dụ như tinh thần hiện sinh trong triết học phương Tây. Người viết bài ca dao đó quá hiểu xã hội phương Đông, một xã hội đầy thành kiến nặng nề, chất chứa nhiều ràng buộc, rất nhiều hứa hẹn thề nguyền nên chẳng tin gì hết. Nhà văn Nguyễn Văn Bờm chỉ tin ở mình, chỉ tin hiệu quả ăn ngay và những tri thức anh ta có thể tiêu hóa được.
Tinh thần hiện sinh giúp con người nhận thức ra bản ngã mình. Song tai hại của việc nhận thức ra bản ngã mình là dẫn đến những hành động bất nhân, bất lương, vị kỷ. Hơn lúc nào hết, ở đây "văn" đóng vai trò quan trọng. Vậy "văn" là gì? Phải chăng đấy là việc tự mình quan sát, xử lý dữ kiện, hành động ra sao hợp với mình và hợp với thời. Chu tử, tức Chu Hy đời nhà Tống Trung Quốc quan niệm: "Uy nghi đúng mực, nói năng phải lẽ, đều là văn". Quan niệm ấy hết sức chính xác, Lê Quý Đôn cũng quan niệm như thế nhưng văn hoa hơn: "Mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú là văn của bầu trời - Núi, sông cây cỏ là văn của đất - Lễ nhạc, pháp độ là văn của người". Lê Quý Đôn cũng lưu ý "đừng nhầm lẫn đức với văn là hai". Như thế, văn hay tức là đức tốt, chẳng có gì mà bàn bạc, đấy là xét về phương diện người viết.
Tính chất hết sức cá nhân trong các tác phẩm văn học lừng danh cảm động bởi chính bởi chính tấm lòng người viết. Khi người viết không sợ ngượng, bày tỏ mình và thông cảm được với mọi người thì gì thì gì, chúng ta cũng phải kính nể anh ta. Tại sao anh ta nói được điều mọi người không nói được, hơn nữa "không một lời nào không bình dị, không một ý nào là không ngân vang" thì chắc chắn ở đấy không phải có cái gì siêu phàm, ở đấy chắc chắn phải có ánh sáng.
Song, tôi vẫn cứ quay lại câu hỏi ban đầu: "Vì sao người ta cứ phải cảnh tỉnh, đe nẹt văn chương?"
Khi đề cập đến tính chất cá nhân của những tác phẩm văn chương lừng danh tức là đề cập đến tính chất người của nó. Nó ở đây là hai: Tác giả và tác phẩm. Ở tác phẩm, độ lớn của nhà văn tính bằng khả năng đẩy tính cách nhân vật và các vấn đề nêu ra đến hết, thậm chí đến cái chết. Không phải tự dưng Dostoevski lý giải sự thành công của ông là ông đã đẩy hết "điều mà các ngài chỉ đẩy nửa chừng". "Các ngài" đây, tôi cũng không hiểu Dos muốn ám chỉ đồng nghiệp của ông (tức là các nhà văn Nga cùng thời), ám chỉ các nhà chính trị hay là nhân dân Nga? Song, tôi biết rõ Dos cũng sẽ gọi con người công chức trong ông là ngài, ông chồng chung thủy trong ông là ngài, thằng người nô lệ trong ông là ngài, tất cả con người đạo đức trong ông là ngài.
Việc đẩy hết, đẩy đến cùng nhân vật cũng như những vấn đề nêu ra trong tác phẩm đòi hỏi nhà văn phải trung thực với mình đến tận đốt xương sống. Việc trung thực đến mức dám "thổi sáo bằng xương ống" như trường hợp Maiakovski đã khiến ông trở nên vĩ đại, dù rằng tài năng biểu hiện nghệ thuật còn hạn chế. Ta biết cách dùng từ ngữ và cách văng tục trong thơ của Maiakovski chẳng hay hớm và sang trọng gì, nhưng không phải vì thế mà ông không phải là nhà thơ vĩ đại. Hành động tự dí súng vào trán bóp cò của ông hết sức nên thơ. Trước một tấm lòng như thế thì những người cầm bút khác chỉ còn cách lắc đầu, phải công nhận ông ta là thiên tài cho yên chuyện.
Dầu khâm phục Maiakovski, thâm tâm nhiều người cầm bút cũng chẳng muốn noi gương ông. Ở phương Đông, người ta coi danh toàn thân vẹn mới là anh hùng kỳ tài. Ngày xưa, Triệu Tử Long cũng là một anh hùng như thế: lập chiến công, không hề bị thương tích, sau đó chết vì già. Song, Triệu Tử Long hành nghề võ. Còn nghề văn phức tạp hơn nhiều, không phải khỏe cơ bắp là đã chiến thắng.
Khi đọc cổ văn, tôi sợ nhất câu: "Hành hữu dư lực, tắc dĩ học văn"  tức là có làm dư sức thì mới học văn. Rất ít người có khả năng như thế, điều mà Maxim Gorki diễn đạt có phần nào lỗ mãng và không lường hậu quả để lại. Ông nói: "Nhà văn phải cao hơn điều mình viết". Nói như thế, nhà văn bị đẩy vào thế buộc phải chứng minh, phải chứng tỏ điều gì đấy (nhất là phải chứng minh, chứng tỏ với trí tưởng tượng của chính mình thì rất mệt, rất dễ quá sức). Phật Thích Ca cao siêu hơn nhiều khi Ngài truyền giảng:"Ngươi đừng tin vào văn của ta, đừng tin vào cái tâm mà ta mong muốn, ngươi hãy tin vào lòng mình". Đến như thế là tuyệt đối, là đến hư không. Phật trường tồn bởi rất nhiều những lời truyền giảng như thế này.
Trong việc thức tỉnh con người, văn chương buộc phải đụng chạm đến dục vọng. Lý do hết sức đơn giản: bạn đọc không phải ai cũng đã biết đạo, hiểu đạo, hành đạo. Chất thú, chất bản năng trong con người nhiều vô kể. Mối hiểm nguy của nhà văn là khi đối mặt với dục vọng, không khéo anh sẽ thất bại ngay từ "cú ra quân" đầu tiên. Phật Thích Ca là đàn ông, khi biết đạo của mình có các tín nữ tham gia, Ngài hiểu rằng có sẽ mất đi 50% màu nhiệm, 50% thời gian tồn tại, kiểu như nếu đạo tồn tại 10.000 năm thì thực tế chỉ còn 5.000 năm thôi. Thật đúng là Phật. Ngài vừa độ lượng nhân từ lại vừa hào phóng. Có tín nữ tham gia đạo mất 50% màu nhiệm Ngài vẫn như không, mất 50% thời gian tồn tại mà Ngài vẫn chịu được.
Dĩ nhiên, thể hiện dục vọng trong văn chương không phải chỉ có chuyện nam nữ. Nó còn là chuyện tiền bạc, là quyền lực, thậm chí là tôn giáo. Chính trị, ái tình, tôn giáo và tiền bạc là bốn lĩnh vực khi đề cập đến, dấn sâu vào, nhà văn không khéo rất dễ ăn đòn. Mức độ hiểm nguy của bốn khu vực trên là ngang bằng nhau và bốn trùm "mafia" ấy chơi với nhau thân thiết, luôn tìm cách cứu độ lẫn nhau.
Cuộc đấu tranh của nhà văn là nhằm hướng con người thoát khỏi những mê man về quyền lực chính trị, ái tình, tiền bạc và cuồng vọng hóa thánh chính mình. Ở đây, nhà văn là kẻ phải một mình chống bốn "mafia". Có thể nói, chọn nghề văn là chắc chắn chọn sự thất bại về mình, bởi vì trong mỗi con người ai cũng phải dính dấp đến bốn phạm trù này, không sao thoát được. Vừa chấp nhận nó, vừa thoát được nó, vẫn giữ được đạo, đấy là mơ ước của người cầm bút.
Đời sống con người hết sức đa dạng. Người viết cũng thế, hết sức đa dạng. Chỉ rất ít nhà văn vượt qua được biển cả chông bút rồi cắm được ngọn cờ ghi tên mình vào một mô đất nhỏ nhoi nào đó. Đa số đến nơi thì đã kiệt sức, trên người cắm chi chít bút chì, bút bi, bút mực, bút kim, các vũ khí đủ loại sang trọng và bỉ ổi, thậm chí cả đạn. Vậy thì ai đến đích? Ai không đến đích?
Số đông nhà văn, có lẽ chiếm đến 99,99% người viết vướng vào những hóc hiểm của đường đời, lúng túng trong các mê lộ của lòng người và trong các mê lộ của từ ngữ, không sao thoát ra được. Số này không biết rũ bỏ sự kiện để tìm đến bản chất. Đặc điểm nghệ thuật của những nhà văn này là sự hoa mỹ ngôn từ, sự rườm lời. Họ không bắt mạch được tính cách nhân vật và thường để cho nhân vật cư xử nói năng nhầm lẫn. Các nhân vật đó yêu đương nhăng nhít, không biết kiếm tiền và tiêu tiền sai, chẳng biết gì về chính trị và tất nhiên sẽ vô đạo. Bản thân nhà văn vấp phải chông gai trong đường đời sẽ mắc phải chông gai trong ngôn từ và làm cho độc giả cũng bị thiệt mạng nốt. Rất nhiều nhà văn tưởng như lý giải được điều gì đó nhưng thực ra lại làm rối vấn đề thêm.
Dĩ nhiên, trong tác phẩm của 99,99% số nhà văn đó không phải vứt đi hết cả, lấp lánh ở đâu đó vẫn có vài hạt vàng bé nhỏ. Người đọc tinh ý biết cách thâu lượm những hạt vàng đó sẽ có được một số vàng kiến thức đáng kể, có điều như vậy sẽ phải mất công sức và thì giờ. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm khi ngẫm nghĩ về sự đời đã nói về điều này rất gan ruột:
Không có gì hiểm bằng đường đời
Nếu không biết cắt bỏ thì toàn là chông gai cả.
Chữ "cắt bỏ" này trong nghề văn Maxim Gorki gọi là "vặt lông gà" tức là biết cách rũ sạch các sự kiện không bản chất, rũ sạch các hư từ, hình dung từ, phiếm từ... Trong đời sống, ta có thể coi nó là việc cắt bỏ những ràng buộc của thể chế xã hội tiến tới tự do cá nhân tuyệt đối, giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình.
Khi giấu mình vào thế giới nội tâm chính mình, đối mặt với khoảng không tự do cá nhân tức là lúc con người đối mặt với quỷ. Viết đến đây, tôi nhớ đến chuyện kể về hai người phụ nữ. Một bà hỏi: "Bạn thân mến, nếu chết bạn sẽ chọn thiên đường hay địa ngục?". Bà kia trả lời: "Kể ra thiên đường thì khí hậu tốt thật, nhưng ở địa ngục thì nhiều chuyện vui hơn". Giai thoại này chứa ẩn một nụ cười khúc khích. Những nhà văn cao thủ mà tôi cho là chiếm tỷ lệ 0,001% số người cầm bút đã thể hiện tài tình đời sống tự do cá nhân của mình và nhân vật. Đọc họ rờn rợn, ghê ghê là phải. Nhưng thích. Hơn nữa thỉnh thoảng lại được cười tủm. Loại văn chương này ngày xưa gọi là "văn trung hữu quỷ". Ngay Tú Xương cũng thuộc loại này. Thậm chí cả Nguyễn Khuyến nữa. Khi Nguyễn Khuyến trách Tú Xương:
                  Rằng hay thì thật là hay
      Đem "Trời" đối "chó" lão này không ưa
Thì thật ra cũng là chuyện "chó chê mèo lắm lông". Khi rơi vào hoàn cảnh hỏng thi như Tú Xương thì Nguyễn Khuyến cũng phải viết như thế chứ còn viết thế nào.
0,001% số nhà văn hiếm hoi trên chắc chắn từng trải, tốt bụng, uyên thâm. Ở họ ranh giới tốt xấu có khi nhòe vì họ chỉ quen làm điều tốt chứ có làm điều xấu bao giờ đâu mà biết điều xấu là gì. Song, những nhà văn này bao giờ cũng bị búa rìu dư luận phang vào không thương tiếc. Lỗi duy nhất của họ là họ quá thật với mình và với bạn đọc. Đây là thứ văn chương nổi loạn. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng đã suy nghĩ về điều này rất gan ruột:
"Không gì nguy bằng lòng người. Nếu không biết giữ gìn mà buông phóng ra thì thành quỷ quái cả".
Trong lời sấm ấy của Trạng Trình chứa ẩn chân lý sau đây: đấy là tính mức độ, tính hữu hạn của thiên tài.
Đến đây, chúng ta sẽ gặp khái niệm "hài hòa" của mỹ học hay tình trạng mà ta vẫn quen gọi là đắc đạo. Số nhà văn đắc đạo chiếm tỷ lệ ít đến kinh người, nó chỉ chiếm 0,001% số người cầm bút mà thôi. Họ là những thiên tài và bao giờ họ "cũng lấy điều chí thiện làm tiêu chuẩn tuyệt đối". Việt Nam may mắn đã có Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, còn sau Nguyễn Du thì hình như chưa thấy ai cả.
Có thể có người sẽ phản đối tôi về việc chia tỷ lệ ba loại văn chương kia. Ở đây tùy quan niệm về "người cầm bút". Cách chia tỷ lệ của tôi là từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, từ Tư Mã Thiên trở xuống chứ không phải là từ dưới lên trên.
Tóm lại, dù ở loại văn chương nào, cũng phải lấy chữ tâm, lấy điều chí thiện làm gốc. Cảnh tỉnh, đe nẹt người viết là cảnh tỉnh, đe nẹt loại nhà văn chiếm số đông kia. Đối với 0,001% nhà văn đắc đạo, cảnh tỉnh đe nẹt họ là thừa.
Đến đây bật ra câu hỏi: ai sẽ là người có quyền cảnh tỉnh đe nẹt văn chương? Chẳng ai hết cả, đấy chính là bốn trùm "mafia" tồn tại hết mọi thời: chính trị, ái tình, tiền bạc và tôn giáo. Bốn thế lực này giăng bẫy khắp nơi, hành hạ con người. Văn chương giúp cho con người nhận thức về mình, nhận chân sự hiểm nguy trong đường đời. Cuộc chiến tranh nhận thức diễn ra liên tục, khi quyết liệt, khi hòa hoãn và thường người cầm cờ ở mọi thời bao giờ và cũng chỉ có kẻ ấy mới có khả năng này. Đấy là nhà văn bất hạnh.
Gã đang đi trên con đường kia, bút và giấy trong túi, tiền bạc cũng không, chẳng có bổng lộc gì, trái tim tan nát...
Nguồn: Sông Hương, Huế, số 46-1991


[1] Tên những truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp.
[2]
  Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp - Nxb. Thanh Niên & Phương Đông, 7.2010
[3]
  Trò chuyện với hoa thủy tiên và những nhầm lẫn của nhà văn (bài 3) - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp
[4]
  Một góc sơ xuất trong thế giới nội tâm nhà văn - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp.
[5]
  Truyền thuyết tìm vua - kịch bản chèo Nguyễn Huy Thiệp.
[6]
  Cát bụi chân ai – Hồi Ký Tô Hoài (Nxb. Hội Nhà Văn 2005)
[7]
  Nhà văn và bốn trùm “mafia” - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp.
[8]
  Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn - Tiểu luận Nguyễn Huy Thiệp.

Không có nhận xét nào: